Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Vấn đề thế kỷ Châu á

GS.TS. Hồ Sĩ Quý





BBT. Thế kỷ châu Á không phải là một khái niệm phi thực tế. Trong thế kỷ XXI chắc chắn Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á sẽ tiếp tục phát triển và nhiều khả năng là thịnh vượng hơn. Vấn đề biển Đông đúng là một thế kẹt của tham vọng cường quốc; bởi Thế kỷ châu Á chỉ có thể trở thành hiện thực nếu ở biển Đông không có chiến tranh. Nhưng cho đến nay, tất cả các dự báo đều khá tin tưởng vào khả năng kiểm soát tình hình của của các đầu óc chiến lược. Nếu dự báo này không sai thì thế kỷ châu Á sẽ là kết quả của sự dịch chuyển đầu tiên của nền văn minh nhân loại từ phương Tây sang phương Đông.

Thế kỷ Thái Bình Dương cũng là khái niệm có thực, phản ánh sự năng động và phức tạp của trật tự địa chính trị vùng này. Do những ảnh hưởng thực tế của việc thực hiện chiến lược này, nên quan niệm về Thế kỷ Thái Bình Dương lại trở thành một phần của quan niệm về Thế kỷ châu Á. Biển, mà ở đây là biển Đông ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Trong tương lai gần, Biển Đông sẽ trở thành “nơi tập trận” của những quan điểm, những chiến lược, những phương pháp (bao gồm cả những thủ đoạn), và những thái độ (bao gồm cả sự nhân nhượng)… về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao giữa các quốc gia có liên quan, mà trước hết là giữa các nước có liên quan trực tiếp.

Trong lộ trình hiện thực hóa quan điểm Thế kỷ Thái Bình Dương, chắc chắn Mỹ sẽ hiện diện mạnh mẽ hơn ở Biển Đông. Bởi vậy thực lực của Mỹ vốn vẫn mạnh lại buộc phải phát triển theo hướng mạnh hơn trong thế cạnh tranh chiến lược. Nghĩa là Mỹ chưa thể “phai tàn” như một số chiến lược gia trông đợi. Mỹ chưa thể “phai tàn”, nghĩa là phương Tây vẫn chưa cáo chung. Và quả thật phương Tây vẫn còn rất nhiều giá trị mà các nước đi sau vẫn cần thiết phải học hỏi để phát triển.

Về lý thuyết, Trung Quốc có thể phát triển theo một kịch bản khác nếu từ bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông. Và nếu như vậy rất có thể giấc mộng Trung Hoa sẽ không phải là cơn ác mộng do tính hài hòa ở mức nào đó của nó với lợi ích của các cường quốc khác và của các bên có liên quan. Nhưng Trung Quốc đã chọn và không có đường từ bỏ tham vọng này nên thế kẹt của tham vọng cường quốc cũng là một khái niệm có thực. Trung Quốc đang tự hạn chế khả năng trở thành cường quốc của mình. Khả năng này (trở thành cường quốc) hóa ra vẫn là một khả năng xa, nhường chỗ cho sự tác động, chi phối, gây sức ép, lừa vào bẫy… của Mỹ.

Nếu tiến bộ xã hội đúng là quy luật thì sự phát triển của loài người dù quanh co đến đâu, dù bất ngờ và khó đoán đến mấy, thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ không thiếu hứa hẹn đối với châu Á và nhân loại.




I. Đặt vấn đề


Sau một thời gian không dài tăng trưởng kinh tế với tốc độ trung bình gần 10%/năm, Nhật Bản, từ chỗ thua kém tất cả các nước phương Tây, năm 1964 đã gia nhập khối OECD, năm 1968 vươn lên chiếm vị trí thứ hai về tổng GDP trong thế giới tư bản, và năm 1982 đạt ngưỡng GDP 10.000 USD đầu người/năm, trở thành cường quốc kinh tế đầu tiên ở châu Á. Không chỉ có Nhật Bản, ở châu Á, Đài Loan cán đích GDP 10.000 USD đầu người/năm năm 1987, Hồng Kông năm 1988, Singapore năm 1989, Hàn Quốc năm 1990. Năm 1996 Hàn Quốc gia nhập OECD. Hiện châu Á có 5 nước tham gia khối G 20 gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Indonesia[1].

Cả thế giới giật mình trước điều kỳ diệu châu Á - từ chỗ nghèo đói, quá trình “hóa rồng” của mấy nước NICs diễn ra chỉ chưa đầy 30 năm, trong khi hầu hết các nước tư bản châu Âu đi chặng đường này phải mất hàng trăm năm.

Nhưng không dừng ở các nước NICs, điều kỳ diệu châu Á dường như vẫn đang tiếp tục.

Nếu Trung Quốc vào năm 2000 có nền kinh tế đứng thứ 6 thế giới, thì đến năm 2010 đã có tổng GDP đạt tới 1.335 tỷ USD (tương đương 5.800 tỷ USD tính theo PPP[2]) vượt qua Nhật, Đức, Pháp và Anh, vươn lên hàng thứ hai thế giới, sau Mỹ. Các dự báo đều nói thời điểm Trung Quốc vượt Mỹ về tổng GDP sẽ diễn ra rất gần, có thể chỉ ngay vào những năm đầu thập niên sau. Chưa hết, ở châu Á, bên cạnh Trung Quốc còn có những nước khác cũng đã từng phát triển rất ngoạn mục và có lúc đã được dự báo sẽ sớm “cất cánh”. Philippines, Thái Lan, Malaysia... là những nước như vậy. Rồi ngay cả Việt Nam những năm 2000 cũng đã được kỳ vọng là “con hổ tương lai”.

Mặc cho từ năm 2008 nền kinh tế thế giới gặp khủng hoảng và sa sút, năm 2011, Ngân hàng ADB vẫn xuất bản cuốn sách “Châu Á 2050: hiện thực hóa thế kỷ châu Á” dự báo khá chi tiết lộ trình của “Thế kỷ châu Á”.

Đó là nội dung cơ bản của khái niệm “Thế kỷ châu Á”, nhìn từ phương diện kinh tế.



Nhưng vấn đề sẽ khác đi nếu “Thế kỷ châu Á” được nhìn từ phương diện xã hội hoặc văn hóa. Mức độ lạc quan sẽ giảm đáng kể nếu người ta chú ý đến những vấn nạn xã hội ở Trung Quốc, Philippines, Việt Nam và ở một số nước khác, như khoảng cách giàu nghèo và trình độ an sinh xã hội, tệ tham nhũng và khả năng khống chế lợi ích nhóm, công bằng xã hội và mức độ bình đẳng giới, nạn buôn người và tình trạng an ninh trật tự xã hội, trình độ quản lý và mức độ cởi mở xã hội, chất lượng giáo dục và việc thực hiện quyền con người, v.v… Một số nhà nghiên cứu đánh giá rằng, có thể khả năng đạt tới thịnh vượng của toàn châu Á vẫn còn khá xa, hoặc “Thế kỷ châu Á” ở mức độ nào đó, vẫn chỉ là khái niệm hoang tưởng[3].

Vấn đề còn phức tạp hơn và khó dự báo hơn, nếu “Thế kỷ châu Á” được nhìn từ phương diện địa chính trị. Ở đây, “Thế kỷ châu Á” hóa ra có liên quan rất chặt với “Thế kỷ Thái Bình Dương”[4], một quan niệm của các nhà chiến lược lược Mỹ đặt ra cho nước Mỹ, nhằm tránh sự suy giảm về vị thế quốc gia, về vai trò chi phối thế giới. “Mỹ tàn phai” (Fade Away) không chỉ là hình tượng kích thích tâm lý Mỹ ở các đầu óc chiến lược, mà còn là khái niệm được đặt ra từ năm 2011 để phân tích tương quan địa chính trị toàn cầu[5].

Trong chiến lược “Thế kỷ Thái Bình Dương”, vấn đề Biển Đông, không ngẫu nhiên và cũng không bất ngờ, đang giữ vị trí là vấn đề chủ yếu và đặc biệt quan trọng do sự biến động của tình hình khu vực. Biển Đông đã bị “khuấy động” (Stirring)[6] và rõ ràng là ngày càng nóng không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với khu vực châu Á và thế giới.

“Thế kỷ châu Á” chỉ có thể trở thành hiện thực nếu ở Biển Đông không có chiến tranh[7].



II. Sự dịch chuyển văn minh và hai khái niệm châu Á


Từ cuối thế kỷ XIX, những lý thuyết về sự hưng vong của các nền văn minh đã thấy xuất hiện. Bắt đầu từ Oswald Spengler, với tác phẩm “The Decline of the West” (1918), những lý thuyết về sự dịch chuyển của nền văn minh thế giới, về ngày tàn, buổi hoàng hôn của châu Âu ngày một được chú ý hơn[8]. Nhưng mãi nhiều thập niên sau đó, sự trỗi dậy của châu Á vẫn là một chủ đề ít được coi là thực tế. Chỉ từ sau những năm 80 (thế kỷ XX), khả năng vươn tới thịnh vượng của châu Á mới được bàn luận nhiều hơn. Rồi từ những năm 90, sau khi mấy con rồng châu Á xuất hiện, đặc biệt khi Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm liền, thì việc dự báo thế kỷ XXI sẽ là Thế kỷ của châu Á mới thực sự trở thành chủ đề nóng trên các diễn đàn học thuật và chính trị - xã hội.
Khá nhiều học giả phương Tây, với những cách lý giải từ các góc nhìn khác nhau, về những nội dung tưởng như khác nhau, nhưng lại cùng đi vào một chủ đề chung, với cùng một mối quan tâm - vấn đề vị thế mới của châu Á - châu Á, với những gì mà người ta đã chứng kiến trong hơn nửa thế kỷ qua, liệu có tiếp tục phát triển và làm lan tỏa sự thịnh vượng đến các quốc gia còn lại, để trở thành một trung tâm văn minh mới trong thế kỷ này? Trong tương quan với một châu Á phát triển nhanh và liên tục, thì châu Âu, phương Tây và Mỹ sẽ thế nào? Liệu có giống như tình huống trên chiếc cầu bập bênh, nếu một bên lên cao thì bên kia phải hạ xuống hay không? Và đặc thù hơn, Biển Đông - Thái Bình Dương có phải là khu vực mang trong nó những vấn đề ảnh hưởng đến toàn cục, giống như một “ngòi nổ” chi phối sự an toàn của trật tự toàn cầu?

Có thể bắt gặp những thuật ngữ ấn tượng thuộc các nội dung khác nhau nhưng có liên quan trực tiếp đến số phận của châu Á thường được nhắc đến trong những năm gần đây: Thế kỷ Thái Bình Dương, Thế kỷ Châu Á, Mô hình đàn sếu bay, Con sư tử Trung Hoa thức giấc, Châu Âu già nua, Phương Tây cáo chung, Nước Mỹ phai tàn v.v [9] … Cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998 ở châu Á tuy có làm các nhà dự báo giật mình, khi phải đối mặt với lời mỉa mai thế kỷ châu Á chưa đến nhưng đã qua rồi, nhưng ngay sau đó, châu Á đã lấy lại nhịp điệu tăng trưởng, thậm chí ngay cả trong cơn lốc khủng hoảng 2008-2009, khiến chẳng mấy ai còn dám nghi ngờ vị thế mới của châu Á sẽ xác lập trong thế kỷ mới. Mới đây, 8/2011, bằng một nghiên cứu định lượng công phu, Ngân hàng ADB còn xuất bản một Báo cáo 130 trang dự báo chi tiết lộ trình của việc hiện thực hóa thế kỷ châu Á đến năm 2050[10].


Ở một phạm vi khác, hẹp hơn và có vẻ xoáy sâu hơn vào những bàn luận địa chính trị, đặc biệt là từ mấy năm gần đây, thì vấn đề tập trung vào vị thế so sánh giữa Mỹ với Trung Quốc. Trung Quốc tăng trưởng nhanh, can thiệp mạnh hơn vào các vấn đề của khu vực và thế giới, vươn khắp toàn cầu về sản xuất hàng hóa, trong khi đó, Mỹ suy giảm đáng kể về kinh tế trong 2 năm khủng hoảng 2008-2009, gặp khó khăn và thậm chí sa lầy tại một vài điểm nóng chính trị, ít nhiều điều chỉnh sức mạnh can thiệp…, khiến nhiều dự báo càng nghiêng về sự trỗi dậy của Trung Quốc và châu Á hưng thịnh, đồng thời cho rằng vai trò của Mỹ ngày một “tàn phai”.

Trong giới lý luận, những người xem nền văn minh phương Tây đang đi đến hồi kết và tới đầu thế kỷ XXI sẽ buộc phải nhường bước cho châu Á, có khá nhiều. Nhưng người có tiếng nói nổi trội hơn cả, với nhiều tác phẩm khẳng định sự suy tàn của “đế chế Tây phương” là Niall Ferguson, giáo sư lịch sử tại Đại học Havard. Sau nhiều năm giảng dạy và viết khá nhiều về “ưu thế phương Tây" - phương Tây với hơn 5 thế kỷ đã kiến tạo nên những giá trị rực rỡ và đã trở thành “động lực chính của sức mạnh toàn cầu”, năm 2011 ông đã cho ra mắt cuốn sách “Văn minh: Phương Tây và phần còn lại của thế giới” (Civilization: The West And The Rest)[11]. Ngay lập tức cuốn sách gây được tiếng vang, được xuất bản tại nhiều nước và được đề nghị giải thưởng. Theo ông, thế giới đang chứng kiến giai đoạn cuối của thời kỳ chi phối của phương Tây, nền văn minh được nảy sinh từ cuộc cách mạng khoa học và đã đạt được cực thịnh trong thời đại công nghiệp và hậu công nghiệp. Vài chục năm gần đây, phương Tây suy yếu dần và trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, thời điểm rẽ ngoặt của của nền văn minh phương Tây chính là khi sự thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ lớn đến mức nghiêm trọng, và ngay lúc đó, các ngân hàng trung ương Trung Quốc và châu Á nhảy vào hỗ trợ. Khi đó, nhiều nước phương Tây nghiêng ngả vì khủng hoảng và suy thoái, còn Trung Quốc, trái với nhiều dự báo bi quan, lại chỉ suy giảm nhẹ, nhờ vào gói kích cầu của chính phủ và sự nới rộng tín dụng.

Niall Ferguson đã so sánh thành tựu của Trung Quốc từ năm 1978 đến năm 2004, GDP tăng trưởng 10 lần trong 26 năm, với những gì mà nước Anh đạt được trong giai đoạn 1830-1900, GDP tăng trưởng 4 lần trong 70 năm. Đầu thế kỷ XXI, GDP của Mỹ gấp 8 lần của Trung Quốc, còn hiện nay, chỉ gấp khoảng 4 lần. Khả năng tổng sản lượng GDP Trung Quốc vượt Mỹ có thể rất gần. Theo Niall Ferguson, 6 yếu tố (kẻ sát thủ tạo nên sự thịnh vượng - killer apps of prosperity) giúp phương Tây vượt lên trong suốt 500 năm qua là 1/Cạnh tranh (Competition), 2/ Cách mạng khoa học (Scientific Revolution), 3/ Quyền sở hữu (Property Rights), 4/ Y tế hiện đại (Modern Medicine), 5/ Xã hội tiêu dùng (The Consumer Society) và 6/ Đạo đức trong công việc (The Work Ethic)[12]. Nếu phương Đông biết ứng dụng cả 6 ý tưởng này, thì quyền lực chi phối thế giới chuyển từ Tây sang Đông sẽ diễn ra như một qui luật.

Và, dường như trong khi vẫn ứng dụng tốt 6 nhân tố này, phương Đông lại đang sáng tạo được thêm những yếu tố khác để đạt được thịnh vượng.


Theo dõi chủ đề này, các nhà nghiên cứu có thể bắt gặp khá nhiều tác giả có quan điểm về một châu Á hưng thịnh, với một Trung Quốc trỗi dậy khó có thể cản bước, bất chấp tất cả những nghi ngại đang lớn dần về những thái độ chưa xứng tầm cường quốc. Nhưng ở đây, về mặt học thuật, có sự phân biệt thú vị xung quanh khái niệm châu Á.

Theo Anthony Bubalo và Malcolm Cook, hai học giả của Viện chính sách quốc tế Lowy tại Sydney, Australia, có ít nhất hai cách hiểu về khái niệm châu Á. Nếu hiểu châu Á với trục các quốc gia gắn liền với Thái Bình Dương, trải dài từ Triều Tiên, Nhật Bản tới Indonesia, Australia…, thì đó là một châu Á theo chiều dọc. Còn ít nhất là một châu Á khác - châu Á nằm ngang, với trục các quốc gia như Nga, Ấn Độ, Trung Quốc[13]… Nếu nhìn châu Á theo khái niệm thứ hai này thì sự hưng thịnh của châu Á còn rõ hơn nữa. Việc phân biệt châu Á theo chiều dọc và theo chiều ngang đã chỉ ra những điểm và những hiện tượng chỉ có tính chất tương đối trong các quan niệm học thuật, nhất là trong địa chính trị. Nếu người nghiên cứu và các nhà chiến lược chú ý tới điều này, người ta có thể tránh được những thiên kiến võ đoán khi quá thiên về chỉ một logic của các hiện tượng. Tuy nhiên, đằng sau các quan niệm ấy, sự phát triển của châu Á và khả năng chi phối thế giới của khu vực này trong tương lai gần là điều mà phần đông các học giả đã gần như khẳng định.


