Thứ Hai, 5 tháng 5, 2014

Đạo của vật lý - chương 12 : Không gian và thời gian



Vật lý hiện đại đã thừa nhận một trong những ý niệm cơ bản của đạo học phương Đông; đó là tất cả khái niệm của ta về tự nhiên đều hạn chế, chúng không phải là thực tại đích thực như ta thường tưởng, mà chỉ là sáng tạo của tâm; thành phần của bản đồ, không phải đất thật. Cứ mỗi lần ta mở rộng lĩnh vực của mình là mỗi lần hạn chế của óc tư duy lại hiện rõ và ta phải điều chỉnh, thậm chí từ bỏ khái niệm cũ.

Trên bản đồ chỉ về thực tại thì khái niệm của chúng ta về không gian và thời gian chiếm vị trí quan trọng nhất. Chúng giúp chúng ta nhìn sự vật và tiến trình chung quanh có thứ tự và do đó chúng hết sức quan trọng không những trong đời sống hàng ngày, mà còn nhờ nó để tìm hiểu thế giới tự nhiên thông qua triết học và khoa học. Không có định luật nào của vật lý mà không có khái niệm của không gian - thời gian. Vì thế sự điều chỉnh sâu sắc khái niệm này qua thuyết tương đối là một trong những cuộc cách mạng lớn nhất của lịch sử khoa học.

Vật lý cổ điển đặt nền tảng trên một không gian ba chiều, tuyệt đối, nó độc lập với những vật thể nằm trong nó và những định luật hình học tuân thủ hình học Euclid, và thời gian cũng là một chiều kích thước độc lập, nó trôi chảy tuyệt đối điều hòa, độc lập với thế giới của vật chất. Tại phương Tây, những khái niệm này về không gian và thời gian đã bắt rễ từ lâu trong trí não của triết gia và khoa học gia, đến nỗi chúng được xem tính chất thật sự của thiên nhiên là như thế, không thể chối cãi.

Niềm tin rằng bản chất hình học nằm ngay trong tự nhiên chứ không phải là một phần của cơ cấu do ta sử dụng để mô tả thiên nhiên, niềm tin đó xuất phát từ tư tưởng Hy Lạp. Hình học họa hình là trung tâm của nền toán học Hy Lạp và có ảnh hưởng sâu đậm lên triết lý Hy Lạp. Phương pháp của nó là xuất phát từ những định đề và từ đó rút ra những lý thuyết bằng cách suy luận từng bước, phương pháp đó là đặc trưng tư tưởng Hy Lạp; vì thế mà hình học trở thành trung tâm của mọi hoạt động tư duy và làm nền tảng cho triết học. Trên cổng vào của Viện Hàn lâm của Plato tại Athen ta thấy mang hàng chữ: “Cổng này chỉ dành cho những ai nắm vững hình học”. Người Hy Lạp tin rằng, lý thuyết toán học của họ là sự phát biểu của sự thật chính xác và ngàn đời về thế giới thực và những định luật hình học là sự biểu lộ của thiện mỹ tuyệt đối. Hình học đã trở thành sự phối hợp hoàn hảo của logic và thiện mỹ, và người ta cho rằng nguồn gốc của nó là Thượng đế. Do đó mà có câu nói của Plato: “Thượng đế là một nhà hình học”.

Vì môn hình học được xem là khải thị của Thượng đế cho nên điều hiển nhiên đối với người Hy Lạp là bầu trời phải tỏ rõ những dạng hình học toàn hảo. Điều đó có nghĩa là thiên thể phải quay trong vòng tròn. Để hình ảnh này thêm tính hình học, họ còn cho rằng chúng được gắn chặt vào một loạt những hình cầu trong như pha lê, chúng cũng quay tròn và lấy trái đất làm tâm điểm.

Trong những thế kỷ sau, nhà hình học Hy Lạp vẫn còn gây một ảnh hưởng mạnh lên nhà triết học và khoa học phương tây. Những yếu tố của Euclid, cho đến đầu thế kỷ này, vẫn là một cuốn sách chuẩn mực cho các trường phái phương Tây và hình học Euclid đã được xem là tính chất đích thực của không gian suốt hai ngàn năm nay. Nó chỉ hết là chuẩn mực, cho đến khi Einstein chứng minh rằng, hình học không hề nằm trong thiên nhiên mà là một cơ cấu do đầu óc con người nghĩ ra. Henry Margenau nói:

Nhận thức trung tâm của thuyết tương đối là hình học… chỉ là một cấu trúc của óc suy luận. Chỉ khi nào ta thừa nhận điều này thì tâm ta mới có chỗ cho khái niêm mới của không gian - thời gian, để nẵm được những khả năng định nghĩa chúng và để lựa ra cách phát biểu chúng phù hợp với quan sát.

Ngược lại với người Hy Lạp, triết gia phương Đông đã biết rằng không gian và thời gian là do óc suy luận của con người xây dựng nên. Các nhà đạo học phương Đông xem chúng như những khái niệm suy luận khác, tức là tương đối, hạn chế và có tính ảo giác. Trong một kinh sách Phật giáo ta thấy những câu:

Đức Phật dạy, hỡi các tì kheo, rằng… quá khứ, vị lai, không gian… và cá thể không gì khác hơn là danh sắc, ngôn từ sử dụng một cách bình thường, chúng chỉ là những thực tại nông cạn.

Thế nên tại Viễn Đông, môn hình học không bao giờ lên tới địa vị của thời Hy Lạp cổ, mặc dù điều này cũng không có nghĩa là người Ấn Độ và Trung Quốc không biết đến nó. Họ đã sử dụng nó để xây dựng những đền thờ với dạng hình học chính xác, đo đạc đất đai hay xác định bản đồ của trời sao, nhưng không bao giờ để dùng nó xác định về một thực tại trừu tượng và vĩnh viễn. Thái độ triết học này cũng hiện rõ ở chỗ, khoa học cổ đại của phương Đông cũng không thấy thiên nhiên phải nằm trong một cơ cấu gồm toàn đường thẳng và đường tròn. Ở đây, Joseph Needham có nêu lên một điều rất thú vị về ngành thiên văn Trung Quốc:

Các nhà thiên văn Trung Quốc không cần những dạng hình học để lý giải - những thành phần của vũ trụ sinh cơ tuân thủ đúng tính chất của chúng trong đạo và sự vận động của chúng được diễn tả chủ yếu bằng số học, phi hình tướng. Do đó mà người Trung Quốc thoát khỏi sự mê say của thiên văn phương Tây với cách nhìn cho vòng tròn là hình tượng hoàn hảo nhất…họ cũng không phải sống trong tù ngục của hình cầu pha lê thời Trung cổ.

Như thế, triết gia và khoa học cổ đại tại phương Đông đã có một cái nhìn cơ bản về thuyết tương đối, cho rằng hình học không hề là phản ánh tính chất của thiên nhiên mà chỉ là sản phẩm của tư duy.

Mã Minh nói:

Cần hiểu rõ không gian không gì hơn là một dạng đặc biệt, nó không có tự tính. Không gian chỉ có trong mối liên hệ với dạng ý thức đặc biệt của ta.

Điều này cũng đúng cho khái niệm thời gian. Nhà đạo học phương Đông xem khái niệm không gian và thời gian liên hệ với những dạng ý thức nhất định, những dạng đó có thể được vượt qua bằng phép thiền định. Những chứng thực tâm linh cho họ những khái niệm tinh tế hơn về không gian - thời gian, trong nhiều mặt chúng rất gần với khái niệm của vật lý hiện đại, thí dụ với thuyết tương đối.

Quan điểm mới về không gian và thời gian xuất phát từ thuyết tương đối, chúng gồm những gì? Chúng xuất phát từ sự phát hiện rằng, tất cả mọi đo lường về không gian và thời gian đều tương đối cả. Tính tương đối trong không gian thực ra không có gì mới. Trước Einstein, người ta đã biết rằng vị trí một vật trong không gian chỉ có thể dựa trên một vật khác đã được xác định. Thường thường vật này là một hệ thống ba trục và gốc của ba trục đó được xem là “vị trí của người quan sát”. Người ta gọi đó là trục tọa độ.

Để làm sáng tỏ tính tương đối của các trục đó, ta hãy tưởng tượng có hai người lơ lửng trong không gian, quan sát một cây dù (xem hình trang 195). Người A thấy cây dù bên trái của mình nghiêng chút ít, đầu dù hướng về mình. Người B thấy cây dù bên phải của mình, đầu dù xa hơn.

Mở rộng thí dụ này lên ba chiều ta thấy rõ những xác định không gian như trái, mặt, trên, dưới, nghiêng v.v… đều phụ thuộc vào vị trí của quan sát viên và như thế chúng chỉ là tương đối. Điều này ta đã biết từ lâu trước thuyết tương đối. Thế nhưng khi nói về thời gian trong vật lý cổ điển, tình hình hoàn toàn khác. Trật tự thời gian của hai tiến trình khác nhau được xem là độc lập với mọi quan sát viên. Khi ta nói “trước đó”, “sau đó” hay “đồng thời” thì chúng có tính tuyệt đối, chúng độc lập với một hệ thống trục qui chiếu.

Einstein đã nhận ra rằng, trật tự thời gian cũng tương đối và tùy thuộc nơi quan sát viên. Trong đời sống hàng ngày, khi ta thấy một trật tự thời gian trong những tiến trình xảy ra quanh ta, những tiến trình này đạt một vận tốc rất nhỏ so với vận tốc ánh sáng (300.000 km/giây), nên ta có cảm giác rằng chúng xảy ra thì ta nhận thấy tức khắc. Thế nhưng điều này không đúng. Ánh sáng cần một thời gian nhất định để đi từ sự việc đến quan sát viên. Thường thì thời gian đó quá nhỏ nên ánh sáng có thể xem như đến với ta tức thì. Nhưng khi quan sát viên di chuyển với vận tốc nhanh (so với hiện tượng đang được qua sát) thì khoảng thời gian từ lúc xảy ra cho đến lúc ghi nhận một biến cố bắt đầu đóng một vai trò quan trọng khi nói về thứ tự của những biến cố khác nhau. Einstein nhận ra rằng nhiều quan sát viên di chuyển với vận tốc khác nhau sẽ thấy những biến cố có thú tự thời gian khác nhau. Hai biến cố đối với quan sát viên này là đồng thời thì đối với quan sát viên khác có thể cái trước cái sau. Đối với vận tốc di chuyển bình thường thì sự khác nhau giữa chúng quá nhỏ đến nỗi không thể ghi nhận được, thế nhưng khi chúng tiến gần đến vận tốc ánh sáng, chúng gây ra những hiệu ứng có thể đo lường được. Với vật lý cao năng lượng, trong đó toàn là biến cố do sự tương tác giữa các hạt di chuyển với vận tốc gần như của ánh sáng, thì tính tương đối của thời gian đã được xác định và đã được vô số cuộc thí nghiệm thừa nhận.

Tính tương đối của thời gian cũng buộc ta phải từ bỏ khái niệm của một không gian tuyệt đối của Newton. Không gian Newton được xem là thuộc mỗi thời điểm nhất định có một trật tự vật chất nhất định, nhưng bây giờ, tính đồng thời đã trở thành một khái niệm tương đối, nó tùy thuộc vào tình hình vận động của quan sát viên, thì người ta không còn xác định được một thời điểm nhất định của vũ trụ là thời điểm nào nữa. Một biến cố ở rất xa, đối với người này là xảy ra một thời điểm nhất định, nhưng đối với người khác là trước đó hay sau đó. Vì vậy không thể nói vũ trụ tại một thời điểm nhất định. Không có một không gian tuyệt đối, độc lập với người quan sát.

Thuyết tương đối như thế đã chứng tỏ tất cả mọi đo lường về không gian và thời gian đã mất tính chất tuyệt đối và đòi ta phải từ bỏ khái niệm cổ điển về không gian và thời gian tuyệt đối. Sự quan trọng của phát hiện này được Mendel Sachs nói như sau:

Cuộc cách mạng đích thực tới với thuyết của Einstein…, đó là từ bỏ ý niệm xem hệ thống không gian - thời gian là khách quan và là một thực tại riêng biệt. Thay vào đó, thuyết này cho thấy trục của không gian- thời gian chỉ là yếu tố của một ngôn ngữ để quan sát viên mô tả môi trường của mình.

Câu nói này của một nhà vật lý đương thời cho thấy tính chất thật của khái niệm không gian - thời gian của vật lý hiện đại, và cũng là khái niệm của đạo học phương Đông khi nói, không gian - thời gian không gì khác hơn là danh sắc, ngôn từ để sử dụng chung.

Vì không gian - thời gian bây giờ đã trở thành tên gọi có tính chủ quan, mà một quan sát viên dùng để mô tả hiện tượng thiên nhiên, cho nên mỗi người sẽ mô tả hiện tượng để mình quan sát một cách khác nhau.

Nếu ta muốn xuất phát từ sự mô tả hiện tượng mà rút ra những định luật chung về tự nhiên, thì những định luật này phải được phát biểu sao cho chúng đều có dạng giống nhau trong tất cả hệ thống qui chiếu, có nghĩa là phải thích hợp cho mọi quan sát viên bất kỳ đang ở đâu, đang di chuyển với vận tốc nào. Đòi hỏi này được gọi là nguyên lý tương đối và cũng là bước khởi thủy của thuyết này. Điều thú vị này là mầm mống của thuyết tương đối nằm trong một sự mâu thuẫn mà chàng trai trẻ tuổi Einstein đã nhận thấy, lúc chàng mới lên mười sáu. Chàng cố tưởng tượng một tia sáng, hình dáng sẽ như thế nào đối với một quan sát viên di chuyển cũng với vận tốc ánh sáng bên cạnh tia đó. Chàng đi tới kết luận là quan sát viên sẽ thấy tia đó là một điện trường dao động lui tới nhưng không di chuyển, tức là không tạo sóng. Hiện tượng như thế chưa hề biết đến trong ngành vật lý. Chàng trai Einstein cảm thấy rằng, như vậy cái mà người này thấy là hiện tượng điện từ trường đã biết, tức là sóng ánh sáng, thì đối với người khác là một hiện tượng ngược lại với các định luật trong vật lý và chàng không thể chấp nhận sự mâu thuẫn đó. Trong những năm sau, Einstein nhận ra rằng nguyên lý tương đối có thể dùng để mô tả hiện tượng điện từ nếu tất cả các trị số về không gian và thời gian đều tương đối cả. Sau đó thì định luật cơ học chuyên mô tả vận động của khối lượng và định luật của điện động học về lý thuyết của điện và từ được phát biểu chung trong một cấu trúc tương đối, cấu trúc đó bao gồm ngoài ba chiều không gian thêm chiều thời gian là trục thứ tư, tương đối so với quan sát viên.

Nhằm xác định nguyên lý tương đối, tức là xem liệu các đẳng thức của lý thuyết đều có như nhau trong mọi hệ thống qui chiếu, tất nhiên người ta phải có thể chuyển đổi mọi kích thước không gian và thời gian của một hệ thống qui chiếu hay hệ cơ bản lên một hệ thống khác. Việc chuyển đổi hệ thống đã được biết đến trong vật lý cổ điển và được sử dụng thường xuyên. Sự chuyển đổi của hai hệ qui chiếu trong hình (trang 195) cho thấy hai toạ độ của người A (trục tọa độ được vẽ trong hình) là một sự phối hợp của hai tọa độ của người B và ngược lại. Những công thức này có thể dùng hình học giản đơn để tính ra được.

Trong vật lý tương đối nảy sinh một tình hình mới là thời gian được gắn thêm vào, là chiều thứ tư bên cạnh ba chiều không gian. Khi chuyển đổi từ hệ này qua hệ qui chiếu khác, như trên đã nói, tọa độ của hệ thống này là một sự phối hợp các tọa độ của hệ thống kia, do đó mà một tọa độ không gian của hệ thống sau lại là một sự hỗn hợp không gian - thời gian của hệ trước. Đây thực sự là một tình hình hoàn toàn mới. Mỗi lần đổi thay hệ qui chiếu là thời gian và không gian trộn lẫn với nhau, với sự chính xác của toán học. Hai cái này không thể tách rời ra được nữa, vì cái mà đối với quan sát viên này chỉ là không gian đơn thuần thì nó đối với quan sát viên kia là một sự trộn chung không gian - thời gian. Thuyết tương đối chỉ ra rằng, không gian không phải ba chiều nữa và thời gian không phải là một kích thước độc lập. Cả hai liên quan mật thiết với nhau, không tách rời và tạo nên một thể liên tục bốn chiều, được gọi là “không gian - thời gian”. Khái niệm “không gian - thời gian” này được Herman Minkowski giới thiệu trong bài giảng nổi tiếng năm 1908 với những câu sau đây:

Những quan điểm về không gian và thời gian mà tôi xin giới thiệu cùng quí vị, nó xuất phát từ nền tảng của vật lý thực nghiệm, đó chính là ưu thế của chúng. Những quan điểm đó thật là triệt để. Kể từ nay thì khái niệm không gian tự nó và thời gian tự nó đã mờ nhạt, không có thực chất; và sự thống nhất của hai cái đã thành một thực thể độc lập

Khái niệm về không gian và thời gian là then chốt trong việc mô tả hiện tượng tự nhiên tới mức mà, sự thay đổi của chúng dẫn theo sự thay đổi của cả cơ cấu dùng để mô tả thiên nhiên. Trong cấu trúc mới này thì không gian và thời gian được xem như bình đẳng như nhau, và chúng không được tách lìa nhau. Trong vật lý tương đối không thể nói thời gian mà bỏ qua không gian và ngược lại. Cấu trúc này luôn luôn phải được sử dụng khi có vận tốc lớn xảy ra.

Mối liên hệ mật thiết giữa không gian và thời gian thật ra cũng được biết đến trong thiên văn học, trong một quan hệ khác, trước xa thuyết tương đối. Các nhà thiên văn và thiên thể học phải làm việc với những khoảng cách cực lớn và ở đây ta đã rõ, ánh sáng phải cần thời gian để đi từ vật bị quan sát đến người quan sát. Vì ánh sáng có vận tốc giới hạn như thế mà các nhà thiên văn không bao giờ thấy vũ trụ đúng như hiện tại mà luôn luôn chỉ nhìn thấy quá khứ của nó. Ánh sáng cần tám phút để đi từ mặt trời đến trái đất và vì thế mà ta luôn luôn thấy mặt trời cách đó tám phút trước. Cũng thế ta thấy ngôi sao gần nhất nó như thế nào cách đây bốn năm và với viễn vọng kính rất mạnh, ta có thể thấy các ngân hà như thế nào cách đây hàng triệu năm.

Vận tốc có hạn của ánh sáng đối với các nhà thiên văn không hề là trở ngại mà là một thuận lợi lớn. Nó cho phép họ có thể quan sát sự hình thành của các vì sao, chùm sao và ngân hà trong mọi giai đoạn chỉ bằng cách nhìn lên không gian và nhìn lui quá khứ. Tất cả mọi loại hiện tượng đã xảy ra trong những triệu năm qua quả nhiên có thể thấy được đâu đó trong bầu trời. Vì thế nhà thiên văn biết rõ mối quan hệ giữa không gian và thời gian quan trọng như thế nào. Thuyết tương đối nói rằng mối quan hệ này phải được lưu tâm đến, không phải chỉ khi đến các khoảng cách xa, mà trong trường hợp có vận tốc lớn. Ngay trên trái đất này, sự đo lường khoảng cách cũng không thể độc lập với thời gian vì người ta phải quan tâm đến vận tốc của người quan sát, tức là phải qui về thời gian.

Như trong chương trước đã nhắc đến, sự thống nhất giữa không gian - thời gian cũng mang lại sự thống nhất nhiều khái niệm khác và khía cạnh hợp nhất này là đặc trưng lớn nhất của cấu trúc tương đối. Những khái niệm mà trong vật lý phi tương đối xem ra hoàn toàn độc lập, thì ở đây ta có thể xem chúng là những khía cạnh khác nhau của một khái niệm duy nhất. Tính cách này làm cho cấu trúc tương đối có một vẻ đẹp toán học rất trang nhã. Sau khi làm việc nhiều năm với thuyết tương đối, ta biết quý trọng sự thanh nhã này và nắm vững dạng toán học của nó. Tuy thế dạng toán học lại không giúp ta bao nhiêu về phương diện trực giác. chúng ta không thể hình dung cụ thể gì về một không-thời gian bốn chiều hay về những khái niệm tương đối khác với giác quan của ta. Khi ngiên cứu các hiện tượng tự nhiên có vận tốc cao, chúng ta sẽ thấy những khái niệm này rất khó hiểu trên bình diện trực giác lẫn ngôn ngữ bình thường.

