Thứ Hai, 5 tháng 5, 2014

Đam mê



Alice Munro
♦ Chuyển ngữ: Hồ Như




Khi Grace đi tìm căn nhà nghỉ hè cúa gia đình Travers trong Lũng Ottawa, đã nhiều năm chị không ghé vùng này. Dĩ nhiên đã có thay đổi. Xa lộ 7 giờ đây nằm ngoài những thị trấn trước kia nó chạy ngang qua, và thẳng ở những khúc chị nhớ đã là đường cong. Đa số bản đồ không đủ chỗ để vẽ những hồ nhỏ ở vùng Shield của Canada. Thậm chí khi chị tìm thấy Hồ Sabot, hoặc nghĩ chị đã tìm thấy, dường như có quá nhiều đường nhỏ từ đường quận đến hồ, và rồi, khi chị chọn một lối, quá nhiều đường tráng nhựa cắt ngang lối ấy, với những cái tên chị không nhớ. Thực ra, khi chị ở đây hơn 40 năm về trước thì không có cái tên đường nào cả. Cũng không có lớp nhựa tráng – chỉ một con đường đất chạy về phía hồ, rồi một con đường khác ngẫu nhiên chạy dọc theo bờ hồ.

Giờ thì có một ngôi làng. Hoặc có lẽ là một khu ngoại ô, vì chị không thấy sở bưu điện hoặc thậm chí một tiệm tiện lợi ít hứa hẹn nhất. Khu dân cư nằm trên dãy 4,5 con đường dọc bờ hồ, với những căn nhà sát nhau trên những lô đất nhỏ. Một số chắc hẳn là nhà nghỉ hè – những cửa sổ đã được đóng nẹp gỗ như thường lệ cho mùa đông. Nhưng nhiều căn nhà khác dường như là nơi ở quanh năm – phần nhiều của những người chất đầy sân nhà với những bộ tập thể dục bằng nhựa, lò nướng ngoài trời, xe tập thể dục, xe gắn máy, và bàn picnic, nơi họ đang ngồi ăn bữa trưa hoặc uống bia trong ngày tháng 9 ấm áp hôm nay. Những người khác, không lộ diện – có lẽ những học trò hoặc những người hippie sống một mình – treo cờ hoặc giấy thiếc làm màn cửa. Những căn nhà nhỏ, rẻ tiền, không đến nỗi tệ, một số đã được sửa để chống đỡ mùa đông và một số thì không.

Lẽ ra Grace đã quay về nếu chị không nhìn thấy căn nhà hình bát giác với hình chạm trổ viền theo mái nhà và mỗi hai bức tường lại có một cửa. Căn nhà của gia đình Woods. Chị vẫn nhớ nó có 8 cửa, nhưng dường như nó chỉ có 4. Chị chưa bao giờ vào nhà để xem nếu nó chia thành phòng thì cách chia phòng như thế nào. Lúc ấy ông bà Woods đã già – như Grace bây giờ – và dường như không có con cái bạn bè nào thăm viếng. Căn nhà kiểu cổ, độc đáo của họ giờ đây có vẻ trơ trọi và sai lầm. Láng giềng sát hai bên nhà là những người với máy chơi nhạc cầm tay và những chiếc xe tháo gỡ dang dở, những đồ chơi và đồ giặt.

Căn nhà của gia đình Travers cũng thế, khi chị tìm thấy nó, xa hơn một phần tư dặm. Con đường giờ đây chạy quá căn nhà, thay vì chấm dứt ở đấy, và những căn nhà bên cạnh chỉ cách hàng hiên rộng vòng quanh nhà vài bộ Anh.

Nó là căn nhà đầu tiên kiểu ấy Grace nhìn thấy – một tầng, mái nhà phủ liền với mái hàng hiên – kiểu nhà khiến người ta nghĩ đến những mùa hè nóng nực. Từ ngày đó chị đã thấy nhiều căn nhà tương tự ở Úc.

Trước kia, người ta có thể chạy từ hàng hiên đến cuối khoảng đậu xe bụi bặm, qua một mảnh đất cát đầy cỏ và dâu dại bị dẫm đạp rồi nhảy – không, thực ra là lội – vào hồ. Giờ đây Grace gần như không thể thấy mặt hồ, vì một căn nhà lớn – một trong vài căn nhà ngoại ô thông thường ở đây với nhà để xe hai chỗ – đã mọc lên trên chính lối đi ấy.

Thực sự Grace tìm kiếm điều gì khi chị vào chuyến thám hiểm này? Có lẽ điều tệ nhất là tìm thấy đúng thứ chị nghĩ chị muốn tìm – mái nhà che chở, những cửa sổ lưới, hồ nước trước mặt, hàng cây phong và cây tuyết tùng và cây nhựa Gilead phía sau. Sự bảo tồn toàn hảo, quá khứ nguyên vẹn, khi với chị thì hoàn toàn không phải thế. Tìm thấy một thứ đã suy giảm đến mức ấy, vẫn tồn tại nhưng đã biến thành vô nghĩa – dường như là căn nhà gia đình Travers bây giờ, với những cửa sổ trên mái, màu sơn xanh đến giật mình – về lâu dài có thể ít đau đớn hơn.

Và nếu nó đã hoàn toàn biến mất thì sao? Chị có thể rối lên, nếu có người lắng nghe, chị có thể than vãn sự mất mát của nó. Nhưng chị cũng cảm thấy nhẹ nhõm vì rối rắm và ràng buộc xưa đã không còn, phải không?

o0o

Ông Travers đã xây căn nhà – đúng ra là thuê xây – làm món quà cưới bất ngờ cho bà Travers. Khi Grace thoạt nhìn thấy nó, có lẽ nó khoảng 30 năm tuổi. Con cái của bà Travers cách nhau nhiều năm. Gretchen, 28 hoặc 29, đã kết hôn và làm mẹ; Maury, 21, sắp học năm cuối cùng đại học, và Neil, giữa độ 30. Nhưng Neil không phải mang họ Travers. Anh là Neil Borrow. Trước kia bà Travers đã từng kết hôn, với người đàn ông lúc ấy đã mất. Trong vòng vài năm, bà đã kiếm sống và nuôi con bằng nghề giáo dạy tiếng Anh kinh doanh ở một trường thư ký. Ông Travers, khi nhắc đến giai đoạn này trong cuộc đời bà, cho nó là một thời gian khó khăn, gần như hình phạt khổ sai, một điều chưa hoàn toàn được đền bù bằng cả cuộc đời êm ấm ông vui lòng cung cấp.

Chính bà Travers thì không nói thế. Bà đã sống với Neil trong một căn nhà lớn chia thành những chung cư, gần đường rầy ở thị trấn Pembroke, và nhiều câu chuyện bà kể trong bữa ăn tối là về những sự kiện ở đấy, về những người mướn chung nhà, và người chủ nhà dân vùng Pháp Canada có giọng Pháp gay gắt và tiếng Anh lẫn lộn bà nhái lại. Những câu chuyện có thể có tựa đề, như những câu chuyện của James Thurber mà Grace đã đọc trong “Toàn tập khôi hài Mỹ,” không hiểu sao nằm trên kệ thư viện phía sau phòng học lớp 10 của cô. “Đêm bà lão Cromarty leo lên nóc nhà.” “Làm thế nào người đưa thư tán tỉnh Cô Flowers.” “Con chó ăn cá mòi.”

Ông Travers không bao giờ kể chuyện và ít nói trong bữa ăn tối, nhưng nếu ông thấyngười nào nhìn lò sưởi bằng đá chẳng hạn, ông có thể nói, “Có thích đá không?” và kể rằng ông đã tìm mãi loại đá granite màu hồng, vì có lần bà Travers đã bật thành tiếng khi nhìn thấy loại đá ấy ở một vết cắt trên đường. Hoặc ông có thể chỉ ra những đặc điểm không hẳn khác thường chính ông đã thêm vào căn nhà – ngăn tủ chén đĩa trong góc nhà bếp xoay ra ngoài, khoảng chứa đồ dưới bệ cửa sổ. Ông là một người cao, khòm với giọng nói nhỏ nhẹ và làn tóc thưa rẽ lệch trên đầu. Ông mang giày tắm khi ông vào nước, và dù ông không có vẻ mập khi mặc quần áo, một mảng thịt màu trắng thõng xuống qua cạp quần tắm của ông.

o0o

Grace đang làm việc mùa hè ở khách sạn tại Thác Bailey, ngay phía bắc của Hồ Sabot. Đầu mùa, gia đình Travers đã đến dùng bữa tối ở đấy. Cô không chú ý đến họ – tối ấy nhiều khách, và họ không ngồi bàn thuộc phần cô. Cô đang chuẩn bị bàn cho một nhóm khách mới khi cô nhận ra có người đang chờ để nói với cô.

Đấy là Maury. Cậu nói “Tôi muốn biết cô có bằng lòng đi chơi với tôi không?”

Grace hầu như không rời mắt khỏi muỗng nĩa. Cô nói “Bị thách à?” Vì giọng cậu cao và bối rối, vì cậu đơ người đứng đấy, như thể tự bắt buộc, và ai cũng biết đôi khi một nhóm thanh niên ở những nhà nghỉ sẽ thách nhau mời một cô hầu bàn đi chơi. Cũng không hẳn là trò đùa – họ sẽ đến, nếu được đồng ý, tuy đôi khi họ chỉ định đậu xe mà không đưa cô gái đi xem phim hoặc thậm chí uống cà phê. Thế nên sự chấp thuận của cô gái sẽ bị xem là đáng hổ thẹn hơn là cứng cỏi.

“Sao hả?” cậu khổ sở nói, và Grace ngừng tay nhìn cậu. Dường như cô đã nhìn thấy tất cả cậu trong khoảnh khắc ấy, con người thực của Maury. Sợ hãi, dữ dội, ngây thơ, kiên quyết.

“O.K,” cô nói nhanh. Có thể cô định nói O.K, bình tĩnh lại, tôi biết không phải anh bị thách. Hoặc, O.K, tôi sẽ đi chơi với anh. Chính cô cũng không rõ cô định nói gì. Nhưng cậu chấp nhận đấy là sự đồng ý, và thu xếp ngay – mà không hạ giọng hoặc chú ý đến những cái nhìn của thực khách chung quanh họ – để đón cô sau giờ làm việc vào tối ngày hôm sau.

Cậu đưa cô đi xem phim thực. Họ xem “Cha của cô dâu.” Grace ghét cuốn phim. Cô ghét những cô gái như nhân vật của Elizabeth Taylor – những cô gái nhà giàu được nuông chiều không bị yêu cầu làm điều gì ngoài việc nũng nịu và vòi vĩnh. Maury nói rằng đấy chỉ là cuốn phim hài, nhưng cô bảo cậu rằng đấy không phải là vấn đề. Cô không thể nói rõ vấn đề là gì. Ai cũng có thể cho rằng đấy là vì cô làm việc hầu bàn và nghèo quá không thể đi học đại học, và vì, nếu cô muốn một đám cưới như thế, cô sẽ phải dành dụm nhiều năm để tự trả. (Maury quả thực nghĩ như thế, và lập tức kính trọng cô, gần như là tôn thờ).

Cô không thể giải thích hoặc thậm chí hiểu rằng cô không cảm thấy ghen tỵ mà là giận dữ. Và không phải vì cô không thể mua sắm như thế hoặc ăn mặc như thế nhưng vì làm con gái là phải như thế. Đấy là điều đàn ông – người ta, bất cứ ai – nghĩ con gái phải như thế: xinh đẹp, được nâng niu chiều chuộng, ích kỷ, ngu ngốc. Con gái phải như thế thì mới được yêu. Rồi cô ta sẽ thành mẹ và sướt mướt tận hiến cho những đứa con thơ của mình. Không còn ích kỷ, nhưng vẫn ngu ngốc như thế. Mãi mãi.

Grace bực tức về chuyện này trong khi ngồi cạnh cậu trai đã yêu cô vì cậu đã tin – ngay lập tức – vào sự chính trực và độc đáo của tâm trí và linh hồn cô, thấy sự nghèo khó của cô như lớp sơn bóng lãng mạn phủ lên. (Cậu phải biết cô nghèo, không những chỉ vì việc làm của cô, mà còn vì giọng nói Lũng Ottawa của cô).

Cậu tôn trọng cảm giác của cô về cuốn phim. Quả thế, sau khi lắng nghe cô chật vật giải thích một cách giận dữ, cậu chật vật đáp lời. Cậu nói cậu nhận ra rằng đấy không phải điều rất đơn giản, rất nữ tính, như ghen tỵ. Cậu biết thế. Đấy là cô không chịu nổi sự phù phiếm, không bằng lòng giống như đa số các cô gái. Cô đặc biệt.

Lúc ấy Grace đang mặc một váy đầm kiểu ballerina màu xanh dương đậm, áo trắng, vòm ngực lộ rõ qua những lỗ ren, và một dây lưng to bản bằng thung màu hồng. Rõ ràng có sự bất đồng giữa cách cô ăn mặc và cách cô muốn người ta xét đoán mình. Nhưng cô không có vẻ gì đỏm đáng hoặc kiểu cách hoặc lịch lãm theo lối của thời ấy. Thật ra thì trông cô không thanh lịch mấy. Làm ra dáng Gypsy, với những vòng sơn màu bạc rẻ tiền nhất, và mái tóc dài quăn rối cô phải buộc lưới khi hầu bàn.

Đặc biệt.

Cậu kể về cô với mẹ cậu, và mẹ cậu bảo “Con phải mang cô Grace này đến ăn tối mới được.”

Tất cả mới mẻ đối với cô, tất cả lập tức thú vị. Thật ra, cô yêu bà Travers gần hệt như Maury yêu cô, dù dĩ nhiên theo bản tính cô không để lộ vẻ kinh ngạc, tôn thờ rõ rệt như Maury.

o0o

Dì và dượng của Grace, thật ra là bà dì và ông dượng, đã nuôi cô lớn lên. Mẹ cô mất khi cô 3 tuổi, và cha cô dời đi Saskatchewan, rồi lập gia đình khác ở đấy. Cha mẹ thay thế của cô tử tế, thậm chí hãnh diện về cô. Nhưng họ không nói chuyện nhiều. Ông dượng kiếm tiền bằng nghề đan ghế mây, và đã dạy Grace cách đan mây để cô có thể giúp ông và sau này nối nghiệp khi mắt ông kém đi. Nhưng rồi cô có việc mùa hè ở Thác Bailey, và dù ông không muốn để cô đi – bà dì cũng thế – họ tin rằng cô cần nếm vị cuộc đời trước khi ổn định.

Cô 20 tuổi và mới tốt nghiệp trung học. Lẽ ra cô phải học xong một năm trước, nhưng cô đã có một lựa chọn lạ lùng. Thị trấn nơi cô ở – không xa Pembroke của bà Travers – rất nhỏ, thế mà cũng có một trường trung học năm cấp lớp, để chuẩn bị học sinh cho những kỳ thi chính phủ và điều lúc ấy có tên là tuyển sinh đại học. Không hề cần thiết phải học hết các môn, và đến cuối năm học đầu tiên của cô ở cấp lớp 13 – lẽ ra là năm cuối của cô – Grace thi lịch sử và thực vật học và động vật học và Anh ngữ và Latin và Pháp ngữ, được điểm cao hơn mức cần thiết. Nhưng cô trở lại vào tháng 9, xin học vật lý và hóa học, lượng giác, hình học, và đại số, dù những môn này được xem là khó đối với phái nữ. Cô khá trong cả 3 ngành toán và khoa học, tuy kết quả không ngoạn mục như năm trước. Lúc ấy cô nghĩ đến chuyện tự học tiếng Hy lạp và Tây Ban Nha và Ý và Đức, để cô có thể thử những kỳ thi ấy vào năm sau – những môn không có giáo viên nào ở trường cô dạy – nhưng hiệu trưởng gặp riêng cô và bảo cô rằng chuyện này không ích gì cho cô, vì cô không thể vào đại học, và cũng không đại học nào đòi hỏi rất cả mọi môn như thế. Tại sao cô làm thế? Cô có dự tính gì không?

Không, Grace nói, cô chỉ muốn học mọi thứ có thể học miễn phí. Trước khi cô bắt đầu sự nghiệp đan mây.

Chính hiệu trưởng đã quen người quản lý của quán trọ tại Thác Bailey và bảo ông sẽ nói giúp cho cô nếu cô muốn thử việc hầu bàn mùa hè. Ông cũng nhắc đến việc “nếm mùi đời.”

Thế là ngay cả người phụ trách học vấn ở nơi ấy cũng không tin học hỏi dính dáng gì đến cuộc sống. Như mọi người khác, ông nghĩ điều cô làm là điên rồ.

Ngoại trừ bà Travers, đã được gửi đến trường đại học dạy nghề, thay vì đại học thực thụ, để biến mình thành hữu dụng, và bây giờ rất ước ao rằng phải chi trước đó bà đã nhồi vào đầu mình những thứ vô dụng.

o0o

Đổi giờ làm việc với một cô gái khác, Grace thu xếp nghỉ ngày Chủ Nhật từ bữa điểm tâm. Có nghĩa là cô sẽ luôn làm việc trễ ngày thứ Bảy. Đúng ra, nó có nghĩa cô đã đổi thời gian với Maury thành thời gian với gia đình của Maury. Giờ đây Maury và cô không còn có thể xem phim, không còn có thể có buổi hẹn hò thực sự. Thay vì thế, cậu đón cô khi cô hết giờ làm việc, khoảng 11 giờ đêm, và họ lái xe lòng vòng, ghé ăn kem hoặc hamburger – Maury cẩn thận không dẫn cô vào quán rượu, vì cô chưa đến 21 tuổi – rồi cuối cùng đậu xe ở đâu đó.

Ký ức của Grace về những lúc đậu xe ấy – có thể kéo dài đến 1, 2 giờ sáng – tỏ ra lờ mờ hơn ký ức về những lúc cô ngồi ở bàn ăn tròn của gia đình Travers, trên ghế dựa bằng da màu nâu đỏ hoặc ghế mây lót nệm ở phía bên kia phòng. (Không bao giờ có lôi thôi về chuyện rửa chén; một người phụ nữ bà Travers gọi là “bà Abel tài ba” sẽ đến vào buổi sáng).

Maury lúc nào cũng kéo nệm lót ghế xuống thảm và ngồi ở đấy. Gretchen, không bao giờ mặc quần gì khác ngoài jean và quần quân đội cho bữa ăn tối, thường ngồi bắt chéo chân trong một chiếc ghế rộng. Maury và chị đều có vai to rộng, một chút vẻ đẹp của mẹ – mái tóc gợn sóng màu đường kẹo, đôi mắt màu hạt dẻ ấm áp, làn da dễ rám nằng của bà. Trong trường hợp Maury, thậm chí lúm đồng tiền của bà. (Những cô hầu bàn khác gọi Maury là “dễ thương” và “bảnh trai,” và tôn trọng Grace hơn một chút từ khi cô có cậu). Tuy thế, bà Travers chưa cao đến 5 bộ Anh, và trong những chiếc áo rộng của bà dường như không mập nhưng tròn trĩnh cứng cáp, như đứa trẻ chưa nhổ giò. Không được thừa hưởng là vẻ long lanh, chăm chú của đôi mắt bà, sự vui vẻ luôn sẵn sàng lóe lên trong ấy. Cũng như vệt nhám đỏ, gần như vệt mụn, trên đôi má của bà, có lẽ là kết quả của việc bà ra ngoài bất kể thời tiết và không nghĩ đến làn da, và, như thân hình của bà, như những chiếc áo rộng của bà, nó biểu lộ sự độc lập của bà.

Đôi khi có những người khách, ngoài Grace, vào những buổi tối Chủ Nhật này. Một cặp đôi, cũng có thể chỉ một người, thường gần tuổi ông bà Travers, và tương tự như họ. Những người phụ nữ náo nức và dí dỏm, những người đàn ông ít nói hơn, chậm hơn, khoan dung hơn. Những người này kể những câu chuyện thú vị, thường là tự diễu cợt. (bây giờ thì Grace đã là người nói chuyện duyên dáng lâu lắm rồi, đến nỗi đôi khi chị chán ngấy chính mình, và chị khó nhớ nổi chị đã thấy chuyện trò trong bữa ăn tối có vẻ mới lạ như thế nào. Những dịp hiếm có dì và dượng của chị có khách, chỉ có lời khen và xin lỗi về thức ăn, bàn bạc thời tiết, và ước muốn tha thiết cho bữa ăn kết thúc càng sớm càng tốt).