Cái nhìn tổng thể về một châu Á lớn mạnh trong thế kỷ XXI và sự dịch chuyển nền văn minh thế giới từ Tây sang Đông là một thực tế tưởng như đơn giản, nếu nhìn từ góc độ kinh tế học phát triển. Nhưng vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn nếu nó được phân tích từ góc độ xã hội – văn hóa hoặc lịch sử. Và thế kỷ châu Á sẽ trở nên đặc biệt phức tạp, thậm chí rất không tất nhiên, nếu khái niệm này được coi là khái niệm thuần túy địa chính trị - vấn đề thế kỷ châu Á trong tư duy chiến lược - chính trị, phụ thuộc một cách đáng kể vào việc giải quyết các vấn đề khác như thế kỷ Thái Bình Dương hay Sự suy yếu tương đối của Mỹ…




III. Trung Quốc với thế kỷ châu Á


Vấn đề thực sự được bắt đầu từ những năm 50 với hiện tượng “Thần kỳ Nhật Bản”. Cụ thể là, sau thế chiến II, Nhật Bản với những kinh nghiệm công nghiệp hóa có từ trước chiến tranh, nuốt nỗi cay đắng của kẻ bại trận, chấp nhận là mắt xích của Mỹ trong “vòng cung chống Cộng”, quyết tâm làm lại nước Nhật bằng phát triển kinh tế. Kết quả thật ngoạn mục. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm từ năm 1945 đến năm 1950 đạt 9,4%; từ năm 1950 đến năm 1955 đạt 10,9%; từ năm 1950 đến năm 1987 đạt 7,1%. Năm 1952, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật đã tương đương với trước chiến tranh. Năm 1968, nợ nước ngoài đã thấp hơn cho vay, Nhật Bản vươn lên vị trí thứ hai về tổng GDP trong thế giới tư bản. Năm 1982, GDP tính tổng thể là 4.177 tỷ USD, bình quân đầu người là 10.326,34 USD, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế, khẳng định điều thần kỳ của nước Nhật hậu chiến[14].

Xu thế phục hưng của Nhật Bản, ngay từ lúc thoát khỏi chế độ chiếm đóng của Mỹ vào năm 1952, đã gây tiếng vọng đến Hàn Quốc, Đài Loan và nhiều nước châu Á khác, đánh thức khát vọng thoát nghèo ở khu vực này. Hồng Kông, Philipines, Indonesia rồi Thái Lan, và sau đó là Singapore, Malaysia đã nhận ra tiếng vọng và bắt đầu thấy bức bối với tình trạng lạc hậu. Khi các nền kinh tế giữ được tốc độ tăng trưởng ngày càng ổn định thì giấc mơ “cất cánh” ngày càng hiện rõ và thôi thúc cơn khát phát triển.

Không rơi vào những cái bẫy của sự phát triển để rồi phải dừng lại ở mức vài nghìn USD đầu người/năm, bốn nền kinh tế Đông Á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore tiếp tục phát triển và đạt ngưỡng 10.000 USD đầu người chỉ chưa đầy 20 năm sau mốc đầu tiên của thu nhập trung bình. Đó là năm 1987 với Đài Loan, năm 1988 với Hồng Kông, năm 1989 với Singapore và năm 1990 với Hàn Quốc. Cả thế giới giật mình - bốn nền kinh tế Đông Á đã “cất cánh”, hay còn gọi là “hoá rồng”, trở thành các nước công nghiệp mới (NICs/NIEs[15]), làm nên điều kỳ diệu châu Á thế kỷ XX.

Còn Trung Quốc, bằng quá trình tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ từ đầu thập niên 90 sau chuyến “tuần du phương Nam” của Đặng Tiểu Bình năm 1992 với tuyên bố “mèo trắng mèo đen” nổi tiếng[16], đến nay, quốc gia đông dân nhất thế giới này đã chứng tỏ được là “con sư tử đã tỉnh ngủ” (lời Napoleon gần 200 năm trước[17]). Việc duy trì tính chất của chế độ chính trị cũ, nhưng lại cải cách táo bạo về kinh tế, tham dự và can thiệp sâu vào đời sống quốc tế, trên cơ sở kích thích tham vọng phục hưng nền văn minh Trung Hoa truyền thống, đã tạo ra một Trung quốc đại lục có vai trò khó phủ nhận đối với châu Á và đối với thế giới ở thế kỷ XXI.

Sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng cao, đạt 9,1% năm 2003, 9,5% năm 2004 và 9,8% năm 2005. Tính bình quân 1970-2008, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc là 7,9%, thuộc loại cao nhất thế giới[18]. Tháng 12/2005, Tổng cục thống kê Trung Quốc đã tính toán và công bố, Trung Quốc trở thành nền kinh tế đứng thứ sáu thế giới (vượt Italia với GDP khoảng 2.000 tỷ USD). Năm 2006, Trung Quốc tự công bố là nền kinh tế đứng thứ tư thế giới, tính theo USD, vượt Pháp và Anh. Ngày 16/8/2010, theo tờ New York Times, Trung Quốc được công nhận là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới sau khi Nhật Bản thông báo GDP của mình là 1.286 tỷ USD (= 5.474 tỷ USD tính theo PPP), thấp hơn so với con số 1.335 tỷ USD (= 5.800 tỷ USD tính theo PPP) của Trung Quốc. Nghĩa là, Trung Quốc đã thế chỗ Nhật Bản ở vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới[19]. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, nếu giữ được mức tăng trưởng như năm 2010 là 10,3%, trong thập niên sau, quy mô kinh tế Trung Quốc sẽ ngang ngửa với Mỹ.

Sự phát triển của Trung Quốc bên cạnh các con rồng châu Á từ cuối thế kỷ XX đã làm dấy lên những dự báo, bàn luận về diện mạo mới của châu Á. Có những nghi ngại về một khái niệm châu Á không thống nhất (tương đối) do ở khu vực này vẫn hiện rõ tính cục bộ và thiếu liên kết, hay thiếu tương đồng giữa các nước trong sự phát triển. Nhưng khác với châu Âu, châu Á xưa nay chưa bao giờ là một khối thống nhất, dù là thống nhất về cách thức hay chiều hướng phát triển. Và điều đó chỉ làm phức tạp hơn các kế sách trong chiến lược vĩ mô của nhiều nước trên thế giới đối với một châu Á của thế kỷ mới mà thôi.

Dù châu Á được hiểu theo các khái niệm khác nhau đến thế nào và dù châu lục này không phải chỉ là Trung Quốc do trên thực tế có một loạt nước châu Á trong hơn 30 năm nay đang tham dự vào sự trỗi dậy của khu vực, nhưng thành phần đáng kể nhất, đáng nói nhất để thế giới tin rằng có một châu Á đang lớn mạnh và sẽ chi phối thế giới nhiều hơn trong thế kỷ XXI là sự tăng cường vai trò và vị thế của Trung Quốc. Với hơn 30 năm cải cách và mở cửa, thế giới ngày nay đã quen với nhiều tác động toàn cầu của nền kinh tế Trung Quốc. Trung Quốc thực tế đã là một nhà đầu tư và thương mại có uy quyền, một chủ nợ lớn của nhiều nước Á, Phi, kể cả nước Mỹ và là một nhân tố có thể làm thay đổi các xu thế của thị trường toàn cầu. Các nhà chiến lược của nền kinh tế Trung Quốc thời gian gần đây thường không ngần ngại tìm cách điều chỉnh lại các chuẩn thương mại và các điều kiện đầu tư quốc tế cho phù hợp với quan điểm của mình. Dĩ nhiên các nước khác cũng tìm cách đàm phán với Trung Quốc nhằm định hướng lại đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, có nhiều điều đã vượt ra khỏi kinh nghiệm của WTO và một vài hiệp ước quốc tế. Sự nghi ngại dần tăng theo thời gian, không hẳn do lệ thuộc vào các nỗ lực mở rộng quân sự có xu hướng dân tộc chủ nghĩa cùng với những tham vọng trở thành cường quốc biển mà người ta thấy đặc biệt rõ từ năm 2009. “Chết dưới tay Trung Quốc” đã trở thành cuốn sách bán chạy năm 2011 ở Mỹ và ở nhiều nước khác; và nếu tính đến mức độ phổ biến trên mạng thì cuốn sách này gần như là lời cảnh báo toàn cầu[20].



Trong mối tương quan, phải nói là không kém phần trực tiếp tới hiện tượng Trung Quốc trỗi dậy - thế kỷ châu Á, cần thiết phải nói đến vấn đề Biển Đông - vùng biển đã thực sự “bị khuấy động” (Stirring) trong thời gian gần đây[21]. Vấn đề là ở chỗ, khác với các vùng biển khác, kể cả vùng Đông bắc Thái Bình dương, Biển Đông khi “bị khuấy động” đã gây ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí làm thay đổi quan điểm chiến lược của một số nước, trong đó có Mỹ. Và trên thực tế, vấn đề Biển Đông từ năm 2010 đã chi phối khả năng thực tế của Thế kỷ châu Á.

IV. Vấn đề biển Đông - thế kẹt của tham vọng cường quốc


Cần thiết phải nói rõ rằng, Biển Đông mà chúng tôi nói đến ở đây là vùng biển phía Tây Thái Bình Dương được giới hạn bởi các nước Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Brunei, Philippines, Đài Loan, và Trung Quốc. Ở Việt Nam, vùng biển này xưa nay vẫn được gọi là “Biển Đông”. Trên phạm vi hàng hải quốc tế, theo thói quen từ trong lịch sử, vùng biển này được biết đến bằng tên gọi biển “South China Sea”. Vấn đề là ở chỗ, gần đây, một số chính khách vụ lợi và một số đầu óc dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa cố tình nhầm lẫn hiểu tên gọi này là “Vùng biển phía Nam thuộc Trung Quốc”. Bởi vậy đã có nhiều học giả và chính khách đề nghị đổi tên là “Biển Đông” hoặc “Biển Đông Nam Á”. Từ năm 2012, Philippines đã chính thức đặt tên vùng biển này là “Biển Tây Philippines”.

Cùng với sự lớn mạnh vượt trội về kinh tế, sức mạnh quân sự của Trung Quốc cũng được tăng cường và tham vọng trở thành cường quốc biển ngày nay đã trở thành cơn khát trong tâm lý dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa. Sau nhiều thập niên thực hiện phương châm của Đặng Tiểu Bình “Ẩn sáng dưỡng tối” (giấu mình chờ thời), ngày nay, một số đầu óc chiến lược Trung Quốc đã lộ rõ tâm trạng nôn nóng[22]. Điểm nôn nóng nhất mà Trung Quốc chủ tâm thể hiện là kế hoạch độc chiếm biển Đông. Bên cạnh việc tăng cường nghiên cứu và tuyên truyền về biển đảo, từng bước hiện thực hóa mưu đồ “đường lười bò”, hiện đại hóa quân đội và lực lượng hải quân, đóng thử và đưa vào hoạt động tàu sân bay, phóng thêm vệ tinh giám sát toàn bộ biển đảo, vận hành giàn khoan khổng lồ…, Trung Quốc còn thực hiện kế sách gây phức tạp ở biển Đông, cản trở việc thực thi công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982, đối đầu với Philipinnes, cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, cản trở ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trong vùng biển của mình, mời thầu khai thác dầu khí tại thềm lục địa của Việt Nam, tổ chức với số lượng lớn ngư dân đánh cá trái phép, lập đơn vị hành chính Tam Sa, hành chính hóa sự quản lý Hoàng Sa - Trường sa, chia rẽ và gây áp lực với các nước ASEAN trong vấn đề biển đảo... Trên bàn cờ địa chính trị, vấn đề biển Đông với tham vọng khai thác tài nguyên, kiểm soát tự do hàng hải, chi phối ASEAN và khống chế toàn bộ vùng phía Tây Thái Bình Dương…, trong chiến lược trỗi dậy của Trung Quốc, đã trở thành cái không thể che giấu[23].







Tình huống này, không chỉ gây áp lực đối với Việt Nam, các nước ASEAN, mà còn liên quan trực tiếp và thách thức lợi ích chiến lược của Mỹ[24].

Bởi vậy, ngày 23/7/2010 Hillary Clinton, ngoại trưởng Mỹ chính thức lên tiếng tại Hà Nội về “lợi ích quốc gia của Mỹ trong việc tự do hàng hải ở biển Đông”. Mỹ tuyên bố “hỗ trợ ngoại giao đối với các bên tranh chấp và lên án sự cưỡng ép, sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ nước nào”. Ngoại trưởng Mỹ còn nói rõ, “việc đòi chủ quyền đối với không gian biển phải bắt nguồn từ việc đòi chủ quyền hợp pháp với các đảo, đất, đá...trên biển”. Bài phát biểu của Clinton lập tức gây chấn động mạnh; ngoại trưởng Trung Quốc bỏ phòng họp và chính giới Trung Quốc khó chịu[25].



Không dừng ở đó, cuối năm 2011, Mỹ đã chính thức tuyên bố thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ. Phục vụ chiến lược này, Mỹ đã nâng cấp quan hệ quân sự và tiến hành tập trận chung với các nước như Philippines, Singapore, Australia, Ấn Độ… - những nước đang có tranh chấp với Trung Quốc. Kế hoạch cho sự có mặt dài lâu của quân đội Mỹ ở khu vực châu Á Thái Bình Dương cũng đã không ngần ngại được nói đến. Tinh thần “thế kỷ Thái Bình Dương” được Mỹ liên tục nhắc lại trong các diễn đàn chính trị quốc tế và cũng ít nhiều đã được triển khai trong thực tế. Mới đây nhất, tại Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF) diễn ra ở đảo Cook ngày 31/8/2012, ngoại trưởng Mỹ một lần nữa khẳng định “Washington sẽ can dự lâu dài ở Nam Thái Bình Dương” và điều này không phải là độc chiếm Thái Bình Dương mà là do “Khu vực Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả các nước, cho Mỹ và cho một Trung Quốc đang lên”[26]. Tại Trung Quốc ngày 5/9/2012, Ngoại trưởng Clinton cũng nhắc lại, châu Á - Thái Bình Dương là khu vực được Mỹ xem là động lực chính cho sự phát triển kinh tế và chính trị của thế giới trong thế kỷ XXI. Bà thúc giục Trung Quốc giải quyết tranh chấp trên biển Đông phải tiến hành bằng các biện pháp hòa bình, “không cưỡng ép” (without coercion) và việc đạt được Bộ quy tắc ứng xử giữa các bên trên Biển Đông (COC) là phù hợp với “lợi ích của tất cả các bên”[27]. Cỗ máy truyền thông Trung Quốc ngay lập tức đã tỏ thái độ phản ứng với quan điểm của Ngoại trưởng Mỹ.

Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ - lời tuyên bố chính thức cho chiến lược này được ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton công bố tại hội nghị thượng đỉnh khối APEC gồm các nhà lãnh đạo của 21 nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương nhóm họp tại Honolulu ngày 10/11/2011. Bài phát biểu của bà Clinton sau đó được đăng lại trên tờ Foreign Policy số tháng 11/2011. Chắc chắn đây là một văn kiện quan trọng mà có thể nhiều thập niên sau người ta mới thấy hết ý nghĩa của nó. Trong bài này, bà Clinton nói rõ: “Tương lai của các hoạt động chính trị sẽ được quyết định ở châu Á, chứ không phải ở Apghanistan hay Iraq, và Mỹ sẽ ở trung tâm của những hành động đó… Đúng là châu Á có ý nghĩa quyết định đối với tương lai của nước Mỹ, một nước Mỹ can dự sẽ mang tính sống còn đối với tương lai của châu Á. Mỹ là cường quốc duy nhất có mạng lưới liên minh mạnh mẽ trong khu vực, không tham vọng về lãnh thổ, và có một thành tích lâu dài trong việc mang lại lợi ích chung. Cùng với các đồng minh, Mỹ đã nhận trách nhiệm đảm bảo an ninh khu vực trong nhiều thập niên - tuần tra các tuyến đường biển châu Á và duy trì sự ổn định - và đến lượt nó, điều đó đã góp phần tạo điều kiện cho sự tăng trưởng. Mỹ đã giúp đỡ hội nhập hàng tỉ người trong khắp khu vực vào nền kinh tế toàn cầu bằng cách thúc đẩy hiệu quả kinh tế, trao quyền xã hội, và tạo các mối quan hệ to lớn hơn giữa người dân với người dân. Mỹ là đối tác thương mại và đầu tư lớn, một nguồn tạo ra sự đổi mới có lợi cho người lao động và các doanh nghiệp ở cả hai bờ Thái Bình Dương, là nơi học tập của 350.000 sinh viên châu Á mỗi năm, người đấu tranh cho các thị trường mở cửa, và là một quốc gia ủng hộ các quyền phổ biến của con người”[28].

Có thể là để chuẩn bị cho bà Clinton công bố chiến lược Thế kỷ Thái Bình Dương, tờ Foreign Policy, trước đó một số, số tháng 9 và tháng 10 năm 2011 đã đăng bài “Biển Đông: tương lại của xung đột”, một bài viết ở tầm tư duy chiến lược, vạch rõ những căn cứ lý luận, những tư tưởng nền tảng cho chiến lược Biển Đông của Mỹ. Tác giả bài viết này là Robert D. Kaplan, chuyên viên cao cấp của Trung tâm An ninh Mỹ (CNAS - Center for a New American Security), thành viên Hội đồng Chính sách Quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng. Ông cũng là một trong các tác giả CNAS hoạch định Chiến lược của Mỹ về Biển Đông thể hiện trong bản phúc trình 115 trang của CNAS công bố 1/2012[29]. Từ lúc công bố đến nay, bài viết này (“Biển Đông: tương lại của xung đột”) đã gây được sự chú ý của giới nghiên cứu, giới quân sự và các nhà hoạt động xã hội ở khắp các diễn đàn liên quan tới tình hình Biển Đông và Châu Á - Thái Bình Dương.