Thí dụ trong vật lý cổ điển, người ta cho rằng các vật thể hình thanh dài lúc ở trạng thái tĩnh hay lúc vận động, chúng đều dài như nhau. Thuyết tương đối cho thấy rằng không phải như thế. Độ dài của một vật phụ thuộc nơi sự vận động của nó với người quan sát và bản thân nó cũng thay đổi với vận tốc của sự vận động đó. Vật thể ngắn lại trong chiều mà nó vận động. Một vật thể có kích thước dài nhất trong hệ qui chiếu, trong đó nó ở trạng thái tĩnh và ngắn đi với người quan sát thấy hệ đó di động. Ở những thí nghiêm của vật lý cao năng lượng, trong đó các hạt di chuyển với vận tốc hết sức cao thì sự bẹp lại do tính tương đối đã lên tới mức mà những hạt hình cầu trở thành những chiếc bánh kẹp.

Vì thế thật vô nghĩa nếu hỏi độ dài thực sự của một vật, hỏi như thế cũng vô nghĩa như hỏi độ dài thực sự của cái bóng một người. Cái bóng là hình chiếu của những điểm trong không gian ba chiều lên một mặt phẳng hai chiều và chiều dài của nó tuỳ theo góc chiếu mà ra dài ngắn. Tương tự như thế thì độ dài của một vật thể di động là hình chiếu của những điểm trong không gian bốn chiều không - thời gian lên không gian ba chiều và độ dài của nó khác nhau trong hệ qui chiếu khác nhau.

Điều có giá trị đối với độ dài thì cũng có giá trị đối với khoảng cách thời gian. Chúng cũng phụ thuộc vào hệ qui chiếu, nhưng khác với đo lường không gian, thời gian lại dài ra đối với quan sát viên di chuyển với vận tốc cao. Tức là, đồng hồ trong hệ thống đang vận động chạy chậm hơn, thời gian đi chậm hơn. Đồng hồ có thể có nhiều kiểu khác nhau: đồng hồ cơ khí, đồng hồ nguyên tử hay cả trái tim con người. Nếu một trong hai đứa trẻ sinh đôi du hành nhanh chóng trong vũ trụ thì khi trở về nó sẽ trẻ hơn đứa ở nhà, vì tất cả đồng hồ của nó - nhịp tim, tuần hoàn, sóng thần kinh v.v…đều chậm đi trong thời gian du hành, nếu lấy đứa trẻ ở nhà làm căn bản. Đứa đi du hành tất nhiên sẽ không nhận biết điều gì khác lạ cả, chỉ khi về nhà nó mới thấy người anh em mình già hơn mình nhiều. Sự nghịch lý của trẻ sinh đôi này có lẽ là cái nghịch lý nổi tiếng nhất trong nền vật lý hiện đại. Nó gây ra nhiều cuộc tranh cãi nóng bỏng trên các tạp chí khoa học mà ngày nay còn kéo dài, đó là một chứng minh cho một thực tại mà thuyết tương đối mô tả, không dễ dàng được lĩnh hội với tư duy bình thường của ta.

Việc đồng hồ đi chậm lại trong khi vận động, dù nghe qua khó tin đến mấy, cũng đã được vật lý hạt kiểm tra cặn kẽ. Phần lớn các hạt hạ nguyên tử đều bất ổn định, tức là sau một thời gian chúng tự huỷ để biến thành hạt khác. Nhiều thí nghiệm cho thấy rằng thời gian sống của những hạt bất ổn định đó tùy thuộc vào trạng thái vận động của chúng. Chúng càng vận động nhanh, thời gian sống chúng càng tăng. Những hạt vận động với vận tốc khoảng 80% vận tốc ánh sáng, chúng sống khoảng 1,7 lần lâu hơn các hạt anh em sinh đôi và với 99% vận tốc ánh sáng, chúng sống lâu hơn 7 lần. Thế nhưng diều đó không có nghĩa là thời gian sống nội tại chúng thay đổi. Xét về vị trí của từng hạt thì thời gian sống của chúng luôn luôn bằng nhau, nhưng từ thế đứng của quan sát viên trong phòng thí nghiệm thì đồng hồ nội tại của hạt đi chậm hơn, vì thế chúng sống lâu hơn.

Tất cả những hiệu ứng tương đối đó xem ra kỳ lạ, vì chúng ta không chứng thực thế giới bốn chiều không - thời gian được bằng những giác quan của ta, mà chỉ quan sát hình ảnh phản chiếu của chúng trong không gian ba chiều. Những hình ảnh này có nhiều khía cạnh khác nhau trong những hệ qui chiếu khác nhau: vật thể đang vận động khác với vật thể đang đứng yên, và những đồng hồ chạy khác nhau. Những hiệu ứng này là nghịch lý, mâu thuẫn nếu ta quên rằng chúng chỉ là những hình phản chiếu của hiện tượng bốn chiều, như những cái bóng chỉ là phản chiếu của vật thể ba chiều. Giá như ta thấy được thực tại không - thời gian bốn chiều thì chúng không còn nghịch lý, mâu thuẫn nữa.

Như trên đã nói, dường như các nhà đạo học phương Đông đã đạt được một dạng ý thức phi thường, trong đó họ chuyển hóa được thế giới ba chiều và chứng thực được một thực tại bốn chiều, cao hơn. Thế nên Sri Aurobindo mới nói về một “thay đổi tinh tế, nó cho phép thấy bộ mặt trong dạng thức của một chiều thứ tư”. Có thể các chiều của dạng ý thức này không hẳn là những chiều trong thuyết tương đối, nhưng điều nổi bật là chúng đưa các nhà đạo học đến một khái niệm về không gian và thời gian rất giống với những khái niệm của thuyết tương đối.

Các nhà đạo học phương Đông có một nhận thức trực giác về tính cách không gian - thời gian của thực tại. Có lẽ sự nhận thức được trình bày rõ rệt nhất và triệt để nhất trong Phật giáo, đặc biệt trong Hoa Nghiêm tông của Phật giáo Đại thừa. Kinh Hoa Nghiêm là kinh làm nền tảng cho tông này, cho ta một sự mô tả sinh động, trong tình trạng của giác ngộ thì ta chứng thế giới như thế nào. Đó là ý thức về một sự dung thông vô ngại của không gian và thời gian - đây là cách phát biểu toàn hảo về không gian và thời gian - được kinh nhắc tới nhiều lần và nó được xem là đặc trưng của tâm giác ngộ. D.T.Suzuki viết:

Ý nghĩa của kinh Hoa Nghiêm và tư tưởng của nó sẽ khó hiểu nếu ta chưa bao giờ chứng một tình trạng của một sự tan biến hoàn toàn, trong đó không còn có sự phân biệt thân và tâm, giữa chủ thể và khách thể… Ta nhìn quanh và nhận thấy mỗi sự vật đều liên hệ với mọi sự vật khác… không những trong không gian, mà trong thời gian. Thực tế là trong sự chứng thực thanh tịnh không có không gian phi thời gian, không có thời gian phi không gian, chúng dung thông nhau.

Nếu so sánh câu nói này của Suzuki với những lời đã dẫn của Minkowski, ta thấy ngay cả nhà vật lý lẫn nhà Phật học đều xây dựng khái niệm không gian - thời gian của họ dựa trên thực nghiệm; một bên dựa trên thí nghiệm khoa học, bên kia thì nhờ chứng thực tâm linh.

Theo tôi thấy thì nhận thức trực giác về thời gian của đạo học phương Đông là một lý do giải thích tại sao cái nhìn của họ về thế giới tự nhiên nói chung phù hợp với khoa học hiện đại hơn cái nhìn của phần lớn các triết gia Hy Lạp. Nền triết lý về tự nhiên của Hy Lạp chủ yếu là tĩnh tại và hầu như đặt nền tảng trên suy tư về hình học. Có thể nói hết sức phi tương đối và ảnh hưởng mạnh mẽ của nó trên tư duy phương Tây rõ là một trong những lý do làm chúng ta có khó khăn lớn thế nào với những mô hình tương đối của vật lý hiện đại. Các nhà triết học phương Đông, ngược lại, là những triết gia không gian - thời gian và tri kiến trực giác của họ thường rất gần với thuyết tương đối hiện đại của chúng ta.

Vì ý thức không gian - thời gian liên hệ mật thiết và dung thông với nhau, cả hai dều là những thế giới quan động, chúng lấy thời gian và sự biến dịch làm những yếu tố cơ bản. Khi học tập những mô hình tương đối của vật lý hiện đại, ta sẽ thấy chúng là những minh họa đầy sức thuyết phục của hai yếu tố của thế giới quan phương Đông; đó là tính nhất thể cơ bản của vũ trụ và tính năng động nội tại của nó.

Đến đây, chúng ta nói về thuyết tương đối đặc biệt. Nó cho ta một khung cảnh chung để mô tả hiện tượng của vật thể vận động, điện và từ. Cơ sở của nó là tính tương đối của không gian - thời gian và sự thống nhất của chúng trong một thể bốn chiều không gian - thời gian.

Khuôn khổ của thuyết tương đối tổng quát bao gồm cả trọng lực. Theo thuyết tương đối tổng quát thì trọng lực làm cong không gian - thời gian. Tưởng tượng ra được điều đó là một việc hết sức khó khăn. Chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra một bề mặt cong hai chiều, thí dụ bề mặt của một quả trứng, vì chúng ta thấy bề mặt này nằm trong không gian ba chiều. Ý nghĩa của từ cong của một mặt cong hai chiều như thế là hoàn toàn rõ, nhưng khi ta tới không gian ba chiều - chứ chưa nói gì tới không - thời gian bốn chiều - thì sức tưởng tượng bỏ rơi chúng ta. Vì chúng ta không thể nhìn không gian ba chiều từ bên ngoài nhìn vào (như trường hợp của mặt cong hai chiều), nên ta không thể tưởng tượng được nó có thể bị bẻ cong theo một chiều nào khác được.

Để hiểu ý nghĩa của không gian - thời gian cong, chúng ta phải dùng mặt cong hai chiều, lấy nó làm sự tương tự. Hãy tưởng tượng bề mặt của một quả cầu. Thực tế quyết định nhất cho ta thấy sự tương tự với không - thời gian là, độ cong là một tính chất nội tại của mặt cong đó và có thể đo lường được, chứ không cần phải đi vào một không gian ba chiều nào cả. Một con kiến xem như một sinh vật hai chiều sống trên mặt cong, tuy nó không thể nhận biết được chiều thứ ba, nhưng nó có thể phát hiện bề mặt mà nó đang sống là cong, với điều kiện là nó biết các phép đo lường hình học. Muốn biết thế ta hãy so sánh hình học mặt cong của con kiến với một mặt phẳng khác nhau ra sao.

Giả sử hai con kiến bắt đầu nghiên cứu hình học của chúng bằng cách vẽ một đường thẳng, tức là đường ngắn nhất nối hai điểm. Kết quả như sau: Ta thấy con kiến trên mặt phảng sẽ vẽ một đường thẳng, nhưng con kiến trên mặt cong thì sao? Đường nối hai điểm A và B quả thật là ngắn nhất so với mọi đường khác mà nó có thể chọn, thế nhưng từ cách nhìn của ta thì nó là một đường cong. Bây giờ ta giả định hai con kiến nghiên cứu hình tam giác . Con kiến trên mặt phẳng xác định rằng tổng số ba góc của tam giác là bằng hai góc vuông, tức là 180 0, còn con kiến trên mặt cong thấy rằng tổng số ba góc của hình tam giác luôn luôn lớn hơn 1800. Đối với những tam giác nhỏ thì phần lớn hơn đó không nhiều, nhưng tam giác càng lớn thì phần lớn hơn đó càng lớn theo; trong trường hợp cực điểm thì con kiến của chúng ta có thể vẽ một tam giác với ba góc vuông.

Cuối cùng hai con kiến vẽ vòng tròn và đo chu vi của nó. Kiến mặt phẳng sẽ thấy rằng chu vi vòng trong bằng 2p nhân với bán kính, độc lập với vòng tròn to nhỏ. Còn kiến trên mặt cong sẽ thấy chu vi vòng tròn luôn luôn nhỏ hơn 2p nhân với bán kính.

Như hình sau đây cho thấy, nhờ cách nhìn ba chiều của ta mà ta nhận ra rằng, bán kính của kiến trên mặt cầu không hề là đường thẳng, nó là một đường cong, đường cong đó luôn luôn dài hơn bán kính thật của vòng tròn.

Khi hai con kiến trực tiếp nghiên cứu hình học thì con kiến trên mặt phẳng sẽ phát hiện ra định đề Euclid và các định luật khác, nhưng con kiến trên mặt cong sẽ tới với những nhận thức khác. Sự khác biệt giữa hai nhận thức đó thì nhỏ đối với các hình nhỏ nhưng nó sẽ lớn hơn đối với các hình thể lớn. Thí dụ của hai con kiến cho ta thấy rằng, ta luôn luôn có thể phán quyết, liệu một mặt là cong hay không, cứ đơn giản dựa vào đo lường trên mặt đó rồi so sánh kết quả đo lường với kết quả của hình học Euclid. Nếu có sự khác nhau giữa hai kết quả thì mặt đó là cong, và nếu sự khác nhau càng cao độ thì cong càng lớn.

Với cách thế đó mà ta định nghĩa không gian ba chiều cong là một không gian mà trong đó hình học Euclid không còn đúng nữa. Những định luật trong không gian đó là thuộc về một loại khác, phi Euclid. Hình học phi Euclid đó được nhà toán học Bernhard Riemann giới thiệu vào thế kỷ thứ mười chín, như một ý niệm toán học hoàn toàn trừu tượng và cũng chỉ được xem như thế, cho đến ngày Einstein nêu ra giả thuyết cách mạng là, không gian ta đang sống ba chiều này quả thật là cong. Theo Einstein thì độ cong của không gian bị trường trọng lực của các vật thể mang khối lượng gây ra. Không gian xung quanh vật thể bị cong và độ cong đó, cũng là độ khác biệt với hình học Euclid, tỉ lệ với khối lượng của vật thể.

Phương trình nói lên độ cong không gian liên hệ thế nào với sự phân bố vật thể không gian được gọi là thuyết trường Einstein. Chúng không những được sử dụng để xác định mức biến thiên của độ cong tại mỗi chỗ gần các thiên thể hay hành tinh, mà với chúng, người ta có thể biết được độ cong tổng quát của không gian. Nói cách khác, những đẳng thức trường Einstein có thể dùng để xác định cấu trúc của vũ trụ. Tiếc thay chúng không cho lời giải rõ rệt. Có nhiều lời giải toán học khả dĩ cho những phương trình đó, và mỗi lời giải lại cho những mô hình khác nhau về vũ trụ. Mục đích chính của ngành vũ trụ học hiện nay là xác định lời giải nào đúng với cơ cấu vũ trụ của chúng ta.

Vì trong thuyết tương đối, không gian không bao giờ tách ly khỏi thời gian nên độ cong do trọng lực gây ra cũng không chỉ hạn chế trong không gian ba chiều, mà người ta phải mở rộng lên không gian - thời gian bốn chiều. Đó chính là điều mà thuyết tương đối tổn quát đã tiên đoán. Trong một không - thời gian cong thì sự méo mó được sinh ra không những chỉ tác động lên không gian - là những mối liên hệ có thể mô tả bằng hình học - mà còn trên độ dài của những khoảng thời gian. Thời gian trôi sẽ không với một vận tốc đều, như trong một không gian - thời gian phẳng; dòng chảy sẽ không đều, vì sự phân bố vật chất có chỗ cong nhiều cong ít. Thế nhưng chúng ta phải nói rõ là, sự biến đổi này của thời gian được thấy bởi một quan sát viên, người đó đứng khác chỗ của đồng hồ đang đo lường thời gian. Nếu thí dụ quan sát viên cũng đứng ngay chỗ đó, ngay nơi mà thời gian chạy chậm đi, thì mọi đồng hồ cũng chậm theo và người ta sẽ không có cách nào để đo hiệu ứng chậm đi đó nữa.

Trong môi trường địa cầu này thì tác động của trọng lực lên không gian thời gian qúa nhỏ nên ta có thể bỏ qua, thế nhưng trong ngành thiên văn học, khi người ta làm việc với những khối lượng lớn như hành tinh, thiên thể và ngân hà thì độ cong của không gian là một hiện tượng quan trọng. Tới nay thì tất cả mọi quan sát viên đều thừa nhận thuyết của Einstein là đúng và buộc chúng ta phải tin rằng không - thời gian quả thật là cong. Hiệu ứng cùng cực nhất của nó là sự sụp đổ trọng trường của một thiên thể đặc cứng. Theo hình dung của thiên văn học ngày nay thì mỗi thiên thể trong quá trình phát triển sẽ đạt tới một giai đoạn, trong đó nó bị co rút lại vì lực hút lẫn nhau giữa các hạt cấu tạo nên nó. Khi khoảng cách giữa các hạt nhỏ dần thì sức hút giữa chúng tăng nhanh, quá trình sụp đổ càng gia tốc, và khi thiên thể có đủ tỉ trọng rồi, tức là khoảng gấp đôi tỉ trọng của mặt trời thì không còn tiến trình nào có thể cứu vãn sự sụp đổ.

Khi thiên thể co rút lại và ngày càng đặng của không - thời gian quanh nó sẽ tăng lên. Vì sức hút quá mạnh, không có vật gì có thể rời thiên thể được, và tới mức mà ngay cả ánh sáng cũng bị hút, không chạy thoát nổi bề mặt của thiên thể. Tới mức này thì xung quanh thiên thể sinh ra một tầm chân trời biến cố, tức là không còn dấu hiệu gì của thiên thể đi ra ngoài được với thế giới còn lại. Không gian xung quanh thiên thể bị cong tới mức ánh sáng cũng bị nhốt lại, không chạy thoát được. Ta không thể thấy một thiên thể như vậy vì ánh sáng của nó không thể đến với chúng ta và do đó ta gọi nó là một lỗ đen. Sự hiện hữu của những lỗ đen đã được tiên đoán từ năm 1916 trên cơ sở thuyết tương đối. Trong thời gian gần đây, nó gây ra nhiều chú ý vì một hiện tượng của thiên thể cho thấy có sự hiện hữu của một vì sao nặng, vì sao đó quay chung quanh một đối tượng vô hình, đối tượng đó có thể là một lỗ đen.

Lỗ đen là những vật thể bí ẩn và đáng kinh ngạc nhất mà nền thiên văn hiện đại đang nghiên cứu, và chúng minh họa hiệu ứng của thuyết tương đối một cách lạ lùng nhất. Độ cong của không - thời gian quanh chúng không những ngăn trở ánh sáng đến với chúng ta mà còn gây ảnh hưởng đáng kể lên thời gian. Nếu đem một cái đồng hồ gắn trên bề mặt của một thiên thể đang co rút, tức là gắn một thiết bị gửi tín hiệu về phía chúng ta thì ta sẽ thấy rằng những tín hiệu đó chậm dần khi thiên thể càng tiến gần đến tầm chân trời biến cố; và khi nó trở thành lỗ đen thì không còn tín hiệu nào đến với ta nữa. Đối với một quan sát viên ở bên ngoài thì thời gian đi chậm dần khi thiên thể co rút và khi nó đến tầm chân trời biến cố thì thời gian ngưng hẳn lại. Do đó mà sự sụp đổ hoàn toàn một vì sao cần một thời gian vô tận. Còn bản thân thiên thể đó thì không có gì đặc biệt xảy ra cả khi nó vượt qua tầm chân trời biến cố. Thời gian sẽ trôi bình thường và sự sụp đổ sẽ hoàn tất sao một thời gian có hạn, khi thiên thể biến thành một điểm với một tỉ trọng vô cùng lớn. Thế thì sự sụp đổ thật sự kéo dài bao lâu, đó là một khoảng thời gian vô hạn hay hữu hạn? Trong thế giới của thuyết tương đối, một câu hỏi như thế là vô nghĩa. Thời gian sống của một vì sao co giãn cũng như mọi khoảng thời gian khác, nó là tương đối và tùy thuộc nơi hệ qui chiếu của quan sát viên.

Thuyết tương đối tổng quát đã từ bỏ những khái niệm cổ điển xem không gian và thời gian là tuyệt đối và độc lập. Không những mọi đo lường trong không gian và thời gian là tương đối và phụ thuộc vào tình trạng vận động của quan sát viên, mà toàn bộ cấu trúc của không - thời gian lại phụ thuộc vào sự phân bố của vật chất. Không gian mỗi nơi có độ cong khác nhau và thời gian trôi chảy tại nhiều nơi trong vũ trụ với vận tốc khác nhau. Khái niệm của chúng ta về không gian ba chiều Euclid và thời gian trôi chảy tuyến tính chỉ được giới hạn trong đời sống hàng ngày, và ta phải từ bỏ chúng khi muốn đi ra khỏi đó.