Sau bữa ăn tối ở nhà gia đình Travers, nếu buổi tối lạnh, ông Travers đốt lửa, và họ chơi trò bà Travers gọi là “trò chơi chữ ngốc nghếch,” một trò người chơi phải khá lanh lợi mới thắng được. Đây là lúc một người khá yên lặng trong bữa ăn tối có thể bắt đầu nổi bật. Những biện luận giả vờ có thể được tạo ra để bảo vệ những định nghĩa vô lý. Chồng của Gretchen, Wat, làm thế, và sau một lúc là Grace, giữa sự vui thích của Maury và bà Travers (Maury kêu lên, “Thấy chưa? Đã nói cô ấy thông minh mà,” khiến mọi người, trừ Grace, thấy buồn cười). Chính bà Travers dẫn đầu trong chuyện bịa những chữ phi lý, bảo đảm trò chơi không trở thành quá nghiêm trọng và người chơi quá lo lắng.

Lần duy nhất có vấn đề là một buổi tối khi Mavis, vợ của con trai bà Travers là Neil, đến dùng bữa tối. Mavis và Neil và hai con ở gần đấy, trong nhà bên hồ của cha mẹ chị. Nhưng tối ấy chị đến một mình – Neil là bác sĩ, và cuối tuần ấy anh bận việc ở Ottawa. Bà Travers thất vọng, nhưng bà trấn tĩnh lại, kêu lên với giọng ngạc nhiên vui vẻ “Nhưnghẳn bọn trẻ không ở Ottawa chứ?”

“Đáng tiếc là không,” Mavis nói. “Nhưng chúng hư lắm. Chúng sẽ la hét suốt bữa ăn tối. Đứa nhỏ bị nổi ban, còn Mikey thì có trời mới biết nó bị cái gì.”

Chị là một phụ nữ mảnh khảnh da rám nắng mặc áo đầm màu tím, một chiếc khăn to bản cùng màu cột mái tóc sậm. Xinh xắn, nhưng bườu buồn chán hoặc chê trách che đi hai khóe miệng chị. Chị không đụng đến phần lớn thức ăn trên đĩa, giải thích rằng chị bị dị ứng với cà ri.

“Ô, Mavis, tiếc thật,” bà Travers nói, “Con mới bị à?”

“Không đâu. Con bị lâu rồi, nhưng con cứ giữ lễ. Rồi con bị bệnh và nôn mửa suốt nửa đêm.”

‘Phải chi con nói cho mẹ biết… Mẹ lấy thức khác cho con nhé?”

“Mẹ đừng lo. Con không sao. Vốn dĩ con không thèm ăn, vì trời nóng và những niềm vui của sự làm mẹ.”

Chị đốt một điếu thuốc.

Sau đó, trong trò chơi, chị cãi vả với Wat vì một định nghĩa anh dùng, và khi tự điển chứng minh nó có thể chấp nhận được, chị nói “Ô, xin lỗi. Thua các người rồi.” Đến lúc mọi người nộp chữ của mình trên một mẩu giấy cho vòng chơi kế tiếp thì chị mỉm cười và lắc đầu ‘Không có.”

“Ôi, Mavis,” bà Travers nói.

Và ông Travers nói “Này Mavis. Chữ nào cũng được mà.”

“Nhưng con không có chữ nào. Con xin lỗi. Chỉ là tối nay con cảm thấy ngu ngốc. Mọi người cứ chơi đi.”

Họ tiếp tục chơi thật, mọi người vờ như không có chuyện gì, trong khi chị hút thuốc và tiếp tục mỉm nụ cười cương quyết và không vui của mình. Một lúc sau chị đứng dậy và nói không thể bỏ mấy đứa trẻ cho ông bà trông lâu hơn nữa. Chị đã có một chuyến viếng thăm vui vẻ và được học hỏi, và giờ chị phải về nhà.

“Giáng sinh sắp tới phải tặng cuốn tự điển Oxford,” chị nói bâng quơ trước khi về, cùng tiếng cười nhỏ vui vẻ, cay đắng. Tự điển của gia đình Travers mà Wat đã dùng là một cuốn tự điển Mỹ.

Khi chị đã về, mọi người không ai nhìn ai. Bà Travers nói “Gretchen, con đủ sức pha cà phê cho mọi người không?” Và Gretchen vào bếp, lẩm bẩm “Vui làm sao, Jesus phát khóc.”

“Cuộc sống của nó khó khăn,” bà Travers nói. “Hai đứa con nhỏ mà.”

o0o

Mỗi thứ Tư Grace được nghỉ từ lúc dọn dẹp bữa điểm tâm đến giờ chuẩn bị bữa ăn tối, và khi bà Travers biết, bà bắt đầu lái xe đến Thác Bailey đưa cô về hồ trong nhưng giờ nghỉ ấy. Những lúc ấy Maury bận làm việc – suốt mùa hè anh sửa chữa Xa lộ 7 cùng nhóm sửa đường – và Wat thì ở trong văn phòng của anh ở Ottawa và Gretchen ra ngoài cùng lũ trẻ, đi bơi hoặc chèo thuyền trên hồ. Chính bà Travers cũng thường nói bà phải đi mua sắm hoặc viết thư, và bà sẽ để Grace một mình trong phòng lớn vừa là phòng khách vừa là phòng ăn che màn cửa, mát mẻ, với chiếc ghế dựa da luôn có vết lõm và những kệ chất đầy sách.

“Cứ đọc sách nào cháu thích,” bà Travers nói. “Hoặc cuộn người mà ngủ, nếu cháu muốn. Công việc của cháu nặng nhọc – chắc cháu phải mệt. Tôi bảo đảm sẽ đưa cháu về kịp giờ.”

Grace không bao giờ ngủ. Cô đọc. Cô hầu như không cử động, và đôi chân trần dưới quần short của cô ướt mồ hôi và dính vào lớp da ghế. Thường cô không thấy bà Travers cho đến khi cô phải về làm việc.

Trong xe, bà Travers sẽ không gợi chuyện cho đến khi đã đủ thời gian để những tư tưởng của Grace rời khỏi cuốn sách cô đã đọc trước đấy. Rồi bà có thể nói bà đã đọc cuốn sách ấy, và nói bà nghĩ gì về nó – nhưng lúc nào cũng ân cần và vui vẻ. Chẳng hạn, về “Anna Karenina,” bà nói “tôi không biết tôi đã đọc nó bao nhiêu lần, nhưng tôi biết lúc đầu tôi thương cảm Kitty, rồi sau đó là Anna – ôi, Anna thật thảm – và bây giờ, cháu có biết không, tôi thấy mình thương cảm cho Dolly. Khi bà ta phải về quê, cháu biết đấy, với cả bầy trẻ, và bà ta phải học giặt giũ, mấy bồn giặt có vấn đề – tôi đoán thương cảm của người ta thay đổi như thế đấy với tuổi tác. Say mê bị đẩy xuống sau bồn giặt. Dù sao thì cháu cũng đừng để ý lời tôi nói. Cháu không để ý, phải không?”

“Cháu không biết cháu có để ý đến ai nhiều không.” Grace ngạc nhiên về chính mình, tự hỏi phải chăng cô có vẻ tự kiêu. “Nhưng cháu thích nghe bà nói chuyện.”

Bà Travers cười. “Tôi cũng thích nghe mình nói.”

o0o

Không hiểu vì sao, đến giữa mùa hè Maury bắt đầu nói chuyện họ kết hôn. Còn lâu lắm, cậu nói – sau khi cậu đủ điều kiện làm kỹ sư và có việc kỹ sư – nhưng cậu nói đến nó như thể nó là điều cô cũng như cậu phải xem là đương nhiên. “Khi chúng ta thành hôn,” cậu sẽ nói thế, và thay vì hỏi han hoặc nói ngược lại, Grace sẽ tò mò lắng nghe.

Khi họ thành hôn, họ sẽ có nhà bên Hồ Sabot. Không gần cha mẹ cậu quá, không xa quá. Dĩ nhiên đấy chỉ là nhà mùa hè. Thời gian còn lại họ sẽ sống nơi nào cậu làm việc. Có thể bất cứ đâu – Peru, Iraq, Lãnh thổ Tây Bắc. Grace thích thú khi nghĩ đến di chuyển – nhiều hơn là thứ cậu nói đến, với niềm tự hào ghê gớm, là “nhà của chúng ta.” Cô không cảm thấy chuyện nào là thực, nhưng cô cũng không cảm thấy ý nghĩ giúp dượng cô, hoặc sống như người đan mây của thị trấn trong chính căn nhà nơi cô đã lớn lên, là thực bao giờ.

Maury hỏi mãi rằng cô đã nói gì về cậu với dì dượng của cô, khi nào cô sẽ dẫn cậu về gặp họ. Thực sự, cô đã không nói gì trong những lá thư ngắn hàng tuần, trừ việc nói rằng cô “đang hẹn hò với một cậu trai làm việc mùa hè quanh đây.” Có thể cô đã ám chỉ rằng cậu làm việc ở khách sạn.

Không phải cô chưa bao giờ nghĩ đến chuyện kết hôn. Khả năng ấy có trong tâm trí cô, cùng với cuộc đời đan ghế mây. Dù trước đấy chưa có ai theo đuổi cô, cô đã chắc chắn rằng một ngày nào đấy nó sẽ xảy ra, đúng như thế này – với một người đàn ông quyết định tức thì. Anh ta sẽ nhìn thấy cô, và khi đã thấy cô, sẽ yêu cô. Trong trí tưởng tượng của cô, anh đẹp trai, như Maury. Nồng nhiệt, như Maury. Những thân mật thể chất vui thú sẽ theo sau.

Nhưng điều ấychưa xảy ra. Trong xe của Maury, hoặc trên cỏ dưới trời sao, cô tự nguyện. Và Maury sẵn sàng, nhưng chưa muốn. Cậu cảm thấy bổn phận của mình là bảo vệ cô. Sự hiến thân dễ dãi của cô khiến cậu bối rối. Có lẽ cậu cảm thấy sự hiến thân ấy lạnh lẽo – một sự dâng hiến có chủ ý cậu không hiểu nổi và không phù hợp với những khái niệm của cậu về cô. Cô không nhận ra sự lạnh nhạt của chính mình – cô tin rằng sự háo hức cô biểu lộ sẽ dẫn đến lạc thú cô biết, khi một mình và trong tưởng tượng , và cô cảm thấy mọi chuyện tùy thuộc vào sự chủ động của Maury. Mà cậu lại không chịu.

Những lần phong tỏa này khiến cả hai xao động và hơi giận dữ hoặc hổ thẹn, vì thế họ không ngừng hôn nhau, níu lấy nhau, và nói những lời âu yếm để đền bù cho nhau khi họ chia tay. Grace cảm thấy nhẹ nhõm được ở một mình, vào giường trong nhà trọ và xóa đi một hai tiếng vừa qua khỏi tâm trí. Và cô nghĩ chắc hẳn Maury cũng nhẹ nhõm, lái xe trên xa lộ một mình, sắp xếp lại những cảm nhận về nàng Grace của cậu để cậu vẫn có thể hết lòng yêu cô.

o0o

Đa số các cô hầu bàn nghỉ việc sau ngày Lao động để trở về trường trung hoặc đại học. Nhưng khách sạn sẽ mở cửa đến tháng 10 cho ngày lễ Tạ ơn, với ít nhân viên hơn – Grace ở trong số đó. Năm nay, nghe nói khách sạn sẽ mở cửa lại vào đầu tháng 12 cho mùa đông, hoặc ít nhất mùa Giáng sinh, nhưng dường như không ai trong đội nhà bếp hoặc phòng ăn biết sự thực ra sao. Grace viết cho dì và dượng cô như thể mùa Giáng sinh là chắc chắn và họ đừng chờ cô về.

Tại sao cô làm thế? Không phải cô có kế hoạch gì khác. Maury đang học năm cuối. Thậm chí cô đã hứa sẽ mang cậu về nhà vào Giáng sinh để gặp gia đình cô. Và cậu đã nói Giáng sinh là dịp tốt để chính thức hóa cuộc đính hôn của họ. Cậu đang để dành lương mùa hè để mua nhẫn kim cương cho cô.

Cô cũng vậy, đang để dành tiền lương, để có thể đi xe bus đến Kingston thăm cậu trong lúc cậu học.

Cô nói thế, hứa thế, rất dễ dàng. Nhưng cô có thực tin tưởng, hoặc thậm chí mong ước, rằng nó sẽ xảy ra?

“Maury là người rất tốt,” bà Travers nói. “Cháu cũng thấy được mà. Nó sẽ là một người đơn sơ đáng quý giống như cha nó. Không giống như anh nó. Neil rất thông minh. Tôi không có ý nói rằng Maury không thông minh – chắc chắn không thể trở thành kỹ sư nếu không có đầu óc – nhưng Neil… Nó sâu sắc.” Bà tự cười mình. “Nằm trong những động thăm thẳm dưới đại dương”(1) – Tôi đang nói gì nhỉ? Trong một thời gian dài, tôi và Neil chỉ có nhau. Vì thế tôi nghĩ nó đặc biệt. Tôi không có ý nói rằng Neil không thể là người thú vị. Nhưng đôi khi người vui vẻ nhất có thể u buồn, phải không? Khiến người ta thắc mắc. Nhưng lo lắng cho con cái đã lớn thì ích gì? Tôi lo về Neil rất nhiều, còn với Maury thì chút xíu thôi. Còn Gretchen thì tôi chẳng lo chút nào. Vì phụ nữ luôn có điều gì thôi thúc họ, phải không?”

o0o

Căn nhà bên hồ không bao giờ đóng cửa trước lễ Tạ ơn. Dĩ nhiên Gretchen và các con phải về Ottawa để tụi nhỏ đi học. Và Maury phải đi Kingston. Ông Travers chỉ có thể đến vào cuối tuần. Nhưng bà Travers đã bảo Grace bà thường ở lại, đôi khi với khách, đôi khi một mình.

Rồi dự định của bà thay đổi. Bà về Ottawa với ông Travers vào tháng 9. Chuyện này xảy ra bất ngờ – bữa ăn tối Chủ nhật tuần đó bị hủy bỏ.

Maury giải thích rằng mẹ cậu đôi khi bị bệnh lo âu. “Bà phải nghỉ ngơi,” cậu nói. “Bà phải vào bệnh viện một hai tuần, và họ khiến bà ổn định. Lúc nào bà cũng khỏe lại.”

Grace nói rằng cô không bao giờ nghĩ bà Travers có vấn đề ấy. “Nguyên nhân là gì?”

“Anh nghĩ họ không biết,” Maury nói. Nhưng sau một lúc cậu nói “Có thể là chồng bà. Ý anh là chồng trước của bà. Cha của Neil. Chuyện xảy ra với ông, vv.

Điều xảy ra là cha của Neil đã tự tử.

“Anh đoán ông không bình thường. Nhưng anh không biết thậm chí có phải đấy là nguyên nhân hay không. Có thể là tuổi tác của bà, và những bệnh phụ nữ và những chuyện đại loại như thế. Nhưng không sao – họ sẽ chữa lành cho bà dễ dàng, với thuốc men. Họ có thuốc rất tốt. Đừng lo.”

o0o

Đến lễ Tạ ơn, như Maury dự đoán, bà Travers xuất viện và khỏe khoắn. Bữa ăn tối lễ Tạ ơn sẽ ở hồ, như thường lệ. Nó xảy ra vào ngày Chủ nhật, thay vì thứ Hai – cũng như thường lệ, để dành thời gian thu xếp và đóng cửa căn nhà. May mắn cho Grace, vì Chủ nhật vẫn là ngày nghỉ của cô.

Cả gia đình sẽ có mặt, ngay cả Neil và Mavis và các con, đang ở nhà của cha mẹ Mavis. Không có khách – trừ khi tính Grace là khách.

Lúc Maury đưa cô đến hồ sáng ngày Chủ nhật, con gà tây đã vào lò. Những chiếc bánh nướng nằm trên quầy bếp – bí đỏ, táo, dâu dại. Gretchen phụ trách bếp núc, nấu nướng phối hợp như chơi thể thao. Bà Travers ngồi ở bàn bếp, uống cà phê và chơi lắp hình với con thứ của Gretchen là Dana.

“A, Grace,” bà nói, nhổm dậy để ôm lấy cô – lần đầu tiên bà làm thế – và bàn tay bà vụng về làm tung tóe những mảnh hình.

Dana khóc thét lên “Bà ngoại,” và chị lớn của nó, Janey, vẫn đang theo dõi với vẻ chê trách, nhặt những mảnh hình lên.

“Lắp lại dễ mà,” nó nói. “Bà ngoại đâu có cố tình.”

“Mẹ để xốt nam việt quất ở đâu?” Gretchen hỏi.

“Trong tủ,” bà Travers nói, vẫn đang siết cánh tay Grace và bỏ lơ hình ghép bị phá hủy.

“Ở đâu trong tủ?”

“Ồ, xốt nam việt quất,” bà Travers nói. “Mẹ nấu lấy. Mẹ cho chúng vào chút nước. Rồi mẹ đun lửa thấp – không, mẹ nghĩ mẹ ngâm chúng trước – “

“Con không có thì giờ đâu,” Gretchen nói. “Ý mẹ là mẹ không có xốt trong hộp sao?”

“Mẹ đoán là không. Chắc mẹ không có, vì mẹ làm lấy.”

“Con sẽ phải kêu ai đó đi mua.”

“Con à, lễ Tạ ơn mà,” bà Travers dịu dàng nói. “Đâu có chỗ nào mở cửa.”

“Chỗ gần xa lộ lúc nào cũng mở cửa.” Gretchen lên giọng. “Wat đâu rồi?”

“Wat đi chèo thuyền rồi,” Mavis gọi từ phòng ngủ phía sau. Giọng chị như cảnh cáo, vì chị đang tìm cách dỗ đứa bé con chị ngủ. “Wat đi với Mikey.”

Mavis tự lái xe đến, với Mikey và đứa bé. Neil sẽ đến sau – anh phải gọi điện thoại.

Ông Travers đã đi đánh golf.

“Chỉ là em cần ai đó đi chợ,” Gretchen nói. Chị đợi, nhưng không có lời tình nguyện nào từ phòng ngủ phía sau. Chị nhướng mày nhìn Grace. “Em không lái xe được, phải không?”

Grace nói không.

Bà Travers ngồi xuống, lịch sự thở dài.

Gretchen nói “Maury biết lái xe. Maury đâu rồi?”

Maury đang ở trong phòng ngủ phía trước tìm quần tắm của cậu, dù mọi người đã bảo cậu nước lạnh lắm không bơi được. Cậu nói tiệm sẽ không mở cửa.

“Tiệm sẽ mở,” Gretchen nói. “Họ bán xăng. Và nếu nó không mở thì có tiệm ngay ở bìa Perth – em biết mà, với mấy cây kem.”

Maury muốn Grace đi cùng với cậu, nhưng hai cô bé, Janey và Dana, đang năn nỉ cô đến xem xích đu ông ngoại chúng mới dựng dưới cây phong Na uy cạnh nhà.

Khi Grace xuống những bậc thềm, cô cảm thấy dây buộc sandal của mình bị đứt. Cô cởi sandal và bước dễ dàng trên mặt đất cát, qua những bụi mã đề bẹp dí và những chiếc lá rụng cong queo.

Đầu tiên cô đẩy hai đứa trẻ trên xích đu, rồi chúng đẩy cô. Lúc cô nhảy xuống, chân trần, là lúc một chân cô gục xuống và cô thét lên đau đớn, không biết chuyện gì đã xảy ra.

Hóa ra là bàn chân, không phải cẳng chân. Cơn đau nhói lên từ lòng bàn chân trái, bị cạnh vỏ sò sắc cắt.

“Dana mang mấy vỏ sò đến đó,” Janey nói. “Nó muốn làm nhà cho con sên của nó.”

“Con sên chạy mất rồi.” Dana nói.

Gretchen và bà Travers và ngay cả Mavis chạy ra khỏi nhà, nghĩ rằng tiếng thét là của bọn trẻ con.

“Bàn chân cô chảy máu,” Dana nói. “Mặt đất đầy máu.”

Janey nói “Cô bị vỏ sò cắt. Dana bỏ những vỏ sò ở đây – nó định xây nhà cho Ivan. Ivan con sên của nó.”

Một cái chậu được mang ra, với nước để rửa vết cắt và một cái khăn, và mọi người hỏi có đau lắm không.

“Không đau lắm,” Grace nói, đi khập khiễng đến bậc thềm, hai cô bé tranh nhau đỡ cô và chung chung là làm vướng chân cô.

“Ô, nặng đấy,” Gretchen nói. “Nhưng tại sao em không mang giày/”

“Đứt dây giày,” Dana và Janey đồng thanh nói, trong lúc một chiếc xe mui trần màu rượu đỏ rẽ gọn gàng vào khoảng đậu xe bên cạnh nhà.

“Đây chính là chuyện tôi gọi là may mắn,” bà Travers nói. “Đúng người chúng ta cần. Ông bác sĩ.”

Đấy là Neil – lần đầu tiên Grace nhìn thấy anh. Anh cao, gầy, thiếu kiên nhẫn.