Robert D. Kaplan viết: “Đông Nam Á ngày nay đã nằm sâu trong giai đoạn hậu - Chiến tranh Lạnh. Việt Nam, thống soái bờ phía tây của Biển Đông, đang tìm kiếm các mối quan hệ quân sự gần gũi hơn với Mỹ... Cuộc đấu tranh để giành địa vị ưu việt tại Tây Thái Bình Dương không nhất thiết phải bao gồm chiến tranh. Chiến tranh chẳng phải là chuyện không thể tránh khỏi cho dù cạnh tranh là điều hiển nhiên. Và nếu Trung Quốc và Hoa Kỳ xử lý thành công cuộc chuyển giao sắp đến, thì châu Á, và cả thế giới, sẽ là một nơi an toàn và thịnh vượng hơn. Có gì có thể đạo đức hơn điều đó?”[30]. Dĩ nhiên đây không chỉ là quan điểm của riêng Kaplan.

Dẫn ra một cách kỹ hơn những quan niệm của Hillary Clinton và Robert Kaplan, chúng tôi muốn góp phần lý giải, tại sao vấn đề Biển Đông lại có ý nghĩa đáng kể đến như vậy trong tham vọng chiến lược của Trung Quốc và Mỹ. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhóm chuyên gia phân tích tình hình quốc tế trong báo cáo của mình về tình hình biển Đông còn đánh giá rằng, vấn đề Biển Đông sẽ là “thế kẹt” (trapped) của những tham vọng cường quốc[31]. Câu hỏi Trung Quốc liệu có vượt qua Mỹ để trở thành cường quốc chi phối thế giới trong thế kỷ XXI hay không, trên thực tế lại phụ thuộc không nhỏ vào việc giải quyết vấn đề Biển Đông.



V. Sự suy yếu tương đối của Mỹ - “Mỹ phai tàn”?


Những dự báo Trung Quốc sẽ vượt qua Mỹ để chiếm vị trí nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một thời điểm gần đã làm sôi động những tranh luận về việc Mỹ sẽ phải đối mặt với những thách thức ngày càng lớn về vị thế kinh tế - chính trị của mình trong tương lai. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, vai trò của quy mô kinh tế đối với vị thế cường quốc, không luôn luôn và không nhất thiết có quan hệ nhân quả với nhau - đây là điều khá tinh tế mà không phải mọi nhà chiến lược đều đã ý thức rõ. Tự thân kinh tế không phải là một thước đo đầy đủ và chính xác sức mạnh thực của các quốc gia trong hệ thống thế giới, nhất là với những nền kinh tế lớn về quy mô và phạm vi nhưng lại chưa cao về trình độ và cơ cấu như Trung Quốc. Vả lại, Trung Quốc ngay từ thế kỷ XIX, đã có lúc là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nhưng vào đúng những thời điểm như vậy, Trung Quốc lại đã từng cúi đầu khuất phục những quốc gia chẳng to lớn gì ở châu Âu. Còn ngày nay, cho dù Trung Quốc có thực sự vươn lên đỉnh cao kinh tế và quân sự, quốc gia này cũng không dễ rút ngắn sự tụt hậu khá xa so với Mỹ và Châu Âu về GDP bình quân đầu người, về chỉ số HDI (phát triển con người), về khoa học, giáo dục và về nhiều phẩm chất văn hóa - văn minh khác mà chính người Trung Quốc đang tự phàn nàn[32].

Những người tin tưởng chắc chắn vào khả năng lớn mạnh hơn nữa của châu Á có vẻ vẫn đang nhiều thêm. Ngay cả Thomas Friedman, nhà báo nổi tiếng của tờ New York Times, tác giả cuốn “Thế giới phẳng” gây xôn xao dư luận mấy năm vừa rồi, cũng đã lên tiếng chỉ trích chính quyền Washington để nước Mỹ tụt hậu đáng kể trong cuộc chạy đua với những đối thủ châu Á. Tháng 8/2011 cùng với Michael Mandelbaum, một trong những nhà tư tưởng hàng đầu về chính sách đối ngoại của Mỹ, giáo sư Đại học Johns Hopkins, Friedman đã xuất bản cuốn sách “Chúng ta đã từng như thế: Mỹ tụt hậu trong thế giới mà Mỹ đã tạo ra như thế nào và làm thế nào để chúng ta quay trở lại” (That Used to Be Us: How America Fell Behind in the World It Invented and How We Can Come Back). Friedman và Mandelbaum đã dẫn ra những số liệu đáng chú ý về thâm hụt ngân sách và phân tích những yếu kém trong quản lý vĩ mô của Mỹ về mặt kinh tế - xã hội. Theo các ông, toàn bộ nền kinh tế Mỹ đến nay đã giảm sút nghiêm trọng về trình độ và tốc độ tăng trưởng. Mức độ sụt giảm kinh tế Mỹ, theo Friedman và Mandelbaum, đáng phê phán đến mức kỳ lạ, nếu đem so với bất kỳ nền kinh tế mới nổi nào như Ấn Độ, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ…, mà đặc biệt là với Trung Quốc. Trong chính trị và quân sự, Mỹ cũng không nắm được vấn đề hạt nhân của Iran và Triều Tiên, bị động trước sự biến động của khu vực Arap và các khu vực khác. Những biểu hiện của quyền lực Mỹ suy tàn đã và đang hiện ra rất rõ. Friedman và Mandelbaum không ngần ngại kết luận, thời kỳ Mỹ “lãnh đạo thế giới và có khả năng bắt các nước làm theo” đã kết thúc rồi[33].




Thế nhưng, bất chấp số người tin tưởng châu Á sẽ vượt lên trước phương Tây ngày một nhiều thêm, vẫn có rất nhiều tiếng nói cho là quá sớm khi tụng ca thế kỷ châu Á và coi Mỹ đang lụi tàn giống như đế quốc Anh quốc nửa đầu thế kỷ XX. Vì ngoài sức mạnh kinh tế vẫn còn khá nghèo so với Mỹ và phương Tây, châu Á đang đối mặt với những thử thách lớn về dân số, chính trị, môi trường và đặc biệt là liên kết khu vực; châu Á còn quá xa vời với kiểu liên kết như Liên minh châu Âu. Hơn thế nữa, theo Joshua Kurlantzick, chuyên gia về Đông Nam Á của Hội đồng quan hệ đối ngoại Mỹ, tất cả những cường quốc châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc hay Nhật Bản, thực tế, vẫn muốn gây chiến với nhau hơn là hợp tác để tạo ra những định chế chung[34].

Phải chăng Mỹ đang lụi tàn, như gần đây nhiều chính khách và học giả đang tin là thế? Có phải Mỹ đã từ bỏ những đức tin và ý chí đã giúp họ thành công trong quá khứ và ngày nay Mỹ hoàn toàn thiếu tiềm lực và sức mạnh để giải quyết những vấn đề họ đang đối mặt? Hay liệu Washington sẽ phải tự kết liễu vị thế siêu cường của mình vì nhận thấy sự dịch chuyển nền văn minh đang khiến cho sức mạnh Mỹ không tránh khỏi suy giảm? Mặc cho Niall Ferguson vẫn thu hút khá đông cử tọa đến giảng đường nghe lý luận về phương Tây lụi tàn của ông, mặc cho Friedman và Mandelbaum vẫn đang lôi cuốn độc giả cười nhạo hình ảnh một Chú Sam già yếu và bất lực, trật tự thế giới ngày nay, như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích khá cặn kẽ tới mức khó có thể phủ nhận được - vẫn đang là trật tự phản ánh sự thắng thế và hợp lý của nhiều nguyên tắc Mỹ, mô hình Mỹ, quan niệm Mỹ, lối sống Mỹ và nói chung là ưu thế Mỹ trong hầu hết các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự. Sự suy tàn của Mỹ, rất có thể chỉ là sự phản ánh tâm lý bức xúc của những người không muốn nước Mỹ yếu đi, nhiều lắm nó cũng chỉ là hồi chuông đánh động nhà cầm quyền. Còn nếu như có thực, sự suy tàn của Mỹ chắc chắn sẽ đồng nghĩa với việc mở ra một thế giới khác cho nhân loại.

Nhưng giả dụ, nếu điều này xảy ra thì đáng mừng hay đáng lo?

Theo James Kurth, thế kỷ XX mới là thế kỷ Mỹ thứ nhất, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Mỹ thứ hai. Những trụ cột làm nên một siêu cường Mỹ ở thế kỷ thứ hai có thể sẽ khác, nhưng Mỹ vẫn sẽ là cường quốc mạnh nhất thế kỷ XXI mặc dù không dựa vào kiểu thống trị như trong thế kỷ vừa qua. James Kurth cho rằng, Mỹ còn rất lâu nữa vẫn tồn tại dựa vào những trụ cột mà Trung Quốc và những cường quốc khác khó có thể tạo ra cho mình những cái gì đó tương tự. Bên cạnh những trụ cột thuộc kinh tế, chính trị, quân sự, và văn hóa…, Mỹ hiện vẫn là tấm gương khiến cả thế giới muốn bắt chước về sự sáng tạo công nghệ và một lối sống hấp dẫn[35]. Dù lâu nay người ta đã nói nhiều về việc châu Á sẽ vươn lên làm chủ công nghệ trong tương lai, nhưng một năng lực sáng tạo công nghệ liên tục và thường xuyên như Mỹ đã làm trong suốt nửa sau thế kỷ XX thì không hề đơn giản đối với bất kỳ quốc gia nào. Mặc dù Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay Trung Quốc đã thành công về kinh tế, nhưng những cường quốc của khu vực này vẫn chưa đủ đảm bảo để các nước khác yên tâm với sức mạnh của sự tiến bộ - như Mỹ đã tạo nên cho các đồng minh của Mỹ. Ngoài ra, không tham vọng lãnh thổ còn là một phẩm chất mà xưa nay người ta thấy chỉ có ở đế chế này[36].

Và gần đây, chính quyền Obama dường như đã ý thức hơn về sức mạnh dài lâu của Mỹ.

Trong theo dõi của chúng tôi, người có tiếng nói đáng chú ý hơn cả trong việc khẳng định vị thế cường quốc của Mỹ trong thế kỷ XXI là Robert Kagan, nhà nghiên cứu chính sách đối ngoại của Viện Brookings, bình luận viên báo Washington Post, nhà tư tưởng chiến lược có ảnh hưởng lớn ở Mỹ (One of the country's most influential strategic thinkers). Trong cuốn sách mới nhất của mình “Thế giới mà nước Mỹ tạo ra” (The World America Made) xuất bản năm 2012 và trong bài “Chưa phai tàn. Phản biện huyền thoại về sự suy tàn của Mỹ” (Not Fade Away. Against the myth of American decline) đăng trên tờ The New Republic số tháng 2/2012, Kagan đã một lần nữa bàn về vai trò và vị thế hiện tại của Mỹ, với quan điểm gần như là đối lập hoàn toàn với Niall Ferguson, với Thomas Friedman và Michael Mandelbaum. Ngay từ khi công bố, cuốn sách và bài báo này đã nhận được sự phản hồi sôi nổi của đông đảo độc giả[37].



Theo Robert Kagan, hiện đang có nhiều sự bi quan được đặt không đúng chỗ; chuyện Mỹ đang suy tàn, thực ra là một huyền thoại thiếu căn cứ. Thế giới sẽ trở thành một thế giới khác và có thể trở nên nguy hiểm hơn nếu Mỹ giảm bớt vai trò lãnh đạo toàn cầu để dồn sức chỉ vào việc giải quyết các vấn đề nội bộ. Sự trở lại của chiến tranh sẽ tăng lên khi các quốc gia chen lấn vì quyền lực thế giới. Sự rút lui của dân chủ sẽ diễn ra ở những nước như Nga. Sự độc đoán sẽ có thêm sức mạnh ở những nước như Trung Quốc. Và sự yếu kém sẽ ngự trị trong nền kinh tế thị trường tự do toàn cầu, một trật tự đáng mơ ước mà Mỹ đã tạo ra và liên tục hỗ trợ trong hơn 60 năm qua. Bằng các căn cứ định lượng và định tính cụ thể, Robert Kagan đã vẽ nên một bức tranh sống động, thậm chí đáng báo động về việc nếu Hoa Kỳ có ý định để cho ảnh hưởng của mình suy yếu đi[38].

Theo Robert Kagan, không phải chỉ nhờ may mắn hay nhờ cầu nguyện mà trong quá khứ Mỹ đã vượt qua những cuộc khủng hoảng và trỗi dậy mạnh mẽ hơn các nước khác trong khi nhiều đối thủ của Mỹ đã suy sụp. Vấn đề là ở chỗ, sự suy tàn, đối với Mỹ, là một lựa chọn. Nếu Mỹ lựa chọn chiến lược để tàn lụi thì nước Mỹ sẽ suy tàn. Quyết định nằm trong tay người Mỹ; suy tàn không phải là một định mệnh không thể tránh được, ít nhất là cho tới thời điểm hiện nay. Dĩ nhiên, nền văn minh thế giới rồi sẽ dịch chuyển. Các đế chế hưng thịnh - đến như La Mã - rồi cũng sẽ suy vong. Nhưng vào lúc nào? Nếu Mỹ bắt đầu sự suy tàn của mình trong hai thập niên tới, điều đó sẽ có ý nghĩa hệ trọng cho hai thế kỷ tiếp theo, không chỉ đối với người Mỹ mà còn đối với bản chất của thế giới mà Mỹ và nhân loại đang sống[39].

Trong thế kỷ XX, Mỹ đã gây ảnh hưởng lớn, lớn hơn bất cứ cường quốc nào kể cả thời Đế chế La Mã. Mỹ đã đạt được nhiều thành tựu và cũng giúp cho thế giới đạt được nhiều thành tựu. Nhưng Mỹ vẫn có những yếu kém và sai lầm. Mỹ không hoàn hảo và cũng đừng bao giờ mong Mỹ hoàn hảo[40].

*

* *

Như đã thấy ở trên, những tài liệu dẫn ra trong bài này đều ở dạng khá chọn lọc. Chúng tôi chú ý đến những quan niệm thể hiện tương đối rõ tính khách quan với những căn cứ có lẽ là đủ tin cậy. Cái nhìn trong các bài được chọn để phân tích cũng là cái nhìn tránh được sự thiên lệch. Tuy nhiên, với những vấn đề gắn chặt với tư duy chính trị - chiến lược như trong bài này, khả năng gây ảnh hưởng của những quan điểm được nêu cũng cần thiết phải được tính đến. Bởi vậy, chúng tôi đã cố gắng không bỏ sót những tác giả có uy tín nhất, những người có bề dày hoạt động trong lĩnh vực tư duy chiến lược, có sự phân tích sắc sảo và điều quan trọng nhất, sắc sảo nhưng thực tế.

Chỉ với không nhiều tài liệu đã dẫn ra trong bài, những kết luận đầu tiên về vấn đề phức tạp này cũng đã có thể hình dung được như sau.

VI. Kết luận

Thế kỷ châu Á là một khái niệm không đến nỗi viển vông hay hoang tưởng. Trong thế kỷ XXI chắc chắn Trung Quốc và châu Á, nói chính xác hơn, Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á sẽ còn tiếp tục phát triển và nhiều khả năng là sẽ thịnh vượng hơn. Biển Đông đúng là một thế kẹt của tham vọng cường quốc, nhưng nếu các đầu óc chiến lược đủ tỉnh táo để không xảy ra chiến tranh thì châu Á, mặc dù thiếu liên kết, sẽ vẫn buộc phải cùng với Trung Quốc mở ra một diện mạo mới cho châu Á và điều đó góp phần làm thay đổi thế giới. Cho đến nay, chưa có một dự báo nào khẳng định khả năng chiến tranh, mặc dù các phương án quân sự đối phó với chiến tranh vẫn đang được triển khai khá quyết liệt ở một số nước. Gần đây nguy cơ này ở Biển Đông được suy đoán có vẻ tăng thêm, song nhiều các nhà chiến lược vẫn thấy đây là nguy cơ có thể kiểm soát được. Nếu dự báo này không sai thì thế kỷ châu Á sẽ là kết quả của sự dịch chuyển đầu tiên của nền văn minh nhân loại từ phương Tây sang phương Đông.

Thế kỷ Thái Bình Dương cũng là khái niệm có thực, phản ánh sự năng động và phức tạp của trật tự địa chính trị vùng này. Tuy khái niệm này được người Mỹ tạo ra để phục vụ cho lợi ích của Mỹ. Song do những ảnh hưởng thực tế của việc thực hiện chiến lược này, nên quan niệm về Thế kỷ Thái Bình Dương lại trở thành một phần của quan niệm về Thế kỷ châu Á. Biển, mà ở đây là biển Đông ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Để chiến tranh không thể xảy ra, Biển Đông sẽ trở thành “nơi tập trận” của những quan điểm, những chiến lược, những phương pháp (bao gồm cả những thủ đoạn), và những thái độ (bao gồm cả sự nhân nhượng)… về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao giữa các quốc gia có liên quan, mà trước hết là giữa các nước có liên quan trực tiếp.