Các bậc hiền nhân phương Đông cũng đã nói đến sự mở rộng của kinh nghiệm về thế giới trong những tình trạng ý thức cao cấp và họ đoán chắc rằng những tình trạng này chứa đựng một sự chứng thực hoàn toàn khác về không gian và thời gian. Họ nhấn mạnh rằng, khi ở trong thiền định, họ không những ra khỏi một không gian ba chiều bình thường - mà còn mạnh hơn - họ còn vượt qua sự cảm nhận thời gian thông thường. Thay vì tiếp nối của những khoảng thời gian tuyến tính họ chứng một thực tại vô tận, phi thời gian mà lại năng động. Trông ba đoạn văn sau đây ta sẽ nghe ba nhà đạo học nói về chứng thực của họ về cái thực tại vô cùng: Trang Tử nhà hiền nhân Lão giáo; Huệ năng Lục tổ Thiền tông; và D.T.Suzuki, thiền sư Phật giáo của thời đại chúng ta:

Hãy quên thời gian đang trôi chảy; hãy quên mọi mâu thuẫn của tư duy. Hãy nghe cái vô cùng réo gọi và hãy đứng tại đó.

Trang Tử

Cái giây phút hiện tại này là sự tĩnh lặng vô cùng. Mặc dù nó chỉ hiện hữu trong phút giây này, nó không có biên độ và cũng trong đó mà hiện ra cái miên viễn tuyệt diệu.

Huệ Năng

Trong thế giới tâm linh này không có phân chia thời gian cũng như quá khứ, hiện tại và tương lai, vì các thứ này đã rút lại trong một cái chớp mắt của hiện tại, trong đó đời sống rung động trong ý nghĩa đích thực của nó… Quá khứ và tương lai đã cuốn tròn trong giây phút hiện tại của giác ngộ và cái chớp mắt hiện tại này không hề đứng yên với những gì nó dung chứa, mà vận động tiếp tục không ngừng nghỉ.

D.T.Suzuki

Thật hầu như không thể nói về sự chứng thực của một hiện tại phi thời gian, vì những từ phi thời gian, hiện tại, quá khứ, phút giây v.v…đều dựa trên khái niệm thông thường về thời gian mà thành. Vì thế thật vô cùng khó mà hiểu các nhà đạo học đó muốn nói gì với những câu trên. Tuy thế, ở đây nền vật lý hiện đại có thể giúp ta dễ hiểu hơn, vì người ta có thể dùng hình vẽ để biểu diễn các lý thuyết vật lý đã chuyển hóa khái niệm thời gian thông thường như thế nào.

Trong nền vật lý tương đối thì lịch sử của một vật thể, thí dụ một hạt, được biểu diễn trong biểu đồ không - thời gian. Trong biểu đồ này thì trục hoành biểu diễn không gian (ở đây chỉ có một chiều), trục tung biểu diễn thời gian. Đường đi của hạt trong không - thời gian được gọi là vạch vũ trụ. Nếu hạt nằm yên thì thật ra nó cũng đã vận động trong thời gian; trong trường hợp này thì vạch vũ trụ của nó là một đường dọc. Nếu hạt cũng vận động trong không gian thì vạch vũ trụ là một đường xéo, vạch càng xéo thì hạt vận động càng nhanh. Ta để ý rằng, trong trục thời gian, hạt chỉ hướng lên, nhưng trong trục không gian nó có thể đi tới hay đi lui. Vạch vũ trụ có thể nghiêng nhiều góc khác nhau so với trục ngang, nhưng nó không bao giờ nằm ngang thực sự, vì nếu thế thì có nghĩa hạt không cần thời gian nào mà vận động được từ nơi này qua nơi khác.

Biểu đồ không - thời gian được sử dụng trong vật lý tương đối để minh họa sự tác động lẫn nhau giữa các hạt. Ta có thể vẽ một biểu đồ cho mỗi tiến trình và khi sự xuất hiện của mỗi tiến trình đó có một xác suất thì ta có thể cho nó một phát biểu toán học nhất định. Thí dụ sự va chạm nhau giữa một electron và photon có thể được biểu diễn trong hình sau đây. Ta đọc biểu đồ này như sau (từ dưới lên trên, theo chiều thời gian): một electron (được biểu thị bằng e-) va chạm một photon (biểu thị bằng g, gamma);electron hấp thụ photon và vận động tiếp với một vận tốc khác (vạch vũ trụ có độ nghiêng khác); sau một thời gian electron nhả photon ra và quay lui.

Lý thuyết xây dựng nên khuôn khổ của biểu đồ không - thời gian và cho nó những phát biểu toán học liên hệ được gọi là thuyết trường lượng tử. Nó là một trong những thuyết thuộc phép tương đối quan trọng nhất của ngành vật lý hiện đại mà ta sẽ bàn đến sau. Để thảo luận về biểu đồ không - thời gian, chúng ta chỉ cần nắm vững hai tính chất quan trọng nhất của thuyết này. Một là, đừng quên mọi tương tác dẫn đến sự phát sinh và huỷ diệt của các hạt, như sự hấp thụ và nhả ra của photon trong biểu đồ trên; và hai là sự đối xứng căn bản giữa hạt và đối hạt. Cứ mỗi hạt lại có một đối hạt có khối lượng như nhau và điện tích ngược nhau. Thí dụ đối hạt của electron là positron và thường được biểu diễn bằng e+. Đối với photon vô điện tích thì đối hạt của nó chính là bản thân nó. Một cặp được phát sinh chớp nhoáng từ photon và trong tiến trình ngược lại chúng hợp nhau thành photon.

Nhờ áp dụng thuật sau đây mà biểu đồ không - thời gian trở nên đơn giản: mũi tên của vạch vũ trụ không còn dùng để chỉ hướng đi nữa(trước sau thì nó cũng vô ích vì tất cả các hạt đều vận động theo chiều thời gian, trong biểu đồ là chỉ lên). Thay vào đó mũi tên dùng để phân biệt hạt và đối hạt: nếu nó chỉ lên thì đó là một hạt (thí dụ một electron). Còn photon, bản thân nó cũng là đối hạt nên được biểu diễn không có mũi tên. Với sự điều chỉnh này ta có thể giữ nguyên mọi trình bày trong biểu đồ mà không gây xáo trộn gì cả: vạch với mũi tên là electron, vạch không có mũi tên là photon. Ta còn có thể đơn giản hoá biểu đồ bằng cách bỏ luôn trục không gian và thời gian, và chỉ nhớ trong đầu trục thời gian từ dưới hướng lên và trục đi tới của không gian từ trái qua phải. Như biểu đồ của quá trình va chạm electron - photon như sau:

Vậy muốn vẽ biểu đồ va chạm của positron - photon, ta chỉ cần dùng biểu đồ trên nhưng quay chiều mũi tên là được.

Tới bây giờ thì chưa xảy ra điều gì lạ lùng trong cuộc thảo luận của ta về biểu đồ không - thời gian cả. Chúng ta đọc nó từ dưới lên, đúng như qui ước của ta về dòng chảy của thời gian tuyến tính. Tuy thế, khía cạnh đặc biệt hiện ra trong biểu đồ với đường đi của positron. Dạng toán học của lý thuyết trường cho phép ta lý giải đường này bằng hai cách: một là, xem nó là positron, vận động theo chiều thời gian; hai là, xem nó là eletron và vận động ngược chiều thời gian! Hai cách diễn giải đều giống nhau về mặt toán học. Tức là sự phát biểu đó áp dụng cho một đối hạt chạy từ quá khứ đến tương lai hay một hạt chạy từ tương lai về quá khứ.

Thế nên ta có thể xem hai biểu đồ này biểu thị một tiến trình duy nhất, tiến trình đó chỉ diễn ra trong hai chiều thời gian khác nhau. Cả hai đều có thể xem là sự va chạm giữa electron và photon, nhưng trong tiến trình này thì các hạt đi theo chiều thời gian; trong tiến trình kia thì chúng đi ngược lại (đường có vạch đứt biểu thị photon, dù nó chạy cùng chiều hay ngược chiều thời gian, vì hạt hay đối hạt của photon chỉ là một). Như thế thuyết tương đối của tương tác giữa các hạt cho thấy một sự đối xứng hoàn toàn, trên trục của thời gian. Tất cả mọi biểu đồ không - thời gian đều có thể được đọc hai chiều như vậy. Điều đó có nghĩa là mỗi một tiến trình đều có một tiến trình ngược lại trong thời gian, trong đó ta thay thế các hạt bằng những đối hạt của chúng.

Để biết tính chất bất ngờ này của thế giới hạ nguyên tử ảnh hưởng lên quan điểm không gian - thời gian của ta như thế nào, hãy xem tiến trình sau đây trong biểu đồ sau:

Chúng ta hãy đọc biểu đồ theo cách qui ước từ dưới lên trên, ta sẽ thấy như sau: một electron (được biểu diễn bằng vạch liền) và một photon (vạch đứt) tiến gần với nhau; tại A photon phân hủy thành một cặp electron - positron, electron vận động về phía phải, positron về phía trái; positron va chạm với electron đầu tiên tại B, chúng tiêu hủy lẫn nhau và tạo thành photon, chuyển về phía trái.

Mặt khác ta có thể quan niệm biểu đồ này như sự tác động giữa hai photon và một electron, trong đó electron mới đầu di chuyển theo chiều thời gian, sau đó đi ngược thời gian, rồi lại vận động theo chiều thời gian. Muốn quan niệm như thế ta hãy theo chiều mũi tên của electron mà nhìn. Trước hết electron vận động đến B, nơi đó nó nhả một photon (biến thành đối hạt), đổi chiều thời gian đi lui về điểm A; tại A nó hấp thụ photon đầu tiên, lại đổi chiều và vận động theo thời gian. Trong mức độ nào đó thì cách lý giải thứ hai dễ hơn cách thứ nhất vì ta chỉ việc đi theo vạch vũ trụ của một hạt. Thế nhưng ta thấy ngay mình gặp khó khăn về ngôn ngữ. Electron mới đầu đến B trước, sau đó lui về A, mà như thế thì sự hấp thụ photon tại A xảy ra trước khi nhả photon ở B.

Người ta có thể né tránh sự khó khăn này bằng cách xem biểu đồ không - thời gian như trên không phải là sự ghi nhận đường đi của hạt trong quá trình thời gian, mà chỉ là cấu trúc bốn chiều trong không - thời gian, cấu trúc đó diễn tả một mạng lưới toàn những biến cố liên hệ với nhau, mạng lưới đó không có chiều nào là dứt khoát của thời gian cả. Vì tất cả các hạt đều có thể vận động cùng chiều thời gian hay ngược chiều thời gian, cũng như trong không gian có trái có phải, cho nên vô nghĩa khi chỉ có một chiều của thời gian trong biểu đồ. Nó chỉ là một tấm bản đồ bốn chiều, đặt trong không - thời gian, trong đó ta không thể nói về một thứ tự thời gian. Louis de Broglie nói :

Trong không - thời gian , tất cả những gì mà mỗi người chúng ta gọi là quá khứ, hiện tại, tương lai, chúng hiện hữu một lúc (enbloc). Có thể nói mỗi quan sát viên, khi thời gian của họ trôi qua thì họ phát hiện ra những mặt cắt với cái không - thời gian đó, những mặt cắt đó hiện ra với họ như những khía cạnh khác nhau của thế giới vật chất, cả trước cả sau, mặc dù trong thực tại thì tổng thể của những biến cố đã hiện hữu trước khi họ biết tới, xây dựng nên tổng thể không - thời gian.

Đây là toàn bộ ý nghĩa của không gian - thời gian trong vật lý tương đối. Không gian - thời gian là hoàn toàn bình đẳng. Chúng được thống nhất trong một thể liên tục bốn chiều, trong đó sự tương tác giữa các hạt có thể diễn ra trong mọi hướng. Muốn tưởng tượng cụ thể sự tương tác này, ta phải thu một tấm hình bốn chiều, tấm hình đó bao trọn cả toàn bộ thời gian lẫn toàn bộ không gian. Muốn có một cảm giác về thế giới tương đối của các hạt, chúng ta phải “quên thời gian đang trôi”, nói như Trang Tử và do đó mà biểu đồ không - thời gian của đạo học phương Đông? Nghĩa của sự tương đồng đó được Lama Govinda nói như sau về phép thiền định Phật giáo:

Và khi nói tới cảm giác về không gian trong thiền định thì ở đây ta có một kích thước hoàn toàn khác về không gian. Trong sự chứng thực về không gian này, cái trước cái sau trở thành những cái đồng thời, những cái cạnh nhau trong không gian. Rồi cái đó cũng không tĩnh tại mà thành một thể liên tục sinh động, trong đó bao gồm cả không gian và thời gian…

Mặc dù các nhà vật lý sử dụng ngôn ngữ toán học hình thức và các biểu đồ để diễn tả sự tương tác cùng một lúc trong không - thời gian bốn chiều, họ giải thích thêm rằng trong thế giới thực sự một quan sát viên chỉ nhận biết những hiện tượng đó trong từng lớp giai đoạn của không - thời gian, tức là có thứ tự thời gian. Ngược lại các nhà đạo học quả quyết họ thực sự có thể chứng thực qui mô toàn thể của không - thời gian, trong đó thời gian không còn trôi chảy. Thiền sư Đạo Nguyên nói:

Phần lớn đều nói rằng thời gian trôi qua. Thực tế thì nó đứng một chỗ. Hình dung về một sự trôi chảy, người ta có thể gọi nó là thời gian, nhưng đó là một hình dung sai lầm, vì ta chỉ thấy thời gian trôi chảy, ta không thể nhận rằng nó đang đứng tại chỗ.

Nhiều bậc đạo sư phương Đông nhấn mạnh rằng, tư duy phải sinh ra trong thời gian, nhưng linh ảnh có thể vượt thời gian. Govinda nói: “Linh ảnh nằm trong một không gian nhiều chiều hơn và vì thế nó phi thời gian”. Không - thời gian của vật lý tương đối cúng là một không gian phi thời gian, có chiều cao hơn, trong đó mọi biến cố đều liên hệ với nhau, nhưng mối liên hệ không có tính nhân quả. Sự tương tác các hạt chỉ có thể lý giải trong khái niệm nguyên nhân- kết quả khi biểu đồ không - thời gian được đọc trong một hướng nhất

định, thí dụ từ dưới lên trên. Một khi chúng được quan niệm trong một cấu trúc bốn chiều, không có một hướng thời gian nhất định, thì không có cái trước, cái sau và vì thể không có nguyên nhân và hậu quả.

Các nhà đạo học phương Đông cũng quả quyết tương tự như thế, rằng khi họ vượt qua thời gian thì họ cũng vượt lên nhân quả. Cũng như khái niệm cổ điển của ta về không - thời gian, thì hình dung về nhân quả cũng bị giới hạn với một kinh nghiệm nhất định về thế giới và nó phải bị từ bỏ khi kinh nghệm này được mở rộng. Swami Vivekanada nói:

Thời gian, không gian và mối liên hệ nhân quả giống như tấm kính ta nhìn xuyên qua nó để thấy cái tuyệt đối… Trong tuyệt đối thì không có thời gian, lẫn không gian, lẫn liên hệ nhân quả.

Chúng đưa ta vượt lên kih nghiệm về thời gian và giải thoát ra khỏi những mắt xích của nhân quả - thoát khỏi sự trói buộc của nghiệp, nói như Ấn Độ giáo và Phật giáo. Nền đạo học phương Đông do đó là một sự giải thoát khỏi thời gian và trong chừng mực nhất định, điều đó cũng có giá trị cho nền vật lý tương đối.

Những con rối “Dân chủ” !



Tác Giả: Amari TX – VHN.NET



Một số phần tử cơ hội, bất mãn cá nhân, thành phần “trở cờ” trong đó có cả những người nhẹ dạ ở trong nước và tổ chức cực đoan nước ngoài đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá Đảng, Nhà nước CHXHCNVN. Chiêu bài đó được một số tổ chức không có thiện chí với Việt Nam, các cơ quan truyền thông việt ngữ ở nước ngoài bơm, thổi phụ họa. Đây là việc làm sai trái cần đấu tranh, phê phán và vạch mặt kịp thời để mọi người thấy được bộ mặt thật của họ, nhằm góp phần bảo vệ sự ổn định của Đất nước xây dựng Tổ quốc dân chủ và phồn vinh. Một số người đã có những bài viết, phát biểu, trả lời phỏng vấn trên các phương tiện truyền thông việt ngữ ở nước ngoài có nội dung xuyên tạc, kích động, thóa mạ những thành tựu mà toàn thể dân tộc Việt Nam đã đạt được kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành. Vậy họ là ai? Đó là mộtsố người có quan điểm chính trị cơ hội một cách rõ ràng, có hiểu biết, có một thời gian nắm một số vị trí trong hệ thống chính trị, họ có tham vọng chính trị lớn, trong đó có cả những người có chức sắc tôn giáo, một số người bất mãn, một số người có nhận thức mơ hồ, không phân biệt được phải trái, đúng sai, bị kích động, lôi kéo, ngày càng lún sâu vào con đường sai trái. Họ đã cấu kết với nhau phát tán trên các mạng truyền thông việt ngữ ở nước ngoài như VOA- RFA-RFI- BBC, tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, vu cáo, bôi đen chế độ ở Việt Nam. Ngày 1/5/2014, tại trụ sở đài RFA ở thủ đô Washington diễn ra cái gọi là hội thảo mang tên “Hướng đến một nền tự do thông tin tại Việt Nam” có sự tham dự của các bloggers và”nhà báo tự do”!? đến từ Việt Nam. Vậy những người này đã phát biểu những gì cho cái chủ đề mà RFA đưa ra? tìm hiểu thì mọi người có một chút kiến thức sẽ không thể buồn cười cho những phát biểu ngô nghê của các vị “Dân chủ” này. Một vị là nghệ sĩ thì phán đại một câu khi được RFA “Mớn mồi” rằng: “Tôi thì đơn giản tôi thấy bất công ở Việt nam nó nhiều quá…!!! nhân quyền bị vi phạm tất cả mọi thứ khiến tôi bức xúc. Tôi bức xúc thì tôi thấy mình phải lên tiếng phản đối, bởi vì mình là người nghệ sĩ, người của công chúng…”!? còn vị Blogger trẻ tuổi Nguyễn Đình Hà thì xổ liền một câu:”Nghị định 72 được chính phủ Việt Nam đưa ra hồi năm ngoái nhằm kiểm soát thông tin internet, đồng thời yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet cung cấp thông tin về các nhà hoạt động nhân quyền trên Internet. Các bloggers đã thực hiện những hành độngbất tuân dân sự chống lại nghị định 72 và các công ty như Google cũng có vẻ không hợp tác”!? Vị “Nhà báo độc lập” Ngô Nhật Đăng vu cáo một cách ngang ngược rằng: “hệ thống chính trị Việt Nam dựa trên sự dối trá nên những nhà cầm quyền rất sợ sự thực…”!? . Sơ qua những phát biểu của các nhà “Dân chủ” được mời dự “Hội thảo” chúng ta có thể thấy rằng đó là những phát biểu cực đoan, ngang ngược, họ đã biến mình thành công cụ, những con rối trong ý đồ công kích nhà nước Việt Nam của RFA mà từ lâu nay họ luôn tỏ thái độ thù địch.