“Túi của con,” bà Travers vui vẻ gọi. “Chúng tôi có sẵn người bệnh cho con đây.”

“Anh có món khá đấy,” Gretchen nói. “Mới hả?”

Neil nói “Một thứ điên rồ.”

“Giờ thì đứa bé thức mất rồi,” Mavis nói, với một tiếng thở dài buộc tội không biết nhắm vào ai. Chị trở vào nhà.

“Con đừng nói con không mang theo,” bà Travers nói. Nhưng Neil nhấc một túi bác sĩ từ ghế sau, và bà nói “Có thế chứ, con có mang theo. Tốt. Nhỡ khi cần.”

“Cháu là người bệnh sao?” Neil nói với Dana. “Chuyện gì thế? Nuốt phải con cóc à?”

“Cô ấy đấy,” Dana nghiêm trang nói. “Là Grace.”

“Vậy đấy. Cô ấy nuốt con cóc.”

“Cô ấy bị đứt chân.”

“Vì vỏ sò,” Janey nói.

Neil nói với hai cô cháu “Xê ra nào,” và ngồi xuống bậc thềm phía dưới Grace. Anh cẩn thận nhấc bàn chân đau lên và nói “Cho xin miếng vải đó,” và chậm máu để nhìn vết cắt. Bây giờ, khi anh gần sát cô, Grace nhận thấy một mùi cô đã biết nhận dạng qua mùa hè làm việc ở khách sạn – mùi rượu lẫn mùi bạc hà.

“Đau không?” anh hỏi.

Grace nói “Hơi hơi.”

Anh nhìn cô thoáng qua, dù cái nhìn dò xét. Có lẽ tự hỏi cô có ngửi thấy mùi rượu không và cô nghĩ gì về điều ấy.

“Đau là cái chắc. Thấy miếng cắt này không? Chúng ta phải làm sạch bên dưới vết cắt, rồi tôi sẽ may một hai mũi. Tôi có thứ tôi có thể bôi lên, sẽ không đau như cô tưởng.” Anh ngước nhìn Gretchen. “Này, dẹp bớt khán giả đi.”

Anh chưa nói lời nào với mẹ, người lại nói thật may anh đã đến vào đúng lúc ấy.

“Hướng đạo sinh mà,” anh nói. “Lúc nào cũng sẵn sàng.”

Hai bàn tay anh không có vẻ say, và đôi mắt anh cũng không có vẻ say. Anh cũng không giống ông bác vui tính anh giả vờ khi anh nói với lũ trẻ, hoặc người cung cấp những lời an ủi như anh chọn với Grace. Anh có vầng trán cao xanh xao, mái tóc đen nhuốm bạc quăn tít, đôi mắt xám tinh anh nhưng hơi trũng, gò má cao, và má hóp. Nếu khuôn mặt anh không căng thẳng, anh sẽ có vẻ u uất và khao khát.

Khi vết cắt đã được trị xong, Neil nói anh nghĩ nên mang Grace vào bệnh viện trong thị trấn. “Để tiêm ngừa bệnh uốn ván.”

“Đâu có gì tệ lắm,” Grace nói.

Neil nói, “Đấy không phải là điểm chính.”

“Tôi đồng ý,” bà Travers nói. “Bệnh uốn ván – ghê quá.”

“Tụi con sẽ không đi lâu,” anh nói. “Đây. Grace? Grace, để tôi đưa cô đến xe.” Anh đỡ cô bằng một cánh tay. Cô đã buộc dây chiếc sandal còn tốt, và xỏ chân vào chiếc kia để cô có thể lê nó theo sau. Lớp băng cột rất gọn ghẽ và chặt.

“Tôi vào một chút,” anh nói, khi cô đã ngồi vào xe. “Để xin lỗi.”

Bà Travers xuống khỏi hàng hiên và đặt tay lên cửa xe.

“Như thế này là tốt,” bà nói. “Thế này là rất tốt, Grace ạ, cháu là món quà trời ban, Cháu sẽ cố ngăn nó uống rượu hôm nay nhé? Cháu sẽ biết cách làm sao.”

Grace nghe những lời ấy, nhưng không nghĩ ngợi nhiều. Cô đã quá hoảng hốt vì sự thay đổi của bà Travers, vì bà dường như to lớn hơn, vì cử động cứng ngắc của bà, vì vẻ rộng lượng bất ngờ và khá cuống quýt. Và một lớp vảy lờ mờ lộ ra ở hai khóe miệng bà, trông như đường.

o0o

Bệnh viện cách đó 3 dặm. Có một đường bắc ngang xa lộ phía trên đường rầy xe lửa, và họ lái xe trên đường này với tốc độ khiến Grace có cảm tưởng, khi đến đỉnh con đường, chiếc xe đã lao trên mặt đường và họ đang bay. Không có xe cộ nhiều, vì thế cô không sợ, và dù sao đi nữa cô cũng không làm được gì,

Neil biết cô y tá trực ở phòng Cấp cứu, và sau khi anh điền một mẫu giấy và để cô y tá nhìn sơ qua chân của Grace (“Khá đấy,” cô ta thờ ơ nói) anh đã có thể chích cho cô mũi thuốc chống bệnh uốn ván. (“Bây giờ không đau đâu, nhưng có thể sau này sẽ đau”). Khi anh chích xong, cô y tá trở lại và nói.”Có một cậu trong phòng đợi muốn đưa cô ấy về.”

Cô nói với Grace, “Cậu ta nói là vị hôn phu của cô.”

“Bảo nó cô ấy chưa xong,” Neil nói. “Không. Bảo nó chúng tôi đã đi rồi.”

“Tôi đã nói anh ở trong này.”

“Nhưng khi cô trở lại,” Neil nói, “chúng tôi đã đi.”

“Cậu ấy nói là em của anh. Không phải là cậu ấy sẽ nhìn thấy xe của anh trong bãi đậu xe sao?”

“Nhưng tôi đậu xe ở bãi dành cho bác sĩ.”

“Ranh ma thật,” cô y tá quay lại nói.

Và Neil nói với Grace, “Em chưa muốn về nhà, phải không?”

“Không,” Grace nói, như thể cô đã nhìn thấy chữ ấy viết trên bức tường trước mặt. Như thể cô đang kiểm tra thị giác mình.

Một lần nữa cô được đỡ đến xe, giày sandal lê theo sau, và ngồi vào ghế xe màu kem. Họ đi ngõ sau ra khỏi bãi đậu, một lối không quen thuộc ra khỏi thị trấn.

Cô biết họ sẽ không gặp Maury. Cô không nghĩ đến cậu. Càng không nghĩ đến Mavis.

Sau này, diễn tả giai đoạn ấy, sự thay đổi ấy trong cuộc đời chị, Grace có thể nói – chị đã nói – rằng như thể một cánh cổng đã sập đóng lại sau lưng chị. Nhưng lúc ấy không có tiếng sập cửa – chỉ có sự phục tùng lan tỏa trong chị, và quyền lợi của những người ở lại bị êm thắm loại bỏ.

Ký ức của chị về ngày hôm ấy vẫn rành rọt và chi tiết trong một thời gian dài, dù có sự thay đổi trong những phần chị suy ngẫm.

Và thậm chí trong những chi tiết ấy hẳn chị đã nhớ sai một vài điểm.

o0o

Thoạt tiên họ lái xe về hướng tây, trên Xa lộ 7. Theo như Grace nhớ, không có chiếc xe nào khác trên xa lộ, và vận tốc của họ gần bằng lúc họ bay qua cầu bắc ngang xa lộ. Điều này không thể nào đúng – phải có người trên đường, nhưng người từ nhà thờ về nhà trong buổi sáng Chủ Nhật ấy, hoặc trên đường đến dự lễ Tạ ơn với gia đình. Neil hẳn phải chạy chậm lại khi lái qua làng mạc, và khi quẹo trên nhiều đường cong trên đường xa lộ cổ. Cô không quen ngồi xe mui trần, gió tạt vào mắt, cuốn tung tóc cô. Nó cho cô ảo giác của một tốc độ hoàn hảo không đổi – không vội vã nhưng kỳ diệu, yên ả.

Và dù Maury và Mavis và những người khác trong gia đình đã bị xóa khỏi trí cô, vài mẩu vụn của bà Travers vẫn còn, lởn vởn, nói thì thầm, với tiếng cười khúc khích là lạ và hổ thẹn, thông điệp cuối cùng của bà.

Cháu sẽ biết cách làm sao.

Dĩ nhiên Grace và Neil không nói chuyện. Cô nhớ rằng phải hét lên người kia mới nghe được. Và nói thực lòng, điều cô nhớ hầu như giống hệt như ý tưởng, sự mơ mộng của cô lúc ấy về tình dục. Cuộc gặp gỡ may mắn, những dấu hiệu thầm lặng nhưng mạnh mẽ, cuộc chạy trốn gần như hoàn toàn im lặng, trong đó cô không nhiều thì ít là kẻ bị bắt đi. Một sự đầu hàng nhẹ bỗng, da thịt cô bây giờ chỉ còn là một dòng khao khát.

Cuối cùng, họ ngừng lại, ở Kaladar, và vào một khách sạn – khách sạn cổ vẫn còn ở đấy. Cầm tay cô, lồng những ngón tay anh vào những ngón tay cô, chậm lại để cùng nhịp với những bước không đều của cô, Neil dẫn cô vào quán rượu. Cô nhận ra đấy là quán rượu, tuy cô chưa hề đến quán rượu nào. (Quán trọ Thác Bailey chưa có giấy phép bán rượu, vì thế người ta uống rượu trong phòng trọ hoặc trong một vũ trường khá tồi tàn bên kia đường). Quán rượu này hệt như cô tưởng tượng – một căn phòng lớn, tối, ngột ngạt, với những bàn ghế sắp xếp cẩu thả sau lần dọn dẹp vội vã, mùi Lysol không xóa nổi mùi bia, mùi whiskey, mùi xì gà, mùi tẩu thuốc, mùi đàn ông.

Một người đàn ông từ phòng khác vào và nói với Neil. Ông ta nói “Chào ông, Bác sĩ,” và đến sau quầy.

Grace sực nghĩ họ đi đâu cũng thế – người ta sẽ biết Neil.

“Ông biết hôm nay là ngày Chủ Nhật,” người đàn ông nói bằng giọng cứng rắn, gần như hét lên, như thể ông ta muốn tiếng vọng ra đến bãi đậu xe. “Ngày Chủ Nhật tôi không bán được gì cho ông cả. Và tôi không bao giờ được bán gì cho cô ta cả. Thậm chí cô ấy không nên có mặt ở đây. Ông có hiểu không?”

“Ô, vâng, thưa ông. Vâng, quả thế, thưa ông.” Neil nói. “Tôi hoàn toàn đồng ý, thưa ông.”

Trong khi hai người nói chuyện, người đàn ông sau quầy đã lấy một chai whiskey từ một ngăn kệ kín, đổ chút rượu vào một cái ly và đẩy nó qua mặt quầy đến Neil.

“Cô khát không?” ông hỏi Grace. Ông đã mở một chai Coke. Ông đưa nó cho cô mà không đưa ly.

Neil đặt một tờ giấy bạc lên quầy và người đàn ông đẩy nó đi.

“Tôi đã nói mà,” ông nói. “Không bán được.”

“Còn chai Coke thì sao?” Neil nói.

“Không bán được.”

Người đàn ông cất chai đi. Neil uống phần rượu trong ly rất nhanh. “Ông là người tốt,” anh nói. “Tinh thần luật pháp.”

“Mang chai Coke theo. Cô ấy đi càng nhanh tôi càng mừng.”

“Chắc rồi,” Neil nói. “Cô ấy là người tốt. Em dâu của tôi. Em dâu tương lai. Tôi hiểu thế đấy.”

“Thật sao?”

o0o

Họ không trở lại Xa lộ 7. Thay vì thế, họ đi về hướng bắc, con đường không tráng nhựa nhưng đủ rộng và khá bằng phẳng. Ly rượu dường như ảnh hưởng tay lái của Neil ngược lại với dự đoán. Anh lái chậm lại đến mức thích hợp, thậm chí cẩn trọng, như yêu cầu của con đường.

“Em không phiền chứ?” anh nói.

Grace nói, “Phiền cái gì?”

“Bị lôi đến chỗ này chỗ kia.”

“Không.”

“Tôi cần em bầu bạn. Chân em thế nào?”

“Không sao.”

“Hẳn phải đau ít nhiều.”

“Không phải đâu. Nó không sao.”

Anh nhấc bàn tay không cầm chai Coke, áp lòng bàn tay vào miệng anh, liếm nó một cái, rồi buông ra.

“Em có nghĩ tôi bắt cóc em để làm em sa ngã không?”

“Không,” Grace nói dối, nghĩ thầm chữ ấy giống mẹ anh làm sao. Sa ngã.

“Đã có lúc em nghĩ thế là đúng,” anh nói, như thể cô đã trả lời phải. “Nhưng không phải hôm nay. Tôi không nghĩ thế. Hôm nay em yên ổn như nhà thờ.”

Giọng nói của anh thay đổi, trở nên thân mật, thành thực, và êm ả, và ký ức của đôi môi anh áp vào, lưỡi anh liếm, trên làn da của cô, đã ảnh hưởng Grace đến mức cô nghe những lời ấy nhưng không hiểu anh nói gì. Cô có thể cảm thấy hàng trăm cái liếm của lưỡi anh, điệu vũ mềm dẻo, trên khắp người cô. Nhưng cô nghĩ đến câu nói “Nhà thờ không phải lúc nào cũng yên ổn.”

“Đúng. Đúng.”

“Và em không phải là em dâu của anh.”

“Tương lai. Tôi có nói tương lai mà.”

“Tương lai cũng không.”

“Ồ, có lẽ tôi không ngạc nhiên. Không. Không ngạc nhiên.”

Rồi giọng anh lại thay đổi, trở thành vô cảm.

“Tôi đang tìm lối rẽ bên mặt. Có một con đường đáng lẽ tôi phải nhận ra. Em có biết vùng này không?”

“Quanh đây thì không.”

“Không biết Trạm Hoa? Ompah? Ba Lan? Đường Tuyết?”

Cô chưa nghe thấy chúng bao giờ.

“Có người tôi muốn gặp.”

Chiếc xe rẽ phải, với những tiếng lẩm bẩm không rõ của anh. Không có bảng tên đường. Con đường càng lúc càng hẹp và gồ ghề, với một cây cầu lát gỗ rộng đủ một xe chạy. Những cây rừng đan nhánh trên đầu họ. Năm nay thời tiết ấm lạ lùng, và những chiếc lá còn xanh, trừ vài lá đây đó nổi lên như cờ hiệu. Có cảm giác trú ẩn. Qua nhiều dặm, Neil và Grace im lặng, và cây cối không dứt, rừng không dứt. Nhưng rồi Neil phá vỡ sự yên lặng.

Anh nói “Em lái xe được không?” Và khi Grace nói không anh nói “Tôi nghĩ em nên học.”

Ý anh là ngay lúc ấy. Anh ngừng xe, ra ngoài và vòng sang phía cô, ra dấu cho cô chuyển sang phía tay lái.

“Không có chỗ nào tốt hơn ở đây.”

“Lỡ có cái gì đến thì sao?”

“Chả có gì đâu. Mà nếu có chúng ta có thể xoay sở. Vì thế tôi chọn đoạn đường thẳng.”

Anh không buồn giải thích xe chạy như thế nào – anh chỉ cho cô biết chỗ đặt chân, và bắt cô tập chuyển số, rồi nói, “Đi nào, và làm theo lời tôi.”

Lần đầu xe lồng lên, cô phát hoảng. Cô rồ ga, và cô nghĩ anh sẽ chấm dứt bài học ngay, nhưng anh chỉ cười. Anh nói ‘Nào, từ từ thôi. Từ từ. Đi tiếp đi,” và cô làm theo. Anh không phê bình cách lái của cô, chỉ nói. “Cứ đi, cứ đi, giữ xe trên đường, đừng để máy tắt.”

“Khi nào em có thể ngừng?”

“Khi nào tôi chỉ cách cho em dừng.”

Anh bắt cô lái xe cho đến khi họ ra ngoài đường hầm hai hàng cây rừng, và rồi anh chỉ dẫn cho cô về thắng xe. Ngay sau khi cô ngừng, cô mở cửa xe để họ có thể đổi bên, nhưng anh nói, “Không. Đây mới là bắt đầu thôi. Em sẽ thích rất nhanh.” Và khi họ lại lái xe cô bắt đầu thấy anh có thể đúng. Tự tin tràn dâng trong thoáng chốc của cô suýt khiến họ lao xuống hố. Tuy vậy, anh vẫn cười khi anh phải chụp lấy bánh lái, và bài học tiếp tục.

Dường như cô đã lái nhiều dặm, thậm chí lái – từ từ – quanh nhiều đoạn đường cong. Rồi anh nói họ nên đổi ghế, vì anh không nhận ra phương hướng trừ phi anh lái xe.

Anh hỏi cô cảm thấy thế nào, và dù cô run rẩy cả người cô nói “O.K.”

Anh xoa cánh tay cô từ vai đến khuỷu tay và nói, “Đồ nói đối.” Nhưng không chạm đến cô hơn mức đó và không cho bất cứ phần nào của cô cảm nhận miệng của anh nữa.

Anh hẳn lấy lại được cảm giác phương hướng khi họ đến một ngã tư vài dặm kế đến, vì anh quẹo trái, và cây cối thưa dần và họ leo lên một con đường gập ghềnh dẫn đến một ngôi làng, hoặc ít nhất một cụm nhà bên đường. Một nhà thờ và một tiệm, cả hai không mở cửa để phục vụ mục đích nguyên thủy của chúng nhưng có lẽ có người ở, nếu xét số xe chung quanh và rèm cửa xấu xí trong cửa sổ. Một hai căn nhà cũng cùng tình trạng, và sau một căn nhà là một vựa thóc đã sụp đổ, rơm khô cũ sậm màu trồi ra giữa những xà nhà rạn nứt như bộ đồ lòng bị trương lên.

Neil kêu lên vui mừng khi thấy chỗ này, nhưng không ngừng lại.

“Đỡ quá,” anh nói “Đỡ – quá. Giờ tôi biết rồi. Cám ơn.”

“Em à?”

“Vì đã để tôi dạy em lái. Nó làm tôi dịu lại.”

“Làm anh dịu lại?” Grace nói. “Thật ư?”

“Thật.” Neil mỉm cười, nhưng anh không nhìn cô. Anh đang bận nhìn quanh quất, qua những cánh đồng hai bên đường sau khi qua khỏi làng. Anh đang tự nói một mình. “Đây rồi. Phải là chỗ này. Giờ chúng ta biết rồi.”

Và cứ thế, cho đến khi anh rẽ vào một con đường nhỏ không chạy thẳng nhưng vòng quanh một cánh đồng, tránh đá và những rặng thông. Cuối con đường là một căn nhà không khá hơn những căn nhà trong làng.

“Chỗ này,” anh nói, “chỗ này tôi sẽ không đưa em vào. Không đến 5 phút đâu.”

o0o

Anh đi lâu hơn thế. Cô ngồi trong xe, trong bóng râm. Cánh cửa nhà mở – chỉ cửa lưới đóng. Cửa lưới có những mảnh vá, sợi kim loại mới đan với sợi cũ. Không ai ra nhìn đến cô, một con chó cũng không. Giờ đây khi xe đã ngừng, không gian ngập đầy sự im lặng bất thường. Bất thường vì trong một buổi chiều nóng nực như thế thường phải có tiếng côn trùng trong cỏ và trong bụi bách xù. Cho dù người ta không thấy chúng, tiếng kêu của chúng dường như dâng lên từ mọi thứ mọc trên mặt đất, xa đến tận chân trời. Nhưng đã gần cuối năm, có thể đã quá trễ thậm chí để nghe tiếng ngỗng kêu khi chúng bay về nam. Dù sao đi nữa, cô không nghe gì cả.

Dường như họ đang ở trên đỉnh thế giới. Bên dưới bốn phía là cánh đồng, chỉ những ngọn cây lộ ra, vì chúng mọc trên chỗ thấp hơn.

Neil biết ai sống trong nhà này? Một người đàn bà? Dường như loại phụ nữ anh muốn khó có thể sống ở một nơi như thế này, nhưng những chuyện lạ kỳ Grace có thể gặp hôm nay là bất tận. Bất tận.

Trước kia căn nhà đã từng là nhà gạch, nhưng có người đã bắt đầu phá những bức tường gạch xuống. Những tường gỗ trơn lộ ra bên dưới, và những viên gạch trước kia phủ quanh chúng giờ xếp ngổn ngang trong sân, có lẽ đang đợi bán. Những viên gạch còn lại trên tường phía trước tạo thành một đường chéo, những bậc thang, và Grace, không có chuyện gì để làm, tựa lưng ra sau và đếm. Cô làm việc này vừa nghiêm trang vừa ngu ngốc, cách người ta hái cánh hoa, nhưng không có những lời rõ ràng như Anh ấy yêu tôi, anh ấy không yêu tôi.