Trong lộ trình hiện thực hóa quan điểm Thế kỷ Thái Bình Dương, chắc chắn Mỹ sẽ hiện diện mạnh mẽ hơn ở Biển Đông và điều này củng cố đồng thời làm gia tăng lợi ích của Mỹ. Vị thế của Mỹ gắn chặt với Biển Đông và gắn chặt với lợi ích của các bên có liên quan, dù trực tiếp hay gián tiếp. Bởi vậy thực lực của Mỹ vốn vẫn mạnh lại buộc phải phát triển theo hướng mạnh hơn trong thế cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc. Nghĩa là Mỹ chưa thể “phai tàn” như một số chiến lược gia trông đợi.

Đáng ra Trung Quốc có thể phát triển theo một kịch bản khác nếu từ bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông. Và nếu như vậy rất có thể giấc mộng Trung Hoa sẽ không phải là cơn ác mộng do tính hài hòa ở mức nào đó của nó với lợi ích của các cường quốc khác và của các bên có liên quan. Nhưng Trung Quốc đã chọn và không có đường từ bỏ tham vọng này nên thế kẹt của tham vọng cường quốc cũng là một khái niệm có thực. Trung Quốc đang tự hạn chế khả năng trở thành cường quốc của mình. Khả năng này (trở thành cường quốc) hóa ra vẫn là một khả năng xa, nhường chỗ cho sự tác động, chi phối, gây sức ép, lừa vào bẫy… của Mỹ.

Mỹ chưa thể “phai tàn”, nghĩa là phương Tây vẫn chưa cáo chung. Và quả thật phương Tây vẫn còn rất nhiều giá trị mà các nước đi sau vẫn cần thiết phải học hỏi để phát triển. Với truyền thống duy lý rực rỡ từ thời đại Phục hưng và Khai sáng, với khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” lay động lòng người từ Cách mạng Tư sản Pháp 1789, với nền khoa học và giáo dục hùng mạnh từ thời Newton, Descartes, Kant, Humboldt, Einstein, và với các giá trị văn hóa đã trở thành khuôn vàng thước ngọc bởi Leonardo da Vinci, Shakespeare, Cervantes, Rousseau, Beethoven, Mozart… phương Tây vẫn còn khá nhiều giá trị “kinh điển” mà ngay cả Mỹ vẫn chưa đi hết con đường phương Tây đã đi để vươn tới tiến bộ[41].

Trong sự tiếp nối còn đang dang dở ấy, Mỹ vẫn có “đất múa võ” để mạnh hơn cả về kinh tế, chính trị, quân sự, và giá trị sống. Hiện Mỹ vẫn rất giàu, rất mạnh và đủ tiến bộ. Trong thế kỷ XXI, Mỹ vẫn còn khả năng giàu hơn, mạnh hơn và tiến bộ hơn, trước khi một Trung Quốc hoặc một nước nào khác có thể giàu hơn, mạnh hơn và tiến bộ hơn so với Mỹ. Nghĩa là Mỹ vẫn rất cần cho sự tiến bộ của thế giới.

Nếu tiến bộ xã hội đúng là quy luật thì sự phát triển của loài người dù quanh co đến đâu, thậm chí dù chiến tranh cục bộ có xảy ra, dù tư tưởng dân tộc cực đoan có tạm thắng thế, nghĩa là dù bất ngờ và khó đoán đến mấy, thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ không thiếu hứa hẹn đối với châu Á và nhân loại.

===================


[1]. Các số liệu này do CIA, OECD, IMF và WB công bố. Chúng tôi chọn và soạn theo
http://www.indexmundi.com.

[2]. Xem: Vinh Nguyễn (2010). Phía sau việc kinh tế Trung Quốc thăng hạng. http://vneconomy.vn/20100817113414261P0C99/phia-sau-viec-kinh-te-trung-quoc-thang-hang.htm.

[3]. Haruhiko Kuroda (2011). Is the Asian century upon us? http://www.chinadaily.com.cn/opinion/2011-05/10/content_12476305.htm. // Joshua Kurlantzick (2011). The Asean Century? Not Quite Yet. Current History - A Journal of Contemporary World Affairs. January.

[4] Xem: Hillary Rodham Clinton, Secretary of State (2010). Press Availability. National Convention Center. Hanoi, Vietnam. July 23,. http://www.state.gov/secretary/rm/2010/07/145095.htm.

[5] Xem: Robert Kagan (2012). Not Fade Away. The myth of American decline. The New Republic. January 11. http://www.tnr.com/article/politics/magazine/99521/america-world-power-declinism?id=FoZ4F7oMNWb7y04UpK20GKfyrbir7aLsgUrHpHEN0jQVczVWeQ0QSkXGLNwv2vj2.

[6] International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (I&II): Regional Responses. Asia Report N°223, 23 Apr 2012; N°229,. 24 Jul 2012. http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/223-stirring-up-the-south-china-sea-i.pdf. http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/229-stirring-up-the-south-china-sea-ii-regional-responses

[7] Xem: Robert D. Kaplan (2011). The South China Sea Is the Future of Conflict. Foreign Policy. Sept/Oct,. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/08/15/the_south_china_sea_is_the_future_of_conflic // CNAS. Cooperation from Strength: The United States, China and the South China Sea.(Edited by Patrick M. Cronin. Contributors: Patrick M. Cronin, Peter A. Dutton, M. Taylor Fravel, James R. Holmes, Robert D. Kaplan, Will Rogers and Ian Storey). January, 2012. http://www.cnas.org/files/documents/publications/CNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf.

[8]. Xem: Oswald Spengler (1918, 1922). The Decline of the West (Der Untergang des Abendlandes) t.1. 1918, t.2. 1922). // Francis Fukuyama (1992). The End of History and The Last Man”. // Philip Atkinson (2012). The End Of Western Civilization. http://www.ourcivilisation.com/theend.htm. // David Marquand (2011). The End of the West: the Once and Future Europe. Princeton University Press. // Зиновьев А. А (1995). Запад. http://www.deloteca.ru/st2/r29/t1/id501

[9]. Asian Century, Pacific Century, Asia-Pacific Century, Flying-geese Pattern, Chinese lion woke, Old Europe, Secular Europe; The End of West, America Fade Away…

[10]. Asia 2050: Realizing the Asian Century. ADB Published 2011. http://www.unido.org/fileadmin/user_media/UNIDO_Worldwide/Asia_and_Pacific_Programme/Documents/AsianDevelopmentBankreport_asia-2050.pdf

[11]. Niall Ferguson (2011). Civilization: The West And The Rest. Penguin Press.

[12]. Xem: Niall Ferguson (2011). The 6 killer apps of prosperity. http://www.ted.com/talks/niall_ferguson_the_6_killer_apps_of_prosperity.html

[13]. Xem: Anthony Bubalo, Malcolm Cook (2010). Horizontal Asia. American Interest. May/June.

[14] Các số liệu này do CIA, OECD, IMF và WB công bố. Chúng tôi chọn và soạn theo http://www.indexmundi.com.

[15] NIEs - gọi đầy đủ là “Các nền kinh tế công nghiệp hóa mới” (Newly Industrialized Economies). NICs - “Các nước công nghiệp hóa mới” (Newly Industrialized Countries). Số liệu nói về năm GDP của Đài Loan và Hàn Quốc đạt tới 10.000 USD đầu người không thống nhất trong các tài liệu khác nhau. Theo IMF, Đài Loan đạt 10.000 USD đầu người năm 1990 và Hàn Quốc năm 1992. Còn theo các tài liệu khác thì Đài Loan năm 1987 và Hàn Quốc năm 1990 hoặc 1991. Tuy nhiên nhanh chậm 1-2 năm ở đây không làm thay đổi bản chất vấn đề đang bàn.

[16] Năm 1962, tại hội nghị Lư Sơn, để nói lý lẽ của mình về quan hệ sản xuất, Đặng Tiểu Bình nhắc lại một câu ngạn ngữ Tứ Xuyên: “Bất kỳ mèo trắng mèo đen, hễ bắt được chuột thì đều là mèo tốt” (不 管 黑 貓 白 貓, 捉 到 老 鼠 就 是 好 貓 - Bất quản hắc miêu bạch miêu, tróc đáo lão thử tựu thị hảo miêu). Tháng 2/1976, Mao Trạch Đông ra chỉ thị phê phán và bắt giam Đặng vì “lý luận con mèo”. Khi thăm Thâm Quyến năm 1992, dường như Đặng đã nhắc lại câu nói này và từ đó, tư tưởng này được ca ngợi nhiều.

[17] Napoleon nói về Trung Quốc, 1816. Xem thêm: Nguyễn Lưu Viên. Trung Quốc đã thức dậy rồi... thế giới có run sợ chưa. http://vietnamlibrary.informe.com/trung-qu-c-no-th-c-d-y-r-ei-a-b-s-nguy-an-l-u-vi-dt230.html

[18] UNDP. Human Development Report 2010. tr. 207.

[19] Xem: Vinh Nguyễn (2010). Tài liệu đd.

[20] Navarro, Peter & Greg Autry (2011). Dead by China, Confronting Dragon – A Global Call for Action. Publishing as Prentice Hall. http://www.deathbychina.com/DBC-excerpt.pdf .

[21] Xem: International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (I&II). tài liệu đd.

[22] Xem: Lưu Minh Phúc (2011). Giấc mơ Trung Quốc.Tư duy nước lớn và định vị chiến lược trong thời đại hậu Mỹ. Nxb. Thời đại. // 同主题阅读:[ZGPT]未来50年中国的六场战争:将彻底打破世界格局 (6 cuộc chiến tranh của Trung Quốc 50 năm tới). http://www.mitbbs.com/article_t/MiscNews/31207047.html

[23] Xem: David Uren (2012). The Kingdom and the quarry: China, Autralia feear and Greed. Publisher: Black Inc. (Rất nhiều tài liệu về vấn đề này, nhưng đây là tài liệu đáng chú ý hơn cả). Xem thêm: Trung Quốc tham vọng độc chiếm biển Đông - Kế hoạch ứng phó liên minh Mỹ - Australia http://miscellaneous-land.over-blog.net/article-trung-qu-c-tham-v-ng-c-chi-m-bi-n-ong-k-ho-ch-ng-pho-ng-minh-m-_-uc-106345685.html.

[24] Xem: Vikram Nehru (2012). Collision Course in the South China Sea. http://nationalinterest.org/commentary/collision-course-the-south-china-sea-7380.

[25] Hillary Rodham Clinton, Secretary of State (2010). Tài liệu đd.

[26] Hillary Rodham Clinton, Secretary of State (2012). Commemorating U.S. Peace and Security Partnerships in the Pacific.Cook Islands, August 31. http://www.state.gov/secretary/rm/2012/08/197262.htm

[27] Ngoại trưởng Mỹ: COC phù hợp với lợi ích của tất cả các bên. http://hanoimoi.com.vn/newsdetail/The-gioi/558457/ngoai-truong-my-coc-phu-hop-voi-loi-ich-cua-tat-ca-cac-ben.htm.

[28] Hillary Clinton (2011). America's Pacific Century. Foreign Policy. November, 2011. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/10/11/americas_pacific_century?page=full.

[29] CNAS (2012). Tài liệu đđ.

[30] Robert D. Kaplan (2011). Tài liệu đd.

[31] Xem: International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (II): Regional Responses. Asia Report N°229,. 24 Jul 2012. http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/229-stirring-up-the-south-china-sea-ii-regional-responses // "Thế kẹt" của Trung Quốc ở Biển Đông. http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/1567-qth-ktq-ca-trung-quc--bin-ong

[32]. Xem: Lưu Á Châu (2012). Sự đáng sợ của nước Mỹ. http://trankinhnghi.blogspot.com/2012/03/nghe-nguoi-trung-hoa-noi-ve-hoa-ky-va.html.

[33]. Xem: Thomas Friedman, Michael Mandelbaum (2011). That Used To Be Us. How America Fell Behind in the World It Invented and How We Can Come Back. http://www.thomaslfriedman.com/bookshelf/that-used-to-be-us. // That Used to be Us By Thomas L. Friedman and Michael Mandelbaum. http://www.nytimes.com/2011/09/11/books/review/that-used-to-be-us-by-thomas-l-friedman-and-michael-mandelbaum-book-review.html?pagewanted=all

[34]. Xem: Joshua Kurlantzick (2011). Tài liệu đd. // Xem thêm: Haruhiko Kuroda (2011). Tài liệu đd.

[35]. Xem: James Kurth (2009). Pillars of the Next American Century. Tracing the foundations of American global strength, from past to future. The American Interest. Volume 5, Number 2. November/ December.

[36]. Trích theo: Viện những vấn đề phát triển http://www.vids.org.vn/vn/asp/News_Detail.asp?tabid=1&;;;;mid=802&ID=2138:

Trong một cuộc họp báo, Tổng Giám Mục Giáo xứ Canterbury, Anh, gay gắt hỏi Ngoại trưởng Mỹ Collin Powell việc Mỹ đem quân sang Iraq và Afganistan có phải là thí dụ điển hình về tham vọng bành trướng lãnh thổ của Mỹ hay không? Ngoại trưởng Collin Powel trả lời: Thưa Đức Cha, từ bao nhiêu năm qua, Mỹ đã gửi không biết bao nhiêu nam thanh, nữ tú của mình dấn thân vào lửa đạn để tranh đấu cho tự do ngoài biên cương Mỹ. Tham vọng về đất đai của chúng tôi, nếu có là chỉ xin vừa đủ đất để chôn những người tử trận không thể trở về nhà.

[37]. Xem: Robert Kagan (2012). The World America Made published by Alfred A. Knopf, 2012.// Robert Kagan (2012). Not Fade Away. Tài liệu đd.

[38]. Robert Kagan (2012). Tài liệu đd.

[39]. Robert Kagan (2012). Tài liệu đd.

[40]. Robert Kagan (2012). Tài liệu đd.

[41]. Xem: Зиновьев А. А (1995). Запад. http://www.deloteca.ru/st2/r29/t1/id501 // Зиновьев А. A. (2006). Что мы теряем? Сегоднья заадноевроейская циливизация находиться в сеpьезной опасности. Литературная газета. № 11-12, 22-28 Марта 2006. // Fuller, Graham: old Europe - or old America? International Herald Tribune, 12/2/2003. (http://www.digitalnpq.org/archive/ 2003spring/fuller.html). // Hồ Sĩ Quý (2009). Giá trị châu Âu: những gợi ý cho sự phát triển. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1.



Tài liệu tham khảo:

1. Atkinson, Philip (2012). The End Of Western Civilization. http://www.ourcivilisation.com/theend.htm.
2. Asia 2050: Realizing the Asian Century. ADB Published 2011. http://www.unido.org/fileadmin/user_media/UNIDO_Worldwide/Asia_and_Pacific_Programme/Documents/AsianDevelopmentBankreport_asia-2050.pdf
3. Bubalo, Anthony & Malcolm Cook (2010). Horizontal Asia. American Interest. May/June.
4. Clinton, Hillary Rodham, Secretary of State (2010). Press Availability. National Convention Center. Hanoi, Vietnam. July 23,. http://www.state.gov/secretary/rm/2010/07/145095.htm .
5. Clinton, Hillary (2011). America's Pacific Century. foreign Policy. November, 2011. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/10/11/americas_pacific_century?page=full
6. CNAS. Cooperation from Strength: The United States, China and the South China Sea. (Edited by Patrick M. Cronin. Contributors: Patrick M. Cronin, Peter A. Dutton, M. Taylor Fravel, James R. Holmes, Robert D. Kaplan, Will Rogers and Ian Storey). January, 2012. http://www.cnas.org/files/documents/publications/CNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf
7. Vũ Thành Công, Nguyễn Thế Phương (2012). Giữ lại tên biển “Nam Trung Hoa” là không hợp lý. http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/tuanvietnam.vietnamnet.vn/Giu-lai-ten-bien-Nam-Trung-Hoa-la-khong-hop-ly/9629011.epi
8. Ferguson, Niall (2011). Civilization: The West And The Rest. Penguin Press.
9. Ferguson, Niall (2011). The 6 killer apps of prosperity. http://www.ted.com/talks/niall_ferguson_the_6_killer_apps_of_prosperity.html
10. 同主题阅读:[ZGPT]未来50年中国的六场战: 将彻底打破世界格局 (6 cuộc chiến mà Trung Quốc phải tiến hành 50 năm tới) http://www.mitbbs.com/article_t/MiscNews/31207047.html
11. Friedman, Thomas, Michael Mandelbaum (2011). That Used To Be Us. How America Fell Behind in the World It Invented and How We Can Come Back. http://www.thomaslfriedman.com/bookshelf/that-used-to-be-us.
12. Fukuyama, Francis (1992). The End of History and The Last Man. Harper Perennial.
13. Fuller, Graham: old Europe - or old America? International Herald Tribune, 12/2/2003. (http://www.digitalnpq.org/archive/ 2003spring/fuller.html).
14. International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (I): Regional Responses. Asia Report N°223, 23 Apr 2012 http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/223-stirring-up-the-south-china-sea-i.pdf.
15. International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (II): Regional Responses. Asia Report N°229,. 24 Jul 2012. http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/229-stirring-up-the-south-china-sea-ii-regional-responses
16. Kaplan, Robert D. (2011). The South China Sea Is the Future of Conflict. Foreign Policy. Sept/Oct,. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/08/15/the_south_china_sea_is_the_future_of_conflict
17. Kagan, Robert D. (2012). The World America Made published by Alfred A. Knopf, 2012.
18. Kagan, Robert D. (2012). Not Fade Away. The myth of American decline. The New Republic. January 11. http://www.tnr.com/article/politics/magazine/99521/america-world-power-declinism?id=FoZ4F7oMNWb7y04UpK20GKfyrbir7aLsgUrHpHEN0jQVczVWeQ0QSkXGLNwv2vj219.Kurlantzick, Joshua (2011). The Asean Century? Not Quite Yet. Current History - A Journal of Contemporary World Affairs. January.
20. Kuroda, Haruhiko (2011). Is the Asian century upon us? http://www.chinadaily.com.cn/opinion/2011-05/10/content_12476305.htm.
21. Kurth, James (2009). Pillars of the Next American Century. Tracing the foundations of American global strength, from past to future. The American Interest. Volume 5, Number 2. November/ December.
22. Lưu Á Châu (2012). Sự đáng sợ của nước Mỹ. http://trankinhnghi.blogspot.com/2012/03/nghe-nguoi-trung-hoa-noi-ve-hoa-ky-va.html.
23. Lưu Minh Phúc (2011). Giấc mơ Trung Quốc.Tư duy nước lớn và định vị chiến lược trong thời đại hậu Mỹ. Nxb. Thời đại.
24. Marquand, David (2011). The End of the West: the Once and Future Europe. Princeton University Press.
25. Navarro, Peter & Greg Autry (2011). Dead by China, Confronting Dragon – A Global Call for Action. Publishing as Prentice Hall. http://www.deathbychina.com/DBC-excerpt.pdf .
26. Nehru, Vikram (2012). Collision Course in the South China Sea. http://nationalinterest.org/commentary/collision-course-the-south-china-sea-7380.
27.Trung Quốc tham vọng độc chiếm biển Đông - Kế hoạch ứng phó liên minh Mỹ - Australia. http://miscellaneous-land.over-blog.net/article-trung-qu-c-tham-v-ng-c-chi-m-bi-n-ong-k-ho-ch-ng-pho-ng-minh-m-_-uc-106345685.html
28. UNDP. Human Development Report 2010.
29. Uren, David (2012). The Kingdom and the quarry: China, Autralia feear and Greed. Publisher:Black Inc.
30. Nguyễn Lưu Viên. Trung Quốc đã thức dậy rồi... thế giới có run sợ chưa. http://vietnamlibrary.informe.com/trung-qu-c-no-th-c-d-y-r-ei-a-b-s-nguy-an-l-u-vi-dt230.html
31. Vinh Nguyễn (2010). Phía sau việc kinh tế Trung Quốc thăng hạng. http://vneconomy.vn/20100817113414261P0C99/phia-sau-viec-kinh-te-trung-quoc-thang-hang.htm.
32. Зиновьев А. А (1995). Запад. Изд. Центрполиграф. http://www.deloteca.ru/st2/r29/t1/id501
33. Зиновьев А. A. (2006). Что мы теряем? Сегоднья заадноевроейская циливизация находиться в сеpьезной опасности. Литературная газета. № 11-12, 22-28 Марта.
34. Ngoại trưởng Mỹ: Thái Bình Dương đủ rộng cho cả Mỹ và Trung Quốc. http://dantri.com.vn/c36/s36-636411/ngoai-truong-my-thai-binh-duong-du-rong-cho-ca-my-va-trung-quoc.htm
35. Ngoại trưởng Mỹ: COC phù hợp với lợi ích của tất cả các bên. http://hanoimoi.com.vn/newsdetail/The-gioi/558457/ngoai-truong-my-coc-phu-hop-voi-loi-ich-cua-tat-ca-cac-ben.htm.

29. Hồ Sĩ Quý (2009). Giá trị châu Âu: những gợi ý cho sự phát triển. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1.
30. Spengler, Oswald (1918, 1922). The Decline of the West (Der Untergang des Abendlandes) t.1. 1918, t.2. 1922).
31. “Thế kẹt”của Trung Quốc ở Biển Đông. http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/1567-qth-ktq-ca-trung-quc--bin-ong


Thơ Hoa Kỳ và Tân Hình Thức







Tạp chí Thơ {TC Thơ} bắt đầu từ số 19 (Thu 2000) giới thiệu thơ Tân Hình Thức {THT} Hoa Kỳ {HK}, kèm theo sáng tác của một số nhà thơ Việt Nam {VN} vừa tiếp thu bài học THT. Trong nhiều số sau, Khế Iêm và các bạn tiếp tục cổ động và đề cao THT qua nhiều tiểu luận, bài dịch, sáng tác; gây ra ấn tượng nhân tạo về một phong trào thơ vừa xuất hiện rầm rộ ở Mỹ, trong khi sự thực thì khác hẳn. Bài viết này hi vọng cung cấp cho độc giả không rành tiếng Anh và thiếu khả năng tra cứu, đặc biệt là người VN trong nước thiếu sách báo thế giới, một cách nhìn tương đối chính xác hơn về thơ HK hôm nay.

Con người tôi quảng đại, tôi dung chứa số đông.

Walt Whitman

Văn học Hoa Kỳ đặc biệt kể từ hai mươi năm gần đây

đổi thay hình dạng vì cuộc gặp gỡ với di dân.
Toni Morrison

*
Hoa Kỳ là một ngoại lệ không chỉ về lịch sử hay địa lý. Khác với châu Á hay châu Âu, vùng đất chưa mang đậm dấu ấn nhân văn ấy đúng là Tân Thế Giới cho dự án và sáng tạo. Thơ HK mang sắc thái đặc thù của loại văn học di dân lần lượt kế thừa và phát huy nhiều luồng văn hóa thế giới trên một lục địa phóng khoáng chưa bị bó buộc vào các nề nếp quá khứ như những vùng đất có lịch sử lâu đời... Có thể nói HK là dự phóng của địa cầu thu nhỏ vì tính đa văn hóa với sự đa dạng của các tộc người chung đụng nhau hàng ngày, đặc biệt ở các đại đô thị (1). Hơn bất cứ nơi nào khác, sự tương tác trong các sinh hoạt diễn ra tại đây với mức độ sôi động thường xuyên, chưa kể những xung đột khó tránh giữa các sắc dân và các địa phương về quyền lợi các thứ cộng thêm dị biệt tinh thần. Dưới những nét đậm nhạt tùy từng thời điểm của lịch sử chính trị, thi ca HK thể hiện điều vừa phác họa trên đây như một biểu đồ tâm lý-tinh thần không thể bỏ qua đối với những ai muốn tiếp cận vấn đề “thực chất và huyền thoại” của siêu cường số một ngày nay.


Trước khi đi sâu hơn tôi xin nêu lên vài con số để bạn đọc phần nào có thể hình dung quang cảnh của sinh hoạt thơ HK vào ngưỡng thiên niên kỷ mới: Theo danh sách của American Poetry Annual có khoảng 6000 nhà thơ hoạt động khắp nước trong đó hơn 1000 người đang giảng dạy các lớp, khóa sáng tác tại những đại học. Chưa kể hơn 2000 nhà xuất bản với báo chí định kỳ chuyên về thơ, cộng thêm hàng trăm giải thơ thường niên từ Pulitzer, National Book Award đến đủ loại tặng thưởng từ các tổ chức văn hóa hay đại học. Còn phải kể những buổi đọc thơ trên các đài phát thanh, truyền hình, và câu lạc bộ, phòng trà,… Tóm lại, có một nền văn hóa chuyên về thơ được hỗ trợ bởi cả mạng lưới chằng chịt thể chế công cộng lẫn tư nhân, từ chính quyền các cấp đến các địa phương xa xôi. Số nhà thơ nghiệp dư hiện nay lên đến vài trăm nghìn - lời bác hùng hồn cho vài ý kiến bi quan trước đây cứ lo thơ HK sắp chết (2).

Bên dưới các số liệu là sự chuyển động lớn về chính trị-văn hóa đã làm biến đổi sâu rộng tính chất WASP (3) của thi ca truyền thống bắt đầu từ thời lập quốc ở vùng New England quanh cái nôi lịch sử Boston. Từ thập niên 60 song song với cuộc chiến VN nhiều thi sĩ HK đã tham gia các cuộc tranh đấu cho quyền công dân và bình đẳng màu da, nam nữ, bên cạnh phong trào phản chiến toàn quốc. Thắng lợi chính trị của các lực lượng tiến bộ làm thay đổi bầu khí văn hóa, các giá trị mới ngày càng được phổ biến trong giáo dục và truyền thông dù các thế lực bảo thủ vẫn tiếp tục chống phá tinh vi (4). Trong ba thập niên cuối thế kỷ, hai sự kiện quan trọng sau đây đã tạo sinh khí cho các sinh hoạt tri thức và văn nghệ: xu thế dân chủ hóa bên cạnh trào lưu đa văn hóa. Ðể gia nhập thi đàn hôm nay nhà thơ trẻ HK không bắt buộc phải sinh sống ở New York, Boston, hay San Francisco như các thế hệ trước. Nhờ internet và hàng nghìn khóa sáng tác hàng năm tại vô số đại học khắp các tiểu bang, sự học hỏi và giao lưu trong giới làm thơ trở nên thuận tiện và nhanh chóng bội phần. Hàng trăm tạp chí văn chương với nhiều giải thưởng thơ do các đại học tài trợ song song với hệ thống xuất bản đại học giúp cho những tên tuổi và tài năng chưa được chú ý có nhiều cơ hội trình làng (5). Dân chủ hóa trong giáo dục với các sắc luật biệt đãi dân thiểu số (6) tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên da màu tham dự vào cuộc chạy đua học vấn và thăng tiến xã hội. Chỉ cần lượt qua phần danh tính trên sách báo HK hôm nay độc giả sẽ dễ dàng nhận ra sự góp mặt ngày càng đông đúc của các ngòi bút da màu không những trong học thuật mà cả trong sáng tác thơ văn.

Vậy thì thơ HK không bị suy vi mà đang tăng trưởng và phân hóa mạnh. Bây giờ với bản đồ Mỹ châu trước mặt mời bạn tham quan nhanh hiện tình thi ca, khởi hành từ cực Ðông Bắc HK, rồi men bờ biển xuống New York. Thủ đô lịch sử- văn hóa đầu tiên của nước Mỹ, Boston cùng các tiểu bang Massachusetts, Connecticut, Rhode Island… của vùng Tân Anh quốc đã và đang là lò đào tạo nhân tài cho HK và thế giới với đa số các đại học Ivy League ưu đẳng như Harvard, Yale, Amherst, Brown, Darmouth… Trước kia là thành lũy của tư tưởng Tin Lành vừa là thánh địa của dân chủ tư sản, nơi đây vẫn là đất “địa linh nhân kiệt” của tộc người anglo-saxon kể từ khi di dân khỏi châu Âu. Có thể lập một danh sách dài những thi sĩ HK hàng đầu sinh trưởng nơi đây, từng học hay dạy tại Harvard như Emerson, Poe, Longfellow, Eliot, Frost, Stevens, Aiken, Cummings…; hoặc xuất hiện lần đầu trên thi đàn nước Mỹ với giải thưởng đầy uy tín của đại học Yale tặng cho một thi tài trẻ (7).

Cũng như trục Paris-London đã từng đóng vai trò quyết định cho văn học phương Tây trước kia, từ bán thế kỷ hai mươi trở đi cái trục Boston-New York đã giành được uy thế của một đại trung tâm văn hóa khích lệ mọi thử nghiệm. Các trường phái thơ HK quan trọng như Confessional Poetry, New York School, Black Mountain, Beat, Language Writing, Nuyorican Café, Umbra Workshop… đã phát sinh và giữ những liên hệ mật thiết với cái trục này (8). Cùng với Hollywood-L.A., Boston-New York đóng vai chủ chốt trong việc truyền bá hình ảnh và huyền thoại của đế quốc văn hóa HK, một đàng bằng điện ảnh cộng truyền hình, một bên bằng chữ nghĩa và tư tưởng, tổng hợp khá tinh vi thành ý thức hệ bá chủ không chỉ đối với thế giới mà đặc biệt với các dân da màu cư ngụ trên đất Mỹ (9).

Ðây là nguyên ủy của biện chứng sáng tạo trong văn nghệ với học thuật thôi thúc các vùng văn hóa ngoại vi hay thiểu số phải đương đầu với đại trung tâm để tồn tại và phát huy bản sắc riêng (10); và lịch sử thi ca Mỹ thể hiện rõ nét biện chứng ấy qua các thi phái của miền Nam, miền Tây-Nam, hoặc miền biển California-West Coast, cùng các phong trào văn nghệ của dân thiểu số đã không ngừng tranh đấu để giành chỗ đứng và tiếng nói.

Ðối trọng đáng kể nhất là văn chương miền Nam (Southern Literature). Cùng với văn xuôi của Faulkner, Tennessee Williams, Carson McCullers… các thi sĩ miền Nam có hoài bảo phục hồi lối sống hương thôn và các quan hệ trường cửu giữa con người với thiên nhiên, chống lại văn minh công nghiệp và chứng tha hóa duy vật của thị dân phương Bắc. Hậu duệ của hai thi phái Fugitive-Agrarian (11), họ kế thừa tinh thần Robert Frost, vừa quan sát suy nghiệm vừa đối thoại chất vấn cảnh vật tự nhiên, các chu kỳ đồng áng, mùa màng, đồng thời ca ngợi chất thi vị dân dã với những nề nếp gắn bó của cộng đồng. Và cũng như Frost, nhà thơ miền Nam mang tâm trạng phân thân: dù cùng gốc Anh-Mỹ da trắng như đồng bào phương Bắc, họ lại đầy mặc cảm vì đã thua bại trong Nội chiến, cộng thêm lương tâm cắn rứt vì quá khứ chủ nô-da đen. Khác với khí thế chinh phục đầy tự tin của văn hóa phương Bắc, dòng thơ này nhuộm sắc trữ tình yếm thế nếu không nói là nặng tính bi kịch (12).

Nhưng cuộc đảo chánh ngoạn mục lật tung uy thế East Coast lại diễn ra bên bờ Thái bình dương khi những đứa con hoang của thế hệ Beat rời New York gia nhập nhóm văn nghệ giang hồ miền Tây, phần đông ngụ cư tại San Francisco. Giống các đàn anh như Fitzgerald, Hemingway, Henry Miller thời Lost Generation lang thang ở Paris, thế hệ lạc loài thứ hai này không chịu thích nghi với các giá trị, định chế tinh thần của dân anglo-saxon Tin Lành nên bỏ hương quán miền Ðông đi tìm những chân trời mới (13). Từ những năm 50-60 quanh vùng vịnh San Francisco hình thành một cộng đồng văn nghệ vô chính phủ quay lưng với nước Mỹ của chiến tranh lạnh và cơn sốt tiêu thụ. Các thi sĩ Beat đã gieo mầm cho counter-culture, kết hợp với tiếng nói và yêu sách của các thiểu số da màu để mở rộng không gian công cộng vừa giải phóng xã hội công dân thoát sự áp chế của văn hóa Da Trắng độc tôn. Một phần nhờ địa lý (tiếp giáp với văn minh Thái bình dương và dựa lưng vào Rocky Mountains, nơi sinh sống của nhiều thổ dân Bắc Mỹ), một phần do các đợt sóng di dân liên tiếp từ Nam Mỹ và châu Á, miền Viễn Tây HK trở thành đất lành cho cuộc phục hưng đa văn hóa những thập niên cuối thế kỷ 20. Cùng với California, thánh địa mới cho giới nghệ sĩ giang hồ đi tìm lối sống tâm linh là tiểu bang New Mexico vùng Tây Nam, đất tổ của dân Mễ trước khi bị HK xâm chiếm, nay được phong trào văn hóa-nghệ thuật Chicano mệnh danh là Aztlán (nghĩa là quê hương huyền thoại của tộc Aztec xa xưa) để phục hồi cội nguồn cho những di dân Mễ-Latino nói tiếng Tây Ban Nha (14). South Texas, New Mexico, Arizona, Colorado cũng đang chứng kiến sự hồi sinh văn hóa của các thổ dân. Các dòng thơ “ngoài luồng” như Pocho-Che (15), ethno-poetics (16), eco-critique (17)… khởi sinh từ văn hóa đối kháng miền Tây bên cạnh sự nở rộ của sáng tác người Mỹ gốc Á châu đã mang sinh khí mới cho thơ HK đang bị đe dọa bởi hai xu thế: đại học hóa và lý thuyết hóa.