Việc ban hành Nghị định 72 cũng phù hợp bối cảnh chung của các quốc gia trên thế giới. Qua nghiên cứu, chúng ta nhận thấy, hầu hết các quốc gia không phân biệt thể chế chính trị, trình độ kinh tế, đều có các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Tại Mỹ, Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) vừa cho thành lập một lực lượng mới có nhiệm vụ phát triển các công nghệ có khả năng kiểm soát thông tin trên Internet, cũng như các liên lạc bằng điện thoại di động. Chúng ta đều biết kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 72 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, nhiều kẻ lấy cớ này vu cáo Việt Nam “vi phạm nhân quyền”, kiểm soát Internet, hạn chế tự do báo chí, ngôn luận, đã có một thời gian họ tập hợp những chữ ký ảo nhằm tạo dư luận, gây áp lực để các tổ chức quốc tế can thiệp. Nhưng vì không hiểu biết hoặc cố tình nên đã xuyên tạc về nghị định này. Thực tế, Nghị định 72 là sự kế thừa, phát triển những nghị định trước đây về quản lý, sử dụng Internet tại Việt Nam. Ngay từ năm 2001, đã có Nghị định 55 về quản lý Internet. Đến năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 97 và hiện nay là Nghị định 72. Ngay tại Điều 1, Nghị định ghi rõ phạm vi điều chỉnh: “Nghị định này quy định chi tiết việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet, thông tin trên mạng, trò chơi điện tử trên mạng; bảo đảm an toàn thông tin và an ninh thông tin; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet, thông tin trên mạng, trò chơi điện tử trên mạng, bảo đảm an toàn thông tin và an ninh thông tin” Như vậy, việc ban hành Nghị định 72 mục đích không phải nhằm cấm đoán, hạn chế tự do Internet như họ đã kêu gào mà là để phát triển, phục vụ hữu ích quốc gia, tập thể và cá nhân và để các lợi ích đó được đảm bảo phải gắn với các điều kiện nhất định, một số hành vi bị cấm (quy định tại Điều 5). Thực hiện được điều này cũng là nhằm bảo đảm và phát huy các quyền con người được quy định trong Hiến pháp và phù hợp luật pháp quốc tế. Nhìn vào các bài viết của họ phát tán trên Internet ta có thể thấy rằng ,nói chung, mục tiêu chủ yếu của họ vẫn là những hoạt động nhằm phủ định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tấn công trực diện vào Cương lĩnh, đường lối đổi mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng CSVN đang lãnh đạo toàn diện. Họ tìm mọi cách bóp méo, suy diễn, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam bất chấp lẽ phải,cường điệu hóa một vài vụ việc liên quan đến pháp luật từ đó họ hồ đồ kết luận là: đó là “Bản chất” của chế độ. Không những thế họ còn mạnh miệng bôi nhọ quá khứ cách mạng một cách vô liêm xỉ, chà đạp lên giá trị truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc làm tổn thương đến tình cảm thiêng liêng mà chính phủ và nhân dân Việt Nam dành cho các anh hùng liệt sĩ đã vì nước hy sinh vì nền độc lập tự do của dân tộc. Họ đưa ra những câu hỏi lấp lửng như “có cần thiết hay không khi Đảng phát động toàn dân trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ”? hay “Nếu không có Đảng CSVN thì dân tộc này đã ở một vị thế khác…” !?..v v… xuyên tạc lịch sử, hòng chia rẽ Đảng với Nhà nước; cô lập, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, kích động một số thành phần mà họ cho là “Nhạy cảm” dễ thâm nhập nhất đó là: trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên, học sinh, kích động một số người từng tham gia hoạt động cách mạng trước đây có tâm trạng bất mãn vì trước khi còn đang làm việc đã có một số vấn đề mà không được “Thỏa mãn” cái “tôi” của họ nay đã hạ cánh thì “Trở cờ” hòng thực hiện ý đồ “trong biến thì phất cờ”. Họ nhắm vào điểm cốt yếu đó là: chia rẽ tôn giáo, dân tộc, chia rẽ các vùng, miền trên đất nước với âm mưu thâm hiểm hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hướng tới mục đích cuối cùng là làm suy yếu Đảng,tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, thực hiện đa nguyên, đa đảng, lập các đảng phái nhằm đưa đất nước đi theo con đường khác mà theo lý luận của họ là sẽ “Dân chủ hơn, sáng sủa hơn” !? Gần đây nhất, họ tìm mọi cách phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân, dân tộc ta qua gần 30 năm đổi mới, xuyên tạc, bóp méo, bôi đen bức tranh xã hội, hòng gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin trong nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Họ đặt ra những điều kỳ quặc như: “Có bao giờ nhân dân Việt Nam lại sống trong cảnh tủi nhục, đau thương như hiện nay không?”. “Có bao giờ dân tộc Việt Nam lại bị chia rẽ, nghi kỵ nhau, hận thù nhau sau những năm tháng cai trị của một chế độ như bây giờ không”? Từ đó, họ đưa ra những điều xuyên tạc, vu cáo trắng trợn: “Hơn nửa thế kỷ áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên đất nước ta, Đảng Cộng sản đã thực hiện chính sách cai trị bằng thủ đoạn và bạo lực. Nhân dân chỉ được phép cúi đầu sợ hãi và sống trong mòn mỏi, tuyệt vọng”. Họ nhắm mắt nói bừa rằng, tất cả những quyền thiêng liêng của dân tộc được nói trong “Tuyên ngôn độc lập” “đều bị chà đạp thô bạo ngay sau đó, khi mà chính quyền cộng sản được dựng lên!” Họ đã lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để nhen nhóm tổ chức ra những đảng phái; thảo ra những “điều lệ”, “tuyên ngôn”, “cương lĩnh” và đề ra những hình thức, phương pháp hoạt động, hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chống phá Nhà nước, chế độ, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đó chính là bộ mặt thật của cái gọi là “những tổ chức đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam” và đó cũng chính là những hành động vi phạm pháp luật.

Việc xét xử nghiêm minh những người vi phạm pháp luật là việc làm bình thường, theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế. Một số thế lực ở nước ngoài tìm cách tiếp tay, kích động những phần tử chống phá Nhà nước và chế độ. Khi các phần tử này bị xử lý theo pháp luật thì họ kêu la, hò hét rằng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, vi phạm tự do tín ngưỡng, đàn áp tôn giáo, đàn áp những người bất đồng chính kiến. Đó là sự xuyên tạc thô bạo, đổi trắng thay đen nhằm che giấu những âm mưu đen tối của họ. Để đạt mục tiêu đó, họ thực hiện sự kết hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nước, nhưng hướng chính là khơi dậy từ bên trong, tiến tới xây dựng lực lượng chống đối từ trong nước, tạo dựng “Ngọn cờ”, nhân vật “Nòng cốt”, chờ thời cơ để thành lập các tổ chức đối lập với Đảng Cộng sản. Phụ họa theo các nhà “Dân chủ, nhân quyền” có các tổ chức gọi là “Theo dõi nhân quyền” thường sản xuất ra những cái gọi là: “Nghị quyết”, “Báo cáo” về tình hình tự do, nhân quyền trên thế giới trong đó có Việt Nam, họ đòi áp đặt cho Việt Nam những khái niệm về “Tự do, dân chủ” theo kiểu của họ, bất chấp tính đặc thù của quốc gia đó. Mỗi dịp như vậy các nhà “Dân chủ” trong nước được dịp thể hiện cái gọi là “Bức xúc” trước “Thảm trạng” về tự do,dân chủ, nhân quyền trong nước. Một loạt các đối tượng đưa ra xét xử, những người vi phạm đó chỉ vì một chút định kiến, động cơ cá nhân không trong sáng đưa ra những thông tin méo mó, bôi đen sự thật về xã hội Việt Nam, họ liên hệ với những tổ chức, phần tử người việt chống cộng cực đoan ở hải ngoại chống đối nhà nước Việt Nam, đòi lật đổ chế độ hiện hành. Nhiều vị luật sư bào chữa cho các bị cáo nói rằng: Những người nàykhông phạm luật vì họ đã sử dung quyền tự do ngôn luận của mình !? vậy có phải đây là một lập luận đúng? Xin thưa rằng: đó là điều hoàn toàn sai lầm, thực ra ở đây họ đánh tráo khái niệm này. Vấn đề là ở chỗ, trong luật quốc gia và luật quốc tế thì quyền tự do ngôn luận (Và nhiều quyền khác) không phải là quyền “tuyệt đối” như các vị biện minh, ngụy biện cho hành vi phạm pháp của mình mà là những quyền có giới hạn, nói một cách khác là quyền bị hạn chế. Trong công ước Quốc tế về quyền con người, tại khoản 3 điều 19 quy định: “Việc thực hiện những quy định tại mục 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định. Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”. Như vậy là việc các bị cáo dựa vào luật quốc tế về quyền con người để biện hộ cho mình là sai, họ đã phớt lờ về khoản 3 điều 19 liên quan đến tội lợi dụng quyền tự do ngôn luận của các bị cáo thì điều 88 bộ luật hình sự 1999 quy định: “Tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN. Việc các bị cáo và luật sư bào chữa cho rằng không có bằng chứng về hậu quả của hành vị phạm tội của các bị cáo là không có cơ sở pháp lý. Tội “tuyên truyền” vốn là tội phạm mang tính chất “bất bạo động” theo cách nói của mấy nhà “luật học mạng”, blogger. Các vị đòi hỏi phải có bằng chứng về hậu quả của những tội phạm này gây ra ư? chẳng lẽ nhà nước Việt Nam phải ngồi chờ đến khi nào luồng gió sặc “Mùi hoa” như việc đã xảy ra ở Trung đông, bắc phi, Ucraina… thì mới có cái gọi là “bằng chứng” như các vị yêu cầu? Xin thưa hậu quả việc phạm tội của các bị cáo đó là: bạo loạn, lật đổ chính quyền, nội chiến, là sự can thiệp của nước ngoài.vv… Trên thế giới không có một quốc gia nào quy định chứng cứ về hậu quả xã hội của loại tội phạm này. Ngay tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia phương Tây đòi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông chủ mạng WikiLeaks cũng chỉ cho rằng với những thông tin của mạng này “có thể” gây nguy hiểm cho quân đội Hoa Kỳ. Như vậy là với chứng cứ mà các bị cáo khai nhận tại tòa “Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài lieu có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã đủ cấu thành tội phạm và chiếu theo luật hiệnhành, thì mức án mà các bị cáo này phải nhận là đúng người, đúng tội, điều này không thể chối cãi được. Xã hội chính trị lành mạnh luôn hướng dẫn, khích lệ, cổ vũ những động lực đúng đắn của mỗi cá nhân, khi cá nhân đó hành động với động cơ phù hợp với ợi ích chung của cộng đồng thìkhi ấy xung đột xã hội sẽ giảm thiểu, tạo ra sự hài hòa, đồng thuận cùng tồn tại và phát triển, ngược lại những cá nhân đi ngược lại dòng phát triển chung sẽ bắt buộc xá định lại nhu cầu của mình nếu không sẽ bị đào thải và bị pháp luật trừng phạt, quyền tự do bị tước đoạt.

Thực tế cho chúng ta thấy rằng: không tránh khỏi có những ý kiến khác nhau trong các tầng lớp trong xã hội và khác với quan điểm, đường lối của Đảng. Đó cũng là lẽ bình thường không có điều gì “Ghê gớm” vì như chúng ta đã biết nhận thức là một quá trình, chân lý cũng là một quá trình. Do nhiều yếu tố tác động nên không tránh khỏi có những ý kiến, cách tiếp cận khác với đường lối, quan điểm của Đảng. Nhưng phải là những ý kiến đóng góp chân thành chứ không phải là quan điểm chống lạị. Và một thực tế không thể phủ nhận được đó là: Từ một nước thuộc địa, dân bị nô lệ, chúng ta đã giành được cái nhân quyền lớn nhất là quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Từ một nước nghèo, lạc hậu, chúng ta đã phấn đấu xóa đói, giảm nghèo, nâng trình độ phát triển kinh tế lên ngày một khá hơn. Từ một nước có mặt bằng dân trí thấp, Việt Nam đã là một quốc gia có trình độ văn hóa phổ thông cao hơn mức trung bình của thế giới và là quốc gia đạt chỉ số phát triển con người (HDI) vào hàng cao so với nhiều quốc gia khác. Đời sống nhân dân trong nước được cải thiện rõ rệt, quốc phòng, an ninh được giữ vững, xã hội ổn định, vị thế Việt Nam không ngừng được nâng cao, là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước trong đó có cả cường quốc trước đây là “Cựu thù”. Rõ ràng, sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển đi lên với triển vọng tốt đẹp. Mới đây thôi nhận lời mời của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Đoàn nghị sỹ Quốc hội Mỹ do Chủ tịch Thường trực Thượng viện Patrick Leahy dẫn đầu thăm chính thức Việt Nam từ ngày 16 đến 20/4/2014. Báo chí trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm đến chuyến thăm này, xem đây là chuyến thăm nhằm củng cố và phát triển quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước được ký kết bởi Nguyên thủ: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama vào tháng 7 năm 2013. Việt Nam giờ đây là địa chỉ tin cậy cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài, báo chí quốc tế đã phản ánh nhiều điều “mắtthấy tai nghe” của du khách quốc tế viếng thăm đất nước sôi động và trẻ trung sau khi tới Việt Nam hòa mình vào cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân ở nhiều góc cạnh. Việt Nam ngày nay chứng tỏ là một quốc gia thiên đường cho du khách quốc tế. Sẽ là hết sức sai lầm nếu ai còn tin vào những điều ma muội của những kẻ luôn gắn hình ảnh Việt Nam với chiến tranh và sự nghèo đói, mất tự do, dân chủ và bị “kềm kẹp” dưới chế độ “Cai trị của Đảng CS”. Ngược lại, có đến mới biết Việt Nam xinh đẹp và thân thiện và người dân luôn được pháp luật bảo hộ quyền công dân một cách đầy đủ và mang tính nhân văn nhất. Chuyến thăm Việt Nam của ngoại trưởng Mỹ Ông John Kerry ngày 14-12-2013 đã nói lên điều kỳ diệu này “Không ai không ngạc nhiên khi thấy VN hiện đại đã thay đổi thế nào chỉ trong 20 năm. Thật đáng kinh ngạc” – ông nói và nhấn mạnh “đây không phải ngẫu nhiên, mà có sự cam kết và tầm nhìn của rất nhiều người” Ông dẫn chứng: “Kim ngạch thương mại song phương của chúng ta đã tăng 50 lần kể từ năm 1995 lên 25 tỉ USD/năm. Chúng ta sắp đạt mục tiêu tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ sang VN như tuyên bố của Tổng thống Obama năm năm trước”. Đất nước từng bị cô lập vì cấm vận cách đây hơn 20 năm giờ “có thể là một trong những đối tác kinh tế hàng đầu của Mỹ tại khu vực và chúng ta sẽ cố để thực hiện điều đó”. Còn ông Fred Burke, giám đốc điều hành của Hãng luật Baker McKenzie và là người từng ở VN gần 20 năm, thừa nhận những gì ngoại trưởng Mỹ nói. “Những gì ông nói hoàn toàn đúng những gì tôi đã trải qua. Giờ rất nhiều thứ chúng ta xem nhẹ khi nghĩ lại VN đã thay đổi thế nào, từ điện thoại di động cho đến chất lượng cuộc sống” – ông Burke nói. Theo ông, VN giờ đây là “một cơ hội” cho người Mỹ khi rất nhiều người trẻ muốn sang VN để làm các lĩnh vực như công nghệ thông tin hay kinh doanh. Những ai vẫn tồn tại quan điểm bôi nhọ, xuyên tạc, vu khống hãy suy nghĩ lạị, chỉ một dẫn chứng nhỏ về việc này đó là: hằng năm số lượng người Việt Nam sống xa Tổ quốc về thăm đất nước luôn luôn tăng, số lượng người nước ngoài đến Việt Nam tham quan, du lịch và ký kết hợp tác làm ăn cũng ngày càng nhiều, không ít người đến hẳn Việt Nam sinh sống và làm việc. Điều đó chứng tỏ những gì mà các nhà “Dân chủ” kêu gào chỉ là điều nực cười mà thôi./.

Hoa Kỳ 3-5-2014

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014

Đạo của vật Lý- chương 11: Vượt trên thế giới nhị nguyên



Tri kiến về tính phân cực của mọi đối lập, rằng ánh sáng và bóng tối, được và thua, tốt và xấu chỉ là khía cạnh khác nhau của một hiện tượng, là một trong những nguyên lý nền tảng của triết lý sống phương Đông...


CHƯƠNG 11
VƯỢT TRÊN THẾ GIỚI NHỊ NGUYÊN

Khi nhà đạo học phương Đông nói họ chứng mọi sự và biến cố là hiện thân của một nhất thể cơ bản, điều đó không có nghĩa là họ xem mọi sự vật như nhau. Họ thừa nhận tính cá thể của mọi sự, nhưng đồng thời cũng ý thức rằng, trong tính toàn thể bao trùm thì mọi khác biệt và đối lập đều tương đối cả. Đối với ý thức thông thường của chúng ta, thật khó chấp nhận tính thống nhất của mọi khác biệt - nhất là tính thống nhất của mọi đối lập. Đối với thế giới quan phương Đông, nó là nền tảng, đồng thời nó cũng là một trong những nét làm ta hoang mang nhất.

Cặp đối lập là những khái niệm trừu tượng, chúng thuộc về lĩnh vực của tư tưởng và vì thế chúng chỉ là tương đối. Chỉ việc tập trung chú ý lên bất kỳ một khái niệm nào là chúng ta đã tạo ra cái đối lập với nó rồi. Lão Tử nói: “Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi; đều biết lành là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi”. Vì thế mà nhà đạo học vượt qua lĩnh vực của khái niệm suy luận và nhờ đó mà nhận biết cái tương đối và mối liên hệ hai cực của mọi đối lập. Họ nhận thức rằng, tốt và xấu, sướng và khổ, sống và chết không phải là những kinh nghiệm có tính tuyệt đối, thuộc về các loại hình khác nhau, mà chỉ là hai mặt của một thực tại duy nhất; chúng là hai cực của một cái toàn thể. Đạt được tâm thức nhận ra rằng mọi đối lập chỉ là hai cực và tất cả là một thể thống nhất, đạt đến như thế được xem là một trong những mục đích cao cả nhất của con người trong truyền thống tâm linh phương Đông. “Hãy an trụ mãi mãi trong thực tại, đứng ngoài mọi mâu thuẫn thế gian!”, đó là lời khuyên của Krishna trong Chí tôn ca (Bhagavad Gita) và lời khuyên này cũng được truyền cho Phật tử. D.T.Suzuki viết như sau:

Ý niệm cơ bản của Phật giáo là, vượt khỏi thế giới của những đối lập, thế giới của sự phân biệt do óc suy luận dựng lên, thế giới của ô nhiễm do cảm thọ gây ra, và nhận ra thế giới huyền vi của trí vô phân biệt, thế giới đó chứa đựng sự chứng đạt tri kiến tuyệt đối 2.

Toàn bộ giáo lý Phật giáo, hay cả toàn thể đạo học phương Đông nói về tri kiến tuyệt đối này, tri kiến chỉ đạt được trong thế giới vô niệm, trong đó sự thông nhất toàn thể mọi nhị nguyên đối lập là sự chứng thực sinh động.

Sau đây là lời một thiền sư:

Buổi tối nghe gà gáy sáng
Nửa đêm thấy mặt trời soi.

Tri kiến về tính phân cực của mọi đối lập, rằng ánh sáng và bóng tối, được và thua, tốt và xấu chỉ là khía cạnh khác nhau của một hiện tượng, là một trong những nguyên lý nền tảng của triết lý sống phương Đông. Vì mọi mặt đối lập phụ thuộc lẫn nhau, nên mối mâu thuẫn của chúng không bao giờ được giải quyết bằng sự thắng lợi hoàn toàn của một bên mà luôn luôn phải là biểu hiện của sự tương tác của hai bên. Do đó, tại phương Đông, người đúng lý không phải là người làm việc bất khả thi, là chỉ hướng về cái tốt, trừ diệt cái xấu, mà là người giữ được cân bằng giữa cái xấu và tốt.

Khái niệm về sự cân bằng động là quan trọng để hiểu được tính thống nhất giữa các mặt đối lập trong đạo học phương Đông. Tính đó không hề tĩnh tại, nó là một sự tương tác năng động của hai cực. Khía cạnh này được nhấn mạnh rõ nhất thông qua đồ hình âm - dương của thánh nhân Trung Quốc. Họ xem cái nhất thể đứng sau âm - dương là Đạo và xem Đạo là gốc của sự tương tác:

Cái đã sinh ra sáng ra tối, cái đó là Đạo.

Sự nhất thể năng động của hai cực nhị nguyên có thể được biểu diẽn bằng một thí dụ đơn giản với một chuyển động vòng tròn và hình chiếu của nó. Hãy cho một trái bóng quay vòng tròn. Nếu vận động này được chiếu lên màn thì ta thấy nó như chuyển động tuần hoàn giữa hai cực. Để làm sáng tỏ sự tương tự với tư tưởng Trung Quốc, tôi gọi vòng tròn là “Đạo” và hai cực là “Âm” và “Dương”. Trái bóng quay với vận tốc đều, nhưng trên hình chiếu thì nó đi chậm lại khi đến các biên, quay đầu, đi nhanh hẳn rồi lại đi chậm lại và cứ thế ở trong một sự tuần hoàn vô tận.

Trong hình chiếu thì vận động vòng tròn hiện ra như một vận động tuần hoàn giữa hai cực đối lập nhau, nhưng trong sự vận động thực sự thì chúng thống nhất liên lạc với nhau. Hình ảnh này của một sự thống nhất động đã được các nhà tư tưởng Trung Quốc nói đến, thí dụ Trang Tử.

Một trong những cặp đối lập căn bản trong cuộc sống là dương tính và âm tính của tính chất con người. Như cặp tốt - xấu và sống - chết chúng ta dễ thiên lệch với cặp đối lập âm - dương trong chính ta và thường được nghiêng về một trong hai bên.