May mắn. Không may. May mắn. Không may. Đấy là tất cả điều cô dám nói.

Cô nhận thấy khó đếm những viên gạch xếp thành đường hình chữ z, nhất là vì đường ấy thẳng ra trên cánh cửa.

Rồi cô biết. Còn là gì được nữa? Chỗ nấu rượu lậu. Cô nghĩ đến người nấu rượu lậu trong thị trấn nơi dì dượng của cô ở – một người đàn ông già gầy gò, say mèm, ủ rũ và đáng ngờ. Ông ta ngồi trên bậc thềm trước nhà với một khẩu súng vào tối Halloween. Ông vẽ những con số trên những thanh củi đốt chất cạnh cửa ra vào để ông biết có khúc nào bị trộm hay không. Cô nghĩ đến ông ta – hoặc người nấu rượu lậu này – ngủ gà gật trong cái nóng, trong căn phòng dơ bẩn nhưng gọn ghẽ của mình (cô biết nó sẽ như thế vì những mảnh vá trên cửa lưới), đứng dậy từ ghế dựa hoặc giường nhỏ kêu cọt kẹt, quấn mình trong một tấm chăn ghép dính bẩn mà một người phụ nữ thân thuộc của ông, một người phụ nữ giờ đã chết, đã may từ rất lâu.

Không phải cô đã từng vào nhà một người nấu rượu lậu, nhưng ở quê cô, những bức chắn mỏng dính phân chia những lối sống cũ mòn đáng trọng và không đáng trọng. Cô biết mọi chuyện như thế nào.

Lạ lùng làm sao là cô đã nghĩ sẽ trở thành một trong số họ – một người nhà Travers. Kết hôn với Maury. Đấy sẽ là một thứ phản trắc. Nhưng đi cùng với Neil thì không phải là phản trắc, vì anh không may – anh biết vài điều cô biết.

Rồi cô dường như có thể thấy dượng của cô trong cánh cửa, lưng còng và kinh ngạc, nhìn cô như thể cô đã cách xa rất nhiều năm. Như thể cô đã hứa về nhà và rồi quên mất, và suốt thời gian ấy lẽ ra ông đã chết nhưng lại chưa chết.

Cô gắng nói với ông, nhưng ông không hiểu. Cô đang thức giấc, đang di chuyển. Cô ở trong chiếc xe với Neil, lại đi trên đường. Cô đã há miệng ngủ và cảm thấy khát. Anh quay về phía cô trong một thoáng, và cô để ý, ngay cả trong làn gió chung quanh họ, một mùi whiskey mới.

“Em thức chưa? Khi tôi ra em đang ngủ say,” anh nói. “Xin lỗi – tôi phải xã giao một lúc. Em buồn tiểu không?”

Thực ra, đấy là một vấn đề cô nghĩ đến trong lúc chờ đợi. Cô đã nhìn thấy nhà tiêu phía sau nhà, nhưng cảm thấy e thẹn không muốn rời xe và bước về phía ấy.

Anh nói, “Chỗ này xem được đây,” và ngừng xe. Cô ra khỏi xe và đi vào đám hoa dại đang nở bông để ngồi xổm xuống. Anh đứng giữa những bông hoa phía bên kia, xoay lưng lại phía cô. Khi cô vào xe, cô nhìn thấy chai rượu trên sàn cạnh chân cô. Hình như nó đã cạn hơn một phần ba.

Anh thấy cô nhìn.

“Ôi, đừng sợ,” anh nói. “Tôi mới đổ ít vào đây.” Anh giơ một bình rượu nhỏ lên. “Tiện hơn khi lái xe.”

Trên sàn cũng có một chai Coca-Cola. Anh bảo cô tìm cái mở chai trong ngăn để găng tay.

“Nó lạnh!” cô ngạc nhiên nói.

“Tủ đá. Họ cắt băng ở hồ vào mùa đông và trữ trong mạt cưa. Ông ta trữ dưới hầm nhà.”

“Em nghĩ em nhìn thấy dượng em ở cửa căn nhà ấy,” cô nói. “Nhưng em nằm mơ.”

“Em có thể kể về dượng em. Kể về nơi em ở. Công việc của em. Gì cũng được. Tôi chỉ muốn nghe em nói.”

Có một sức mạnh mới trong giọng nói của anh, một sự thay đổi trên mặt anh, nhưng không phải là vầng sáng điên rồ của say sưa. Anh như bị bệnh – không nặng lắm, chỉ chớm bệnh, mỏi mệt – và bây giờ muốn cô yên tâm rằng anh không sao. Anh đóng nút bình rượu, đặt nó xuống và tìm lấy bàn tay cô. Anh nắm nhè nhẹ, như một người bạn.

“Ông già lắm,” Grace nói. “Thực ra ông là ông dượng. Ông là người đan mây – có nghĩa ông đan mây cho ghế. Em không thể giải thích, nhưng em có thể làm cho anh xem, nếu chúng ta có ghế để đan – “

“Tôi không thấy cái ghế nào.”

Cô cười, và nói. “Chán lắm, thực đấy.”

“Thế thì nói xem em thích gì. Em muốn biết gì?”

Cô nói, “Anh.”

“Ồ. Em muốn biết gì ở tôi?” Bàn tay anh rời đi.

“Điều anh đang làm,” Grace cương quyết nói. “Tại sao.”

“Ý em là uống rượu? Tại sao tôi uống rượu?” Nút bình rượu lại mở. “Tại sao em không hỏi tôi?”

“Vì em biết anh sẽ nói gì.”

“Cái gì? Tôi sẽ nói gì?”

“Anh sẽ nói, ‘Còn gì khác để làm đâu?’ hoặc đại loại như thế.”

“Đúng vậy,” anh nói. “Tôi sẽ nói thế. Rồi em sẽ tìm cách bảo tôi tại sao tôi sai.”

“Không,” Grace nói. “Em sẽ không nói thế.”

Khi cô nói thế, cô cảm thấy lạnh lẽo. Cô đã nghĩ cô thực lòng, nhưng giờ cô thấy cô đang tìm cách gây ấn tượng với anh, chứng tỏ cô cũng sành sõi như anh, và trong lúc làm thế cô đã nhìn thấy sự thật tuyệt đối, một sự vô vọng chân thực, hợp lý, vĩnh viễn. Bây giờ, khi cô đã có thể nhìn thấy, không có chút gì yên ủi trong điều cô nhìn thấy.

Neil nói “Không à? Không. Em sẽ không nói. Thật là đỡ. Em làm tôi nhẹ nhõm, Grace.”

Một lúc sau anh nói “Em biết không, tôi buồn ngủ. Tìm được chỗ tốt là tôi sẽ ngừng xe và ngủ. Chỉ một lúc thôi. Em có phiền không?”

“Không. Em nghĩ anh nên ngủ.”

“Em sẽ trông chừng tôi chứ?”

“Vâng.”

“Tốt.”

Anh tìm thấy chỗ trong một thị trấn nhỏ tên là May mắn. Ngoài bìa thị trấn, cạnh một dòng sông, có một công viên và một chỗ đậu xe trải sỏi. Anh ngã ghế về phía sau, và lập tức thiếp ngủ. Buổi chiều tối đã đến lúc ấy, vào giờ bữa ăn chiều, chứng tỏ ngày hôm nay quả không phải là một ngày hè. Trước đó ít lâu, người ta đã ăn lễ Tạ ơn ngoài trời ở đây – vẫn còn ít khói tỏa lên từ bếp lửa ngoài trời, và mùi thịt nướng trong không gian. Mùi ấy không hẳn làm Grace đói – nó khiến cô nhớ sự đói bụng trong những tình thế khác.

Người cô lấm bụi vì những lần ngừng và khởi động máy của bài học lái xe của mình. Cô rời xe và ra sức rửa tay rửa mặt ở một vòi nước ngoài trời. Rồi, gượng nhẹ với cái chân bị đứt, cô chậm chạp bước đến bên bờ sông, thấy nó rất nông, với những ngọn cỏ lau trồi lên trên mặt nước. Một dấu chỉ dẫn cảnh cáo rằng chửi thề, nói bậy, nói tục ở đây sẽ bị trừng phạt.

Cô thử xích đu đối diện hướng tây. Nhún mình lên cao, cô nhìn bầu trời trong trẻo – màu xanh lá cây nhàn nhạt, màu vàng đang phai, màu hồng rực ở chân trời. Không gian đã trở lạnh.

Cô đã nghĩ nó là đụng chạm. Miệng, lưỡi, da, thân người, xương va vào xương. Bừng bừng nóng. Đam mê. Nhưng nó không phải là điều cô tìm kiếm. Cô đã nhìn sâu, sâu vào trong anh hơn cô có thể nếu họ đã ngã theo hướng ấy.

Điều cô nhìn thấy là tận cùng. Như thể cô ở bên vùng nước đen thẫm phẳng lặng kéo dài vô tận. Nước phẳng lặng, lạnh lẽo. Nhìn ra mặt nước tối, phẳng lặng, lạnh lẽo ấy, và biết rằng tất cả chỉ có thế thôi.

Không phải vì tật nghiện rượu. Uống rượu, nhu cầu uống rượu – đấy chỉ là một thứ làm xao nhãng, như mọi thứ khác, ngoài thứ đang luôn chờ đợi, cho dù thế nào đi nữa.

Cô trở về xe và tìm cách thức anh dậy. Anh cựa quậy nhưng không thức. Thế nên cô lại đi vòng quanh để làm ấm người, và tập cách dùng cái chân đau dễ dàng nhất – giờ cô đã hiểu ra rằng cô sẽ lại làm việc, phục vụ bữa điểm tâm vào sáng mai.

Cô thử lần nữa, thúc giục anh. Anh đáp lại bằng những lời hứa hẹn và lẩm bẩm khác nhau, rồi lại ngủ. Đến lúc trời tối hẳn thì cô chịu thua. Giờ đây khi hơi lạnh ban đêm đã đến, vài sự thật khác trở nên rõ ràng với cô: họ không thể ở lại đây, rốt lại họ vẫn còn trong thế giới, và cô phải trở về Thác Bailey.

Khá chật vật cô mới dời được anh sang ghế hành khách. Nếu chuyện ấy không đánh thức anh, rõ ràng chẳng còn gì có thể. Phải mất một lúc cô mới biết cách bật đèn xe, và rồi cô bắt đầu lái xe, xóc nảy, chậm chạp, trở lại con đường.

Cô không biết phương hướng, và không có ai trên đường để hỏi. Cô chỉ tiếp tục lái, đến phía bên kia cùa thị trấn, và ở đấy, may mắn làm sao, là dấu chỉ đường đến Thác Bailey, trong số những dấu chỉ đường khác. Chỉ có 9 dặm.

Cô lái dọc theo xa lộ 2 đường xe chạy, không bao giờ quá 30 dặm một giờ. Không có bao nhiêu xe cộ. Một hai lần có chiếc xe vượt qua, bóp còi, và vài xe chạy ngược hướng cũng bóp còi. Một lý do có lẽ vì cô lái quá chậm, và lý do khác là cô không biết cách tắt đèn pha. Không sao. Cô không thể ngừng để thu thập can đảm. Cô phải cứ tiếp tục, như anh đã nói. Cứ tiếp tục.

Thoạt tiên cô không nhận ra Thác Bailey vì cô đến theo hướng không quen. Khi cô nhận ra, cô hoảng sợ hơn suốt 9 dặm vừa qua. Lái xe chỗ xa lạ là một chuyện, rẽ vào cổng quán trọ lại là chuyện khác.

Anh thức giấc khi cô ngừng trong bãi đậu xe. Anh không tỏ vẻ ngạc nhiên rằng họ ở đấy, hoặc vì những chuyện cô đã làm. Thật ra, anh bảo cô, tiếng kèn xe đã đánh thức anh nhiều dặm đường trước, nhưng anh giả vờ ngủ vì điều quan trọng là không nên làm cô giật mình. Tuy thế anh không lo lắng. Anh biết cô sẽ lái được.

Cô hỏi anh đủ tỉnh ngủ để lái xe chưa.

“Hoàn toàn tỉnh táo. Sáng láng như đồng cắc.”

Anh bảo cô tuột chân ra khỏi giày, và anh nắn chỗ này chỗ kia, trước khi nói “Tốt. Không bị nóng. Không bị sưng. Tay của em có đau vì mũi chích không? Có thể sẽ không đau.” Anh đưa cô đến cửa, và cám ơn sự bầu bạn của cô. Cô vẫn kinh ngạc rằng mình đã về an toàn. Hầu như cô không nhận ra đấy là lúc nói từ giã.

Thật ra, cho đến ngày hôm nay, chị không biết anh đã nói những lời ấy hay anh chỉ nắm lấy chị, quàng tay anh quanh người chị, ôm chị thật chặt, với sức ép liên tục và thay đổi như thể phải cần hơn hai cánh tay, như thể anh đã vây bọc lấy chị, thân thể anh vừa mạnh mẽ vừa nhẹ bỗng, vừa đòi hỏi vừa khước từ, nói với chị rằng chị đã sai khi buông rời anh, tất cả là có thể, nhưng quả thật chị không sai, anh đã định đóng dấu ấn của chính mình lên người chị rồi đi.

o0o

Buổi sáng sớm, người quản lý gõ cửa phòng trọ, gọi Grace.

“Cô có điện thoại,” ông nói. “Khỏi phải dậy – họ chỉ muốn biết cô có ở đây không. Tôi nói tôi sẽ đi xem thử. Giờ thì O.K. rồi.”

Đấy chắc là Maury, cô nghĩ. Dù sao cũng là một người trong số họ. Nhưng có lẽ là Maury. Giờ cô phải đối mặt với Maury.

Khi cô xuống phục vụ bữa điểm tâm – mang giày thể thao, một chiếc cột giây lỏng – cô nghe về tai nạn. Một chiếc xe đã đâm vào chân cầu khoảng nửa đường đến Hồ Sabot. Chiếc xe lút sâu vào đấy – hoàn toàn bẹp dí và cháy rụi. Không có xe nào khác trong tai nạn, và rõ ràng không có hành khách. Người lái phải được nhận diện bằng hồ sơ răng. Hoặc đã được nhận diện vào lúc ấy.

“Thật là hết cách,” người quản lý nói. “Tự cắt cổ có hơn không.”

“Có thể chỉ là tai nạn,” người đầu bếp có tính lạc quan nói. “Có thể chỉ là ngủ gật.”

“Còn lâu.”

Cánh tay cô đau, như thể mới bị đánh một cú nặng. Cô không thể cầm vững chiếc khay, và phải dùng hai tay ôm nó trước mặt.

o0o

Cô không phải đối mặt với Maury. Cậu viết cho cô một lá thư.

Em chỉ cần nói anh ấy đã ép buộc em. Em chỉ cần nói em đã không muốn đi.

Cô viết 4 chữ trả lời. Em đã muốn đi.

Cô sắp thêm, Em xin lỗi, nhưng lại thôi.

o0o

Một vài ngày sau ông Travers đến quán trọ để gặp cô. Ông lễ phép và vô cảm, cứng rắn, lạnh nhạt, không phải tàn nhẫn. Giờ cô nhìn thấy ông trong tình thế biểu lộ con người thực của ông. Người đàn ông có thể nắm quyền, có thể thu vén mọi chuyện. Ông nói chuyện ấy rất buốn, tất cả mọi người rất buồn, nhưng tật nghiện rượu là một thứ đáng sợ. Khi bà Travers khá hơn một chút, ông sẽ đưa bà đi du lịch, đến một nơi nào ấm áp.

Rồi ông nói ông phải đi. Ông phải làm nhiều chuyện. Khi ông bắt tay từ giã cô, ông đặt một bao thư vào đấy.

“Cả hai chúng tôi hy vọng nó có thể giúp cháu,” ông nói.

Tấm ngân phiếu một ngàn đô la. Lập tức cô nghĩ đến chuyện gửi trả lại hoặc xé đi, và ngay cả bây giờ chị vẫn nghĩ rằng nếu làm vậy thì rất hay. Nhưng cuối cùng, chị đã không thể làm thế. Lúc ấy, đó là số tiền đủ để bảo đảm cho chị một cơ hội trong cuộc sống.



(1) Trích Elegy Written in a Country Churchyard (1750) (Khúc bi thương viết trong sân nhà thờ thôn quê)

Full many a gem of purest ray serene,
The dark unfathomed caves of ocean bear:
Full many a flower is born to blush unseen,
And waste its sweetness on the desert air.

Nhiều châu ngọc tinh khôi nhất
Nằm trong những động thăm thẳm dưới đại dương
Nhiều đóa hoa chào đời rồi nở không ai biết
Hoài phí ngọt ngào giữa trời sa mạc

phần mềm






ngừng lại ở đó . trích ra phần mềm như buổi mai sương hồng .
không . buổi mai trời trong . không một chút gì . hết thảy . không
một bắt đầu . từ không không .

không sẽ không từ không . cũng như đời không từ em . khuôn mặt . tóc
tai và những phần mềm .

trích ra một cuộc tình . trích một đoạn . cuối cùng ? không . không bao
giờ hết . không có khởi đầu . nói chi lời trảm quyết .


Hoàng xuân Sơn

PHỎNG VẤN CHUỘT CHŨI*


Primo Levi


Phóng viên: Đợi đã, quỉ thần ơi! Trọn hai ngày nay, bốn mươi tám tiếng đồng hồ chờ ông bạn thò mặt ra, vậy mà chưa gì đã muốn rút trở vô rồi! Nghe giùm tôi nè, chủ bút của tôi sẽ không chấp nhận bất cứ cái cớ nào: nếu tôi quay về mà không có bài phỏng vấn, có thể tôi sẽ mất việc, ổng lại muốn có liền bây giờ trước mùa giao phối mới chết chớ!

Chuột chũi: Thôi được, nhưng lẹ lẹ nhe. Không phải đây vội vàng gì đâu, chỉ là không thích ánh sáng thôi. Lần tới nếu cho biết trước, mình làm cái hẹn ban đêm, mọi thứ sẽ đơn giản hơn, mà cũng yên tĩnh hơn nữa. Bộ không nghe tiếng ầm ầm hả? Máy kéo, động cơ, đầu máy, phi cơ: thiệt không chịu nỗi mà! Hồi xưa, như kiểu người ta thường nói, đâu có như vậy, ngoài đồng ngoài cộ đâu đó im re. Dù gì, thông cảm cho mình không nhìn thấy được rõ lắm: nhà báo đây là nam hay nữ vậy?

Phóng viên: Nam. Nhưng nam nữ thì có gì khác nhau đâu.

Chuột chũi: Khác chớ. Không tin phụ nữ được đâu ông nhà báo ơi. Đối với tôi, mỗi năm họ chỉ đáng cho tôi quan tâm 2 tuần, rồi thôi, thà sống một mình. Với lại, cái món mà phụ nữ chăm bẳm, kể cả quí bà của các ông, là lông và lông mà thôi. Không phải họ hoàn toàn sai trong quan điểm này đâu: ông bạn có biết là lông của chúng tôi thuộc loại có thể chịu được cào xước bởi bất cứ thứ gì nhám nhúa thô ráp không? Nếu không thì làm sao mà tháo lui qua mấy cái đường hầm này được chớ.

Phóng viên: Nè, chọn lựa của bọn ông quyết liệt thiệt nghe. Không bầu trời, không tia nắng không ánh trăng; ngắn gọn: tối đen và yên lặng triền miên. Bộ không thấy đơn điệu sao? Không chán hả?

Chuột chũi: Mấy ông rõ ràng cá mè một lứa, toàn dùng thước đo của loài người mà đánh giá này nọ. Đúng là một chọn lựa, nhưng là một chọn lựa hợp lý. Tôi chuộng nghe, ngửi, sờ hơn nhìn. Chớ nghĩ vì không ngó thấy mà tưởng tôi không có lỗ tai nhe. Thính lực của tôi nhậy gấp 10 lần của ông bạn; tất nhiên tính theo lô-ga-rít. Tôi nghe được cả tiếng rễ cây mọc, tiếng lạo xạo của bọn sâu bướm. Và để tự vệ trước những bẫy giăng khủng khiếp của mấy ông tôi phải đào xuống sâu năm sáu tấc: ở vị trí này khỏi sợ chết cóng! Tôi còn có thể phân biệt được 20 loại đất khác nhau, và linh cảm dự báo cả độ ẩm và gió nữa đó.

Phóng viên: Ông bạn vui lòng cho xem hai chân trước được không? Tôi muốn chụp một tấm hình.