Nếu ta có thể chỉ ra khu vực sinh hoạt của các phong trào và phái nhóm vừa kể trên bản đồ địa lý thì ngược lại có hai dòng thơ đầy khí thế vừa đa dạng về tài năng đã hòa trộn khắp nơi trên nước Mỹ. Chắc bạn đọc đã đoán ra; đó là thơ da đen và thơ nữ quyền tiếp tục đối chất với nền văn học chủ lưu của đàn ông da trắng Anh-Mỹ trên từng con đường, góc phố, mái nhà… Từ thuở Harlem Renaissance, qua Black Arts Movement song song với tranh đấu dân quyền, đến trào lưu hip-hop hiện nay với thơ và nhạc rap, ý thức chính trị với tự hào dân tộc đã giải phóng sáng tác cũng như học thuật da đen, vừa phát hiện lại các văn bản thời nô lệ (đặc biệt là thơ phụ nữ da đen), vừa kiến tạo một diện mạo tập thể cho cộng đồng da đen ở châu Mỹ, kế thừa truyền thống Phi châu phong phú và học hỏi kinh nghiệm của các dân tộc bị áp bức. Dưới nhiều hình dạng, đặc biệt là trình diễn, thơ da đen đang là chất xúc tác hàng đầu cho các phong trào hay sinh hoạt văn nghệ đa văn hóa HK (18). Còn một điều cần lưu ý; tiếng nói của phụ nữ da đen cũng giữ vai trò mũi nhọn trong sáng tác nữ quyền HK. Nếu đàn bà da trắng chỉ đòi bình đẳng giới tính và quyền lợi trong sự phản kháng chống chế độ phụ quyền, người bạn da đen của họ còn phải đấu tranh chống chính sách kỳ thị công khai hay giấu mặt của dân da trắng. Thơ văn nữ quyền HK ngoài ý thức chính trị cao còn chuyên chở thêm các mâu thuẫn giữa những nhóm phụ nữ khác màu da, nhưng cùng chiến tuyến. Trong hai thập niên gần đây sự tham gia ngày càng sôi nổi của phụ nữ gốc Á châu càng làm tăng thêm màu sắc đa văn hóa của sáng tác nữ giới nói chung ở Mỹ (19).

Richard Gray, học giả hàng đầu của Âu châu về văn học HK, gần đây có nhận định về tác động sâu rộng của chuyển biến dân số (từ các lớp sóng di dân và mức sinh sản cao của dân da màu) trên văn hóa-xã hội Mỹ, làm thay đổi cả tính chất của văn học HK: “…bị thay hình đổi dạng vì mãnh lực của những đợt dân số đa văn hóa luôn chuyển động, Hoa Kỳ đã chứng kiến sự xóa nhòa ranh giới giữa ‘trung tâm’ và ‘ngoại biên’. Và khi những người Mỹ trắng có vẻ như không tránh được xu thế trở thành thiểu số, HK cũng mất luôn bất kỳ lý lẽ hoặc một cái cớ nào vin vào đó để xác định một đặc tính Âu châu trung tâm hay một mệnh số ngoại hạng như trước đây”(20). Giáo sư Gray còn phác họa một hoàn cảnh mới quyết định sáng tác văn học Mỹ, ông gọi đó là một không gian mang tính thẩm thấu (permeable space) nơi gặp gỡ của các quốc gia và văn hóa: “Ðó là không gian lưng chừng, không gian của tính hậu hiện đại hoặc hiện đại cực đoan hóa mang dấu ấn của tan rã và phân tán, lưu động và vỡ vụn, tạp dị và lai giống - tất cả trên bình diện toàn cầu. Biểu hiện những văn hóa khác nhau, sinh sống giữa các nền văn hóa và ứng đáp với những nguồn cội cùng kinh nghiệm đa dạng của chúng, tất cả ngòi bút ở Mỹ đều chất vấn một cách hữu hiệu khái niệm của một di sản chung và các ranh giới cố định… Ðất nước mà họ khám phá và mô tả trong tác phẩm không mang những nét viền bất biến như xưa của một Ðịa Ðàng HK. Ðó là một nơi chốn với những ranh giới lưu động , chỗ gặp gỡ của những lịch sử văn hóa kình chống, dẫm lấn, và rốt cuộc lại phụ thuộc lẫn nhau… So với trước đây, bản chất quốc gia mất bớt đi tính quyết định, mở rộng hơn để đón các truyện kể và lịch sử khác”(21).

Dù đang đứng trước khủng hoảng, văn hóa chủ lưu (mainstream culture) vẫn tiếp tục theo đà đại học hóa với những khóa học sáng tác đều đặn sản xuất mỗi năm hàng vạn thi sĩ trường ốc ôm bằng M.F.A. (Master of Fine Arts, Cao học Nghệ Thuật) vào đời. Bên cạnh ưu điểm là tính dân chủ, lối đào tạo đại trà ấy hàm chứa nguy cơ của sự đồng bộ hóa, kèm với dễ dãi hóa vì các giảng viên cũng phải chạy theo năng suất trong thị trường chữ nghĩa và bằng cấp (22). Nếu đòi hỏi chất lượng quá cao thì các chuẩn-thi-sĩ sẽ bỏ cuộc và các khóa sáng tác sẽ dẹp tiệm! Nhà thơ rất quen thuộc trong giới đại học Donald Hall từng phê phán: “Loại thơ ấy trên hết mang tính cá nhân; đó là loại thơ tự biên tự diễn say đắm tác giả của mình”… Và loại thơ của tiếng nói cá thể ấy làm ngược lại điều nó đắc ý tuyên xưng: nó mắc phải bệnh thiếu cá tính, “cá mè một lứa”: Workshop Poem, McPoem, Clone-Poem hoặc SAP, nghĩa là Standard American Poem {Bài Thơ HK Chuẩn Mực} (23).

Cùng vào thời điểm đầu thập niên 80 xuất hiện hai phản ứng chống lại loại thơ trường học dễ dãi: phái Ngôn Ngữ {NN}(Language Writing) và nhóm Tân Hình Thức {THT}(New Formalism). Các nhà thơ trong phái NN tiếp nối chủ nghĩa tiên phong của các phái Objectivism (Khách Quan Thi Pháp) và Black Mountain School, chủ trương thử nghiệm và chất vấn ngôn ngữ trong sáng tác thơ văn. Chịu ảnh hưởng của Paris, nhất là phê bình hậu-cấu trúc của Kristeva với nhóm Tel Quel, họ đặt ngôn ngữ trước vành móng ngựa của lý trí phê phán và tố cáo nó đồng lõa với ý hệ thống trị. Họ muốn thông qua sáng tác cải tạo nó, khởi đi từ các thành tố cơ bản của ngữ âm và ngữ pháp. Phần đông là những nhà hàn lâm khuynh tả, hành vi ‘cách mạng’ của họ tương tự tham vọng xóa nhòa ranh giới giữa sáng tác và phê bình của một số tác gia hậu hiện đại: coi lý thuyết và thi pháp là một (24). Nhóm THT trái lại tránh né lý thuyết để trở về truyền thống của vần điệu và thi luật. Chê trách loại thơ tự do phá thể được giảng dạy khắp các đại học, nhóm này muốn chấn hưng thi đàn bằng những ước lệ và qui phạm ổn định từ thời thơ cổ điển Anh với Chaucer, Shakespeare, Milton… Xung đột thơ cũ / thơ mới vẫn xảy ra trong lịch sử thi ca của bất cứ dân tộc nào; tại HK trước đây trong những năm 20 hoặc thập niên 50 các thi sĩ miền Nam trong phái Fugitive và nhóm Tân Phê Bình cũng đã tìm về hình thức ước lệ của truyền thống thi ca Anh-Mỹ. Hiện tượng THT chẳng có chi độc đáo đối với chuyên ngành văn học sử: trong biện chứng của vận động văn hóa-văn nghệ truyền thống và hiện đại nếu không đối thoại thì vẫn song hành cho đến lần chạm trán kế tiếp. Nhưng có lẽ điều đáng lưu ý trong trường hợp này không thuộc về lĩnh vực văn chương thuần túy mà liên quan nhiều hơn đến môn tâm lý học xã hội. Cụ thể hơn là các biến động tâm lý chiều sâu của người Mỹ da trắng đang bị khủng hoảng về văn hóa và lý lịch trước nguy cơ sắp bị biến thành dân thiểu số trước sức tăng trưởng dân số không gì ngăn nổi từ các cộng đồng da màu trên nước Mỹ (25). Quay về truyền thống và ước lệ, dựa dẫm vào những nếp văn hóa ổn cố, phải chăng quan điểm thẩm mỹ bảo thủ của nhóm THT (đa số là các nam thi sĩ Mỹ trắng) là một cách tự trấn an khi ưu thế đặc quyền của họ bị lung lay? (26).

Trên các số TC Thơ viết về THT, chúng ta không thấy được bối cảnh lịch sử-xã hội đằng sau các chọn lựa thẩm mỹ trong sinh hoạt văn chương HK. Mặt khác có lẽ các hạn chế về Anh ngữ và văn hóa đã khiến những bạn phất cờ THT, đứng đầu là Khế Iêm, không hiểu được đến nơi đến chốn những điều họ nhiệt thành rao giảng. Căn cứ vào những thiếu sót và sai lầm trong mấy bài dịch giới thiệu các văn bản quan trọng của phong trào THT, người đọc sẽ đặt câu hỏi về khả năng lĩnh hội thấu đáo những vấn đề phức tạp liên quan đến thi học hay thi luật Anh-Mỹ, chưa nói đến lịch sử thi ca HK và văn học sử nói chung (27). Ðại bộ phận sáng tác THT là các bài thơ tuân thủ thi luật Anh truyền thống, dựa trên ngữ điệu căn bản của tiếng Anh (English prosody) để cấu tạo từng câu hay kiến trúc toàn bài. Ngữ điệu đó là nhịp iambic xuyên suốt nhiều thế kỷ thi ca, như câu thơ bình dị sau đây của Shakespeare: ”I ne/ver saw/ a fa/ther in/ my li/fe” (28)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Ðây là một câu pentameter (năm tiết nhịp) theo luật iambic (các trọng âm rơi vào số chẵn, 2-4-6-8-10), gắn bó lâu đời với ngữ điệu tự nhiên của tiếng Anh bắt đầu với tục ngữ và đồng dao. Khi các trọng âm rơi vào số lẻ câu thơ sẽ đổi qua luật trochaic, thật ra là dạng đối xứng của luật iambic: do đảo nhịp, trọng âm từ số chẵn nhảy qua lẻ nhưng cấu trúc tiết nhịp của câu thơ vẫn không thay đổi, nghĩa là vẫn trọng âm/khinh âm/trọng âm/… đều nhịp. Dù có vài biến thể ngữ điệu khác (như anapest, dactylic…) iambic với trochaic là hai dạng căn bản của thi luật Anh-Mỹ truyền thống.


Trong tập Rebel Angels (29), thi tuyển của 25 nhà thơ THT Mỹ, phần lớn các bài thơ dù có gieo vần hay không đều giữ cấu trúc tiết nhịp và trọng âm truyền thống. Sau đây là vài thí dụ:

A.

Yell/ow free/sia arc/ like twi/ning arms/ ;
I’m buy/ing show/er cur/tains, smo/ke alarms/,
And Wash/ington/ ,and you/ , Love/ -- stat/es away/ .
The clouds/ are flat/. The sky/ is go/ing grey/ .

Elizabeth Alexander – Letter: Blues, tr.3

B.

You drink/ to piss/ it all/ away/
You play/ it tough/ to seize/ the day/

 Toss out/ more chips/ and spread/ your stuff/
Or end/ it with/ enough/ enough/ …

R.S. Gwynn - Anacreontic, tr.64



Hai trích đoạn này khá tiêu biểu cho thơ THT. A dùng pentameter (5 tiết nhịp), B dùng tetrameter (4 tiết nhịp). Mọi câu thơ đều có vần và theo luật iambic, trừ câu đầu A đảo nhịp theo trochaic; và chữ Love phá cách khi E. Alexander nhấn mạnh từ này để tạo bất ngờ và tăng độ biểu cảm (cuộc tình cách biệt!), cộng thêm quãng lặng ngắn trước cụm “states away” như một tiếng thở dài.


Trong nhiều trường hợp các thi sĩ THT dùng blank verse kiểu Milton: câu thơ không cần cước vận nhưng vẫn theo luật tiết trọng âm.Chẳng hạn đoạn pentameter này:

C.


A sound/ like a rus/ty pump/ beneath/ our wind/ow
Woke/ us at dawn/. Draw/ing the cur/tains back/
We saw/ --through milk/y light/, above the dog/ house/
A blue jay/ lect/uring/ a neigh/bor’s cat/ …

Paul Lake - Blue Jay, tr.124

hoặc mấy câu tetrameter (4 nhịp) không vần sau đây:


D.


Ma/ma, there/ are black/ cow/boys.
A fist/ful/ of black/ crotch/.
Dead/wood Dick/. Don’t fuck/ with me/
Black/ cow/boy. Leath/er hat/.


Elizabeth Alexander - Deadwood Dick, tr.2

Có thể trích dẫn thêm; nhưng các bài thơ trong thi tuyển này, trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, chứng tỏ rằng nhóm thi sĩ THT ở Mỹ đã trung thành với các ước lệ thi pháp Anh-Mỹ của những thế kỷ trước đây, đặc biệt là luật trọng âm (accentual meter). Các nhà thơ VN trên TC Thơ trái lại đã rất phóng túng, chưa nói là tùy tiện, trong sáng tác THT của họ. Nếu theo đúng tinh thần bảo thủ của thi phái THT Mỹ, nhà thơ VN phải quay về với vần điệu và niêm luật trong thơ cũ VN của Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan; hoặc ít ra với dòng Thơ Mới Tiền Chiến vẫn còn nhịp nhàng êm tai. Ðằng này các bài THT trên TC Thơ khiến người đọc có cảm giác đứng nhìn một trò chữ nghĩa biến những câu văn xuôi trung bình thành từng đoạn thơ bằng cách ngắt câu vắt dòng, bên cạnh việc lặp đi lặp lại khá nhàm một vài chữ hay ý tưởng. Thí dụ vài đoạn như sau:




người đàn ông hai mươi năm trước, không
nghe, không thấy được gì từ người đàn
ông hai mươi năm sau, cứ lầm lũi,
lầm lũi, lầm lũi, tựa bóng ma, và
chẳng hề hay biết, người đàn ông hai

mươi năm trước cũng là người đàn ông
hai mươi năm sau, đang đợi nhau, đợi
nhau, đợi nhau, như cái sống đợi cái
chết, ròng rã, đã hai mươi năm, dù

vở tuồng vẫn chưa được viết, và đêm
kịch vẫn chưa mở ra, những thùng rác
vẫn chứa rác và không chứa gì khác.

Khế Iêm - Ảnh Ảo – TC Thơ 19, tr.100

“lầm lũi”, “bóng ma”, “hai mươi năm trước”, “hai mươi năm sau”, “đêm kịch”, “vở tuồng”, “những thùng rác”… là một số hình tượng và từ ngữ quá quen thuộc của thơ văn VN và thế giới. Bi kịch của sự nhàm chán lải nhải đã được những tên tuổi như Joyce, Beckett, Céline, Louis-René des Forêts diễn tả đến mức thượng thừa! Những bài thơ như Ảnh Ảo trên TC Thơ chẳng qua là một lối viết tự sự kiểu cách, nặng tính tu từ pháp mà chính tác giả bài thơ đã lớn tiếng chỉ trích trong các tiểu luận của ông (30). Dù sao tính tổ chức theo cấu trúc liên hoàn trong bài Ảnh Ảo và một vài bài thơ khác của Khế Iêm cũng cho thấy ông quan tâm đến chuyện “tay nghề” hơn khá nhiều thi hữu khác trong nhóm chỉ cần nhắm mắt phóng bút là ra thơ …THT …à la vietnamienne! Chẳng hạn:



Trong khoảnh khắc có một
cái chết và chỉ cái chết mới
rõ là mình chết đi. Chỉ có
cái chết mới biện minh được rằng
họ không sống, và tiếng nói của
nó là sự vô tri và câm
lặng tuyệt đối. Nhưng có những cái
chết nói nhiều hơn tiếng nói sự
sống. Có những âm vang từ vô
ngôn, vô tận. Người ta sinh ra
từ sự chết. …

Quỳnh Thi - Chỉ Có – TC Thơ 19, tr.110

Cách ngắt câu xuống dòng loạn xị đã “nâng cấp” cho đoạn văn triết lý vụn khá tầm thường trên đây. Ngọn gió THT đã cứu sống nhiều câu văn xuôi đa ngôn và vô vị, tân trang chúng thành một loại thơ văn xuôi… dễ hiểu, dễ làm. Vì thế, không lấy gì làm lạ khi trên nhiều số TC Thơ bỗng nhiên nô nức “thi pháp đời thường”, bất cần ngữ điệu và nhạc tính của tiếng mẹ, tác sinh vô số câu cú không ra văn mà cũng chẳng ra thơ! (31)


Người đọc thông minh đến đây chắc sẽ phì cười cho rằng kẻ viết bài này “đầu voi đuôi chuột”: Mở đầu thì bàn hươu tán vượn về một lục địa thi ca đa văn hóa, chung cuộc lại chui vào cái rọ chữ Giao Chỉ! Thật ra bàn về THT và TC Thơ chỉ là một cái cớ, mục đích của những trang dông dài này là tiếp tục suy nghiệm từ một bài viết mới đây trên Hợp Lưu (32) về hiện tình thơ VN sau ba mươi năm di dân sang Mỹ và thế giới. Chúng ta, người Việt ở nước ngoài, đang bước vào thời đại toàn cầu hóa cùng với các dân tộc, cộng đồng khác.

Toàn cầu hóa và đa văn hóa là hai xu thế không thể đảo nghịch trong thế kỷ mới này. Người VN yêu thơ, dù trong sáng tác hay học thuật, cần mở rộng nhãn quan nhìn ra mọi phương trời và không cần hấp tấp nuốt vội các món thời trang. Bài học lịch sử từ các di dân da màu trên nước Mỹ cho thấy ý thức văn hóa phải đồng hành với đấu tranh chính trị.