Xã hội phương Tây có truyền thống coi trọng dương tính hơn âm tính. Thay vì nhận thức rằng tính cách của mỗi người đàn ông hay đàn bà là kết quả của sự tương tác của hai yếu tố âm dương thì xã hội lại đặt ra một quan niệm tĩnh tại là tất cả đàn ông phải là dương tính và tất cả đàn bà là âm tính và cho người đàn ông một vai trò lãnh đạo cũng như phần lớn những đặc quyền xã hội. Quan niệm này sinh ra một sự nhấn mạnh quá mức tất cả khía cạnh dương tính của tính chất con người: chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến v.v… Dạng âm tính của ý thức, xuất hiện trong trực giác, tôn giáo, huyền bí, tâm linh, tâm lý… luôn luôn bị thua thiệt trong xã hội thiên về dương tính.

Trong nền đạo học phương Đông thì mặt âm tính được phát triển hơn và người ta tìm kiếm sự thống nhất giữa hai khía cạnh của tính chất con người. Một người phát triển toàn diện theo Lão Tử phải là: “Tri kỳ hùng; Thủ kỳ thư (Biết như con trống; Giữ như con mái)”. Trong nhiều trường phái đạo học phương Đông, giữ sự cân bằng năng động giữa dạng âm dương của ý thức là mục đích chính của thiền định và thường được trình bày trong các tác phẩm nghệ thuật. Một bức tượng tuyệt vời của thần Shiva trong đền thờ Ấn Độ giáo ở Elephanta cho thấy ba khuôn mặt của đấng sáng tạo: phía mặt diễn tả khía cạnh dương tính đầy sức mạnh và ý chí, phía trái mặt âm tính mềm dịu, hấp dẫn, quyến rũ và ở giữa là sự thống nhất hoàn toàn ở hai khía cạnh trong tượng bán thân của Shiva Mahesvara, vị đại thiên tràn đầy tĩnh lặng và sự cao quí. Trong đền này người ta cũng thấy Shiva được biểu diễn bằng hai dạng, nửa nam, nửa nữ, và dáng điệu mềm mại của một thân thể thần tiên và khuôn mặt rực sáng thanh thoát biểu diễn sự thống nhất năng động của hai yếu tố âm dương.

Trong Phật giáo Tantra, hai cực âm dương thường được biểu diễn bằng hình tượng nhục tính. Tuệ giác được xem là yếu tố âm, thụ động của tự tính con người. Từ bi là dương tính và sự thống nhất hai yếu tố này trên tiến trình giác ngộ được diễn tả bằng sự giao phối nhục dục của nam thần và nữ thần. Nhà đạo học phương Đông cho rằng sự thống nhất hai mặt âm dương chỉ được chứng thực trên bình diện ý thức cao cấp, nơi mà lĩnh vực của ngôn ngữ và tư tưởng được chuyển hóa và trong đó mọi tính chất nhị nguyên đối lập hiện ra thành nhất thể năng động.

Như đã nói, nền vật lý hiện đại đã đạt tới một bình diện tương tự. Sự nghiên cứu thế giới hạ nguyên tử đã phát hiện ra một thực tế, thực tế đó luôn luôn vượt trên ngôn ngữ và lý luận logic và sự thống nhất những khái niệm vốn từ xưa đến nay đối nghịch nhau, loại trừ lẫn nhau, sự thống nhất đó đã tự chứng tỏ là một trong những nét xuất sắc nhất của thực tế mới mẻ này.

Ta có thể tìm thấy nhiều thí dụ trong vật lý hiện đại về tính nhất thể của những khái niệm đối lập ở bình diện hạ nguyên tử, trong đó hạt vừa huỷ diệt được vừa không huỷ diệt được, vật chất vừa liên tục vừa phi liên tục, năng lượng và vật chất chỉ là hai khía cạnh khác nhau của cùng một hiện tượng. Trong tất cả những thí dụ đó mà về sau ta còn tiếp tục xét đến, thì khuôn khổ của những khái niệm đối lập, do kinh nghiệm hàng ngày phát sinh ra, đối diện với bình diện của hạt hạ nguyên tử, khuôn khổ đó quá chật hẹp. Thuyết tương đối là then chốt để mô tả thế giới đó và trong hệ thống tương đối thì các khái niệm cổ điển đã bị chuyển hóa, trong đó người ta thêm một chiều mới, tiến tới một hệ thống bốn chiều không - thời gian. Bản thân không gian - thời gian tưởng chừng như hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng trong thuyết tương đối, chúng đã được thống nhất. Tính nhất thể cơ bản này chính là sự thống nhất các mặt đối lập đã nói ở trên. Như sự chứng thực của các nhà đạo học về sự thống nhất tính nhị nguyên, sự nhất thể cũng chỉ xảy ra trên một bình diện cao hơn, ở đây tức là thêm một chiều mới, và cũng như chứng thực tâm linh, sự nhất thể cũng có tính động, vì thực tại đã bị tương đối hóa trong không - thời gian là một thực tại luôn luôn hoạt động, trong đó vật thể bản thân nó là một tiến trình và tất cả mọi dạng hình đều là cấu trúc động.

Để minh chứng sự nhất thể của các đại lượng tưởng chừng tách biệt ,ta không cần thuyết tương đối. Người ta cũng có thể nhận ra nó khi ta đi từ một lên hai chiều, hay từ hai lên ba chiều. Trong thí dụ kể trên về sự vận động vòng tròn và hình chiếu của nó, ta thấy chuyển động tuần hoàn với hai cực là chuyển động một chiều (dọc theo hình chiếu) đã được thống nhất trong chuyển động xoay tròn hai chiều (trong một mặt phẳng). Hình sau đây đưa ra một thí dụ, đi từ hai chiều lên ba chiều.

Hình vẽ này vẽ một ống tròn (như ruột bánh xe), được cắt bởi một mặt phẳng nằm ngang. Trong mặt phẳng hai chiều, hai miếng bị cắt đó xuất hiện như hai đĩa tròn hoàn toàn độc lập, nhưng trong cơ cấu ba chiều ta thấy chúng là thành phần của một vật thể duy nhất.

Một sự thống nhất tương tự của những đơn vị tưởng chừng độc lập và không thể phù hợp với nhau cũng đạt được khi đi từ ba chiều qua bốn chiều trong lý thuyết tương đối. Trong thế giới bốn chiều của vật lý tương đối thì khối lượng và lực đã được thống nhất, tại đó khối lượng có thể xuất hiện dưới dạng hạt có tính phi liên tục hay trường có tính liên tục. Thế nhưng, trong những trường hợp vừa kể thì ta hết tưởng tượng được tính thống nhất của chúng nữa. Nhà vật lý có thể biết không gian bốn chiều bằng toán học trừu tượng, nhưng khả năng tưởng tượng ra hình ảnh của họ cũng như mọi người khác, bị giới hạn trong không gian ba chiều. Ngôn ngữ cũng như cấu trúc tư duy của chúng ta cũng được phát triển trong thế giới ba chiều này và do đó ta làm việc với thực tại bốn chiều của nền vật lý tương đối hế sức khó khăn.

Mặt khác, hình như các nhà đạo học phương Đông có cách chứng đạt một cách cụ thể và trực tiếp một thực tại nhiều chiều. Trong dạng thiền quán sâu xa, họ có thể vượt qua thế giới hàng ngày ba chiều và chứng thực tại hoàn toàn khác, trong đó mọi mâu thuẫn nhị nguyên được thống nhất trong một sinh cơ toàn thể. Khi tìm cách dùng ngôn từ để diễn tả kinh nghiệm của họ, họ cũng gặp khó khăn y như nhà vật lý tìm cách nói về thực tại bốn chiều trong vật lý tương đối. Lama Govinda nói:

Nhờ sự tổng hoà các chứng đạt trong những trung tâm ý thức khác nhau mà một chứng thực của tầng cao hơn được thực hiện. Do đó không mô tả được chứng thực nhất định của thiền quán trên bình diện của tư duy ba chiều, trong một logic bị hạn chế vì phải ép mình theo bình diện đó.

Hình ảnh của một sóng, chúng lan rộng mãi trong không gian; nó phải khác hẳn với hình ảnh của một hạt có vị trí chính xác. Nhà vật lý phải cần thời gian dài mới chấp nhận được thực tế là, vật chất biểu hiện dưới hai cách, dường như loại trừ lẫn nhau, đó là hạt vừa là sóng và sóng vừa là hạt...

Trong vật lý hiện đại, thế giới bốn chiều của thuyết tương đối không phải là thí dụ duy nhất, trong đó những khái niệm mâu thuẫn lẫn nhau, tưởng không thống nhất với nhau, cuối cùng chỉ được xem là những khía cạnh của một thực thể. Trường hợp tiêu biểu nhất của sự thống nhất những khái niệm mâu thuẫn có lẽ là khái niệm sóng và hạt trong vật lý hiện đại.

Trên bình diện nguyên tử thì vật chất có hai khía cạnh: nó xuất hiện dưới dạng hạt và dạng sóng. Tuỳ theo trạng thái mà nó cho thấy dạng nào, có khi khía cạnh hạt rõ nét hơn; trong trạng thái khác, các hạt đó có tính chất như sóng. Tính chất hai mặt đó cũng là tính chất của ánh sáng và tất cả các tia điện từ khác. Thí dụ ánh sáng được phát ra và hấp thụ dưới dạng lượng tử (quanta) hay quang tử (photon), nhưng khi những hạt này di chuyển trong không gian, chúng xuất hiện như những trường điện, trường từ rung động có tất cả đặc trưng của sóng. Các hạt electron thường được xem là hạt, thế nhưng cho chúng chạy lọt qua một khe nhỏ thì chúng lại có hiện tượng khúc xạ ánh sáng, nói cách khác: electron có tính chất sóng.

Tính chất hai mặt lạ lùng này của vật chất và tia bức xạ làm nảy sinh ra nhiều công án lượng tử, nhờ thế mà ngành vật lý có được thuyết lượng tử. Hình ảnh của một sóng, chúng lan rộng mãi trong không gian; nó phải khác hẳn với hình ảnh của một hạt có vị trí chính xác. Nhà vật lý phải cần thời gian dài mới chấp nhận được thực tế là, vật chất biểu hiện dưới hai cách, dường như loại trừ lẫn nhau, đó là hạt vừa là sóng và sóng vừa là hạt.

Khi nhìn hai hình trên, người ngoài ngành có thể cho rằng, mâu thuẫn này có thể giải quyết được bằng cách nói rằng hạt đã di chuyển không phải bằng đường thẳng mà bằng đường gợn sóng! Nói như thế là không hiểu đúng tính chất của sóng. Trong thiên nhiên không có hiện tượng hạt di chuyển theo hình gợn sóng. Thí dụ trong nước, các hạt nước không chạy theo sóng, nó chỉ quay tròn khi sóng chạy ngang (xem hình dưới). Tương tự như thế, trong sóng âm thanh các phần tử không khí chỉ rung động tại chỗ, chứ không chạy theo sóng âm thanh đi đâu cả. Hiện tượng sóng chỉ tạo nhiễu, sóng mang nhiễu chứ không mang hạt khối lượng. Do đó trong thuyết lượng tử, khi nói hạt là sóng, ta không hề ám chỉ đường đi của hạt có dạng sóng. Điều ta muốn nói là, toàn bộ cơ cấu sóng là một biểu hiện của hạt.

Hình ảnh của một sóng di động như thế rất khác với một hạt di động, chúng khác nhau như “sóng trên mặt biển với đàn cá bơi cùng chiều trong dó” (V.Webkopf).

Hiện tượng sóng được tìm thấy khắp nơi trong vật lý, trong nhiều mối liên hệ khác nhau, nó được mô tả bằng những công thức toán học như nhau, bất kỳ nó xảy ra ở đâu. Những công thức này được sử dụng để mô tả sóng ánh sáng, sự rung động của một sợi dây đàn, sóng âm thanh hay sóng trên nước. Trong thuyết lượng tử, chúng được dùng để mô tả tính chất sóng của hạt. Thế nhưng ở đây thì sóng trừu tượng hơn nhiều. Chúng liên hệ trực tiếp với tính chất thống kê của thuyết lượng tử, tức là mọi hiện tượng nguyên tử chỉ có thể diễn tả bằng xác suất. Những thông tin về xác suất của một hạt được chứa đựng trong một đại lượng gọi là hàm số xác suất và dạng toán học cho đại lượng này là dạng của một sóng, tức là nó giống như những dạng dùng để mô tả các loại sóng khác. Thế nhưng những sóng liên hệ với hạt này không phải là những sóng “thật” ba chiều như sóng trên nước, sóng âm thanh mà là “sóng xác suất”, là những đại lượng toán học trừu tượng. Hàm xác suất chỉ ra một hạt tại những vị trí khác nhau, với những tính chất khác nhau.

Trong một nghĩa nhất định, việc sử dụng sóng xác suất giải quyết được sự nghịch lý do tính chất của hạt sinh ra, bằng cách đặt sự mâu thuẫn đó trong một khuôn khổ hoàn toàn mới. Khuôn khổ này dẫn đến một cặp khái niệm đối lập khác, khái niệm này còn cơ bản hơn nữa, đó là hiện hữu - phi hiện hữu.

Cặp đối lập này cũng được chuyển hóa trong thực tại của nguyên tử. Không bao giờ ta có thể nói một hạt cơ bản hiện hữu tại một chỗ nhất định, ta cũng không thể nói nó không hiện hữu. Vì là một cấu trúc xác suất, hạt có khả năng hiện hữu tại nhiều nơi, và vì thế nó biểu hiện một thực tại lý tính kỳ lạ giữa hiện hữu - phi hiện hữu, giữa có - không. Do đó ta không thể mô tả trạng thái của hạt trong khái niệm dứt khoát có - không được. Tại một điểm nhất định thì nó vừa không có mặt, vừa không vắng mặt. Nó không di động, nó cũng không yên nghỉ. Điều thay đổi chỉ là cấu trúc xác suất và khả năng của hạt có mặt hay không có mặt tại một chỗ nhất định:

Thí dụ khi ta hỏi, liệu electron vẫn giữ nguyên vị trí hay không, ta phải trả lời “không”, khi ta hỏi, liệu vị trí electron có thay đổi theo thời gian không, ta phải trả lời “không”; khi ta hỏi, liệu electron nằm yên, ta phải trả lời “không”, khi ta hỏi, liệu nó đang vận động, ta phải trả lời “không” (J.R.Oppenheimer).

Thực tại của nhà vật lý cũng như nhà đạo học phương Đông đã vượt qua khung nhỏ hẹp của những khái niệm đối lập. Lời của Oppenheimer vang lên như tiếng dội của những dòng Các bài thuyết giảng (Upanishad):

Nó vận động. Nó không vận động
Nó ở xa và nó ở gần
Nó nằm trong tất cả những thứ ấy,
và nằm ngoài tất cả những thứ ấy.

Vật chất và lực, sóng và hạt, vận động và tĩnh tại, có và không, đó là vài khái niệm đối lập nhau hay mâu thuẫn nhau, chúng đã được vật lý hiện đại chuyển hóa. Trong tất cả những cặp đối lập này thì cặp cuối cùng (có - không) xem ra là cái cơ bản nhất; thế nhưng trong vật lý nguyên tử, chúng ta còn phải vượt xa lên khái niệm có - không nữa. Trong thuyết lượng tử thì điều này khó chấp nhận nhất và đó là nguyên nhân tại sao những thảo luận hiện nay vẫn còn nặng nề về cách lý giải thuyết này. Song song, sự chuyển hóa khái niệm có - không cũng là một trong những khía cạnh bí ẩn của đạo học phương Đông. Cũng như nhà vật lý, nhà đạo học tới với một thực tại nằm bên kia có - không và họ nhấn mạnh đến thực tại quan trọng này. Mã Minh nói:

Chân Nhi phi tướng “có”, phi tướng “không”; phi tướng “chẳng phải có”, phi tướng “chẳng phải không”; phi tướng “cũng có và cũng không”.

Trước một thực tại nằm ngoài những khái niệm đối lập, nhà vật lý và nhà đạo học phải làm quen với một cách tư duy đặc biệt, trong đó óc suy luận không bị gò bó nguyên tắc trong cơ cấu của logic cổ điển mà nó phải thay đổi cách nhìn một cách liên tục. Thí dụ, trong vật lý nguyên tử ta đã làm quen với mô tả vật chất vừa bằng khái niệm hạt, vừa bằng khái niệm sóng. Chúng ta đã học cách phải chấp nhận cả hai hình ảnh này, chuyển đổi qua lại để có thể hiểu được thực thể nguyên tử. Đây cũng chính là cách các nhà đạo học phương Đông nghĩ ra khi họ cố gắng trình bày về một thực tại nằm bên kia của đối lập. Hãy nghe Lama Govinda nói: “Cách tư duy phương Đông giống như đi vòng xung quanh sự vật mà nhìn… nó sinh ra một ấn tượng nhiều mặt, nhiều chiều, nó là sự chồng lên nhau của nhiều ấn tượng do nhiều cách nhìn khác nhau sinh ra”.

Để thấy người ta chuyển đổi qua lại hình ảnh của sóng và hạt thế nào trong vật lý nguyên tử, chúng ta hãy xét kỹ hơn khái niệm sóng và hạt. Sóng là một cấu trúc dao động trong không gian và thời gian. Trong một thời điểm nhất định, ta có thể xét nó và thấy đó là một dạng tuần hoàn như hình sau đây.

Cấu trúc này có đặc điểm là biên độ A, chiều cao của sóng và độ dài sóng L, khoảng cách giữa hai đỉnh sóng. Trong một cách nhìn khác, ta có thể xét sự vận động của một điểm nhất định của sóng, ta sẽ thấy một dao động với một tần số nhất định, tần số đó cho biết trong một giây, điểm đó dao động lui tới bao nhiêu lần. Bây giờ ta hãy xét tới hạt. Theo hình dung cổ điển thì cứ mỗi thời điểm hạt ở một chỗ nhất định và trạng thái vận động của nó. Hạt càng có vận tốc cao thì càng chứa nhiều động năng. Trong thực tế thì nhà vật lý ít dùng vận tốc để diễn tả tình trạng vận động mà dùng “xung lực”, đó là tích số của khối lượng và vận tốc của hạt.

Thuyết lượng tử nối tính chất của một sóng xác suất với tính chất của hạt liên hệ bằng cách xem biên độ của một sóng tại một chỗ nhất định tỉ lệ với xác suất sẽ tìm thấy hạt tại chỗ đó. Biên độ của sóng càng lớn thì càng dễ thấy hạt tại đó, biên độ càng nhỏ thì càng khó tìm thấy nó. Thí dụ theo hình trên, biên độ như nhau và do đó xác suất có thể tìm thấy hạt là bằng nhau suốt trong sóng.

Thông tin về tình trạng vận động của một hạt được chứa trong độ dài sóng và tần số. Độ dài sóng tỉ lệ nghịch với xung lượng của một hạt, tức là, một sóng có độ dài sóng ngắn (tức là tần số cao) ứng với một hạt có xung lượng lớn (tức vận tốc lớn). Như thế, tần số sóng tỉ lệ thuận với năng lượng của hạt, một sóng có tần số cao có nghĩa là hạt liên hệ có năng lượng lớn. Thí dụ tia cực tím có tần số cao, độ dài sóng ngắn và do đó chứa những photon có năng lượng cao, xung lượng lớn; ngược lại photon của ánh sáng đỏ với tần số thấp và độ dài sóng lớn chỉ chứa năng lượng ít, xung lượng thấp.

Trong thí dụ này, một sóng khi truyền đi không cho ta biết rõ về vị trí của hạt. Dọc theo sóng với xác suất bằng nhau thì ở đâu cũng có khả năng như nhau để tìm thấy nó. Thế nhưng chúng ta hay gặp tình trạng có những hạt mà ta biết khá rõ chúng ở đâu, thí dụ khi mô tả electron trong một nguyên tử. Trong trường hợp đó thì xác suất tìm ra một hạt một chỗ nào đó chỉ giới hạn trong một không gian nhất định. Ngoài không gian này thì xác suất của nó phải bằng không. Trường hợp này xảy ra, như hình sau đây mô tả, đó là dạng sóng chỉ nằm trong một khoảng X. Dạng này được gọi là bó sóng. Bó sóng bao gồm nhiều sóng khác nhau với độ dài sóng cũng khác nhau, chúng giao thoa và triệt tiêu lẫn nhau bên ngoài X, tức là tổng số biên độ của chúng - chính là độ xác suất tìm ra hạt - triệt tiêu bằng không, trong lúc trong X thì có dạng sóng. Dạng này chứng tỏ rằng, hạt nằm đâu đó trong X, thế thôi, không cho biết rõ thêm. Đối với những điểm trong X ta chỉ có thể nói lên độ xác suất của sự hiện diện của hạt (hạt có lẽ hiện diện ở trung tâm, nơi đó xác suất cao nhất, đó là nơi biên độ lớn nhất, càng ra xa càng nhỏ). Do đó, độ dài X của bó sóng chỉ độ bất định của vị trí hạt.