Chuột chũi: Không được! Chuyện tào lao gì vậy? Cấm chụp hình. Mà tại sao ông không gọi chúng là tay chớ? Chúng đâu có khác gì với tay của các ông, chỉ có chắc khỏe hơn thôi. Tôi dám cá là, tuy cao lớn dềnh dàng như ông bạn đây, rất có thể sẽ không chịu nổi gọng kềm từ hai bàn tay tôi đâu nhe. Thử làm cái việc mà chúng tôi đang làm ngày đêm coi. Vắng mưa cũng hơi lâu rồi, đất ở vùng đồng cỏ tôi ngụ cư đang thời kỳ tốt và tơi xốp; nói tóm lại, điều kiện không thể ngon lành hơn. Thử coi, ông bạn Người, bỏ đi cái tư thế thẳng đứng, nằm sấp xuống như tụi này nè, rồi bắt đầu đào xới mà không có xẻng cuốc gì ráo. Chịu không? Thấy chưa, chuột chũi là tôi đây, chậm nhất trong các loài cà rề, sẽ đào được 10 thước trong khi trên mặt đất ông bạn vẫn còn loay hoay gẫy móng với lại sướt móng. Ngoài ra, trong thời gian đó tôi còn đào được một đường hầm hình ống đẹp khỏi chê, tém đất gọn gàng sang hai bên, bởi vì từ bé tí đã tập vừa tiến vừa xoay, như một mũi khoan. Bọn chúng tôi cũng có những bí mật nhà nghề chớ bộ!

Phóng viên: Lúc nãy ông nói phụ nữ chỉ hấp dẫn ông một số ngày trong năm. Vậy chứ mấy ông có đi săn gái không?

Chuột chũi: Cái này do tâm đầu ý hợp thôi ông ơi. Mỗi em gái có kiểu gãi lông rất riêng, em thì dồn dập hơn em thì mềm mại hơn: từ xa bọn chúng tôi đã nghe thấy nhau rồi. Đến mùa giao phối, đi tìm bạn tình là một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Chọn cái nửa kia của mình như vầy nè: chúng tôi nghe tiếng đào hầm bên trên, bên dưới, bên đông, bên tây rồi chỉ trong tích tắc đã quyết định, thế là hè nhau đào say đào sưa cho đến khi hai đường hầm gặp nhau. Nói cho đúng, thường thì chúng tôi mũi giáp mũi thăm dò xem liệu “hương gây mùi nhớ” có hạp nhau chăng: nếu ổn, hôn nhân coi như ngã giá.

Phóng viên: Nếu ông bạn không phiền, giới thiệu hiền thê cho tôi biết với.

Chuột chũi: Rất hân hạnh, vì đó là một cô gái hoàn hảo. Đẹp nữa chớ: trẻ hơn tôi nhiều. Nhưng giờ là cuối tháng ba, cô ấy phải đi chỗ này chỗ nọ chuẩn bị cho phòng hợp hôn. Chuyện này đối với tôi cực kỳ quan trọng, và tôi đã nói rõ như in với nàng là tôi muốn căn phòng phải rộng rãi, tiện nghi, trang hoàng đẹp mắt bằng cỏ và rêu, đó là việc đàn bà phải làm.

Phóng viên: Nếu không phiền, xin cho biết theo ông bạn thì việc của nam giới các ông là gì?

Chuột chũi: Thì cũng na ná như của mấy ông thôi: mấy ông săn tiền, tụi này săn sâu. Mấy ông đầu tư vào những thứ thiết yếu hoặc bất động sản, tụi này vặt đầu chúng.

Phóng viên: Đầu ai? Đầu bọn sâu bọ á?

Chuột chũi: Đúng, là loại hình đầu tư tốt nhứt. Các ông chưa bao giờ nghĩ đến điều này đúng không? Giun đất không đầu đố chạy đi đâu được, mà lại không thối rữa. Ông bạn có biết hiện tôi có bao nhiêu con trong kho dự trữ không? Hơn một ngàn con, cộng thêm bốn chục ấu trùng các loại. Dù gì cũng phải nghĩ đến tương lai chớ, tương lai của chúng ta và của con cháu ta. Có lần đang đào hang đưa đẩy sao mà gặp phải một em rắn nhỏ xíu mới nở. Tôi cũng vặt thủ cấp nhưng hai ngày sau thì em bắt đấu thúi um, để khỏi phí của, tôi quất sạch luôn. Ông bạn biết không, sức mạnh ở hai cánh tay của chúng tôi có cái giá của nó: nếu mỗi ngày chúng tôi không ăn một lượng thịt tươi tối thiểu cần thiết cho trọng lượng cơ thể, coi như đói.

Phóng viên: Vậy hả? Chờ chút, tôi phải ghi lại chi tiết này. Giờ xin cho biết có khi nào ông bạn bị chế ngự bởi khao khát khám phá thế giới trên mặt đất? Cỏ, hoa, nước chảy mây trôi? Hoặc kể cả những động vật không hề chui xuống mặt đất như dế, ốc sên, cào cào châu chấu?

Chuột chũi: Có chớ, đây không phủ nhận chuyện đó, nhưng mấy thứ này phí phạm cả tuổi xuân. Tôi đã từng làm những trò đại loại cùng mấy thằng bạn đồng trang lứa, vào những đêm không trăng. Tụi này khoảng hơn chục đứa nhe. Tưởng tượng coi, có một lần tôi tìm thấy một tổ chim sơn ca ở ngay trên mặt đất có cả trứng trong đó: thật là một đại tiệc! Nhưng kỷ niệm thực sự vui lại là một chuyện khác: đó là gây chú ý bọn chó hùa bằng cách cào mạnh vô mấy hòn đá, chờ chúng đến gần, thò mõm ra để nhát ma rồi thụt ngay vào trong hang. Ông phải nhìn thấy cảnh bọn chúng sùng sục đào đào bới bới! Nhưng bọn tôi lui quân, trong nháy mắt đã ra khỏi tầm ngắm của nanh vuốt bọn khuyển tặc. Nói tóm lại, nếu chúng tôi không cố tình rước họa vào thân thì chẳng ai gây phiền phức gì. Tuy là sống trong bóng tối nhưng bình yên vô sự.

Trần Thị NgH chuyển ngữ
(* tiểu tựa của người dịch)
bài đã đăng của Primo Levi

Đạo của vật lý - chương 12 : Không gian và thời gian



Vật lý hiện đại đã thừa nhận một trong những ý niệm cơ bản của đạo học phương Đông; đó là tất cả khái niệm của ta về tự nhiên đều hạn chế, chúng không phải là thực tại đích thực như ta thường tưởng, mà chỉ là sáng tạo của tâm; thành phần của bản đồ, không phải đất thật. Cứ mỗi lần ta mở rộng lĩnh vực của mình là mỗi lần hạn chế của óc tư duy lại hiện rõ và ta phải điều chỉnh, thậm chí từ bỏ khái niệm cũ.

Trên bản đồ chỉ về thực tại thì khái niệm của chúng ta về không gian và thời gian chiếm vị trí quan trọng nhất. Chúng giúp chúng ta nhìn sự vật và tiến trình chung quanh có thứ tự và do đó chúng hết sức quan trọng không những trong đời sống hàng ngày, mà còn nhờ nó để tìm hiểu thế giới tự nhiên thông qua triết học và khoa học. Không có định luật nào của vật lý mà không có khái niệm của không gian - thời gian. Vì thế sự điều chỉnh sâu sắc khái niệm này qua thuyết tương đối là một trong những cuộc cách mạng lớn nhất của lịch sử khoa học.

Vật lý cổ điển đặt nền tảng trên một không gian ba chiều, tuyệt đối, nó độc lập với những vật thể nằm trong nó và những định luật hình học tuân thủ hình học Euclid, và thời gian cũng là một chiều kích thước độc lập, nó trôi chảy tuyệt đối điều hòa, độc lập với thế giới của vật chất. Tại phương Tây, những khái niệm này về không gian và thời gian đã bắt rễ từ lâu trong trí não của triết gia và khoa học gia, đến nỗi chúng được xem tính chất thật sự của thiên nhiên là như thế, không thể chối cãi.

Niềm tin rằng bản chất hình học nằm ngay trong tự nhiên chứ không phải là một phần của cơ cấu do ta sử dụng để mô tả thiên nhiên, niềm tin đó xuất phát từ tư tưởng Hy Lạp. Hình học họa hình là trung tâm của nền toán học Hy Lạp và có ảnh hưởng sâu đậm lên triết lý Hy Lạp. Phương pháp của nó là xuất phát từ những định đề và từ đó rút ra những lý thuyết bằng cách suy luận từng bước, phương pháp đó là đặc trưng tư tưởng Hy Lạp; vì thế mà hình học trở thành trung tâm của mọi hoạt động tư duy và làm nền tảng cho triết học. Trên cổng vào của Viện Hàn lâm của Plato tại Athen ta thấy mang hàng chữ: “Cổng này chỉ dành cho những ai nắm vững hình học”. Người Hy Lạp tin rằng, lý thuyết toán học của họ là sự phát biểu của sự thật chính xác và ngàn đời về thế giới thực và những định luật hình học là sự biểu lộ của thiện mỹ tuyệt đối. Hình học đã trở thành sự phối hợp hoàn hảo của logic và thiện mỹ, và người ta cho rằng nguồn gốc của nó là Thượng đế. Do đó mà có câu nói của Plato: “Thượng đế là một nhà hình học”.

Vì môn hình học được xem là khải thị của Thượng đế cho nên điều hiển nhiên đối với người Hy Lạp là bầu trời phải tỏ rõ những dạng hình học toàn hảo. Điều đó có nghĩa là thiên thể phải quay trong vòng tròn. Để hình ảnh này thêm tính hình học, họ còn cho rằng chúng được gắn chặt vào một loạt những hình cầu trong như pha lê, chúng cũng quay tròn và lấy trái đất làm tâm điểm.

Trong những thế kỷ sau, nhà hình học Hy Lạp vẫn còn gây một ảnh hưởng mạnh lên nhà triết học và khoa học phương tây. Những yếu tố của Euclid, cho đến đầu thế kỷ này, vẫn là một cuốn sách chuẩn mực cho các trường phái phương Tây và hình học Euclid đã được xem là tính chất đích thực của không gian suốt hai ngàn năm nay. Nó chỉ hết là chuẩn mực, cho đến khi Einstein chứng minh rằng, hình học không hề nằm trong thiên nhiên mà là một cơ cấu do đầu óc con người nghĩ ra. Henry Margenau nói:

Nhận thức trung tâm của thuyết tương đối là hình học… chỉ là một cấu trúc của óc suy luận. Chỉ khi nào ta thừa nhận điều này thì tâm ta mới có chỗ cho khái niêm mới của không gian - thời gian, để nẵm được những khả năng định nghĩa chúng và để lựa ra cách phát biểu chúng phù hợp với quan sát.

Ngược lại với người Hy Lạp, triết gia phương Đông đã biết rằng không gian và thời gian là do óc suy luận của con người xây dựng nên. Các nhà đạo học phương Đông xem chúng như những khái niệm suy luận khác, tức là tương đối, hạn chế và có tính ảo giác. Trong một kinh sách Phật giáo ta thấy những câu:

Đức Phật dạy, hỡi các tì kheo, rằng… quá khứ, vị lai, không gian… và cá thể không gì khác hơn là danh sắc, ngôn từ sử dụng một cách bình thường, chúng chỉ là những thực tại nông cạn.

Thế nên tại Viễn Đông, môn hình học không bao giờ lên tới địa vị của thời Hy Lạp cổ, mặc dù điều này cũng không có nghĩa là người Ấn Độ và Trung Quốc không biết đến nó. Họ đã sử dụng nó để xây dựng những đền thờ với dạng hình học chính xác, đo đạc đất đai hay xác định bản đồ của trời sao, nhưng không bao giờ để dùng nó xác định về một thực tại trừu tượng và vĩnh viễn. Thái độ triết học này cũng hiện rõ ở chỗ, khoa học cổ đại của phương Đông cũng không thấy thiên nhiên phải nằm trong một cơ cấu gồm toàn đường thẳng và đường tròn. Ở đây, Joseph Needham có nêu lên một điều rất thú vị về ngành thiên văn Trung Quốc:

Các nhà thiên văn Trung Quốc không cần những dạng hình học để lý giải - những thành phần của vũ trụ sinh cơ tuân thủ đúng tính chất của chúng trong đạo và sự vận động của chúng được diễn tả chủ yếu bằng số học, phi hình tướng. Do đó mà người Trung Quốc thoát khỏi sự mê say của thiên văn phương Tây với cách nhìn cho vòng tròn là hình tượng hoàn hảo nhất…họ cũng không phải sống trong tù ngục của hình cầu pha lê thời Trung cổ.

Như thế, triết gia và khoa học cổ đại tại phương Đông đã có một cái nhìn cơ bản về thuyết tương đối, cho rằng hình học không hề là phản ánh tính chất của thiên nhiên mà chỉ là sản phẩm của tư duy.

Mã Minh nói:

Cần hiểu rõ không gian không gì hơn là một dạng đặc biệt, nó không có tự tính. Không gian chỉ có trong mối liên hệ với dạng ý thức đặc biệt của ta.

Điều này cũng đúng cho khái niệm thời gian. Nhà đạo học phương Đông xem khái niệm không gian và thời gian liên hệ với những dạng ý thức nhất định, những dạng đó có thể được vượt qua bằng phép thiền định. Những chứng thực tâm linh cho họ những khái niệm tinh tế hơn về không gian - thời gian, trong nhiều mặt chúng rất gần với khái niệm của vật lý hiện đại, thí dụ với thuyết tương đối.

Quan điểm mới về không gian và thời gian xuất phát từ thuyết tương đối, chúng gồm những gì? Chúng xuất phát từ sự phát hiện rằng, tất cả mọi đo lường về không gian và thời gian đều tương đối cả. Tính tương đối trong không gian thực ra không có gì mới. Trước Einstein, người ta đã biết rằng vị trí một vật trong không gian chỉ có thể dựa trên một vật khác đã được xác định. Thường thường vật này là một hệ thống ba trục và gốc của ba trục đó được xem là “vị trí của người quan sát”. Người ta gọi đó là trục tọa độ.

Để làm sáng tỏ tính tương đối của các trục đó, ta hãy tưởng tượng có hai người lơ lửng trong không gian, quan sát một cây dù (xem hình trang 195). Người A thấy cây dù bên trái của mình nghiêng chút ít, đầu dù hướng về mình. Người B thấy cây dù bên phải của mình, đầu dù xa hơn.

Mở rộng thí dụ này lên ba chiều ta thấy rõ những xác định không gian như trái, mặt, trên, dưới, nghiêng v.v… đều phụ thuộc vào vị trí của quan sát viên và như thế chúng chỉ là tương đối. Điều này ta đã biết từ lâu trước thuyết tương đối. Thế nhưng khi nói về thời gian trong vật lý cổ điển, tình hình hoàn toàn khác. Trật tự thời gian của hai tiến trình khác nhau được xem là độc lập với mọi quan sát viên. Khi ta nói “trước đó”, “sau đó” hay “đồng thời” thì chúng có tính tuyệt đối, chúng độc lập với một hệ thống trục qui chiếu.

Einstein đã nhận ra rằng, trật tự thời gian cũng tương đối và tùy thuộc nơi quan sát viên. Trong đời sống hàng ngày, khi ta thấy một trật tự thời gian trong những tiến trình xảy ra quanh ta, những tiến trình này đạt một vận tốc rất nhỏ so với vận tốc ánh sáng (300.000 km/giây), nên ta có cảm giác rằng chúng xảy ra thì ta nhận thấy tức khắc. Thế nhưng điều này không đúng. Ánh sáng cần một thời gian nhất định để đi từ sự việc đến quan sát viên. Thường thì thời gian đó quá nhỏ nên ánh sáng có thể xem như đến với ta tức thì. Nhưng khi quan sát viên di chuyển với vận tốc nhanh (so với hiện tượng đang được qua sát) thì khoảng thời gian từ lúc xảy ra cho đến lúc ghi nhận một biến cố bắt đầu đóng một vai trò quan trọng khi nói về thứ tự của những biến cố khác nhau. Einstein nhận ra rằng nhiều quan sát viên di chuyển với vận tốc khác nhau sẽ thấy những biến cố có thú tự thời gian khác nhau. Hai biến cố đối với quan sát viên này là đồng thời thì đối với quan sát viên khác có thể cái trước cái sau. Đối với vận tốc di chuyển bình thường thì sự khác nhau giữa chúng quá nhỏ đến nỗi không thể ghi nhận được, thế nhưng khi chúng tiến gần đến vận tốc ánh sáng, chúng gây ra những hiệu ứng có thể đo lường được. Với vật lý cao năng lượng, trong đó toàn là biến cố do sự tương tác giữa các hạt di chuyển với vận tốc gần như của ánh sáng, thì tính tương đối của thời gian đã được xác định và đã được vô số cuộc thí nghiệm thừa nhận.

Tính tương đối của thời gian cũng buộc ta phải từ bỏ khái niệm của một không gian tuyệt đối của Newton. Không gian Newton được xem là thuộc mỗi thời điểm nhất định có một trật tự vật chất nhất định, nhưng bây giờ, tính đồng thời đã trở thành một khái niệm tương đối, nó tùy thuộc vào tình hình vận động của quan sát viên, thì người ta không còn xác định được một thời điểm nhất định của vũ trụ là thời điểm nào nữa. Một biến cố ở rất xa, đối với người này là xảy ra một thời điểm nhất định, nhưng đối với người khác là trước đó hay sau đó. Vì vậy không thể nói vũ trụ tại một thời điểm nhất định. Không có một không gian tuyệt đối, độc lập với người quan sát.

Thuyết tương đối như thế đã chứng tỏ tất cả mọi đo lường về không gian và thời gian đã mất tính chất tuyệt đối và đòi ta phải từ bỏ khái niệm cổ điển về không gian và thời gian tuyệt đối. Sự quan trọng của phát hiện này được Mendel Sachs nói như sau:

Cuộc cách mạng đích thực tới với thuyết của Einstein…, đó là từ bỏ ý niệm xem hệ thống không gian - thời gian là khách quan và là một thực tại riêng biệt. Thay vào đó, thuyết này cho thấy trục của không gian- thời gian chỉ là yếu tố của một ngôn ngữ để quan sát viên mô tả môi trường của mình.

Câu nói này của một nhà vật lý đương thời cho thấy tính chất thật của khái niệm không gian - thời gian của vật lý hiện đại, và cũng là khái niệm của đạo học phương Đông khi nói, không gian - thời gian không gì khác hơn là danh sắc, ngôn từ để sử dụng chung.

Vì không gian - thời gian bây giờ đã trở thành tên gọi có tính chủ quan, mà một quan sát viên dùng để mô tả hiện tượng thiên nhiên, cho nên mỗi người sẽ mô tả hiện tượng để mình quan sát một cách khác nhau.

Nếu ta muốn xuất phát từ sự mô tả hiện tượng mà rút ra những định luật chung về tự nhiên, thì những định luật này phải được phát biểu sao cho chúng đều có dạng giống nhau trong tất cả hệ thống qui chiếu, có nghĩa là phải thích hợp cho mọi quan sát viên bất kỳ đang ở đâu, đang di chuyển với vận tốc nào. Đòi hỏi này được gọi là nguyên lý tương đối và cũng là bước khởi thủy của thuyết này. Điều thú vị này là mầm mống của thuyết tương đối nằm trong một sự mâu thuẫn mà chàng trai trẻ tuổi Einstein đã nhận thấy, lúc chàng mới lên mười sáu. Chàng cố tưởng tượng một tia sáng, hình dáng sẽ như thế nào đối với một quan sát viên di chuyển cũng với vận tốc ánh sáng bên cạnh tia đó. Chàng đi tới kết luận là quan sát viên sẽ thấy tia đó là một điện trường dao động lui tới nhưng không di chuyển, tức là không tạo sóng. Hiện tượng như thế chưa hề biết đến trong ngành vật lý. Chàng trai Einstein cảm thấy rằng, như vậy cái mà người này thấy là hiện tượng điện từ trường đã biết, tức là sóng ánh sáng, thì đối với người khác là một hiện tượng ngược lại với các định luật trong vật lý và chàng không thể chấp nhận sự mâu thuẫn đó. Trong những năm sau, Einstein nhận ra rằng nguyên lý tương đối có thể dùng để mô tả hiện tượng điện từ nếu tất cả các trị số về không gian và thời gian đều tương đối cả. Sau đó thì định luật cơ học chuyên mô tả vận động của khối lượng và định luật của điện động học về lý thuyết của điện và từ được phát biểu chung trong một cấu trúc tương đối, cấu trúc đó bao gồm ngoài ba chiều không gian thêm chiều thời gian là trục thứ tư, tương đối so với quan sát viên.