Và không thể tách rời tự do bình đẳng trong xã hội với tự do bình đẳng trong ngôn luận và tư tưởng. Sự tái tổ chức của các lực lượng và cộng đồng bảo thủ ở Mỹ, đặc biệt là dân da trắng miền Nam (33), trước sự tăng trưởng của dân số da màu và áp lực đa văn hóa, báo hiệu một sự đụng độ phức tạp trong những năm sắp tới. Di dân VN, dù là dân thường hay thi nhân nghệ sĩ, khó có thể đứng bên lề làm khách bàng quan. Mặt khác, vào thời đại của tự do thị trường với tư bản toàn cầu, tất cả đều bị đe dọa biến thành thương phẩm kể cả văn hóa-văn nghệ. Làm thế nào để khỏi bị lường gạt, dụ dỗ trong các siêu thị chữ nghĩa của nền văn minh “hậu hiện đại” tranh tối tranh sáng “mập mờ nhân ảnh”? (34) Sau cùng, trước uy quyền vô hình của đế quốc văn hóa làm sao bảo vệ óc tim độc lập và khốn khổ (conscience malheureuse) của người cầm bút mà không cần đến sự trợ lực của các thứ “nha phiến” tân kỳ, lắm khi ngụy trang dưới dạng tác phẩm của chính mình?

CHÂN PHƯƠNG


Phụ đính:

Tạp Chí Thơ giới thiệu thi phái Tân Hình Thức Hoa Kỳ (New Formalism) qua nhiều bản dịch phần lớn do Khế Iêm dưới bút hiệu Ltt và Nguyễn Thị Ngọc Nhung chuyển ngữ. Ðáng tiếc là các bản dịch ấy có nhiều sai sót làm hại nội dung của các nguyên tác. Vì giới hạn của bài viết tôi chỉ đơn cử một số ví dụ từ hai bản dịch của Ltt: A/ John Briggs, Fractals (Introduction), Touchstone Books, 1992; và B/ Jarkman & Mason eds., Rebel Angels (Preface), Story Line Press, 1996. Ðể bạn đọc có thể kiểm tra tôi đánh số các đoạn có chữ, câu trích dẫn; chẳng hạn A1 là đoạn mở đầu bài nhập của Fractals, B3 là đoạn 3 bài Preface, Rebel Angels.

Trong dịch thuật, sai sót thường thấy ở 5 dạng: 1/ vụng về; 2/ hiểu sai; 3/ không hiểu nên dịch mò; 4/ hiểu nhưng không tìm ra thuật ngữ tương xứng; và 5/ phạm lỗi văn phạm hay đọc trật ngữ pháp. Cả 5 dạng này xuất hiện khá nhiều trong các bản dịch của Ltt tức Khế Iêm trên tạp chí Thơ.

1. A4:(studied) under glass in a laboratory = (học) dưới lớp kính phòng thí nghiệm. Ở đây nên dịch studied là nghiên cứu, khảo sát. A3: expose its (under-lying logic) = phơi bày (lý giải cơ bản). Nên dịch: phơi bày cái lý tiềm tàng/ hoặc/ lôgích bên dưới.

2. A2:Swallows... gathering and (flying off) in an organized flock. A lightning bolt (fracturing) the sky. = Những con chim én... tụ tập lại, (bay nhập vào) bầy đoàn có tổ chức. Ánh chớp nhoáng, (đứt đoạn) trên nền trời. Nên dịch: Ðàn én... tụ lại và bay đi trong một đội hình. Ánh sét xé rách nền trời.

3. A1:With its variability, (general dependability)... weather infiltrates our schedules... = Với sự biến đổi, (sự tùy thuộc tổng quát)... thời tiết xâm nhập vào thời khóa biểu. Ðây là kiểu dịch từng chữ một (mot à mot) với cuốn từ điển! Ở đây câu nguyên văn không có gì bí hiểm mà chỉ bàn về thi tiết, dù hay biến đổi nhưng thường thường vẫn có thể tin cậy được (general dependability).

4. A2:(pattern) created by (boulders) = (dạng thức) tạo bởi (những viên sỏi). Boulder là tảng đá to, người dịch quên tra từ điển; nhưng đáng bàn ở đây là từ pattern, một thuật ngữ của nhiều ngành, đặc biệt là tạo hình. Gọi pattern là dạng thức thì không đúng mà cũng không sai. Tương đương trong Hán tự là VĂN, nên ta có cụm từ hoa văn, văn tiết (pattern) trong trang trí, điêu khắc,v.v. A14: thruster rockets = hỏa tiễn kích thủy lực. Người đọc không chuyên về kỹ thuật phi thuyền không gian muốn biết dịch giả dựa vào tài liệu nào để tìm hiểu về kích thủy lực?

5. Nặng hơn là các lỗi văn phạm. Thí dụ trường hợp hai chữ sau không có liên can gì nhau trừ tự dạng! THOUGH là một liên từ (conjunction) với chức năng văn phạm quan trọng trong tiếng Anh có nghĩa là TUY NHIÊN, CHO DÙ; còn THROUGH có nghĩa QUA, THÔNG/ XUYÊN QUA. Trong các bản dịch Ltt đã lẫn lộn THOUGH thành THROUGH. A15: though, to be sure = qua đó chắc chắn; A16: Though unpredictable in detail = Qua chi tiết không thể đoán..; B10: Ultimately though... = Ðiều cơ bản qua đó...; và còn nữa. Về ngữ pháp tiếng Anh khi gặp các vế lồng vào nhau (clause within clause) dịch giả cũng hiểu sai vì không biết phân tích câu văn. Thí dụ A16: In fact, scientists learned that there are certain repeatable, rough patterns //systems seem attracted to// as they break down into or emerge from chaos. = Thực tế, những nhà khoa học hiểu rằng, (dạng thức của hệ thống) được lặp lại rõ ràng, bị lôi cuốn như thể chúng vỡ ra hoặc hiện xuất từ hỗn mang. Rõ ràng người dịch thay vì ngắt hai vế ra lại nhập chung vào nên hiểu patterns//systems = dạng thức của hệ thống! Phải hiểu câu nguyên tác trên như sau: Thật ra các nhà khoa học đã nghiệm thấy rằng các hệ thống hình như bị cuốn hút vào một số văn dạng (patterns) thô sơ lặp đi lặp lại khi chúng (hệ thống) vỡ tan hoặc nảy sinh trong hỗn mang.

Hiểu sai một từ hay vài chữ ai cũng có thể tra từ điển hay tham khảo sách chuyên môn; đọc sai ngữ pháp người dịch nên tự giác mở sách Anh văn học lại .

Nguyễn Tiến Văn, một dịch giả cẩn trọng và am tường Anh ngữ, đã phát hiện sự thiếu sót trong bản dịch B/ của Ltt và đã cất công dịch lại. (Ðộc giả có thể đối chiếu hai bản dịch: Ltt {Khế Iêm}, Những Thiên Thần Nổi Loạn, TC Thơ 19; và Nguyễn Tiến Văn, Những Thiên Sứ Nổi Dậy, TC Thơ 23). Với độc giả TC Thơ, ít ra dịch giả Nguyễn Tiến Văn cũng cho thấy ông tôn trọng đúng mức tác giả của nguyên tác. Tôi chỉ có chút ý kiến về vài từ-thuật ngữ ông đã dùng khi chuyển ngữ. Trước tiên là chữ VERSE mà ông dịch là VĂN VẦN (Nguyễn Thị Ngọc Nhung cũng từng dịch như vậy). Verse, vers, là từ hoán dụ cho thơ, thi ca vì các tác giả muốn tránh nhắc đi nhắc lại chữ poetry, poésie. Mallarmé có bài tuyên ngôn lừng danh La Crise du Vers mà ta không thể dịch là Sự Khủng Hoảng của Văn Vần! Mặt khác, Nguyễn Phan Cảnh trong chuyên khảo Ngôn Ngữ Thơ từng viết: “Truyền thống VN phân biệt rành rẽ thơ và diễn ca, văn vần”. (tr.58). Một thuật ngữ rất khó xử lý khác là METER mà Nguyễn Tiến Văn có khi dịch là VẬN LUẬT khi là LUẬT ÂM TIẾT. Cả hai cách đều không chính xác vì trong thi học Anh-Mỹ câu thơ đúng luật (meter) lắm khi không cần vần (blank verse của Milton thí dụ) mà chỉ cần nhấn đúng trọng âm (accentual meter) và không quan tâm nhiều đến âm tiết như thơ Pháp hay Ðường thi. Trước đây tôi tạm dịch METER là THỂ hay THỂ LUẬT dựa vào lịch sử thi ca Á đông đã từng có cổ thể thi, tân thể thi, thể tứ tuyệt, thể lục bát... Nay tôi lại phân vân vì THỂ hàm nghĩa quá rộng, có khi còn chỉ về hình thức, cấu tạo của cả bài thơ. Hay là chúng ta dùng từ CÁCH LUẬT vì từ nguyên CÁCH có nghĩa là khuôn thước dùng để đo đạt, tương ứng với METER mà nghĩa gốc là thước đo trong các ngôn ngữ Tây Âu bắt nguồn từ tiếng Latinh.

CHÂN PHƯƠNG

Phụ chú:


1. Louis Adamic từ 1945 gọi HK là A Nation of Nations trong tác phẩm cùng tên. Một chi tiết đáng ghi nhận: hiện nay cư dân Los Angeles nói khoảng 120 ngôn ngữ. Xem thêm Steven Hoelscher, Conversing Diversity, trong Textures of Places do Paul C. Adams ed., Univ. of Minnesota Press, 2001.


2. Các số liệu lấy từ Christopher Beach, Poetic Culture, Northwestern UP, 1999, t.2. Ðây là một biên khảo giá trị mang tính xã hội học xem xét thơ HK trong tương quan với các thiết chế văn hóa, nhất là đại học và các nhóm cộng đồng thi sĩ. Mùa đông 1995 truyền hình công cộng PBS phát hình khắp nước chương trình đại qui mô về thơ HK, The United States of Poetry, có 80 thi sĩ khác màu da tham dự từ cấp Nobel (Milosz, Walcott, Brodsky) đến hạng chưa có danh tiếng. Joseph Epstein trên Commentary (#86, 1988) báo động về sự hấp hối của thơ HK và mở ra tranh luận sôi nổi trên diễn đàn văn học Mỹ có Dana Gioia, Vernon Shetley, Donald Hall... nhập cuộc.

3. WASP = white anglo-saxon protestant là cụm từ chỉ di dân Mỹ chính gốc Tin Lành sang Tân Thế giới, được huyền thoại hóa thành chủ nhân da trắng có công lập quốc. Từ những năm 60 thuyết hệ da trắng độc tôn này (White supremacist discourse) bị các phong trào đa văn hóa phê phán triệt để. Hiện nay môn Hoa Kỳ học (American Studies) đã tự giác cải tạo quan điểm học thuật và tái định nghĩa gốc gác cùng lý lịch các nhóm cư dân ban đầu vùng thuộc địa New England. Mất quyền khống chế văn hóa (cultural hegemony) dân WASP bị khủng hoảng tâm lý vì Ngã tính đế chế (Imperial Self) rạn vỡ sau chiến tranh VN như Humpty Dumpty trong bài đồng dao xưa; từ đó sinh ra nhân cách hậu hiện đại HK vừa lạc phương hướng về tư tưởng (không còn meta-narrative), vừa ba phải về đạo lý. Nên tham khảo Stephen Whitfield, The Imperial Self in American Life, trong Columbia Journal of American Studies (Vol.4, #1, 2000) bên cạnh bài điểm sách uyên bác của Ivy Schweitzer, Salutary Decouplings: The Newest New England Studies, trong American Literary History (Vol.13, #3, 2001). Tủ sách chuyên đề New Americanists (Tân HK học) do Donald Pease chủ biên và Duke University xuất bản là diễn đàn chủ yếu của học thuật tiến bộ Mỹ hôm nay.

4. Từ đó nổ ra xung đột văn hóa (cultural wars) trong hai thập niên 80-90. Allan Bloom, tác giả The Closing of the American Mind (NY,1989) với lý thuyết gia Hậu-Chiến Tranh Lạnh Samuel Huntington, kẻ lớn tiếng báo động về đụng độ văn minh, The Clash Of Civilizations, trong Foreign Affairs (Vol.72, #3, 1993) là hai gương mặt cánh hữu tiêu biểu kêu gọi HK dựng lại phòng tuyến cho văn hóa da trắng phương Tây. Về mặt đối nội họ cũng chủ trương hạn chế tầm ảnh hưởng của các yêu cầu đa văn hóa, xem David Palumbo-Liu, Multiculturalism Now: Civilization, National Identity, and Difference before and after September 11th, trong Boundary2 (Vol.29, #2, 2002). Sau vụ 11-9-2001, ai chỉ trích chính sách quân sự ngoại giao của HK sẽ bị nhà nước USA quy kết là có óc bài Mỹ (chú thích 26, tr.126, bài vừa dẫn).

5. Phần lớn đại học HK đỡ đầu các tạp chí và xuất bản văn thơ. Ðể có một tổng quan có thể đọc thi tuyển từ xuất bản đại học do Ronald Wallace biên tập: Vital Signs, Univ. of Wisconsin Press,1989.

6. Ðứng đầu là chính sách bất thành văn Affirmative Action từ tổng thống Johnson để nâng đỡ dân da đen với thiểu số trong nghề nghiệp, giáo dục, nhà ở...; và bị chống đối từ các cộng đồng da trắng, nhất là di dân đến sau từ Trung Âu phải vất vả kiếm ăn trong một nền kinh tế ngày càng nợ nần vì chiến tranh và thâm thủng ngân sách. Xem John David Skrentny, Affirmative Action and the Failure of Presidential Leadership, trong One America, Stanley Renshon chủ biên, Georgetown University Press, 2001.

7. Tại Mỹ muốn có vốn liếng văn hóa (capital culturel, Pierre Bourdieu) sang nhất là tốt nghiệp ở Ivy League vùng New England. Harvard và Yale là hai đại học đầu tiên trong vùng. Giáo sư học giả Helen Vendler dạy môn thơ Anh-Mỹ tại Harvard là tiếng nói phê bình uy tín nhất hiện nay ở HK. Từ 1919 Yale trao giải thơ Yale và xuất bản thi phẩm đầu trong Yale Series of Younger Poets cho thi sĩ trẻ nào trúng tuyển. Không xa Yale là Wesleyan vớI chương trình xuất bản thơ từ 1958 nhằm giới thiệu thi tài mới, cả hai đại học này đã góp phần quan trọng trong việc phát hiện, đỡ đầu các nhà thơ chưa nổi tiếng. Ðọc thêm bài dẫn nhập tường tận của George Bradley ed., The Yale Younger Poets Anthology, Yale Univ. Press, 1998.

8. Quá trình vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa Boston và New York là một đề tài lý thú cho những ai tò mò về văn hóa và tư tưởng HK; xem Nina Baym, Early Histories of American Literature: A Chapter in the Institution of New England, trong The American Literary History Reader, do Gordon Hutner chủ biên, Oxford Univ.Press, 1995. Phần lớn thi sĩ trong tuyển tập do Paul Hoover thực hiện, Postmodern American Poetry (Norton, NY, 1994) đều sinh trưởng ở New England hay New York, từng theo học Harvard, Columbia, Yale, Brown, Cornell,...

9. Xem chú thích 3. Ngoài các thiểu số da đen hay Trung Mỹ, New York với Greenwich Village còn là thánh địa của dân Do Thái gốc Âu châu, cái lò sinh ra dòng văn học đầy chất thử nghiệm vì tính cách hoàn vũ (cosmopolitan) của trí thức nghệ sĩ Do Thái HK không ngừng đối chất văn hóa chủ lưu WASP. Cũng như cộng đồng gốc Irish ở Boston, vai trò phản diện của cộng đồng Do Thái ở New York là một đề tài công phu khác cho những ai muốn đi sâu vào lịch sử tư tưởng hiện đại Mỹ. Bắt đầu có thể tham khảo Terry Cooney, The Rise of the New York Intellectuals, Univ. of Wisconsin Press, 1986; và David Lehman, The Last Avant-Garde, Doubleday, NY, 1998.

10. Trong khái niệm không gian ký hiệu (semiotic space), Lotman nhấn mạnh chức năng chủ yếu của ranh giới (boundary) phân biệt Chúng Ta (Trong) / Chúng Nó (Ngoài). Chính các xung đột biện chứng tại đường ranh Trong / Ngoài tạo ra vận động sáng tạo trong toàn khí quyển văn hóa (semiosphere); và trung tâm với ngoại vi luôn hoán chuyển qua thời gian. Dù là đế quốc văn hóa, HK cũng không thoát khỏi qui luật biến dịch này; các phong trào chính trị đa văn hóa từ thập niên 60 là minh họa sinh động cho qui luật ấy. Xem Yuri M. Lotman, Universe of the Mind, Indiana Univ. Press, 1990, Phần 2 , Chương 8 và 9.