Tính chất quan trọng của một bó sóng là độ dài sóng của nó không được định nghĩa rõ, tức là khoảng cách giữa hai đỉnh sóng không bằng nhau trong toàn bộ cấu trúc. Độ dài sóng tại hai biên (của X) lớn hơn độ dài sóng ở giữa, sự khác biệt đó phụ thuộc vào X, sự khác biệt càng lớn nếu X càng nhỏ. Điều này chưa lên hệ gì tới thuyết lượng tử, nó chỉ là tính chất của sóng nói chung. Thuyết lượng tử chỉ nhập cuộc khi người ta xem độ dài sóng và xung lượng (hay vận tốc) của hạt đó có liên hệ mật thiết với nhau. Cụ thể là khi không định nghĩa được độ dài sóng, người ta cũng không định nghĩa được xung lượng của hạt. Điều đó có nghĩa là không những chỉ có một sự bất định về vị trí của hạt, như độ dài X của bó sóng nói rõ, mà còn có một sự bất định của xung lượng gây ra từ sự khác biệt độ dài sóng ở giữa và hai biên của bó sóng. Hai sự bất định này phụ thuộc lẫn nhau, vì X càng nhỏ (bất định vị trí) thì sự khác biệt của độ dài sóng (bất định vận tốc) càng lớn. Nếu ta ép hạt vào một vị trí thật chính xác, tức là bó sóng sẽ rất ngắn thì độ dài sóng rất khác nhau giữa trung tâm và biên độ, thì ta có sự bất định về xung lượng (hay vận tốc) của hạt.

Định luật toán học về mối liên hệ giữa hai sự bất định về vị trí và xung lượng chính là định luật bất định của Heisenberg, hay nguyên lý bất định. Điều đó có nghĩa là trong vật lý hạ nguyên tử không bao giờ ta biết được vị trí và xung lượng của một hạt, với độ chính xác cao.

Vị trí của hạt càng rõ thì ta càng mơ hồ về xung lượng của nó, và ngược lại. Ta có thể quyết định đo lường chính xác trị số nào trong hai, nhưng trị số kia sẽ bị che kín. Sự hạn chế này, như đã nói trong chương trước, không phải do máy móc đo lường kém hiện đại, mà đó là một sự hạn chế có tính nguyên tắc. Nếu ta muốn đo lường chính xác vị trí của hạt thì nó không có một cái gọi là xung lượng chính xác để đo, và ngược lại.

Mối liên hệ giữa sự bất định vị trí và xung lượng của hạt không phải là dạng duy nhất của nguyên lý bất định. Có những liên hệ tương tự giữa các trị số khác, thí dụ giữa thời gian mà một tiến trình nguyên tử cần đến và năng lượng. Điều này cũng dễ hiểu nếu ta xem bó sóng bây giờ không phải là dao động trong không gian nữa mà theo thời gian, khoảng cách X bây giờ trở thành thời gian T. Khi một hạt đi ngang qua một điểm đo lường nhất định, thì cơ cấu sóng bắt đầu dao động (tại T=0) với biên độ nhỏ, sau đó biên độ lớn dần và cuối cùng giảm lại và chấm dứt (T=T). Thời gian T mà hạt cần để thực hiện xong tiến trình này là thời gian nó đi ngang qua điểm đo của chúng ta. Chúng ta có thể nói quá trình đó xảy ra trong khoảng thời gian T đó, nhưng ta không thể nói chính xác lúc nào. Khoảng thời gian T là sự bất định về thời gia của tiến trình này.

Cũng như trong sự dao động không gian, ở đây ta cũng không định nghĩa được độ dài sóng, mà vì độ dài sóng trong thời gian nói lên tần số, tức là không định nghĩa được tần số. Thuyết lượng tử liên kết tần số của sóng với năng lượng của hạt, nên không định nghĩa được tần số có nghĩa là ta có bất định về năng lượng. Như thế mối liên hệ giữa sự bất định về thời điểm và sự bất định về năng lượng cũng tương tự như sự bất định giữa vị trí và xung lượng như ở trên. Điều đó có nghĩa là không bao giờ cùng lúc ta khẳng định được thời gian T của một tiến trình và năng lượng tương quan với nó. Một tiến trình mà chỉ cần một khoảng thời gian rất ngắn có nghĩa cho một sự bất định lớn về năng lượng: tiến trình cần một năng lượng chính xác thì chỉ có thể xác định trong một thời gian dài hơn.

Ý nghĩa then chốt của nguyên lý bất định là nó cho thấy những hạn chế của khái niệm cổ điển của chúng ta, cho thấy bằng công thức chính xác của toán học. Như trước đây đã mô tả, thế giới hạ nguyên tử hiện ra như một mạng lưới đầy các mối liên hệ giữa những thành phần khác nhau của một cái toàn thể.

Những khái niệm cổ điển của chúng ta, xuất phát từ những khái niệm thông thường vĩ mô, chúng không phù hợp để mô tả thế giới. Trước hết là khái niệm của một đơn vị lý tính riêng biệt, khi áp dụng lên một hạt thì đó chỉ là sự lý tưởng hóa, không có ý nghĩa đích thực. Hạt chỉ có thể định nghĩa trong mối quan hệ với cái toàn thể và những quan hệ này đều có tính chất xác suất, có tính khả năng nhiều hơn là khẳng định. Khi ta mô tả những chất của một đơn vị đó bằng những khái niệm cổ điển như vị trí, năng lượng, xung lượng v.v… ta thấy xuất hiện ra nhiều cặp khái niệm, chúng liên hệ với nhau và không thể định nghĩa một cách chính xác cùng một lúc được. Khi ta càng coi trọng một khái niệm của một vật thể thì khái niệm kia sẽ càng bất định và nguyên lý bất định chỉ rõ mối liên hệ chính xác giữa chúng với nhau.

Nhằm làm sáng tỏ mối liên hệ của những khái niệm cổ điển, Niels Bohr đã đưa ra khái niệm bổ sung. Ông xem hình ảnh hạt và hình ảnh sóng là hai dạng bổ sung lẫn nhau để mô tả một thực thể, mỗi hình ảnh đều chỉ đúng một phần và chỉ có khả năng ứng dụng hạn chế. Để mô tả hoàn toàn thực thể nguyên tử, cả hai hình ảnh này đều cần thiết và cả hai đều được sử dụng trong giới hạn mà định luật bất định đã xác định.

Khái niệm bổ sung này đã giúp nhà vật lý một phần quan trọng trong cái nhìn về thế giới tự nhiên và Bohs cũng thường nói rằng, nó có thể hữu ích cho cả ngoài môn vật lý. Thực tế là khái niệm bổ sung đã đóng một vai trò cự kỳ quan trọng cách đây hai ngàn năm trăm năm trong thế tư tưởng cổ đại Trung Quốc, trong đó người ta đã biết rằng những khái niệm đối lập và phân cực - hay bổ túc - thật ra chúng liên hệ với nhau. Các vị hiền triết Trung Quốc diễn tả sự bổ túc lẫn nhau của các mặt đối lập bằng hình tượng Âm - Dương và thấy mối liên hệ động của chúng nằm ngay trong mọi hiện tượng thiên nhiên và mọi tình huống của con người.

Chắc chắn Niels Bohs cũng đã thấy sự tương đồng giữa khái niệm bổ sung của ông với tư tưởng Trung Quốc. Năm 1937 khi viếng Trung Quốc, lúc đã hình thành lý thuyết lượng tử, khái niệm về đối cực của Trung Quốc tác động mạnh lên ông và cũng kể từ đó ông bắt đầu quan tâm đến văn hóa phương Đông. Mười năm sau, Bohs được phong tước, thành tựu khoa học phi thường cũng như sự đóng góp vào nền văn hóa Đan Mạch của ông được thừa nhận. Khi tìm một biểu hiện phù hợp cho mình, Bohs đã lấy đồ hình Thái cực, đồ hình diễn tả tính chất bổ túc của hai đối cực Âm - Dương. Với sự lựa chọn biểu tượng này với dòng chữ “Contraria sunt complementa” (Đối cực chính là bổ sung) Bohs đã nhận ra sự hòa điệu sâu sắc giữa nền đạo học phương Đông và nền khoa học phương Tây hiện đại.

“Sự tái tạo phi thường của truyện cực ngắn”




ĐẶNG HÀ dịch theo "The Remarkable Reinvention of Very Short Fiction," Robert Shapard, World Literature Today

Truyện cực ngắn là một sự phục hưng hay một sự tái tạo? Để xác định một tác phẩm thuộc thể loại này, phải chăng chỉ cần căn cứ vào độ dài của nó? Và nếu không phải như vậy, thì để được xem là một truyện cực ngắn, tác phẩm ấy phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định nào? Trong chuyên đề về thể loại trên World Literature Today (WLT), bài tiểu luận này của Roberd Shapard đã phần nào phác ra được những kiến giải khác nhau có tính quốc tế trong việc giải quyết những câu hỏi trên. Một vài người có thể đồng tình với cách gọi truyện cực ngắn bằng cái tên “truyện chớp nhoáng” (flash), nhưng Shapard lại nhắc nhở chúng ta nhớ đến lời cảnh báo của Grace Paley: những truyện cực ngắn “cần phải được đọc theo cách mà chúng ta đọc một bài thơ, có nghĩa là, phải đọc nó thật chậm”.

Truyện cực ngắn có rất nhiều tên gọi khác nhau, đa dạng và biến đổi tùy theo độ dài của mỗi truyện, và hơn cả là phụ thuộc vào thói quen trong cách gọi của từng vùng/từng nước. Ở Mĩ, tên gọi phổ biến nhất của nó có lẽ là “flash” (truyện chớp). Còn ở Mĩ Latinh là “the micro” (vi truyện). Trung bình, một truyện cực ngắn có độ dài nhỏ hơn gấp mười lần so với một truyện truyền thống; nhưng tất nhiên, con số này hoàn toàn không phải là cái gì có thể nói lên tất cả. Bởi vậy mà tôi vẫn thích cách nói ẩn dụ mà Luisa Valenzuela sử dụng hơn:

“Tôi thường so sánh một cuốn tiểu thuyết cũng giống như là một loài động vật có vú. Nó thể còn hoang dã và chưa được thuần hóa như một con hổ dữ, hay cũng có thể đã bị chế ngự và thuần phục như một chú bò ngoan ngoãn. Nhưng với một truyện ngắn thì khác. Nó lại giống với một con chim hay một con cá nhỏ. Và cuối cùng, một truyện cực ngắn sẽ rất dễ gợi liên tưởng đến hình ảnh của một con côn trùng (những tác phẩm xuất sắc nhất cũng chính là loài côn trùng đẹp nhất mang sắc màu óng ánh)” [1].

Mức độ lan tỏa của “những con côn trùng tuyệt đẹp” này càng lúc càng rộng thêm lên trên toàn thế giới, đặc biệt là bắt đầu từ những năm 80 của thế kỉ XX. Điển hình như tại Mĩ chẳng hạn, số lượng các tuyển tập, hợp tuyển truyện cực ngắn cùng với những Pcuốn sách sưu tầm truyện vỉa hè được bán ra trên thị trường đã lên tới khoảng một triệu bản – tất nhiên, không thể đạt được tới vị trí best-seller như các đầu sách của John Grisham, nhưng dù sao, đó cũng thực sự là một con số rất đáng lưu ý. Rất nhiều diễn viên truyền hình cũng như diễn viên điện ảnh đã từng đọc trực tiếp cho công chúng nghe các tác phẩm truyện cực ngắn trên sân khấu Broadway. Không chỉ thế, nó còn được ghi âm lại để sau đó phát sóng trong chuyên mục “Truyện ngắn tuyển chọn” (Selected Shorts) trên Đài phát thanh công cộng Quốc gia. Các hội thảo quốc tế về chuyên đề “Truyện Mini” (Minifición) cũng đã được tổ chức ở Thuỵ Sĩ, Tây Ban Nha, Argentina và nhiều quốc gia khác. Đặc biệt hơn nữa, tại Anh, người ta quyết định lựa chọn riêng một ngày để làm Ngày truyện cực ngắn toàn quốc - National Flash Fiction Day (sự kiện này đã được ghi lại trên tờ “Người bảo vệ” – The Guardian). Một ngày kỉ niệm tương tự như vậy cũng đã được tuyên bố ở New Zealand.

Tuy nhiên, vẫn không thể phủ nhận được rằng, dường như rất ít người có thể đưa ra được những lí giải xác đáng về sức hấp dẫn đại chúng mạnh mẽ đến như thế của truyện cực ngắn. Hay thậm chí, cũng không nhiều người có thể hiểu được, các tác phẩm hư cấu nhỏ bé ấy – thực chất, chúng là những cái gì vậy? Phải chăng chúng chỉ là một thứ mốt thời thượng của kỉ nguyên Internet toàn cầu? Và dung lượng của chúng ngắn đến như thế cũng chỉ là bởi TV và mạng xã hội Twitter đã càng ngày càng làm co rút lại khoảng thời gian mà mỗi chúng ta có thể tập trung chú ý? Thế nhưng, nếu những kiến giải ấy về truyện cực ngắn có thực sự chính xác đi chăng nữa, thì Julian Gough – một tiểu thuyết gia Ireland được đánh giá rất cao ở Đức, cũng vẫn cho rằng: rất có thể, ta nên xem nó như là một dấu hiệu tốt lành. Trong tuyển tập “Truyện Châu Âu hay nhất năm 2010” (một truyện cực ngắn của chính Julian Gough cũng đã được lựa chọn để đưa vào đây), ông lưu ý rằng: Thế hệ của tôi, và tất nhiên, của cả những người trẻ hơn tôi nữa, không còn tiếp nhận thông tin qua một kênh hình thức kéo dài, chậm chạp, mạch lạc và giống như là những đơn vị khép kín tự thân (một bộ phim, một album ảnh hay một cuốn tiểu thuyết chẳng hạn); mà ngược lại, trong những dạng thức bùng nổ đột ngột và chớp nhoáng, với sự chuyển đổi đầy ngẫu hứng của những kiểu thông tin hoàn toàn khác nhau (được thể hiện rất rõ qua các thao tác chuyển kênh liên tục mỗi khi xem ti-vi hay cách chúng ta lướt từ trang web này sang trang web khác trên màn hình Ipod). Có thể thấy, sự thay đổi này trong cách tiếp nhận thông tin là nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi trong cách ta đọc các tác phẩm văn học (ở đây là truyện kể), và do đó, tất yếu sẽ làm thay đổi cách chúng ta viết nó. Nhiều người phàn nàn về điều này như là một thảm hoạ. Nhưng hoàn toàn không phải như vậy. Ngược lại, nó mở ra một cơ hội mới. Chúng ta được tự do sáng tạo nên những điều hoàn toàn mới mẻ – những gì mà chỉ đến thời điểm này mới có thể thực sự được nhận thức. Một truyện truyền thống (được kể đi kể lại đến hàng chục nghìn lần), để có thể thu hút độc giả, buộc phải chấp nhận bị làm thương tổn, bị bóp méo đi trong mỗi lần lặp lại. Truyền hình và Internet đã tìm được cách để đối phó lại với sự khủng hoảng này mà vẫn giữ được sức hút với công chúng. Nhưng truyện kể thì chưa làm được điều ấy. [3]

Hãy nghe lời khuyên của Gough dành cho các nhà văn trẻ: “Phải biết học hỏi từ The Simpsons, chứ không phải là từ Henry James”.

Có thể nói, hầu hết chúng ta đều quen đánh đồng “truyện hư cấu văn học” (literary fiction) với tiểu thuyết (mà chắc chắn, không thể coi The Simpsons là một tiểu thuyết được!). Sự tuỳ tiện này có lẽ là một trong những nguyên nhân chính đã khiến cho truyện cực ngắn, mặc dù là một thể loại có thể đem đến cho người viết sự tự do đáng kể, nhưng lại giành được rất ít sự lưu ý từ phía các nhà phê bình. Mối quan tâm của giới phê bình đối với thể loại này cũng thoảng qua, thoáng chốc như chính sự ngắn ngủi chớp nhoảng của mỗi tác phẩm vậy. Tuy nhiên, chỉ cần dừng lại suy ngẫm để nhìn thấu vấn đề hơn, chúng ta sẽ có được một sự hình dung khác hẳn. Vì thực chất, truyện cực ngắn đã được viết bởi các học giả vĩ đại từ rất lâu trước khi tiểu thuyết xuất hiện. Ngay từ thời La Mã cổ đại đã có những truyện ngắn – ngắn của Petronious. Còn đến thời trung cổ thì phải kể đến Marie de France. Có nghĩa là, cần thừa nhận một sự thật rằng, phải mãi đến thời của Defoe (ít nhất là trong khối các nước nói tiếng Anh) thì tiểu thuyết – khi ấy, được xem như là phương thức tồn tại tiêu biểu của tự sự hiện thực chủ nghĩa – mới bắt đầu giành được vị trí thống trị trong các thể loại văn hư cấu. Nhưng rồi, đến thế kỉ XX, rất nhiều nhà văn lớn có thể dẫn ra ở đây như Borges, Cortázar, Walser, Kafka, Buzzati, Calvino, Dinesen và Kawabata đã chọn con đường quay trở về với việc viết các tác phẩm rất ngắn. Từ những làn sóng ngầm ấy đã dần dần dẫn đến sự nở rộ của trào lưu viết truyện cực ngắn khởi nguồn từ Greenland và lan tới tận Indonesia với rất nhiều tên gọi khác nhau: nanos,micros, suddens, và flash. Phải chăng họ đang muốn tạo nên một thời kì Phục hưng của thể loại này – điều mà chỉ tới bây giờ mới có thể thực hiện được, bằng vào quyền năng vô bờ của mạng Internet?

Câu trả lời là đúng, nhưng đồng thời, cũng lại là sai. Bởi trong suốt một thời gian dài ở Mĩ, đã tồn tại một kiểu truyện truyền thống duy nhất là loại truyện một trang (one-page story) xuất hiện trên các tạp chí dành cho người tiêu dùng như “Ladies Home Journal” (Phụ nữ gia đình). Dùng từ “truyền thống” (tradition) có thể không được chính xác, nhưng ở đây, tôi muốn đặc biệt lưu ý tới một đề án nghiên cứu có tính trường hợp tại Đại học California đối với tạp chí này, tập trung vào việc nó luôn dành đúng một trang trong tất cả các số báo để đăng những truyện ngắn hoàn toàn tương tự như nhau. Trong các truyện ấy, những chi tiết về bối cảnh và nhân vật thì có thể thay đổi, nhưng bao giờ cũng vẫn là những cốt truyện đồng dạng, với những tình tiết ngoắt ngoéo và tuân thủ lối kết thúc có hậu.

Nhưng, cho đến năm 1985, khi tôi và James Thomas bắt đầu công việc thu thập những truyện cực ngắn cho cuốn hợp tuyển “Sudden Fiction”, một loạt các tác phẩm mang tính thử nghiệm đã bất ngờ xuất hiện liên tục trên các tạp chí văn học, đến mức tạo thành được cả một làn sóng kéo dài suốt cả một thập kỉ. Chúng được sáng tạo hoàn toàn tự do, không phải tuân theo bất cứ một khuôn sáo nào trước đó, và bởi vậy, không chỉ khiến cho người đọc phải ngạc nhiên, bất ngờ, mà còn luôn luôn thách thức. Có những truyện vẫn tiếp tục sử dụng bút pháp quen thuộc của tiểu thuyết hiện thực, nhưng đã đẩy nó lên một cấp độ hoàn toàn khác. Nhiều tác phẩm lại lấn dần vào địa hạt của siêu-hư cấu, ví dụ như một sáng tác vừa hài hước vừa cảm động của Grace Paley: “Người mẹ” (Mother). Truyện bắt đầu bằng lời của người trần thuật, tự nói rằng cô ta bao giờ cũng chỉ muốn sẽ kết lại những câu chuyện mà mình đang kể bằng một cụm từ duy nhất “và sau đó bà ấy chết”; tuy vậy, sẽ nỗ lực hết sức bằng cách này hay cách khác, để khiến cho người đọc phải ngỡ ngàng cho dù đã liên tục gặp đi gặp lại những lời kết tương tự như vậy. Nhiều truyện khác lại đẩy nhanh tình tiết đến mức gần như vô lí, ví như một tác phẩm nổi bật của Robert Fox: “Ngụ ngôn” (A Fable), kể về một người đàn ông trẻ trên một chuyến tàu điện ngầm. Anh ta đang vô cùng hạnh phúc, vì thứ nhất, đây là chuyến đi làm đầu tiên của anh tới một nơi trong thành phố; và thứ hai, anh ta vừa bất chợt chìm đắm vào tình yêu cùng một cô gái trẻ xinh đẹp ngồi đối diện. Hai người đã kết hôn với nhau bởi một người bán vé trước cả khi tàu đến trạm dừng chân tiếp theo. Tuy vậy, bên cạnh những xu hướng mới ấy, cũng vẫn phải kể đến các tác phẩm có phần lạc hậu hơn, giống như truyện “Những dòng chảy” (Currents) rất xúc động của Hannah Voskuil chẳng hạn. Truyện không được kể theo dòng hồi tưởng (với điểm quy chiếu là hiện tại) mà vẫn trong hình thức của những đoạn văn ngắn tiếp nối nhau như những bước chân trong một cuộc hành trình cứ xa dần và càng lúc càng xa hơn nữa về quá khứ.