Nhằm xác định nguyên lý tương đối, tức là xem liệu các đẳng thức của lý thuyết đều có như nhau trong mọi hệ thống qui chiếu, tất nhiên người ta phải có thể chuyển đổi mọi kích thước không gian và thời gian của một hệ thống qui chiếu hay hệ cơ bản lên một hệ thống khác. Việc chuyển đổi hệ thống đã được biết đến trong vật lý cổ điển và được sử dụng thường xuyên. Sự chuyển đổi của hai hệ qui chiếu trong hình (trang 195) cho thấy hai toạ độ của người A (trục tọa độ được vẽ trong hình) là một sự phối hợp của hai tọa độ của người B và ngược lại. Những công thức này có thể dùng hình học giản đơn để tính ra được.

Trong vật lý tương đối nảy sinh một tình hình mới là thời gian được gắn thêm vào, là chiều thứ tư bên cạnh ba chiều không gian. Khi chuyển đổi từ hệ này qua hệ qui chiếu khác, như trên đã nói, tọa độ của hệ thống này là một sự phối hợp các tọa độ của hệ thống kia, do đó mà một tọa độ không gian của hệ thống sau lại là một sự hỗn hợp không gian - thời gian của hệ trước. Đây thực sự là một tình hình hoàn toàn mới. Mỗi lần đổi thay hệ qui chiếu là thời gian và không gian trộn lẫn với nhau, với sự chính xác của toán học. Hai cái này không thể tách rời ra được nữa, vì cái mà đối với quan sát viên này chỉ là không gian đơn thuần thì nó đối với quan sát viên kia là một sự trộn chung không gian - thời gian. Thuyết tương đối chỉ ra rằng, không gian không phải ba chiều nữa và thời gian không phải là một kích thước độc lập. Cả hai liên quan mật thiết với nhau, không tách rời và tạo nên một thể liên tục bốn chiều, được gọi là “không gian - thời gian”. Khái niệm “không gian - thời gian” này được Herman Minkowski giới thiệu trong bài giảng nổi tiếng năm 1908 với những câu sau đây:

Những quan điểm về không gian và thời gian mà tôi xin giới thiệu cùng quí vị, nó xuất phát từ nền tảng của vật lý thực nghiệm, đó chính là ưu thế của chúng. Những quan điểm đó thật là triệt để. Kể từ nay thì khái niệm không gian tự nó và thời gian tự nó đã mờ nhạt, không có thực chất; và sự thống nhất của hai cái đã thành một thực thể độc lập

Khái niệm về không gian và thời gian là then chốt trong việc mô tả hiện tượng tự nhiên tới mức mà, sự thay đổi của chúng dẫn theo sự thay đổi của cả cơ cấu dùng để mô tả thiên nhiên. Trong cấu trúc mới này thì không gian và thời gian được xem như bình đẳng như nhau, và chúng không được tách lìa nhau. Trong vật lý tương đối không thể nói thời gian mà bỏ qua không gian và ngược lại. Cấu trúc này luôn luôn phải được sử dụng khi có vận tốc lớn xảy ra.

Mối liên hệ mật thiết giữa không gian và thời gian thật ra cũng được biết đến trong thiên văn học, trong một quan hệ khác, trước xa thuyết tương đối. Các nhà thiên văn và thiên thể học phải làm việc với những khoảng cách cực lớn và ở đây ta đã rõ, ánh sáng phải cần thời gian để đi từ vật bị quan sát đến người quan sát. Vì ánh sáng có vận tốc giới hạn như thế mà các nhà thiên văn không bao giờ thấy vũ trụ đúng như hiện tại mà luôn luôn chỉ nhìn thấy quá khứ của nó. Ánh sáng cần tám phút để đi từ mặt trời đến trái đất và vì thế mà ta luôn luôn thấy mặt trời cách đó tám phút trước. Cũng thế ta thấy ngôi sao gần nhất nó như thế nào cách đây bốn năm và với viễn vọng kính rất mạnh, ta có thể thấy các ngân hà như thế nào cách đây hàng triệu năm.

Vận tốc có hạn của ánh sáng đối với các nhà thiên văn không hề là trở ngại mà là một thuận lợi lớn. Nó cho phép họ có thể quan sát sự hình thành của các vì sao, chùm sao và ngân hà trong mọi giai đoạn chỉ bằng cách nhìn lên không gian và nhìn lui quá khứ. Tất cả mọi loại hiện tượng đã xảy ra trong những triệu năm qua quả nhiên có thể thấy được đâu đó trong bầu trời. Vì thế nhà thiên văn biết rõ mối quan hệ giữa không gian và thời gian quan trọng như thế nào. Thuyết tương đối nói rằng mối quan hệ này phải được lưu tâm đến, không phải chỉ khi đến các khoảng cách xa, mà trong trường hợp có vận tốc lớn. Ngay trên trái đất này, sự đo lường khoảng cách cũng không thể độc lập với thời gian vì người ta phải quan tâm đến vận tốc của người quan sát, tức là phải qui về thời gian.

Như trong chương trước đã nhắc đến, sự thống nhất giữa không gian - thời gian cũng mang lại sự thống nhất nhiều khái niệm khác và khía cạnh hợp nhất này là đặc trưng lớn nhất của cấu trúc tương đối. Những khái niệm mà trong vật lý phi tương đối xem ra hoàn toàn độc lập, thì ở đây ta có thể xem chúng là những khía cạnh khác nhau của một khái niệm duy nhất. Tính cách này làm cho cấu trúc tương đối có một vẻ đẹp toán học rất trang nhã. Sau khi làm việc nhiều năm với thuyết tương đối, ta biết quý trọng sự thanh nhã này và nắm vững dạng toán học của nó. Tuy thế dạng toán học lại không giúp ta bao nhiêu về phương diện trực giác. chúng ta không thể hình dung cụ thể gì về một không-thời gian bốn chiều hay về những khái niệm tương đối khác với giác quan của ta. Khi ngiên cứu các hiện tượng tự nhiên có vận tốc cao, chúng ta sẽ thấy những khái niệm này rất khó hiểu trên bình diện trực giác lẫn ngôn ngữ bình thường.

Thí dụ trong vật lý cổ điển, người ta cho rằng các vật thể hình thanh dài lúc ở trạng thái tĩnh hay lúc vận động, chúng đều dài như nhau. Thuyết tương đối cho thấy rằng không phải như thế. Độ dài của một vật phụ thuộc nơi sự vận động của nó với người quan sát và bản thân nó cũng thay đổi với vận tốc của sự vận động đó. Vật thể ngắn lại trong chiều mà nó vận động. Một vật thể có kích thước dài nhất trong hệ qui chiếu, trong đó nó ở trạng thái tĩnh và ngắn đi với người quan sát thấy hệ đó di động. Ở những thí nghiêm của vật lý cao năng lượng, trong đó các hạt di chuyển với vận tốc hết sức cao thì sự bẹp lại do tính tương đối đã lên tới mức mà những hạt hình cầu trở thành những chiếc bánh kẹp.

Vì thế thật vô nghĩa nếu hỏi độ dài thực sự của một vật, hỏi như thế cũng vô nghĩa như hỏi độ dài thực sự của cái bóng một người. Cái bóng là hình chiếu của những điểm trong không gian ba chiều lên một mặt phẳng hai chiều và chiều dài của nó tuỳ theo góc chiếu mà ra dài ngắn. Tương tự như thế thì độ dài của một vật thể di động là hình chiếu của những điểm trong không gian bốn chiều không - thời gian lên không gian ba chiều và độ dài của nó khác nhau trong hệ qui chiếu khác nhau.

Điều có giá trị đối với độ dài thì cũng có giá trị đối với khoảng cách thời gian. Chúng cũng phụ thuộc vào hệ qui chiếu, nhưng khác với đo lường không gian, thời gian lại dài ra đối với quan sát viên di chuyển với vận tốc cao. Tức là, đồng hồ trong hệ thống đang vận động chạy chậm hơn, thời gian đi chậm hơn. Đồng hồ có thể có nhiều kiểu khác nhau: đồng hồ cơ khí, đồng hồ nguyên tử hay cả trái tim con người. Nếu một trong hai đứa trẻ sinh đôi du hành nhanh chóng trong vũ trụ thì khi trở về nó sẽ trẻ hơn đứa ở nhà, vì tất cả đồng hồ của nó - nhịp tim, tuần hoàn, sóng thần kinh v.v…đều chậm đi trong thời gian du hành, nếu lấy đứa trẻ ở nhà làm căn bản. Đứa đi du hành tất nhiên sẽ không nhận biết điều gì khác lạ cả, chỉ khi về nhà nó mới thấy người anh em mình già hơn mình nhiều. Sự nghịch lý của trẻ sinh đôi này có lẽ là cái nghịch lý nổi tiếng nhất trong nền vật lý hiện đại. Nó gây ra nhiều cuộc tranh cãi nóng bỏng trên các tạp chí khoa học mà ngày nay còn kéo dài, đó là một chứng minh cho một thực tại mà thuyết tương đối mô tả, không dễ dàng được lĩnh hội với tư duy bình thường của ta.

Việc đồng hồ đi chậm lại trong khi vận động, dù nghe qua khó tin đến mấy, cũng đã được vật lý hạt kiểm tra cặn kẽ. Phần lớn các hạt hạ nguyên tử đều bất ổn định, tức là sau một thời gian chúng tự huỷ để biến thành hạt khác. Nhiều thí nghiệm cho thấy rằng thời gian sống của những hạt bất ổn định đó tùy thuộc vào trạng thái vận động của chúng. Chúng càng vận động nhanh, thời gian sống chúng càng tăng. Những hạt vận động với vận tốc khoảng 80% vận tốc ánh sáng, chúng sống khoảng 1,7 lần lâu hơn các hạt anh em sinh đôi và với 99% vận tốc ánh sáng, chúng sống lâu hơn 7 lần. Thế nhưng diều đó không có nghĩa là thời gian sống nội tại chúng thay đổi. Xét về vị trí của từng hạt thì thời gian sống của chúng luôn luôn bằng nhau, nhưng từ thế đứng của quan sát viên trong phòng thí nghiệm thì đồng hồ nội tại của hạt đi chậm hơn, vì thế chúng sống lâu hơn.

Tất cả những hiệu ứng tương đối đó xem ra kỳ lạ, vì chúng ta không chứng thực thế giới bốn chiều không - thời gian được bằng những giác quan của ta, mà chỉ quan sát hình ảnh phản chiếu của chúng trong không gian ba chiều. Những hình ảnh này có nhiều khía cạnh khác nhau trong những hệ qui chiếu khác nhau: vật thể đang vận động khác với vật thể đang đứng yên, và những đồng hồ chạy khác nhau. Những hiệu ứng này là nghịch lý, mâu thuẫn nếu ta quên rằng chúng chỉ là những hình phản chiếu của hiện tượng bốn chiều, như những cái bóng chỉ là phản chiếu của vật thể ba chiều. Giá như ta thấy được thực tại không - thời gian bốn chiều thì chúng không còn nghịch lý, mâu thuẫn nữa.

Như trên đã nói, dường như các nhà đạo học phương Đông đã đạt được một dạng ý thức phi thường, trong đó họ chuyển hóa được thế giới ba chiều và chứng thực được một thực tại bốn chiều, cao hơn. Thế nên Sri Aurobindo mới nói về một “thay đổi tinh tế, nó cho phép thấy bộ mặt trong dạng thức của một chiều thứ tư”. Có thể các chiều của dạng ý thức này không hẳn là những chiều trong thuyết tương đối, nhưng điều nổi bật là chúng đưa các nhà đạo học đến một khái niệm về không gian và thời gian rất giống với những khái niệm của thuyết tương đối.

Các nhà đạo học phương Đông có một nhận thức trực giác về tính cách không gian - thời gian của thực tại. Có lẽ sự nhận thức được trình bày rõ rệt nhất và triệt để nhất trong Phật giáo, đặc biệt trong Hoa Nghiêm tông của Phật giáo Đại thừa. Kinh Hoa Nghiêm là kinh làm nền tảng cho tông này, cho ta một sự mô tả sinh động, trong tình trạng của giác ngộ thì ta chứng thế giới như thế nào. Đó là ý thức về một sự dung thông vô ngại của không gian và thời gian - đây là cách phát biểu toàn hảo về không gian và thời gian - được kinh nhắc tới nhiều lần và nó được xem là đặc trưng của tâm giác ngộ. D.T.Suzuki viết:

Ý nghĩa của kinh Hoa Nghiêm và tư tưởng của nó sẽ khó hiểu nếu ta chưa bao giờ chứng một tình trạng của một sự tan biến hoàn toàn, trong đó không còn có sự phân biệt thân và tâm, giữa chủ thể và khách thể… Ta nhìn quanh và nhận thấy mỗi sự vật đều liên hệ với mọi sự vật khác… không những trong không gian, mà trong thời gian. Thực tế là trong sự chứng thực thanh tịnh không có không gian phi thời gian, không có thời gian phi không gian, chúng dung thông nhau.

Nếu so sánh câu nói này của Suzuki với những lời đã dẫn của Minkowski, ta thấy ngay cả nhà vật lý lẫn nhà Phật học đều xây dựng khái niệm không gian - thời gian của họ dựa trên thực nghiệm; một bên dựa trên thí nghiệm khoa học, bên kia thì nhờ chứng thực tâm linh.

Theo tôi thấy thì nhận thức trực giác về thời gian của đạo học phương Đông là một lý do giải thích tại sao cái nhìn của họ về thế giới tự nhiên nói chung phù hợp với khoa học hiện đại hơn cái nhìn của phần lớn các triết gia Hy Lạp. Nền triết lý về tự nhiên của Hy Lạp chủ yếu là tĩnh tại và hầu như đặt nền tảng trên suy tư về hình học. Có thể nói hết sức phi tương đối và ảnh hưởng mạnh mẽ của nó trên tư duy phương Tây rõ là một trong những lý do làm chúng ta có khó khăn lớn thế nào với những mô hình tương đối của vật lý hiện đại. Các nhà triết học phương Đông, ngược lại, là những triết gia không gian - thời gian và tri kiến trực giác của họ thường rất gần với thuyết tương đối hiện đại của chúng ta.

Vì ý thức không gian - thời gian liên hệ mật thiết và dung thông với nhau, cả hai dều là những thế giới quan động, chúng lấy thời gian và sự biến dịch làm những yếu tố cơ bản. Khi học tập những mô hình tương đối của vật lý hiện đại, ta sẽ thấy chúng là những minh họa đầy sức thuyết phục của hai yếu tố của thế giới quan phương Đông; đó là tính nhất thể cơ bản của vũ trụ và tính năng động nội tại của nó.

Đến đây, chúng ta nói về thuyết tương đối đặc biệt. Nó cho ta một khung cảnh chung để mô tả hiện tượng của vật thể vận động, điện và từ. Cơ sở của nó là tính tương đối của không gian - thời gian và sự thống nhất của chúng trong một thể bốn chiều không gian - thời gian.

Khuôn khổ của thuyết tương đối tổng quát bao gồm cả trọng lực. Theo thuyết tương đối tổng quát thì trọng lực làm cong không gian - thời gian. Tưởng tượng ra được điều đó là một việc hết sức khó khăn. Chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra một bề mặt cong hai chiều, thí dụ bề mặt của một quả trứng, vì chúng ta thấy bề mặt này nằm trong không gian ba chiều. Ý nghĩa của từ cong của một mặt cong hai chiều như thế là hoàn toàn rõ, nhưng khi ta tới không gian ba chiều - chứ chưa nói gì tới không - thời gian bốn chiều - thì sức tưởng tượng bỏ rơi chúng ta. Vì chúng ta không thể nhìn không gian ba chiều từ bên ngoài nhìn vào (như trường hợp của mặt cong hai chiều), nên ta không thể tưởng tượng được nó có thể bị bẻ cong theo một chiều nào khác được.

Để hiểu ý nghĩa của không gian - thời gian cong, chúng ta phải dùng mặt cong hai chiều, lấy nó làm sự tương tự. Hãy tưởng tượng bề mặt của một quả cầu. Thực tế quyết định nhất cho ta thấy sự tương tự với không - thời gian là, độ cong là một tính chất nội tại của mặt cong đó và có thể đo lường được, chứ không cần phải đi vào một không gian ba chiều nào cả. Một con kiến xem như một sinh vật hai chiều sống trên mặt cong, tuy nó không thể nhận biết được chiều thứ ba, nhưng nó có thể phát hiện bề mặt mà nó đang sống là cong, với điều kiện là nó biết các phép đo lường hình học. Muốn biết thế ta hãy so sánh hình học mặt cong của con kiến với một mặt phẳng khác nhau ra sao.

Giả sử hai con kiến bắt đầu nghiên cứu hình học của chúng bằng cách vẽ một đường thẳng, tức là đường ngắn nhất nối hai điểm. Kết quả như sau: Ta thấy con kiến trên mặt phảng sẽ vẽ một đường thẳng, nhưng con kiến trên mặt cong thì sao? Đường nối hai điểm A và B quả thật là ngắn nhất so với mọi đường khác mà nó có thể chọn, thế nhưng từ cách nhìn của ta thì nó là một đường cong. Bây giờ ta giả định hai con kiến nghiên cứu hình tam giác . Con kiến trên mặt phẳng xác định rằng tổng số ba góc của tam giác là bằng hai góc vuông, tức là 180 0, còn con kiến trên mặt cong thấy rằng tổng số ba góc của hình tam giác luôn luôn lớn hơn 1800. Đối với những tam giác nhỏ thì phần lớn hơn đó không nhiều, nhưng tam giác càng lớn thì phần lớn hơn đó càng lớn theo; trong trường hợp cực điểm thì con kiến của chúng ta có thể vẽ một tam giác với ba góc vuông.

Cuối cùng hai con kiến vẽ vòng tròn và đo chu vi của nó. Kiến mặt phẳng sẽ thấy rằng chu vi vòng trong bằng 2p nhân với bán kính, độc lập với vòng tròn to nhỏ. Còn kiến trên mặt cong sẽ thấy chu vi vòng tròn luôn luôn nhỏ hơn 2p nhân với bán kính.

Như hình sau đây cho thấy, nhờ cách nhìn ba chiều của ta mà ta nhận ra rằng, bán kính của kiến trên mặt cầu không hề là đường thẳng, nó là một đường cong, đường cong đó luôn luôn dài hơn bán kính thật của vòng tròn.

Khi hai con kiến trực tiếp nghiên cứu hình học thì con kiến trên mặt phẳng sẽ phát hiện ra định đề Euclid và các định luật khác, nhưng con kiến trên mặt cong sẽ tới với những nhận thức khác. Sự khác biệt giữa hai nhận thức đó thì nhỏ đối với các hình nhỏ nhưng nó sẽ lớn hơn đối với các hình thể lớn. Thí dụ của hai con kiến cho ta thấy rằng, ta luôn luôn có thể phán quyết, liệu một mặt là cong hay không, cứ đơn giản dựa vào đo lường trên mặt đó rồi so sánh kết quả đo lường với kết quả của hình học Euclid. Nếu có sự khác nhau giữa hai kết quả thì mặt đó là cong, và nếu sự khác nhau càng cao độ thì cong càng lớn.

Với cách thế đó mà ta định nghĩa không gian ba chiều cong là một không gian mà trong đó hình học Euclid không còn đúng nữa. Những định luật trong không gian đó là thuộc về một loại khác, phi Euclid. Hình học phi Euclid đó được nhà toán học Bernhard Riemann giới thiệu vào thế kỷ thứ mười chín, như một ý niệm toán học hoàn toàn trừu tượng và cũng chỉ được xem như thế, cho đến ngày Einstein nêu ra giả thuyết cách mạng là, không gian ta đang sống ba chiều này quả thật là cong. Theo Einstein thì độ cong của không gian bị trường trọng lực của các vật thể mang khối lượng gây ra. Không gian xung quanh vật thể bị cong và độ cong đó, cũng là độ khác biệt với hình học Euclid, tỉ lệ với khối lượng của vật thể.

Phương trình nói lên độ cong không gian liên hệ thế nào với sự phân bố vật thể không gian được gọi là thuyết trường Einstein. Chúng không những được sử dụng để xác định mức biến thiên của độ cong tại mỗi chỗ gần các thiên thể hay hành tinh, mà với chúng, người ta có thể biết được độ cong tổng quát của không gian. Nói cách khác, những đẳng thức trường Einstein có thể dùng để xác định cấu trúc của vũ trụ. Tiếc thay chúng không cho lời giải rõ rệt. Có nhiều lời giải toán học khả dĩ cho những phương trình đó, và mỗi lời giải lại cho những mô hình khác nhau về vũ trụ. Mục đích chính của ngành vũ trụ học hiện nay là xác định lời giải nào đúng với cơ cấu vũ trụ của chúng ta.