Những tác phẩm như thế này không phải là một sự phục hưng từ những hình thức văn học cổ xưa. Ngược lại, chúng thực sự là những nỗ lực để có thể một lần nữa, sáng tạo lại truyện kể.

Rất nhiều nhà văn, khi được chúng tôi hỏi về thể loại truyện hư cấu mới mẻ này, đều bộc bạch những suy ngẫm về mối quan hệ của nó đối với các thể loại văn học khác. “Dạng thức tiết tấu của truyện cực ngắn”, Joyce Carol Oates cho rằng, “gần với phong khí thi ca hơn là văn xuôi truyền thống. Bởi văn xuôi truyền thống, nói chung, thường có xu hướng mở rộng ra để kịch hóa kinh nghiệm và khơi dậy cảm xúc. Trái lại, trong cái khoảng không gian hẹp nhất, chật chội nhất của truyện cực ngắn, thì kinh nghiệm chỉ có thể tồn tại ở dạng hàm ẩn”.[4]

Những người khác, như Russell Banks, lại cố gắng dò xét về nguồn gốc của hình thức thể loại:

Nó là chính bản thân nó. Nó khác hẳn về bản chất so với truyện ngắn truyền thống, nhưng lại có vẻ gần gũi hơn với thể thơ Xo-nê Pháp (sonnet) hay thơ trữ tình Batư (ghazal). Có nghĩa là, cũng giống với hai thể thơ này, trong truyện cực ngắn luôn luôn có những sự vận động nhanh chóng theo các chiều hướng đối lập (hay cũng có thể nói là những vận động mang tính biện chứng), và sau đó là sự thực hiện bước nhảy một cách quyết liệt để có thể giải quyết triệt để mọi mâu thuẫn. Chính đặc trưng này đã khiến cho mỗi tác phẩm truyện cực ngắn có thể mang tới cho người đọc một trạng thái băn khoăn và hoang mang cực độ trong sự thỏa mãn khoái cảm nghệ thuật một cách đặc biệt. Nguồn gốc, hay nói cách khác, sự đòi hỏi của các tác phẩm như thế về hình thức, theo tôi, dường như cũng giống như là yêu cầu về hình thức đối với những dụ ngôn Bắc Âu, những công án Thiền hay những truyện kể Hồi giáo – nơi mà ngôn ngữ và ý niệm siêu hình gần như đang bị túm lấy và siết chặt trong tay các đô vật Hi Lạp. Nó hoàn toàn khác với sự cần thiết về hình thức để có thể tạo ra một cuốn tiểu thuyết hay thậm chí, một truyện ngắn – ở đây, ngôn ngữ không phải chịu những áp lực như vậy. Trái lại, nó có thể hòa quyện một cách thanh bình với mọi vấn đề khoa học xã hội, và bởi vậy mà có thể ví các dạng thức này cũng giống như là một sự sung túc trưởng giả vậy.

Khi tôi cùng với James Thomas tiếp tục công việc sưu tầm của mình, chúng tôi chợt nhận ra rằng: một tác phẩm càng ngắn bao nhiêu thì sự chất vấn những quy phạm “truyền thống” về đặc trưng thể loại truyện ngắn (mà thực chất, chủ yếu bị chi phối từ cái nhìn của chủ nghĩa hiện thực) lại càng được đặt ra ráo riết bấy nhiêu. James nêu lên nghi vấn: “làm sao mà một truyện cực ngắn có thể vẫn bị quy về hay vẫn cứ tiếp tục trung thành với lối truyện truyền thống được?”. Cũng chính bởi vậy mà ông đã lựa chọn nhan đề “Flash Fiction” để đặt cho một tuyển tập các tác phẩm mới được xuất bản năm 1992. Jerome Stern còn đẩy ý tưởng này đi xa hơn nữa trong hợp tuyển của ông: “Micro Fiction” (1996). Ở đây, những truyện được Stern lựa chọn chỉ có dung lượng nhỏ hơn hoặc bằng một nửa so với các tác phẩm “flash fiction” theo tiêu chí của James. Cho đến một vài năm sau nữa, khi Internet đã trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống của chúng ta, các trang báo mạng bắt đầu hình thành càng ngày càng nhiều, và nổi lên cùng với nó là những tác phẩm hư cấu, có thể nói, gần như chưa bao giờ được rút ngắn đến như vậy. Những luật tắc mới dần dần được đặt ra cho trò chơi; và tất nhiên, xuất hiện thêm cả những tên gọi mới như: “quick fiction” (truyện nhanh), “nano fiction” (truyện cực tiểu), và “hint fiction” (truyện nhỏ xíu),...Nhiều ý kiến phê bình về các sáng tác ngắn cũng bắt đầu được đăng trên các trang web như DoubleRoom và FlashFiction.Net. Thế nhưng, không phải phê bình mà chính việc thực hành và sáng tạo mới luôn là vấn đề được chú trọng đến nhiều nhất ở Mĩ - chủ đề thu hút được sự quan tâm lớn nhất về “flash fiction” là: phải viết nó như thế nào?. Chẳng có gì là đáng ngạc nhiên khi hầu hết tất cả các sinh viên đều thích thú khi thử viết một truyện flash một trang hơn là phải viết một tác phẩm truyện truyền thống dài tới tận 50 trang.

Nhưng liệu rằng đây có phải là cách tốt nhất để học viết? Có thể, đúng là như thế. Hãy thử xem xét trường hợp của Jayne Anne Phillips: danh tiếng của bà gắn liền với một bộ sưu tập huyền thoại truyện cực ngắn mang tiêu đề “Những tấm vé đen” (Black Tickets). Và tiểu thuyết gần đây nhất của Jayne – “Chim chiền chiện và con mối” (Lark and Termite), đã lọt vào vòng chung khảo ở cả Cuộc thi sách toàn quốc theo đánh giá của giới phê bình (National Book Critics Circle Award) cũng như ở Giải thưởng sách quốc gia (National Book Award). Từng là một nhà thơ trẻ từ rất lâu trước khi mạng Internet trở nên phổ biến, Anne Phillips đã biết cách tự trau dồi kĩ năng viết của chính mình thông qua việc sáng tác các truyện hư cấu một trang. Theo bà, bằng cách này, người viết có thể tìm thấy được một sự tự do “ngầm ẩn và đầy tính lật đổ” qua mỗi đoạn văn, khi từng bước làm đầy cái hình thức “ngây ngô và tầm thường” của nó bằng những ý tượng trữ tình và mãnh liệt được xây dựng trong một mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Jayne cho rằng: “Các truyện ngắn một trang thực sự hay thường được xây dựng theo kết cấu hình xoáy ốc: ngôn từ xoay xung quanh và mở rộng dần biên độ của vòng quay ra bên ngoài một hạt nhân trung tâm cô đặc được giấu kín. Và theo đó, sự chuyển động theo đường xoáy ốc được thực hiện thông qua ngôn ngữ, dần dần vượt ra bên ngoài cả những đuờng biên của một trang giấy”. “Nhanh, chính xác, khi thì ở bên trong, khi lại vượt thoát khỏi các giới hạn”, bà nói tiếp, “truyện ngắn một trang trôi lơ lửng trong bầu khí quyển của tâm hồn, giống như thể là một hình ảnh được làm bằng khói thuốc”. [5]

Mặc dù là một nhà văn chuyên viết thể trữ tình, Phillips vẫn luôn nhắc nhở sinh viên của bà rằng: các tác phẩm hư cấu một trang cần phải được coi là những truyện kể thực sự (real stories). Nhưng, cái gì là điều kiện cần để nột tác phẩm có thể được coi là “truyện kể thực sự”, hay nói cách khác, những yêu cầu tối thiểu của truyện kể là gì? Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta cần có một tầm nhìn rộng hơn nữa, không chỉ dừng lại trong phạm vi nước Mĩ.



Cách đây vài năm, một Hội thảo toàn cầu về truyện cực ngắn đã được tổ chức tại thành phố trung tâm trực thuộc tỉnh Newquén, Argentina, với sự tham dự của hàng trăm học giả đến từ khắp nơi trên thế giới: Áo, Tây Ban Nha, Mexico, Brazil, Jamaica,…Việc mở cửa các giảng đường của trường đại học địa phương để phục vụ cho Hội thảo này kéo dài tới tận những ngày cuối xuân tươi sáng của tháng 11. Tôi cũng đã ở đó, với vốn tiếng Tây Ban Nha ít ỏi, dù vậy, thật dễ dàng để có thể hiểu được niềm đam mê, tinh thần hài hước và cả sự sáng suốt trong nỗ lực tạo lập một vị trí chính đáng của truyện cực ngắn trong nghiên cứu văn học và nghiên cứu văn hoá. Nhìn một cách tổng thể, truyện cực ngắn Mĩ Latinh thường ngắn hơn so với truyện cực ngắn Mĩ. Và những câu hỏi xoay xung quanh chúng về việc một truyện kể có thể ngắn đến mức độ nào cũng thường được quan tâm ít hơn so với vấn đề liệu tất cả các tác phẩm hư cấu cực ngắn ấy có cần thiết phải được xem là những truyện kể hay không?. Mặc dù vậy, truyện cực ngắn Mĩ Latin (thường được gọi là micro hayminificción), cũng giống như sudden hay flash, đều không chịu bó buộc bởi bất kì một giới hạn thể loại nào. Nó có thể tự do tìm đến tất cả các dạng thức biểu hiện từng có – chủ nghĩa hiện thực, siêu hư cấu, truyện kì ảo, truyện ngụ ngôn, dụ ngôn, giai thoại,...

Chẳng hạn, hãy cùng xem xét một tác phẩm nổi tiếng của Julio Cortázar: “Sự nối dài của những công viên” (A Continuity of Parks), trong đó, nhân vật là một người đàn ông đang đọc một tiểu thuyết trinh thám kể về một người đàn ông khác đang quyết tâm thực hiện một vụ án mạng; hắn đi xuyên qua công viên thành phố, đột nhập vào trong một căn hộ, và, với con dao lăm lăm trên tay, lặng lẽ tiến sát lại gần phía sau chính người đàn ông đang đọc cuốn truyện trinh thám ấy. Có thể xem đó là một tác phẩm thuộc kiểu truyện có tính bí ẩn, thách đố và gần như giao thoa với truyện giả tưởng (ở một ý nghĩa sâu xa hơn, đây có lẽ còn là ẩn dụ cho chính hành động đọc) – yếu tố này trong các truyện Mĩ Latin là lí do khiến cho người ta yêu thích nó: nằm ở bên lề so với truyện hư cấu truyền thống, nhưng vẫn phải thừa nhận nó là một tác phẩm tự sự hay một truyện kể. Còn bây giờ, chúng ta hãy xem đến một sáng tác thuộc kiểu truyện viết lại (reescritura) có độ dài mười hai từ (một dạng thức cực kì phổ biến của truyện mini với nội dung hướng đến việc viết lại những văn bản nổi tiếng) được viết bởi nhà văn Mexico Edmundo Valades, có nhan đề là “Cuộc tìm kiếm” (The Search): (Những tiếng còi báo động điên cuồng tru lên khi đi lang thang khắp thành phố trong cuộc truy lùng Ulysses)

Điều đầu tiên buộc chúng ta phải chú ý đến là sự miêu tả đầy ấn tượng về những âm thanh, mà có lẽ, là tiếng còi của xe cứu thương trong một thành phố hiện đại. Nhưng, người đọc còn bất ngờ hơn nữa khi nó đột ngột dừng lại với cái tên Ulysses, kéo ngược mọi liên tưởng trở về với một truyện kể cổ xưa, trong đó, người anh hùng Ulysses đã tự nguyện trói mình vào một cột buồm để chống lại sự quyến rũ của các mĩ nhân ngư đang ra sức dụ dỗ con thuyền của chàng lao vào những tảng đá. Sự gợi nhắc đầy bất ngờ này không chỉ mang lại hiệu ứng gây choáng váng cho độc giả mà còn khiến chúng ta không thể không đặt ra những câu hỏi để nghiền ngẫm lại một tác phẩm tưởng như đã trở nên xưa cũ. Có lẽ nào, thực ra, các mĩ nhân ngư đã phải chịu đựng một lời nguyền khốn khổ, bị bắt buộc làm nhiệm vụ kiếm tìm vĩnh viễn sự trốn chạy của Ulysses, thậm chí ngay cả trong một thành phố hiện đại? Ai là người đang nói với chúng ta điều này? Ta cũng có thể nghĩ về Leopold Bloom của Joyce, người đại diện cho những kẻ thường dân thời hiện đại – phải chăng những tiếng còi/những nàng tiên cá vẫn đang tìm kiếm anh ta, hay đang hướng về chính người kể chuyện, hoặc cũng có thể là đang truy lùng tất cả chúng ta? Khi sự suy ngẫm của người đọc cứ mở rộng dần ra thêm mãi, chúng ta gần như sẽ hoàn toàn quên mất rằng: mười hai từ của “Cuộc tìm kiếm” (The Search), thậm chí, còn không đủ khả năng để tạo nên nổi một câu hoàn chỉnh. Vậy mà, như một nghịch lí, nó chứa đựng được ở trong nó cả một thiên sử thi. Và dù thế nào, thì câu hỏi cuối cùng cũng vẫn là: với những đặc điểm ấy, nó thực chất có phải là một truyện kể hay không?

“Cuộc tìm kiếm” là tác phẩm tôi mới tìm được khi đọc một nghiên cứu của Colin Peters:“Truyện mi-ni: một trường hợp nghiên cứu cấu trúc truyện kể” (Minificción: A Narratological Investigation), do trường Đại học Viên xuất bản. Nghiên cứu này không chỉ gợi nhớ đến công trình của các nhà Tự sự học cấu trúc đã tham dự cuộc hội thảo ở Argentina như Lauro Zavala và David Lagmanovich, mà còn gián tiếp nhắc lại những ý kiến của Gérard Genette, Tzvetan Todorov, Roland Barthes và Shlomith Rimmon-Kenan – những người cùng cho rằng, yêu cầu tối thiểu của một tác phẩm tự sự là nó bao giờ cũng phải có ít nhất từ hai sự kiện trở lên. (Cũng có thể cảm nhận được âm hưởng của nhận định này qua lời tuyên bố nổi tiếng của E.M.Forster trong bài giảng của ông tại trường Đại học Oxford năm 1927: “Nhà vua băng hà, và ngay sau đó, hoàng hậu qua đời – chỉ cần như vậy, nó đã được coi là một truyện kể”). Có thể thấy, theo tiêu chí này, “Cuộc tìm kiếm” không phải là một truyện kể. Tuy nhiên, Peter vẫn chấp nhận việc xem nó như là một truyện mi-ni (minifición). Ông đơn giản chỉ đi đến kết luận rằng: tính tự sự là không cần thiết đối với thể loại này.

Thế nhưng, không dừng lại ở đó, một nhà nghiên cứu người Peru là Julio Ortega (làm việc tại trường đại học Brown), đã cố gắng lập luận để đưa ra được một nguỡng thấp hơn cho định nghĩa truyện kể - nó có thể chỉ dựa trên một sự kiện duy nhất:

Truyện cực ngắn đầu tiên mà tôi đã từng đọc được ở đâu đó, gần giống với kiểu lời nói xuất hiện trên một tấm thẻ khắc chữ Ai Cập cổ đại, chỉ là một lời tuyên bố rằng: “John đã ra ngoài trên một chuyến đi” (John went out on the trip). Làm thế nào để chúng ta xác định được đây là một truyện cực ngắn (flash fiction) chứ không phải là một lời thông báo đơn thuần? Có lẽ là bởi chẳng có bất cứ một ai, trong một khoảng thời gian nào đó, có thể rời bỏ thị trấn của mình chỉ bằng ý muốn của chính anh ta. Không chỉ thế, trong dạng thức một câu nói, tác phẩm thể hiện đầy đủ đặc trưng tu từ ở mức độ cao của truyện cực ngắn: thứ nhất, nó có một nhân vật (tôi gọi anh ta là “John”, nhưng cũng có thể anh ta phải có đến hàng ngàn hàng vạn cái tên khác nhau); thứ hai, ở đây có một hành động chi phối (việc kể chuyện hoàn toàn diễn ra trong thì hiện tại); và tất cả những gì đang được trình bày hay được nói tới cũng đều diễn ra tại thời điểm đó. Một điều không kém phần quan trọng nữa là tác phẩm đảm bảo một nguyên tắc gần như không thể thay đổi đối với bất kì một truyện kể nào – đó là sự phá vỡ luật tắc. John có vẻ như là một kẻ phiêu lưu dám đứng lên chống lại quyền lực, để rồi quyết định ra đi – khám phá – và nhận thức.[7]

Những tiêu chuẩn trên về truyện kể phải chăng cũng hoàn toàn có thể được áp dụng cả cho tiểu thuyết? Như một tiểu thuyết gia người Anh từng đoạt giải Pulitzer, Olen Butler (chính ông cũng từng viết rất nhiều truyện cực ngắn) đã nói: “Truyện kể là hình thức nghệ thuật của những niềm khao khát đầy tính nhân văn, điều ấy không phụ thuộc vào việc các tác phẩm hư cấu đó dài hay ngắn”.[8]

Tôi đồng ý với nhận định của Butler. Thực ra, đây mới chính là vấn đề trọng tâm. Tôi làm công việc sưu tầm truyện cực ngắn, nhưng lại thường thấy thích thú vô cùng khi bị cuốn hút và hoá thân hoàn toàn vào một cuốn tiểu thuyết. Làm sao mà một người đọc có thể hoà mình vào một truyện ngắn chỉ có một trang được? Thế nhưng, đôi khi tôi lại muốn có được cả hai trạng thái ấy: tính dữ dội của truyện cực ngắn và sự cảm nhận đối với tiểu thuyết. Có lẽ vì thế mà tôi thích hơn cả là những truyện ngắn có độ dài khoảng tầm bốn đến năm trang. Rất nhiều nhà văn tuyệt vời cũng thích độ dài này của truyện kể - các tác giả đã từng đoạt giải Obies, Oscars, Pulitzers và thậm chí cả giải Nobel nữa.

Nhưng hình như chúng ta đang chỉ muốn tập trung hướng đến luận bàn về những tác phẩm cực kì ngắn mà thôi. Thế nên, thật thích hợp khi dành những lời cuối cùng (theo nghĩa đen) cho Guillermo Samperio, một nhà văn người Mexico, tác giả của truyện cực ngắn “Phantasma” (Ảo ảnh hay, Bóng ma) – một tác phẩm chẳng có bất cứ một chữ nào cả, chỉ duy nhất có một cái tiêu đề, và tiếp sau nó là một trang giấy trắng.

Sự lựa chọn của World Literature Today (WTO) về việc đăng các truyện cực ngắn cũng phức tạp và đa dạng như bạn có thể gặp ở bất cứ đâu. Những tác phẩm này, được viết bởi mười một tác giả đến từ mười quốc gia khác nhau, có dung lượng dao động từ “sudden” (khoảng 2 trang) đến “flash”(khoảng 1 trang) và cho tới cả “micro” (từ ½ trang trở xuống). Nếu như truyện của Carmen Boullosa có thể xem là một giai thoại, thì sáng tác của Josefine Klougarl là một bài thơ văn xuôi, của Hisham Bustani là một lời vận động chính trị; và tác phẩm của Vanessa Gebbie thì thực đúng là một truyện cực ngắn thuần tuý – bút pháp mô tả sinh động của nó không nhằm vào mục đích giải thích mà hơn thế, hướng đến việc khơi gợi và làm bật lên một câu chuyện. Chúng tôi cũng không bỏ qua các sáng tác của Andrés Neuman và Lili Potpara, chúng đều vô cùng giản dị, dễ hiểu nhưng lại có khả năng mang đến cho người đọc nhiều phức hợp cảm xúc không dễ gì có thể diễn đạt thành lời được. Truyện cực ngắn của Luis Jorge Boone lại thể hiện một sự sùng kính đối với Jorge Luis Borges (hãy chú ý chi tiết “những mê cung” ở phần cuối tác phẩm). Không chỉ thế, dường như truyện cực ngắn nào cũng mang tính thách thức trí tuệ và năng lực nhìn của mỗi chúng ta. Ví dụ như, “Nhiều thêm nữa những siêu anh hùng đích thực” (More True Superheroes) đặt ra câu hỏi: đặc tính phi thường thực chất là gì; hay “Theo sự dẫn dụ của các nhà tu” (On the Conductivity of Monks) lại nêu lên được những tra vấn về mối quan hệ giữa các văn bản được vay mượn và các truyện kể hư cấu. Nếu bạn là một người mới bước đầu tiếp cận với thể loại truyện cực ngắn, hãy lưu ý tới một lời cảnh báo rằng: các tác phẩm ấy quá ngắn, đến mức chúng thường dễ dàng bị bỏ qua. Vì vậy mà Grace Palley mới nhắc nhở: “chúng cần được đọc như một bài thơ, có nghĩa là, phải thật chậm” – và nếu như bạn cảm thấy chưa được thoải mái bởi một nỗi băn khoăn khó hiểu nào đó khi đọc chúng, hoặc ngược lại, thực sự thấy thích chúng, thì một trong những điều thú vị nhất mà truyện cực ngắn có thể mang đến cho chúng ta là nó chỉ đòi hỏi ở bạn rất ít thời gian để đọc lại và suy ngẫm lại một lần nữa.