Vì trong thuyết tương đối, không gian không bao giờ tách ly khỏi thời gian nên độ cong do trọng lực gây ra cũng không chỉ hạn chế trong không gian ba chiều, mà người ta phải mở rộng lên không gian - thời gian bốn chiều. Đó chính là điều mà thuyết tương đối tổn quát đã tiên đoán. Trong một không - thời gian cong thì sự méo mó được sinh ra không những chỉ tác động lên không gian - là những mối liên hệ có thể mô tả bằng hình học - mà còn trên độ dài của những khoảng thời gian. Thời gian trôi sẽ không với một vận tốc đều, như trong một không gian - thời gian phẳng; dòng chảy sẽ không đều, vì sự phân bố vật chất có chỗ cong nhiều cong ít. Thế nhưng chúng ta phải nói rõ là, sự biến đổi này của thời gian được thấy bởi một quan sát viên, người đó đứng khác chỗ của đồng hồ đang đo lường thời gian. Nếu thí dụ quan sát viên cũng đứng ngay chỗ đó, ngay nơi mà thời gian chạy chậm đi, thì mọi đồng hồ cũng chậm theo và người ta sẽ không có cách nào để đo hiệu ứng chậm đi đó nữa.

Trong môi trường địa cầu này thì tác động của trọng lực lên không gian thời gian qúa nhỏ nên ta có thể bỏ qua, thế nhưng trong ngành thiên văn học, khi người ta làm việc với những khối lượng lớn như hành tinh, thiên thể và ngân hà thì độ cong của không gian là một hiện tượng quan trọng. Tới nay thì tất cả mọi quan sát viên đều thừa nhận thuyết của Einstein là đúng và buộc chúng ta phải tin rằng không - thời gian quả thật là cong. Hiệu ứng cùng cực nhất của nó là sự sụp đổ trọng trường của một thiên thể đặc cứng. Theo hình dung của thiên văn học ngày nay thì mỗi thiên thể trong quá trình phát triển sẽ đạt tới một giai đoạn, trong đó nó bị co rút lại vì lực hút lẫn nhau giữa các hạt cấu tạo nên nó. Khi khoảng cách giữa các hạt nhỏ dần thì sức hút giữa chúng tăng nhanh, quá trình sụp đổ càng gia tốc, và khi thiên thể có đủ tỉ trọng rồi, tức là khoảng gấp đôi tỉ trọng của mặt trời thì không còn tiến trình nào có thể cứu vãn sự sụp đổ.

Khi thiên thể co rút lại và ngày càng đặng của không - thời gian quanh nó sẽ tăng lên. Vì sức hút quá mạnh, không có vật gì có thể rời thiên thể được, và tới mức mà ngay cả ánh sáng cũng bị hút, không chạy thoát nổi bề mặt của thiên thể. Tới mức này thì xung quanh thiên thể sinh ra một tầm chân trời biến cố, tức là không còn dấu hiệu gì của thiên thể đi ra ngoài được với thế giới còn lại. Không gian xung quanh thiên thể bị cong tới mức ánh sáng cũng bị nhốt lại, không chạy thoát được. Ta không thể thấy một thiên thể như vậy vì ánh sáng của nó không thể đến với chúng ta và do đó ta gọi nó là một lỗ đen. Sự hiện hữu của những lỗ đen đã được tiên đoán từ năm 1916 trên cơ sở thuyết tương đối. Trong thời gian gần đây, nó gây ra nhiều chú ý vì một hiện tượng của thiên thể cho thấy có sự hiện hữu của một vì sao nặng, vì sao đó quay chung quanh một đối tượng vô hình, đối tượng đó có thể là một lỗ đen.

Lỗ đen là những vật thể bí ẩn và đáng kinh ngạc nhất mà nền thiên văn hiện đại đang nghiên cứu, và chúng minh họa hiệu ứng của thuyết tương đối một cách lạ lùng nhất. Độ cong của không - thời gian quanh chúng không những ngăn trở ánh sáng đến với chúng ta mà còn gây ảnh hưởng đáng kể lên thời gian. Nếu đem một cái đồng hồ gắn trên bề mặt của một thiên thể đang co rút, tức là gắn một thiết bị gửi tín hiệu về phía chúng ta thì ta sẽ thấy rằng những tín hiệu đó chậm dần khi thiên thể càng tiến gần đến tầm chân trời biến cố; và khi nó trở thành lỗ đen thì không còn tín hiệu nào đến với ta nữa. Đối với một quan sát viên ở bên ngoài thì thời gian đi chậm dần khi thiên thể co rút và khi nó đến tầm chân trời biến cố thì thời gian ngưng hẳn lại. Do đó mà sự sụp đổ hoàn toàn một vì sao cần một thời gian vô tận. Còn bản thân thiên thể đó thì không có gì đặc biệt xảy ra cả khi nó vượt qua tầm chân trời biến cố. Thời gian sẽ trôi bình thường và sự sụp đổ sẽ hoàn tất sao một thời gian có hạn, khi thiên thể biến thành một điểm với một tỉ trọng vô cùng lớn. Thế thì sự sụp đổ thật sự kéo dài bao lâu, đó là một khoảng thời gian vô hạn hay hữu hạn? Trong thế giới của thuyết tương đối, một câu hỏi như thế là vô nghĩa. Thời gian sống của một vì sao co giãn cũng như mọi khoảng thời gian khác, nó là tương đối và tùy thuộc nơi hệ qui chiếu của quan sát viên.

Thuyết tương đối tổng quát đã từ bỏ những khái niệm cổ điển xem không gian và thời gian là tuyệt đối và độc lập. Không những mọi đo lường trong không gian và thời gian là tương đối và phụ thuộc vào tình trạng vận động của quan sát viên, mà toàn bộ cấu trúc của không - thời gian lại phụ thuộc vào sự phân bố của vật chất. Không gian mỗi nơi có độ cong khác nhau và thời gian trôi chảy tại nhiều nơi trong vũ trụ với vận tốc khác nhau. Khái niệm của chúng ta về không gian ba chiều Euclid và thời gian trôi chảy tuyến tính chỉ được giới hạn trong đời sống hàng ngày, và ta phải từ bỏ chúng khi muốn đi ra khỏi đó.

Các bậc hiền nhân phương Đông cũng đã nói đến sự mở rộng của kinh nghiệm về thế giới trong những tình trạng ý thức cao cấp và họ đoán chắc rằng những tình trạng này chứa đựng một sự chứng thực hoàn toàn khác về không gian và thời gian. Họ nhấn mạnh rằng, khi ở trong thiền định, họ không những ra khỏi một không gian ba chiều bình thường - mà còn mạnh hơn - họ còn vượt qua sự cảm nhận thời gian thông thường. Thay vì tiếp nối của những khoảng thời gian tuyến tính họ chứng một thực tại vô tận, phi thời gian mà lại năng động. Trông ba đoạn văn sau đây ta sẽ nghe ba nhà đạo học nói về chứng thực của họ về cái thực tại vô cùng: Trang Tử nhà hiền nhân Lão giáo; Huệ năng Lục tổ Thiền tông; và D.T.Suzuki, thiền sư Phật giáo của thời đại chúng ta:

Hãy quên thời gian đang trôi chảy; hãy quên mọi mâu thuẫn của tư duy. Hãy nghe cái vô cùng réo gọi và hãy đứng tại đó.

Trang Tử

Cái giây phút hiện tại này là sự tĩnh lặng vô cùng. Mặc dù nó chỉ hiện hữu trong phút giây này, nó không có biên độ và cũng trong đó mà hiện ra cái miên viễn tuyệt diệu.

Huệ Năng

Trong thế giới tâm linh này không có phân chia thời gian cũng như quá khứ, hiện tại và tương lai, vì các thứ này đã rút lại trong một cái chớp mắt của hiện tại, trong đó đời sống rung động trong ý nghĩa đích thực của nó… Quá khứ và tương lai đã cuốn tròn trong giây phút hiện tại của giác ngộ và cái chớp mắt hiện tại này không hề đứng yên với những gì nó dung chứa, mà vận động tiếp tục không ngừng nghỉ.

D.T.Suzuki

Thật hầu như không thể nói về sự chứng thực của một hiện tại phi thời gian, vì những từ phi thời gian, hiện tại, quá khứ, phút giây v.v…đều dựa trên khái niệm thông thường về thời gian mà thành. Vì thế thật vô cùng khó mà hiểu các nhà đạo học đó muốn nói gì với những câu trên. Tuy thế, ở đây nền vật lý hiện đại có thể giúp ta dễ hiểu hơn, vì người ta có thể dùng hình vẽ để biểu diễn các lý thuyết vật lý đã chuyển hóa khái niệm thời gian thông thường như thế nào.

Trong nền vật lý tương đối thì lịch sử của một vật thể, thí dụ một hạt, được biểu diễn trong biểu đồ không - thời gian. Trong biểu đồ này thì trục hoành biểu diễn không gian (ở đây chỉ có một chiều), trục tung biểu diễn thời gian. Đường đi của hạt trong không - thời gian được gọi là vạch vũ trụ. Nếu hạt nằm yên thì thật ra nó cũng đã vận động trong thời gian; trong trường hợp này thì vạch vũ trụ của nó là một đường dọc. Nếu hạt cũng vận động trong không gian thì vạch vũ trụ là một đường xéo, vạch càng xéo thì hạt vận động càng nhanh. Ta để ý rằng, trong trục thời gian, hạt chỉ hướng lên, nhưng trong trục không gian nó có thể đi tới hay đi lui. Vạch vũ trụ có thể nghiêng nhiều góc khác nhau so với trục ngang, nhưng nó không bao giờ nằm ngang thực sự, vì nếu thế thì có nghĩa hạt không cần thời gian nào mà vận động được từ nơi này qua nơi khác.

Biểu đồ không - thời gian được sử dụng trong vật lý tương đối để minh họa sự tác động lẫn nhau giữa các hạt. Ta có thể vẽ một biểu đồ cho mỗi tiến trình và khi sự xuất hiện của mỗi tiến trình đó có một xác suất thì ta có thể cho nó một phát biểu toán học nhất định. Thí dụ sự va chạm nhau giữa một electron và photon có thể được biểu diễn trong hình sau đây. Ta đọc biểu đồ này như sau (từ dưới lên trên, theo chiều thời gian): một electron (được biểu thị bằng e-) va chạm một photon (biểu thị bằng g, gamma);electron hấp thụ photon và vận động tiếp với một vận tốc khác (vạch vũ trụ có độ nghiêng khác); sau một thời gian electron nhả photon ra và quay lui.

Lý thuyết xây dựng nên khuôn khổ của biểu đồ không - thời gian và cho nó những phát biểu toán học liên hệ được gọi là thuyết trường lượng tử. Nó là một trong những thuyết thuộc phép tương đối quan trọng nhất của ngành vật lý hiện đại mà ta sẽ bàn đến sau. Để thảo luận về biểu đồ không - thời gian, chúng ta chỉ cần nắm vững hai tính chất quan trọng nhất của thuyết này. Một là, đừng quên mọi tương tác dẫn đến sự phát sinh và huỷ diệt của các hạt, như sự hấp thụ và nhả ra của photon trong biểu đồ trên; và hai là sự đối xứng căn bản giữa hạt và đối hạt. Cứ mỗi hạt lại có một đối hạt có khối lượng như nhau và điện tích ngược nhau. Thí dụ đối hạt của electron là positron và thường được biểu diễn bằng e+. Đối với photon vô điện tích thì đối hạt của nó chính là bản thân nó. Một cặp được phát sinh chớp nhoáng từ photon và trong tiến trình ngược lại chúng hợp nhau thành photon.

Nhờ áp dụng thuật sau đây mà biểu đồ không - thời gian trở nên đơn giản: mũi tên của vạch vũ trụ không còn dùng để chỉ hướng đi nữa(trước sau thì nó cũng vô ích vì tất cả các hạt đều vận động theo chiều thời gian, trong biểu đồ là chỉ lên). Thay vào đó mũi tên dùng để phân biệt hạt và đối hạt: nếu nó chỉ lên thì đó là một hạt (thí dụ một electron). Còn photon, bản thân nó cũng là đối hạt nên được biểu diễn không có mũi tên. Với sự điều chỉnh này ta có thể giữ nguyên mọi trình bày trong biểu đồ mà không gây xáo trộn gì cả: vạch với mũi tên là electron, vạch không có mũi tên là photon. Ta còn có thể đơn giản hoá biểu đồ bằng cách bỏ luôn trục không gian và thời gian, và chỉ nhớ trong đầu trục thời gian từ dưới hướng lên và trục đi tới của không gian từ trái qua phải. Như biểu đồ của quá trình va chạm electron - photon như sau:

Vậy muốn vẽ biểu đồ va chạm của positron - photon, ta chỉ cần dùng biểu đồ trên nhưng quay chiều mũi tên là được.

Tới bây giờ thì chưa xảy ra điều gì lạ lùng trong cuộc thảo luận của ta về biểu đồ không - thời gian cả. Chúng ta đọc nó từ dưới lên, đúng như qui ước của ta về dòng chảy của thời gian tuyến tính. Tuy thế, khía cạnh đặc biệt hiện ra trong biểu đồ với đường đi của positron. Dạng toán học của lý thuyết trường cho phép ta lý giải đường này bằng hai cách: một là, xem nó là positron, vận động theo chiều thời gian; hai là, xem nó là eletron và vận động ngược chiều thời gian! Hai cách diễn giải đều giống nhau về mặt toán học. Tức là sự phát biểu đó áp dụng cho một đối hạt chạy từ quá khứ đến tương lai hay một hạt chạy từ tương lai về quá khứ.

Thế nên ta có thể xem hai biểu đồ này biểu thị một tiến trình duy nhất, tiến trình đó chỉ diễn ra trong hai chiều thời gian khác nhau. Cả hai đều có thể xem là sự va chạm giữa electron và photon, nhưng trong tiến trình này thì các hạt đi theo chiều thời gian; trong tiến trình kia thì chúng đi ngược lại (đường có vạch đứt biểu thị photon, dù nó chạy cùng chiều hay ngược chiều thời gian, vì hạt hay đối hạt của photon chỉ là một). Như thế thuyết tương đối của tương tác giữa các hạt cho thấy một sự đối xứng hoàn toàn, trên trục của thời gian. Tất cả mọi biểu đồ không - thời gian đều có thể được đọc hai chiều như vậy. Điều đó có nghĩa là mỗi một tiến trình đều có một tiến trình ngược lại trong thời gian, trong đó ta thay thế các hạt bằng những đối hạt của chúng.

Để biết tính chất bất ngờ này của thế giới hạ nguyên tử ảnh hưởng lên quan điểm không gian - thời gian của ta như thế nào, hãy xem tiến trình sau đây trong biểu đồ sau:

Chúng ta hãy đọc biểu đồ theo cách qui ước từ dưới lên trên, ta sẽ thấy như sau: một electron (được biểu diễn bằng vạch liền) và một photon (vạch đứt) tiến gần với nhau; tại A photon phân hủy thành một cặp electron - positron, electron vận động về phía phải, positron về phía trái; positron va chạm với electron đầu tiên tại B, chúng tiêu hủy lẫn nhau và tạo thành photon, chuyển về phía trái.

Mặt khác ta có thể quan niệm biểu đồ này như sự tác động giữa hai photon và một electron, trong đó electron mới đầu di chuyển theo chiều thời gian, sau đó đi ngược thời gian, rồi lại vận động theo chiều thời gian. Muốn quan niệm như thế ta hãy theo chiều mũi tên của electron mà nhìn. Trước hết electron vận động đến B, nơi đó nó nhả một photon (biến thành đối hạt), đổi chiều thời gian đi lui về điểm A; tại A nó hấp thụ photon đầu tiên, lại đổi chiều và vận động theo thời gian. Trong mức độ nào đó thì cách lý giải thứ hai dễ hơn cách thứ nhất vì ta chỉ việc đi theo vạch vũ trụ của một hạt. Thế nhưng ta thấy ngay mình gặp khó khăn về ngôn ngữ. Electron mới đầu đến B trước, sau đó lui về A, mà như thế thì sự hấp thụ photon tại A xảy ra trước khi nhả photon ở B.

Người ta có thể né tránh sự khó khăn này bằng cách xem biểu đồ không - thời gian như trên không phải là sự ghi nhận đường đi của hạt trong quá trình thời gian, mà chỉ là cấu trúc bốn chiều trong không - thời gian, cấu trúc đó diễn tả một mạng lưới toàn những biến cố liên hệ với nhau, mạng lưới đó không có chiều nào là dứt khoát của thời gian cả. Vì tất cả các hạt đều có thể vận động cùng chiều thời gian hay ngược chiều thời gian, cũng như trong không gian có trái có phải, cho nên vô nghĩa khi chỉ có một chiều của thời gian trong biểu đồ. Nó chỉ là một tấm bản đồ bốn chiều, đặt trong không - thời gian, trong đó ta không thể nói về một thứ tự thời gian. Louis de Broglie nói :

Trong không - thời gian , tất cả những gì mà mỗi người chúng ta gọi là quá khứ, hiện tại, tương lai, chúng hiện hữu một lúc (enbloc). Có thể nói mỗi quan sát viên, khi thời gian của họ trôi qua thì họ phát hiện ra những mặt cắt với cái không - thời gian đó, những mặt cắt đó hiện ra với họ như những khía cạnh khác nhau của thế giới vật chất, cả trước cả sau, mặc dù trong thực tại thì tổng thể của những biến cố đã hiện hữu trước khi họ biết tới, xây dựng nên tổng thể không - thời gian.

Đây là toàn bộ ý nghĩa của không gian - thời gian trong vật lý tương đối. Không gian - thời gian là hoàn toàn bình đẳng. Chúng được thống nhất trong một thể liên tục bốn chiều, trong đó sự tương tác giữa các hạt có thể diễn ra trong mọi hướng. Muốn tưởng tượng cụ thể sự tương tác này, ta phải thu một tấm hình bốn chiều, tấm hình đó bao trọn cả toàn bộ thời gian lẫn toàn bộ không gian. Muốn có một cảm giác về thế giới tương đối của các hạt, chúng ta phải “quên thời gian đang trôi”, nói như Trang Tử và do đó mà biểu đồ không - thời gian của đạo học phương Đông? Nghĩa của sự tương đồng đó được Lama Govinda nói như sau về phép thiền định Phật giáo:

Và khi nói tới cảm giác về không gian trong thiền định thì ở đây ta có một kích thước hoàn toàn khác về không gian. Trong sự chứng thực về không gian này, cái trước cái sau trở thành những cái đồng thời, những cái cạnh nhau trong không gian. Rồi cái đó cũng không tĩnh tại mà thành một thể liên tục sinh động, trong đó bao gồm cả không gian và thời gian…

Mặc dù các nhà vật lý sử dụng ngôn ngữ toán học hình thức và các biểu đồ để diễn tả sự tương tác cùng một lúc trong không - thời gian bốn chiều, họ giải thích thêm rằng trong thế giới thực sự một quan sát viên chỉ nhận biết những hiện tượng đó trong từng lớp giai đoạn của không - thời gian, tức là có thứ tự thời gian. Ngược lại các nhà đạo học quả quyết họ thực sự có thể chứng thực qui mô toàn thể của không - thời gian, trong đó thời gian không còn trôi chảy. Thiền sư Đạo Nguyên nói:

Phần lớn đều nói rằng thời gian trôi qua. Thực tế thì nó đứng một chỗ. Hình dung về một sự trôi chảy, người ta có thể gọi nó là thời gian, nhưng đó là một hình dung sai lầm, vì ta chỉ thấy thời gian trôi chảy, ta không thể nhận rằng nó đang đứng tại chỗ.

Nhiều bậc đạo sư phương Đông nhấn mạnh rằng, tư duy phải sinh ra trong thời gian, nhưng linh ảnh có thể vượt thời gian. Govinda nói: “Linh ảnh nằm trong một không gian nhiều chiều hơn và vì thế nó phi thời gian”. Không - thời gian của vật lý tương đối cúng là một không gian phi thời gian, có chiều cao hơn, trong đó mọi biến cố đều liên hệ với nhau, nhưng mối liên hệ không có tính nhân quả. Sự tương tác các hạt chỉ có thể lý giải trong khái niệm nguyên nhân- kết quả khi biểu đồ không - thời gian được đọc trong một hướng nhất

định, thí dụ từ dưới lên trên. Một khi chúng được quan niệm trong một cấu trúc bốn chiều, không có một hướng thời gian nhất định, thì không có cái trước, cái sau và vì thể không có nguyên nhân và hậu quả.