Đ.H





......................



1. Robert Shapard, James Thomas, and Ray Gonzalez, eds., Sudden Fiction Latino: Short-Short Stories from the United States and Latin America (W. W. Norton, 2010), 20.

2. David Gaffney, “Top Flash Fiction Writing Tips: David Gaffney,” Guardian, May 15, 2012(www.guardian.co.uk/childrens-books-site/2012/may/15/flash-fiction-tips-david-gaffney?newsfeed=true [5]).

3. Aleksandar Hemon, ed., Best European Fiction 2010 (Dalkey Archive Press, 2009), 374–75.

4. Robert Shapard & James Thomas, eds., Sudden Fiction: American Short-Short Stories (W. W. Norton, 1986), 247 (Joyce Carol Oates), 244–45 (Russell Banks).

5. Jayne Anne Phillips, “‘Cheers,’ (or) How I Taught Myself to Write,” in The Rose Metal Press Field Guide to Writing Flash Fiction, ed. Tara L. Masih (Rose Metal Press, 2009), 36, 37, 38.

6. Colin Peters, “Minificción: A Narratological Investigation,” PhD diss., Univerität Wien, September 2008. Page 110 has the minificción “La búsqueda,” by Edmundo Valadés: “Esas sirenas enloquecidas que aúllan recorriendo la ciudad en busca de Ulises.” My translation, entitled “The Search”: “Those maddened sirens that howl roaming the city in search of Ulysses.”

7. Julio Ortega, “A Flash before the Bang,” in The Rose Metal Press Field Guide to Writing Flash Fiction, ed. Tara L. Masih (Rose Metal Press, 2009), 150–51.

8. Robert Olen Butler, “A Short Short Theory,” in The Rose Metal Press Field Guide to Writing Flash Fiction, ed. Tara L. Masih (Rose Metal Press, 2009), 102.

Ngọt ngào ngày xửa ngày xưa...





.Y NGUYÊN



Ngày xửa ngày xưa…

Ấy là cái khởi đầu của cổ tích, khởi đầu cho chuyến phiêu lưu dài hơi của tuổi thơ trong lòng bà, lòng mẹ đến những cảnh giới lung linh, huyền ảo nhiều mơ lắm mộng, nơi mọi ước muốn bất khả thi của kiếp người đều có cơ may hóa khả thi. Chính thế mà cổ tích luôn luôn là Hứa địa với tuổi thơ . Nói nôm na thì sắc cổ tích luôn đẹp, hương cổ tích luôn thơm. Còn vị? Đương nhiên là ngọt; ngọt đến… lịm người! Nói thế còn chưa đủ độ hình dung. Phải gọi đó là cái ngọt ngào “bất khả tư nghị”, tức thị không thể nghĩ bàn, ai chưa ăn thì đố biết.



Mà thôi, nói chưa ăn thì buồn quá. Còn nỗi bất hạnh nào hơn bất hạnh không có tuổi thơ. May, con không thuộc vào trong số đáng buồn trên. Con mồ côi cha, mồ côi bà nhưng vẫn còn mẹ, nghĩa là vẫn còn có một phần tuổi thơ, vẫn biết thế nào là cái vị ngọt ngào ngày xửa ngày xưa…

Ấy là những đêm đông rúc đầu trong chăn, hít hà mùi mồ hôi thân thuộc tỏa ra từ áo mẹ - hay những đêm hè nồng nực ôm chiếu ra sân, ra thềm mà trải - câu cửa miệng của đứa trẻ thơ bao giờ cũng là: “Mẹ, mẹ kể chuyện đời xưa…”. Và mẹ, dù có díp mắt vì buồn ngủ, dù có mỏi mồm vì suốt ngày bận rộn la rầy quát tháo lũ con lêu lổng, vẫn không bao giờ nỡ để đôi mắt trẻ thơ đợi chờ trong đêm phải cụp xuống vì thất vọng. Vậy là cố gắng mà moi móc, mà sành soạn cái kho chuyện đời xưa đã dày công tích cóp đâu tận một thời lâu lắc, và ôm con, và thủ thỉ bắt đầu: Ngày xửa ngày xưa…

Có ai biết rằng, mẹ đang đem kí ức ngày xưa của mình cố làm khả thi cái khát vọng ngày nay của đứa con yêu, một nỗ lực tưởng chừng như không tưởng. Ấy vậy mà mẹ thành công, hầu như luôn thành công, bởi con tin mẹ lắm. Con tin lời dẫn chuyện ngọt ngào đằm thắm của mẹ chính là lời cô tiên trong cổ tích (mà, có khi cả mẹ cũng là… cô tiên, ai mà biết được). Cổ tích của mẹ thường là kết thúc có hậu, hay nếu nó không có hậu thì (sau này mới biết) mẹ cũng cố xoay xở làm sao để thêm vào cho con cái hậu, chính thế mà con luôn thỏa mãn, luôn vừa lòng khi chuyện đi vào hồi kết. Và con yên tâm chìm vào giấc ngủ yên bình không bứt rứt, trở trăn. Và, cũng không biết bao nhiêu lần, cổ tích mẹ hóa thân thành giấc mơ con để con được chính thức sống cùng cổ tích, được hạnh phúc trọn vẹn, đủ đầy dẫu chỉ là hạnh phúc trong mơ…

Sau này khi lớn lên, biết chuyện thêm thắt, con hỏi mẹ vì sao, mẹ cười: Con người ta bất hạnh ngoài đời đủ rồi, đừng nên bất hạnh cả trong mơ… Mẹ dừng, không nói thêm và con cũng chẳng hỏi gì thêm.

…Không! Mẹ ơi, con không bất hạnh nhiều như mẹ nghĩ đâu, bởi con còn có mẹ. Con còn có một tuổi thơ ngọt ngào cổ tích. Con bôn ba hơn nửa cuộc đời mới chợt nhận ra: mẹ chính là cổ tích!

Câu chuyện cổ tích tuyệt vời nhất của đời con!

Y.N

Trăng của người xưa trăng của ta



Đặng Thị Thanh Liễu




Chuyện trăm năm người kể
Có kẻ bán trăng vàng
Một đêm trên cành liễu
Trăng ngậm ngùi thở than

Ta vực người xưa dậy
Hỏi ngọn nguồn thực, hư
Người xưa cười khẽ nói
Vì trần gian tương tư

Hồ tương tư bóng nguyệt
Núi tương tư sương mờ
Đàn tương tư tiếng hát
Rượu tương tư người thơ

Sao không là Mặc Tử
Sao không là Trương Chi
Để ôm trăng nằm ngủ
Mà mơ người tình si

Đêm bỗng nghiêng theo gió
Trăng nghiêng dưới chân cầu
Tình nhân nghiêng bên phố
Còn ta… nghiêng về đâu…?

Nghĩa tình




Photo: Modern Photographics



Tuần này có 2 người hỏi tôi “tình yêu là gì?”. Bản thân tôi cũng chẳng biết tình yêu là gì. Dù bản thân đã mất gần 6 năm để trải qua một cuộc tình, để rồi khi mọi chuyện qua đi, tôi lại tự hỏi, tình yêu là gì?

Rose và Jack, Romeo và Juliet, có phải là tình yêu không? Và giữa tôi và anh có phải là tình yêu không? Trong cơn say tình, tôi đã gọi đó là tình yêu, tôi nói tôi đã biết yêu. Nhưng rồi kết quả tình yêu của tôi là gì? Cũng chỉ là một hồi ức. Và bây giờ nhìn lại, tôi lại tự hỏi, liệu đó có phải là yêu?

Có chứ. Tôi đã yêu. Đã yêu hết những gì có thể. Đã sống trọn vẹn với tình yêu đó. Dù bây giờ đã ko còn yêu, nhưng tôi vẫn cảm ơn anh vì những gì anh đã dành cho tôi khi ấy.

Có người bảo hôn nhân là mồ chôn của ái tình. Tôi cho là đúng. Nhưng chưa đủ. Việt Nam có cụm từ “tình nghĩa vợ chồng”. Tại sao không phải là “tình yêu vợ chồng”? Bởi vì, đôi lứa đến với nhau bằng tình, nhưng sẽ sống với nhau bằng nghĩa. Cái tình như nấc thang đưa con người tới thiên đường còn cái nghĩa sẽ bảo bọc con người trong cuộc đời.

Khi còn tuổi trẻ, khi còn khỏe mạnh, bạn cho mình có thể làm được mọi thứ, có thể bay nhảy khắp nơi. Nhưng một khi bệnh tật tìm đến, bạn mới thấm thía chữ nghĩa tình.

Câu nói cuối cùng mà Cha tôi nói với Mẹ tôi “Đến giờ phút này anh mới biết thương vợ thương con.”Sau bao đau khổ Cha dành cho Mẹ, đến khi ngã bệnh, Mẹ là người duy nhất bên cạnh Cha. Vì đâu, vì một chữ “nghĩa”. Không phải “nghĩa vụ” mà là “nghĩa tình”.

Tuổi trẻ bây giờ đề cao tự do yêu đương, đã vô tình quên mất cái chữ nghĩa tình cao quý ấy. Tôi nhớ cái ngày Ông ngoại tôi bệnh liệt giường, dù đã nằm một chỗ, ăn một chỗ, tiểu tiện đại tiện cũng một chỗ ấy cả tháng trời, nhưng lúc nào Ông ngoại cũng thơm tho sạch sẽ. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để kể với bạn về điều này, tôi chỉ nhớ rằng mỗi lần Ông đi ngoài, Bà tôi đều giúp Ông lau chùi cẩn thận, Bà còn xức phấn thơm cho Ông vì sợ Ông nằm một chỗ bị ẩm, nổi sảy. Ông tôi ngượng lắm (dù đã là vợ chồng già rồi), bảo “tôi đã làm khổ mình”. Nhưng Bà tôi đã luôn xem chuyện ấy là niềm vui vì Bà nói “miễn là mình còn ở bên cạnh tôi”.

Tất cả những thứ bình thường, dung dị ấy, tuổi trẻ tụi mình có thể cảm nhận được không? Tôi không biết tôi sẽ lại yêu như thế nào, sẽ kết hôn như thế nào, và sẽ sống như thế nào với hôn nhân ấy. Nhưng trong thâm tâm tôi, tận đáy lòng, tôi vẫn mong người chồng của tôi sẽ đến với tôi bằng tình yêu, và sẽ sống với tôi bằng tình nghĩa. Sự tôn trọng và tin tưởng nhau sẽ cùng nâng đỡ nhau suốt cả đời. Có được như vậy thì câu “Vợ chồng tương kính như tân”, “Bách niên hảo hợp” sẽ có gì mà khó. Chỉ cần hai chữ “nghĩa tình” được trọn vẹn.



Gania

Việt Nam đứng thứ 183/197 về tự do báo chí năm 2013



Freedom House vừa công bố báo cáo tổng kết về tự do báo chí năm 2013 trong đó phân tích và xếp hạng việc thực hiện tự do báo chí ở 197 nước và lãnh thổ trên toàn thế giới. Việc làm này tiếp tục một tiến trình mà Freedom House thực hiện từ năm 1980. Mỗi nước được cho một điểm số tổng hợp về tự do báo chí từ 0 (tốt nhất) đến 100 (tệ nhất) trên cơ sở một bộ câu hỏi gồm 23 câu về môi trường luật pháp (8 câu), môi trường chính trị (7 câu) và môi trường kinh tế (8 câu). Nếu điểm tổng hợp đạt được từ 30 trở xuống sẽ được xếp loại là ‘tự do’, từ 31 tới 60 là ‘tự do một phần’ và từ 61 trở lên là ‘không tự do’.


Mày tím nâu là những nước không có tự do báo chí


Báo cáo cho biết kết quả chung năm nay là thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Sư sụt giảm này có bốn lí do chủ yếu: việc tấn công vào người đưa tin (Ukraina, Turkey, Egypt, Brazil, Venezuela, Sri Lanka, Thailand, Jordan, Uganda…), việc ngăn trở truyền thông nước ngoài (Nga, TQ, Ai Cập, Nauru…), siết chặt phương tiện truyền thông mới (TQ, VN, Jordan, Sudan, Zambia…), việc dùng quyền chủ sở hữu để kiểm soát nội dung (Turkey, Ukraina, Venezuela…)

Báo cáo cũng cho thấy rằng 14 % dân số thế giới sống ở các nước có một nền báo chí tự do, 42 % được tự do báo chí một phần và 44 % sống trong môi trường không tự do. Các tỉ lệ dân số này bị ảnh hưởng đáng kể bởi hai quốc gia Trung Quốc, sếp loại không tự do, và Ấn Độ, xếp loại tự do một phần – cả hai gộp lại chiếm hơn một phần ba dân số hơn bảy tỉ người trên toàn cầu.

Theo bảng xếp hạng vừa công bố, có 63 nước (32%) được xếp loại là tự do, 68 nước (35%) tự do một phần và 66 nước (33%) không tự do. Ba nước Bắc Âu là Hà Lan, Na Uy và Thuỵ Điển đứng nhất (với điểm tổng hợp bằng 10), Bắc Triều Tiên đứng chót (97 điểm). Việt Nam [cùng với Trung Quốc, Lào và Azerbaijan] xếp thứ 183 (84 điểm) chỉ đứng trên 11 nước, với điểm chi tiết là 29/30 về mội trường pháp luật, 33/40 về môi trường chính trị và 22/30 về môi trường kinh tế. Điểm tổng hợp của Việt Nam giữ y như hai năm trước và tệ hơn 7 điểm so với năm 2006 (77 điểm), tệ hơn 16 điểm so với năm 1994, 1995 là năm có điểm tốt nhất (68 điểm) trong vòng 20 năm có theo dõi của Freesom House.

Bốn không ở Singapore




TS Phan Hữu Tích


 Singapore là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) không chỉ được ca ngợi là quốc gia có nền kinh tế phát triển mà còn được đánh giá có một chính phủ trong sạch. Ở Singapore khi một người được tuyển vào làm công chức, quan chức chính phủ thì hằng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Singapore có bốn kinh nghiệm chống tham nhũng có hiệu quả. Xin giới thiệu đến độc giả bốn kinh nghiệm này.

1. Làm cho quan chức không dám tham nhũng

Ở Singapore khi một người được tuyển vào làm công chức, quan chức chính phủ thì hằng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Người có chức vụ càng cao, thì phần trăm trích ra gửi tiết kiệm càng lớn, có thể lên tới vài chục phần trăm lương tháng. Số tiền này do nhà nước quản lý. Bất kỳ công chức, quan chức nào phạm tội tham nhũng dù nhẹ ở mức xử phạt ra khỏi ngạch công chức thì toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm bị trưng thu.
Quan chức càng to thì số tiền bị trưng thu càng lớn. Vì vậy, mỗi quan chức khi nảy ý định tham nhũng đều phải tính toán: Nếu tham nhũng, nhận hối lộ mấy trăm, thậm chí cả ngàn đô la Singapore mà bị tịch thu hàng chục ngàn đô la, bị sống trong hoàn cảnh không lương bổng cho đến lúc chết thì “mất” lại nhiều hơn “được”. Vì thế, đại đa số chọn giải pháp không tham nhũng; quan chức cấp càng cao, lương càng nhiều càng sợ không dám tham nhũng.

2. Làm cho quan chức không thể tham nhũng

Chính phủ Singapore quy định và thực hiện mỗi năm công chức, viên chức, quan chức phải khai báo một lần với nhà nước về tài sản của bản thân hoặc của vợ (chồng) bao gồm: tiền thu nhập, tiền gửi tiết kiệm, tiền cổ phiếu, đồ trang sức, ô tô, nhà cửa… Những tài sản tăng lên phải khai rõ nguồn gốc, cái gì không rõ nguồn gốc có thể coi là tham ô, tham nhũng.

Nhà nước còn quy định: Quan chức chính phủ không được phép nợ nần; không được vay một khoản tiền lớn vượt quá tổng ba tháng lương. Singapore có thị trường mua bán cổ phiếu, nhưng quan chức chính phủ muốn mua cổ phiếu phải được lãnh đạo cơ quan chủ quản đồng ý và chỉ được phép mua cổ phiếu của công ty trong nước. Với cổ phiếu của các công ty nước ngoài đang kinh doanh ở Singapore cũng được phép mua, nhưng với điều kiện các công ty đó không có quan hệ lợi ích với chính phủ. Công chức và quan chức chính phủ không được phép đến các sòng bạc, nhà chứa.

Luật báo chí Singapore quy định những điều khoản nhằm chống tham nhũng trong lĩnh vực này. Theo đó, các nhà báo, ký giả muốn gửi bài viết của mình ra nước ngoài phải qua tổng biên tập xem xét. Khi được trả tiền nhuận bút, nhà báo đó phải báo cáo với cơ quan chức năng của chính phủ trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận được tiền v.v...

3. Làm cho quan chức không cần tham nhũng

Singapore có chế độ trả lương chênh lệch khá cao giữa quan chức cấp cao với cấp thấp, với công chức và giữa công chức với nhân viên, công nhân. Thu nhập thấp nhất là người bảo mẫu mỗi tháng 400 đô la Singapore. Nữ công nhân lắp ráp điện tử mỗi tháng từ 600 đến 900 đô la. Công chức cơ quan chính phủ tất cả đều tốt nghiệp đại học, lương khởi điểm khoảng 1.300 đô la. Cấp thứ trưởng lương tháng từ 10.000 đến 20.000 đô la. Thủ tướng lương tháng hơn 40.000 đô la (thời điểm năm 2000).

Với mức lương như vậy, quan chức đủ sống và chu cấp cho gia đình mà không cần tham nhũng. Hơn nữa với cách trả lương như vậy công chức và quan chức chính phủ luôn có sự so sánh: Mình được trả lương cao hơn người lao động bình thường rất nhiều. Nếu mình tham ô, tham nhũng nữa thì là kẻ vô đạo lý, mất hết liêm, sỉ. Sự so sánh và tự vấn đó đã làm cho quan chức tự tiêu hủy những tham vọng không trong sáng của mình.

4. Làm cho quan chức không muốn tham nhũng

Ở Singapore muốn tham nhũng một thứ gì đó, dù nhỏ cũng rất phiền hà. Ví dụ, khi khách nước ngoài đến Singapore, nếu họ muốn tặng các quan chức nước chủ nhà một món quà để cảm ơn về sự đón tiếp và thắt chặt mối quan hệ thì món quà đó phải mang ý nghĩa văn hóa với giá trị tiền không nhiều. Món quà nào có giá trị 100 đô la Singapore trở lên là họ từ chối hoặc phải xin phép lãnh đạo cơ quan, nếu đồng ý mới được nhận. Nhưng khi nhận rồi lại phải báo cáo với lãnh đạo cơ quan xem xét. Nếu món quà đó có giá trị tiền quá mức quy định và quan chức đó vẫn muốn nhận thì phải nộp tiền. Số tiền nộp thêm đưa vào tài khoản quỹ “nộp phạt” của chính phủ.

Chuyện kể rằng, một phái đoàn quan chức của Chính phủ Singapore được cử sang một nước nọ để ký một hiệp định liên doanh sản xuất. Nhận thấy hiệp định này đem lại nhiều lợi ích cho mình, giới chức nước chủ nhà đã tặng những món quà lưu niệm có giá trị cao cho quan chức đoàn Singapore. Bởi sự quá nhiệt thành của chủ nhà, họ không sao từ chối được. Nhưng cứ nghĩ đến việc khi về nước lại mang quà biếu này đến cơ quan khai báo, phải mua lại và chuyển tiền vào tài khoản quỹ “nộp phạt” thì quả là phiền toái, cả đoàn đều phải “đành lòng” viết thư cảm ơn và gửi lại quà ở sân bay trước khi trở về Singapore