Các nhà đạo học phương Đông cũng quả quyết tương tự như thế, rằng khi họ vượt qua thời gian thì họ cũng vượt lên nhân quả. Cũng như khái niệm cổ điển của ta về không - thời gian, thì hình dung về nhân quả cũng bị giới hạn với một kinh nghiệm nhất định về thế giới và nó phải bị từ bỏ khi kinh nghệm này được mở rộng. Swami Vivekanada nói:

Thời gian, không gian và mối liên hệ nhân quả giống như tấm kính ta nhìn xuyên qua nó để thấy cái tuyệt đối… Trong tuyệt đối thì không có thời gian, lẫn không gian, lẫn liên hệ nhân quả.

Chúng đưa ta vượt lên kih nghiệm về thời gian và giải thoát ra khỏi những mắt xích của nhân quả - thoát khỏi sự trói buộc của nghiệp, nói như Ấn Độ giáo và Phật giáo. Nền đạo học phương Đông do đó là một sự giải thoát khỏi thời gian và trong chừng mực nhất định, điều đó cũng có giá trị cho nền vật lý tương đối.

Những con rối “Dân chủ” !



Tác Giả: Amari TX – VHN.NET



Một số phần tử cơ hội, bất mãn cá nhân, thành phần “trở cờ” trong đó có cả những người nhẹ dạ ở trong nước và tổ chức cực đoan nước ngoài đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá Đảng, Nhà nước CHXHCNVN. Chiêu bài đó được một số tổ chức không có thiện chí với Việt Nam, các cơ quan truyền thông việt ngữ ở nước ngoài bơm, thổi phụ họa. Đây là việc làm sai trái cần đấu tranh, phê phán và vạch mặt kịp thời để mọi người thấy được bộ mặt thật của họ, nhằm góp phần bảo vệ sự ổn định của Đất nước xây dựng Tổ quốc dân chủ và phồn vinh. Một số người đã có những bài viết, phát biểu, trả lời phỏng vấn trên các phương tiện truyền thông việt ngữ ở nước ngoài có nội dung xuyên tạc, kích động, thóa mạ những thành tựu mà toàn thể dân tộc Việt Nam đã đạt được kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành. Vậy họ là ai? Đó là mộtsố người có quan điểm chính trị cơ hội một cách rõ ràng, có hiểu biết, có một thời gian nắm một số vị trí trong hệ thống chính trị, họ có tham vọng chính trị lớn, trong đó có cả những người có chức sắc tôn giáo, một số người bất mãn, một số người có nhận thức mơ hồ, không phân biệt được phải trái, đúng sai, bị kích động, lôi kéo, ngày càng lún sâu vào con đường sai trái. Họ đã cấu kết với nhau phát tán trên các mạng truyền thông việt ngữ ở nước ngoài như VOA- RFA-RFI- BBC, tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, vu cáo, bôi đen chế độ ở Việt Nam. Ngày 1/5/2014, tại trụ sở đài RFA ở thủ đô Washington diễn ra cái gọi là hội thảo mang tên “Hướng đến một nền tự do thông tin tại Việt Nam” có sự tham dự của các bloggers và”nhà báo tự do”!? đến từ Việt Nam. Vậy những người này đã phát biểu những gì cho cái chủ đề mà RFA đưa ra? tìm hiểu thì mọi người có một chút kiến thức sẽ không thể buồn cười cho những phát biểu ngô nghê của các vị “Dân chủ” này. Một vị là nghệ sĩ thì phán đại một câu khi được RFA “Mớn mồi” rằng: “Tôi thì đơn giản tôi thấy bất công ở Việt nam nó nhiều quá…!!! nhân quyền bị vi phạm tất cả mọi thứ khiến tôi bức xúc. Tôi bức xúc thì tôi thấy mình phải lên tiếng phản đối, bởi vì mình là người nghệ sĩ, người của công chúng…”!? còn vị Blogger trẻ tuổi Nguyễn Đình Hà thì xổ liền một câu:”Nghị định 72 được chính phủ Việt Nam đưa ra hồi năm ngoái nhằm kiểm soát thông tin internet, đồng thời yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet cung cấp thông tin về các nhà hoạt động nhân quyền trên Internet. Các bloggers đã thực hiện những hành độngbất tuân dân sự chống lại nghị định 72 và các công ty như Google cũng có vẻ không hợp tác”!? Vị “Nhà báo độc lập” Ngô Nhật Đăng vu cáo một cách ngang ngược rằng: “hệ thống chính trị Việt Nam dựa trên sự dối trá nên những nhà cầm quyền rất sợ sự thực…”!? . Sơ qua những phát biểu của các nhà “Dân chủ” được mời dự “Hội thảo” chúng ta có thể thấy rằng đó là những phát biểu cực đoan, ngang ngược, họ đã biến mình thành công cụ, những con rối trong ý đồ công kích nhà nước Việt Nam của RFA mà từ lâu nay họ luôn tỏ thái độ thù địch.

Việc ban hành Nghị định 72 cũng phù hợp bối cảnh chung của các quốc gia trên thế giới. Qua nghiên cứu, chúng ta nhận thấy, hầu hết các quốc gia không phân biệt thể chế chính trị, trình độ kinh tế, đều có các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Tại Mỹ, Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) vừa cho thành lập một lực lượng mới có nhiệm vụ phát triển các công nghệ có khả năng kiểm soát thông tin trên Internet, cũng như các liên lạc bằng điện thoại di động. Chúng ta đều biết kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 72 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, nhiều kẻ lấy cớ này vu cáo Việt Nam “vi phạm nhân quyền”, kiểm soát Internet, hạn chế tự do báo chí, ngôn luận, đã có một thời gian họ tập hợp những chữ ký ảo nhằm tạo dư luận, gây áp lực để các tổ chức quốc tế can thiệp. Nhưng vì không hiểu biết hoặc cố tình nên đã xuyên tạc về nghị định này. Thực tế, Nghị định 72 là sự kế thừa, phát triển những nghị định trước đây về quản lý, sử dụng Internet tại Việt Nam. Ngay từ năm 2001, đã có Nghị định 55 về quản lý Internet. Đến năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 97 và hiện nay là Nghị định 72. Ngay tại Điều 1, Nghị định ghi rõ phạm vi điều chỉnh: “Nghị định này quy định chi tiết việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet, thông tin trên mạng, trò chơi điện tử trên mạng; bảo đảm an toàn thông tin và an ninh thông tin; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet, thông tin trên mạng, trò chơi điện tử trên mạng, bảo đảm an toàn thông tin và an ninh thông tin” Như vậy, việc ban hành Nghị định 72 mục đích không phải nhằm cấm đoán, hạn chế tự do Internet như họ đã kêu gào mà là để phát triển, phục vụ hữu ích quốc gia, tập thể và cá nhân và để các lợi ích đó được đảm bảo phải gắn với các điều kiện nhất định, một số hành vi bị cấm (quy định tại Điều 5). Thực hiện được điều này cũng là nhằm bảo đảm và phát huy các quyền con người được quy định trong Hiến pháp và phù hợp luật pháp quốc tế. Nhìn vào các bài viết của họ phát tán trên Internet ta có thể thấy rằng ,nói chung, mục tiêu chủ yếu của họ vẫn là những hoạt động nhằm phủ định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tấn công trực diện vào Cương lĩnh, đường lối đổi mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng CSVN đang lãnh đạo toàn diện. Họ tìm mọi cách bóp méo, suy diễn, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam bất chấp lẽ phải,cường điệu hóa một vài vụ việc liên quan đến pháp luật từ đó họ hồ đồ kết luận là: đó là “Bản chất” của chế độ. Không những thế họ còn mạnh miệng bôi nhọ quá khứ cách mạng một cách vô liêm xỉ, chà đạp lên giá trị truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc làm tổn thương đến tình cảm thiêng liêng mà chính phủ và nhân dân Việt Nam dành cho các anh hùng liệt sĩ đã vì nước hy sinh vì nền độc lập tự do của dân tộc. Họ đưa ra những câu hỏi lấp lửng như “có cần thiết hay không khi Đảng phát động toàn dân trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ”? hay “Nếu không có Đảng CSVN thì dân tộc này đã ở một vị thế khác…” !?..v v… xuyên tạc lịch sử, hòng chia rẽ Đảng với Nhà nước; cô lập, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, kích động một số thành phần mà họ cho là “Nhạy cảm” dễ thâm nhập nhất đó là: trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên, học sinh, kích động một số người từng tham gia hoạt động cách mạng trước đây có tâm trạng bất mãn vì trước khi còn đang làm việc đã có một số vấn đề mà không được “Thỏa mãn” cái “tôi” của họ nay đã hạ cánh thì “Trở cờ” hòng thực hiện ý đồ “trong biến thì phất cờ”. Họ nhắm vào điểm cốt yếu đó là: chia rẽ tôn giáo, dân tộc, chia rẽ các vùng, miền trên đất nước với âm mưu thâm hiểm hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hướng tới mục đích cuối cùng là làm suy yếu Đảng,tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, thực hiện đa nguyên, đa đảng, lập các đảng phái nhằm đưa đất nước đi theo con đường khác mà theo lý luận của họ là sẽ “Dân chủ hơn, sáng sủa hơn” !? Gần đây nhất, họ tìm mọi cách phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân, dân tộc ta qua gần 30 năm đổi mới, xuyên tạc, bóp méo, bôi đen bức tranh xã hội, hòng gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin trong nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Họ đặt ra những điều kỳ quặc như: “Có bao giờ nhân dân Việt Nam lại sống trong cảnh tủi nhục, đau thương như hiện nay không?”. “Có bao giờ dân tộc Việt Nam lại bị chia rẽ, nghi kỵ nhau, hận thù nhau sau những năm tháng cai trị của một chế độ như bây giờ không”? Từ đó, họ đưa ra những điều xuyên tạc, vu cáo trắng trợn: “Hơn nửa thế kỷ áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên đất nước ta, Đảng Cộng sản đã thực hiện chính sách cai trị bằng thủ đoạn và bạo lực. Nhân dân chỉ được phép cúi đầu sợ hãi và sống trong mòn mỏi, tuyệt vọng”. Họ nhắm mắt nói bừa rằng, tất cả những quyền thiêng liêng của dân tộc được nói trong “Tuyên ngôn độc lập” “đều bị chà đạp thô bạo ngay sau đó, khi mà chính quyền cộng sản được dựng lên!” Họ đã lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để nhen nhóm tổ chức ra những đảng phái; thảo ra những “điều lệ”, “tuyên ngôn”, “cương lĩnh” và đề ra những hình thức, phương pháp hoạt động, hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chống phá Nhà nước, chế độ, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đó chính là bộ mặt thật của cái gọi là “những tổ chức đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam” và đó cũng chính là những hành động vi phạm pháp luật.

Việc xét xử nghiêm minh những người vi phạm pháp luật là việc làm bình thường, theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế. Một số thế lực ở nước ngoài tìm cách tiếp tay, kích động những phần tử chống phá Nhà nước và chế độ. Khi các phần tử này bị xử lý theo pháp luật thì họ kêu la, hò hét rằng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, vi phạm tự do tín ngưỡng, đàn áp tôn giáo, đàn áp những người bất đồng chính kiến. Đó là sự xuyên tạc thô bạo, đổi trắng thay đen nhằm che giấu những âm mưu đen tối của họ. Để đạt mục tiêu đó, họ thực hiện sự kết hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nước, nhưng hướng chính là khơi dậy từ bên trong, tiến tới xây dựng lực lượng chống đối từ trong nước, tạo dựng “Ngọn cờ”, nhân vật “Nòng cốt”, chờ thời cơ để thành lập các tổ chức đối lập với Đảng Cộng sản. Phụ họa theo các nhà “Dân chủ, nhân quyền” có các tổ chức gọi là “Theo dõi nhân quyền” thường sản xuất ra những cái gọi là: “Nghị quyết”, “Báo cáo” về tình hình tự do, nhân quyền trên thế giới trong đó có Việt Nam, họ đòi áp đặt cho Việt Nam những khái niệm về “Tự do, dân chủ” theo kiểu của họ, bất chấp tính đặc thù của quốc gia đó. Mỗi dịp như vậy các nhà “Dân chủ” trong nước được dịp thể hiện cái gọi là “Bức xúc” trước “Thảm trạng” về tự do,dân chủ, nhân quyền trong nước. Một loạt các đối tượng đưa ra xét xử, những người vi phạm đó chỉ vì một chút định kiến, động cơ cá nhân không trong sáng đưa ra những thông tin méo mó, bôi đen sự thật về xã hội Việt Nam, họ liên hệ với những tổ chức, phần tử người việt chống cộng cực đoan ở hải ngoại chống đối nhà nước Việt Nam, đòi lật đổ chế độ hiện hành. Nhiều vị luật sư bào chữa cho các bị cáo nói rằng: Những người nàykhông phạm luật vì họ đã sử dung quyền tự do ngôn luận của mình !? vậy có phải đây là một lập luận đúng? Xin thưa rằng: đó là điều hoàn toàn sai lầm, thực ra ở đây họ đánh tráo khái niệm này. Vấn đề là ở chỗ, trong luật quốc gia và luật quốc tế thì quyền tự do ngôn luận (Và nhiều quyền khác) không phải là quyền “tuyệt đối” như các vị biện minh, ngụy biện cho hành vi phạm pháp của mình mà là những quyền có giới hạn, nói một cách khác là quyền bị hạn chế. Trong công ước Quốc tế về quyền con người, tại khoản 3 điều 19 quy định: “Việc thực hiện những quy định tại mục 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định. Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”. Như vậy là việc các bị cáo dựa vào luật quốc tế về quyền con người để biện hộ cho mình là sai, họ đã phớt lờ về khoản 3 điều 19 liên quan đến tội lợi dụng quyền tự do ngôn luận của các bị cáo thì điều 88 bộ luật hình sự 1999 quy định: “Tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN. Việc các bị cáo và luật sư bào chữa cho rằng không có bằng chứng về hậu quả của hành vị phạm tội của các bị cáo là không có cơ sở pháp lý. Tội “tuyên truyền” vốn là tội phạm mang tính chất “bất bạo động” theo cách nói của mấy nhà “luật học mạng”, blogger. Các vị đòi hỏi phải có bằng chứng về hậu quả của những tội phạm này gây ra ư? chẳng lẽ nhà nước Việt Nam phải ngồi chờ đến khi nào luồng gió sặc “Mùi hoa” như việc đã xảy ra ở Trung đông, bắc phi, Ucraina… thì mới có cái gọi là “bằng chứng” như các vị yêu cầu? Xin thưa hậu quả việc phạm tội của các bị cáo đó là: bạo loạn, lật đổ chính quyền, nội chiến, là sự can thiệp của nước ngoài.vv… Trên thế giới không có một quốc gia nào quy định chứng cứ về hậu quả xã hội của loại tội phạm này. Ngay tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia phương Tây đòi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông chủ mạng WikiLeaks cũng chỉ cho rằng với những thông tin của mạng này “có thể” gây nguy hiểm cho quân đội Hoa Kỳ. Như vậy là với chứng cứ mà các bị cáo khai nhận tại tòa “Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài lieu có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã đủ cấu thành tội phạm và chiếu theo luật hiệnhành, thì mức án mà các bị cáo này phải nhận là đúng người, đúng tội, điều này không thể chối cãi được. Xã hội chính trị lành mạnh luôn hướng dẫn, khích lệ, cổ vũ những động lực đúng đắn của mỗi cá nhân, khi cá nhân đó hành động với động cơ phù hợp với ợi ích chung của cộng đồng thìkhi ấy xung đột xã hội sẽ giảm thiểu, tạo ra sự hài hòa, đồng thuận cùng tồn tại và phát triển, ngược lại những cá nhân đi ngược lại dòng phát triển chung sẽ bắt buộc xá định lại nhu cầu của mình nếu không sẽ bị đào thải và bị pháp luật trừng phạt, quyền tự do bị tước đoạt.

Thực tế cho chúng ta thấy rằng: không tránh khỏi có những ý kiến khác nhau trong các tầng lớp trong xã hội và khác với quan điểm, đường lối của Đảng. Đó cũng là lẽ bình thường không có điều gì “Ghê gớm” vì như chúng ta đã biết nhận thức là một quá trình, chân lý cũng là một quá trình. Do nhiều yếu tố tác động nên không tránh khỏi có những ý kiến, cách tiếp cận khác với đường lối, quan điểm của Đảng. Nhưng phải là những ý kiến đóng góp chân thành chứ không phải là quan điểm chống lạị. Và một thực tế không thể phủ nhận được đó là: Từ một nước thuộc địa, dân bị nô lệ, chúng ta đã giành được cái nhân quyền lớn nhất là quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Từ một nước nghèo, lạc hậu, chúng ta đã phấn đấu xóa đói, giảm nghèo, nâng trình độ phát triển kinh tế lên ngày một khá hơn. Từ một nước có mặt bằng dân trí thấp, Việt Nam đã là một quốc gia có trình độ văn hóa phổ thông cao hơn mức trung bình của thế giới và là quốc gia đạt chỉ số phát triển con người (HDI) vào hàng cao so với nhiều quốc gia khác. Đời sống nhân dân trong nước được cải thiện rõ rệt, quốc phòng, an ninh được giữ vững, xã hội ổn định, vị thế Việt Nam không ngừng được nâng cao, là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước trong đó có cả cường quốc trước đây là “Cựu thù”. Rõ ràng, sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển đi lên với triển vọng tốt đẹp. Mới đây thôi nhận lời mời của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Đoàn nghị sỹ Quốc hội Mỹ do Chủ tịch Thường trực Thượng viện Patrick Leahy dẫn đầu thăm chính thức Việt Nam từ ngày 16 đến 20/4/2014. Báo chí trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm đến chuyến thăm này, xem đây là chuyến thăm nhằm củng cố và phát triển quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước được ký kết bởi Nguyên thủ: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama vào tháng 7 năm 2013. Việt Nam giờ đây là địa chỉ tin cậy cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài, báo chí quốc tế đã phản ánh nhiều điều “mắtthấy tai nghe” của du khách quốc tế viếng thăm đất nước sôi động và trẻ trung sau khi tới Việt Nam hòa mình vào cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân ở nhiều góc cạnh. Việt Nam ngày nay chứng tỏ là một quốc gia thiên đường cho du khách quốc tế. Sẽ là hết sức sai lầm nếu ai còn tin vào những điều ma muội của những kẻ luôn gắn hình ảnh Việt Nam với chiến tranh và sự nghèo đói, mất tự do, dân chủ và bị “kềm kẹp” dưới chế độ “Cai trị của Đảng CS”. Ngược lại, có đến mới biết Việt Nam xinh đẹp và thân thiện và người dân luôn được pháp luật bảo hộ quyền công dân một cách đầy đủ và mang tính nhân văn nhất. Chuyến thăm Việt Nam của ngoại trưởng Mỹ Ông John Kerry ngày 14-12-2013 đã nói lên điều kỳ diệu này “Không ai không ngạc nhiên khi thấy VN hiện đại đã thay đổi thế nào chỉ trong 20 năm. Thật đáng kinh ngạc” – ông nói và nhấn mạnh “đây không phải ngẫu nhiên, mà có sự cam kết và tầm nhìn của rất nhiều người” Ông dẫn chứng: “Kim ngạch thương mại song phương của chúng ta đã tăng 50 lần kể từ năm 1995 lên 25 tỉ USD/năm. Chúng ta sắp đạt mục tiêu tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ sang VN như tuyên bố của Tổng thống Obama năm năm trước”. Đất nước từng bị cô lập vì cấm vận cách đây hơn 20 năm giờ “có thể là một trong những đối tác kinh tế hàng đầu của Mỹ tại khu vực và chúng ta sẽ cố để thực hiện điều đó”. Còn ông Fred Burke, giám đốc điều hành của Hãng luật Baker McKenzie và là người từng ở VN gần 20 năm, thừa nhận những gì ngoại trưởng Mỹ nói. “Những gì ông nói hoàn toàn đúng những gì tôi đã trải qua. Giờ rất nhiều thứ chúng ta xem nhẹ khi nghĩ lại VN đã thay đổi thế nào, từ điện thoại di động cho đến chất lượng cuộc sống” – ông Burke nói. Theo ông, VN giờ đây là “một cơ hội” cho người Mỹ khi rất nhiều người trẻ muốn sang VN để làm các lĩnh vực như công nghệ thông tin hay kinh doanh. Những ai vẫn tồn tại quan điểm bôi nhọ, xuyên tạc, vu khống hãy suy nghĩ lạị, chỉ một dẫn chứng nhỏ về việc này đó là: hằng năm số lượng người Việt Nam sống xa Tổ quốc về thăm đất nước luôn luôn tăng, số lượng người nước ngoài đến Việt Nam tham quan, du lịch và ký kết hợp tác làm ăn cũng ngày càng nhiều, không ít người đến hẳn Việt Nam sinh sống và làm việc. Điều đó chứng tỏ những gì mà các nhà “Dân chủ” kêu gào chỉ là điều nực cười mà thôi./.

Hoa Kỳ 3-5-2014