11. Vào khoảng 1915 phái Fugitive (Trích Lữ) qui tụ quanh đại học Vanderbilt ở Tennessee với các nhà thơ - phê bình gia đầy tiềm năng như Ransom, Tate, Donald Davidson... Tạp chí The Fugitive ra đời năm 1922 ở Nashville khai trương dòng văn học hiện đại miền Nam có ảnh hưởng rộng khắp nước Mỹ. Tiếp thu chủ nghĩa tượng trưng Pháp cùng huyền học phương Tây, thi phái này báo hiệu bế tắc hiện sinh của con người thời đại vừa cô đơn vừa tha hóa giữa sa mạc đô thị. Phái Fugitive đã chấn hưng văn hóa miền Nam, sau này đỡ đầu cho hai trường phái thi ca Agrarian (Ðồng Áng) và phê bình New Critics. Xem thêm William Pratt, The Fugitive Poets, N.Y.,1965.

12. Tham khảo Louis Rubin, Jr. ed., The History of Southern Literature, Louisiana State Univ.Press, 1985, Phần III; và thi tuyển thơ miền Nam thế kỷ 20 của David Rigsbee, ed., Invited Guest, Univ. Press of Virginia, 2001.

13. Nhiều tên tuổi Beat hàng đầu không phải dân wasp. Allen Ginsberg đồng tính luyến ái, mẹ gốc Do thái từng là đảng viên cộng sản Mỹ. Jack Kerouac có gốc Pháp Breton. Lawrence Ferlinghetti mồ côi cha mẹ sớm được một gia đình Mỹ giàu cho qua Pháp ăn học, sau đỗ tiến sĩ Sorbonne về văn học Pháp. Gregory Corso mẹ cha đều gốc ý và không sống với nhau lâu nên đứa con bỏ nhà đi bụi đời rồi vào tù năm 17 tuổi. Bob Kaufman là Do thái da đen và tù tội nhiều lần. Còn nhiều ví dụ khác cho thấy thế hệ Beat có quan hệ đa dạng với các dòng văn hóa di dân khác và có tâm trạng con hoang đối với ý hệ Tin Lành chủ lưu. David Meltzer, San Francisco Beat, City Lights, 2001 là cuốn sách không thể bỏ qua với loạt bài phỏng vấn công phu và lý thú các thi sĩ Beat trong suốt ba thập niên .

14. Hoa Kỳ xâm lăng vương quốc Mexico giữa thế kỷ 19, lấn chiếm cả một vùng bao la nay là các tiểu bang Texas, New Mexico, Arizona. Cư dân vùng này ngày nay vẫn dùng tiếng Tây ban nha và cố gắng phục hồi văn hóa Mễ , phần nào lai tạp vì nhiều đời chung sống với các thổ dân. Phong trào phục hưng văn hóa này sinh ra một chuyên ngành gọi là Chicano Studies với một số khái niệm chìa khóa như borderland (biên thổ), border-crossing (biên quá) để nhấn mạnh về tính chất lưỡng quốc- song ngữ của dân Mỹ gốc Mễ, vừa xung đột nội tâm vừa kích thích óc sáng tạo. Văn hóa Chicano gây ảnh hưởng mạnh trong các cộng đồng latino HK (dân Trung-Nam Mỹ), hiện nay là mũi nhọn trong lý thuyết văn hóa học bên cạnh học thuật da đen Mỹ. Sáng tác Chicano cực kỳ phong phú; đọc Rafael Pérez-Torres, Movements in Chicano Poetry, Cambridge Univ. Press, 1995, để thấy các quan hệ chằng chịt giữa tinh thần dân tộc và vận động văn hóa ở vùng Tây Nam HK hôm naỵ. New Mexico Poetry Renaissance (Santa Fe, 1994) do Niederman và Sagan biên soạn là thi tuyển tiêu biểu cho dòng thơ đa văn hóa ở New Mexico.

15. Gắn bó mật thiết với phong trào Chicano và thế hệ Beat là nhóm Pocho-Che ra đời cuối thập niên 60 ở vùng San Francisco cùng với trào lưu sinh viên tranh đấu khắp phương Tây. Chống ý hệ da trắng độc tôn, liên minh rộng với các nhóm thiểu số thua thiệt, bằng báo chí, văn nghệ và tổ chức, Pocho-Che tiêu biểu cho vận động đa văn hóa nhằm thiết lập diện mạo chính trị cho cộng đồng latino HK và chất vấn chính sách kỳ thị sắc tộc của các thế lực da trắng. Ðây là mô hình liên-văn- hóa tiên phong ở Mỹ có tham vọng xây dựng những giá trị nhân văn phổ quát cho sự chung sống giữa các cộng đồng công dân khác truyền thống và ngôn ngữ. Biên khảo gần đây của Rod Hernandez, Pocho-Che and the Production of Transnational / Transcultural Poetics, XCP 14, 2004, cho thấy ảnh hưởng lan sâu của Pocho-Che sau khi nhóm này hòa tan vào các cộng đồng latino khắp nơi trên nước Mỹ. Một thời đồng minh với Pocho-Che, các nhà thơ gốc Porto Rico như Victor H. Cruz, Miguel Pinero... qua New York thành lập Nuyorican Poets Café góp phần quan trọng vào phong trào thơ trình diễn (performance poetry); đọc thi tuyển Aloud (Henry Holt, NY, 1994) do Miguel Algarín và Bob Holman biên soạn.

16. Ethno-poetics ra đời từ nỗ lực của nhà thơ Jerome Rothenberg đã sưu tầm, tuyển chọn phong dao và thi ca truyền khẩu của các thổ dân Bắc Mỹ. Song song với công trình đáng khen của Rothenberg là sự phục sinh văn học thổ dân với sự xuất hiện của các nhà thơ tài năng như Gerald Vizenor, Leslie Silko, Louise Erdrich... Chuyên ngành nhân văn về thổ dân cũng lớn mạnh với nhiều đóng góp mới cho lý thuyết văn hóa học của Arnold Krupat chẳng hạn. Có thể tham khảo Jerome Rothenberg, Shaking the Pumpkin, Marck Editions, NY, 1986; và Arnold Krupat, The Turn to the Native, Univ. of Nebraska Press, 1996.

17. Eco-critique là ý thức bảo vệ sinh thái của một số nhà thơ HK, nổi bật có Wendell Berry và Gary Snyder. Phong trào này chịu ảnh hưởng tư tưởng Ðông phương, đặc biệt là Thiền và Phật giáo Tây Tạng mà các thi sĩ Beat như Waldman, Whalen, Snyder, Ginsberg đã tiếp thu và quảng bá. Không chỉ sáng tác hay trình diễn, họ đã đặt nền móng cho Naropa Institute, đại học Phật giáo duy nhất ở HK tại Boulder,Colorado. Ðọc tài liệu chủ yếu về thi phái Phật giáo HK, Anne Waldman & Marilyn Webb ed., Talking Poetics from Naropa Institute, Vol. 1 & 2, Shambhala, 1978; và tuyển tập do Carole Tonkinson, ed., Big Sky Mind: Buđhism & the Beat Generation, N.Y, 1995.

18. Văn học da đen ở Mỹ là một đề tài quá lớn. Từ văn chương nô lệ miền Nam đến Harlem Renaissance, từ các cộng đồng văn nghệ sinh động ở nhiều thành phố lớn như New York, Los Angeles, Chicago, Detroit, New Orleans... đến thuyết hệ da đen liên-Ðại Tây Dương, chưa kể phong trào hiphop với thơ-nhạc rap đang lan rộng trên thế giới, tiếng nói da đen ngày nay không còn là văn hóa ngoại vi ở Mỹ, nếu không nói là trái lại. Nên đọc các công trình biên soạn của thi sĩ-công dân da đen Ishmael Reed để có ý niệm về tầm vóc của mối liên minh sáng tạo da đen-da màu hiện nay; đặc biệt là Multi America, Viking Penguin,1997, và From Totems to Hip-Hop, Thunder Mouth Press,2003. Về thi pháp cộng đồng rap, xem Imani Perry, Prophets of the Hood, Duke U.P., 2004. Paul Gilroy, The Black Atlantic, Harvard U.P., và Michael E. Dyson, Reflecting Black, Minnesota, 1993, là hai tác phẩm cốt lõi của tư tưởng mỹ học và tâm lý văn hóa da đen hiện đại. Ngoài ra còn tập san định kỳ Callaloo do John Hopkins University bảo trợ phát hành là tư liệu quí cho giới chuyên gia về lĩnh vực văn hóa học da đen.

19. Sáng tác với học thuật nữ quyền là cuộc đại cách mạng văn hóa từ hơn bốn thập niên qua ở Mỹ. Riêng về thơ phụ nữ hay nữ quyền bất kể da trắng hay da màu đã có rất nhiều tuyển tập. Người đọc hiếu kỳ có thể truy tìm trên Google.com. Về nhận định phê bình, đáng chú ý là Alicia S. Ostriker, Stealing the Language, Beacon Press, 1986. Sự tham gia ngày càng đông đúc sôi nổi của dân HK gốc Á châu sau các làn sóng di dân từ những năm 60 vào các sinh hoạt văn nghệ, đặc biệt là nữ giới, càng cống hiến thêm nhiều sắc thái độc đáo cho dòng sáng tác đa văn hóa ở Mỹ. Tuyển tập lừng danh đầu tiên của các tác giả HK gốc Á do Paul Chan, Frank Chin, Fusao Inada và Shawn Wong đã được tái bản bổ sung, The Big Aiiieeeee! Meridian-Penguin,1991. Geok-Lin Lim & Amy Ling, Reading the Literatures of AsianAmerica, Temple U.P.,1992; và King-Kok Cheung, An Interethnic Companion to Asian American Literature, Cambridge U.P., 1997 là hai công trình biên khảo phê bình tập thể cho giới quan tâm một tổng quan không thể thiếu trong học thuật đa văn hóa hôm nay. Thêm một lưu ý: sáng tác đa văn hóa ở Mỹ không nhất thiết phải dùng Anh ngữ, phần lớn các cộng đồng di dân vẫn dùng tiếng mẹ để duy trì bản sắc văn hóa. Về vấn đề phức tạp này có thể tham khảo Marc Shell, ed., American Babel, Harvard U.P., 2002.

20. Richard Gray, A History of American Literature, Blackwell, 2004, tr.563. Ðây là tổng quan uyên bác và thông minh hiếm có về văn học sử đầy biến động của đế quốc văn hóa hùng mạnh nhất trong lịch sử. Là một học giả Âu (hàn lâm viện sĩ Anh quốc) Gray khách quan đánh giá các dòng văn học da màu và phong trào đa văn hóa trong xung đột biện chứng trung tâm / ngoại vi như mô hình đã nêu trên của Yuri Lotman (chú thích 10).

21. như trên, tr.564.

22. Tham khảo Richard Ohmann, Politics of Knowledge, Wesleyan U.P., 2003, để tìm hiểu sâu hơn về xu thế biến hệ thống đại học thành công nghiệp và thị trưong kiến thức cao cấp ở Mỹ hiện nay.

23. Donald Hall, Poetry and Ambition, Univ. of Michigan Press, 1988, tr.130. ý kiến này đáng quan tâm vì D. Hall là bộ mặt trưởng thượng trong dòng thơ chủ lưu HK.

24. Phái Language Writing nhờ các quan hệ chiến lược với đại học và mạng lưới tiên phong chủ nghĩa Âu-Mỹ đã được văn hóa chủ lưu HK chấp nhận và phát huy ảnh hưởng khá rộng trong thi ca thử nghiệm dùng Anh ngữ (Canada, Úc, Anh, kể cả Hoa Lục). Nhưng thế hệ nhà thơ trẻ có ý thức lịch sử-xã hội hôm nay ở Mỹ đã nhận ra tính chất lý thuyết tháp ngà của phái Ngôn Ngữ HK và yêu cầu giới làm thơ phải bám vào sáng tác và không được quên trách nhiệm của người nghệ sĩ công dân. Trong cuộc hội thảo thi ca quốc tế (thật ra chỉ là thế giới Anh ngữ) tại đại học New Hampshire tháng 8-1996 phái Ngôn Ngữ và mô hình thơ thử nghiệm HK đã bị chất vấn triệt để. Xem Steve Evans, The American Avant-Garde after 1989, trong Assembling Alternatives, Romana Huk chủ biên, Wesleyan U.P., 2003.

25. Theo ước tính của ngành dân số học HK, đến giữa thế kỷ 21 người Mỹ da trắng sẽ trở thành thiểu số; xem Richard Gray, sách đã dẫn, tr.563. Sự khủng hoảng về bản sắc văn hóa ấy đang là đề tài của học thuật HK, tìm đọc David Savran, Taking It like a Man, Princeton U.P., 1998.

26. Một số bài giới thiệu, điểm sách về nhóm Tân Hình Thức đã được dịch (với nhiều sai sót!) sang tiếng Việt và đăng trên tạp chí Thơ từ số 19 (Thu 2000) đến số 25 (Thu 2003). Vì tính chất bảo thủ tập cổ, THT không gây được ảnh hưởng ngoài nước Mỹ như thơ văn Beat hoặc phái Ngôn Ngữ. Theo hiểu biết có giới hạn của người viết bài này, có lẽ THT chỉ được một ít nhà thơ VN ở Bolsa hay Sài Gòn hưởng ứng. Dù các thi sĩ THT (25 vị trong thi tuyển Rebel Angels) đã được quảng cáo rằng họ thuộc vào số các tác gia sẽ đưa nền thơ HK vào thế kỷ 21, thực tế và thời gian đã tỏ ra khá phủ phàng! Với tài nghệ thường thường bậc trung nhóm THT không gây được kỳ tích nào đáng nhớ, chẳng hạn một giải thơ Pulitzer. Theo nhận định của giới phê bình đại học HK thì thi phái ao nhà này đã suy tàn; xem Christopher Beach, sách đã dẫn, tr.173-174; và Philip Levine trong bài phỏng vấn do Harry Thomas thực hiện, Talking with Poets, Handsel Books, N.Y, 2002, tr.76.

27. Xem phần Phụ Ðính.

28. đọc mục Meter trong The New Princeton Encyclopedia of Poetry & Poetics, 1993, tr.770.

29. Mark Jarman & David Mason ed., Rebel Angels, Story Line Press, 1996. Thi tuyển này cũng như mấy tên sách khác cổ xúy thơ THT đều do nhà xuất bản nhỏ Story Line Press ở Oregon in ấn.

30. Ðọc Khế Iêm, Tân Hình Thức, Văn Mới, 2003. Trong bài đầu có tính lý thuyết, tác giả tuyên bố: “...thơ THT Việt... sử dụng NGÔN NGỮ ÐỜI THƯỜNG, kết hợp với một số yếu tố và kỹ thuật của thơ tự do tiếng Anh, phá vỡ âm hưởng Tiền Chiến...” (tr.12). Lập luận như thế là đầu Ngô mình Sở vì ai đọc thông thạo tiếng Anh cũng có thể kiểm chứng rằng thi phái THT nặng lời bài bác, phê phán loại thơ tự do (free verse) bất qui tắc và phá luật, được dạy khắp các đại học đồng thời rất thịnh hành trên sách báo HK. Ở bài tiếp theo (viết vào mùa xuân 2001) tác giả Khế Iêm đã phát biểu sai lạc và không bằng chứng như sau khi ca tụng thi phái THT: “...cho đến bây giờ vẫn là một phong trào đang ở thời kỳ sung mãn nhất của thơ HK, trong khi Thơ Ngôn Ngữ lui dần vào bóng tối” (tr.33). Ðúng là không gì nguy hiểm bằng sự thiếu thốn thông tin, đặc biệt với một người khảo cứu, vì óc hư cấu ở đây hoàn toàn bất lực nếu không nói là có hại. (Cho đến nay tôi vẫn thắc mắc tại sao Khế Iêm lại cứ gán cái danh xưng THT vào sáng tác của nhóm mình trên tạp chí Thơ trong khi râu ông chẳng liên can gì đến cằm bà!)

31. Nếu chịu khó xem từng dòng thơ trong Rebel Angels người đọc cẩn thận sẽ nhận ngay ra một điều: các nhà thơ THT tôn trọng ước lệ và cách luật nên tránh cưỡng bức cú pháp với ngữ nghĩa; khi chuyển mạch văn hay dứt ý mới ngắt câu. Chỉ khi nào câu thơ dài quá khổ họ mới phải bắt buộc vắt dòng, trong khi các bạn trên TC Thơ lại biến trò vắt dòng thành một tiểu xảo máy móc thiếu suy nghĩ. Có thể tham khảo Chân Phương, Vũ Ðiệu của Lời, TC Thơ 18, Xuân 2000, tr. 4-9, để tìm hiểu thêm về nghệ thuật của ngôn ngữ thi ca hiện đại.

32. Chân Phương, tiểu luận Thơ Việt đi về đâu?; cùng phỏng vấn Chân Phương do Thụy Khuê thực hiện, Tình Hình Thơ Ca VN Hôm Nay, Hợp Lưu 80, Xuân 2005, tr. 40-60 .

33. Có khá nhiều sách phân tích chính sách cực hữu của chính phủ W. Bush nhưng Michael Lind, Made in Texas, Basic Books, 2003 là đáng đọc vì tác giả sinh trưởng ở Texas nên am hiểu chính tình miền Nam. Khảo cứu tổng quan về chủ nghĩa dân tộc da trắng do Carol Swain, The New White Nationalism in America, Cambridge U.P., 2002, là tài liệu phong phú nhất.

34. Ðây là đề tài hay cho một số chủ đề Hợp Lưu tương lai. Trong khi chờ đợi nên đọc lại Guy Debord, La Société du Spectacle, Folio-Gallimard,1992.

Khái quát các dòng tư duy xã hội học



(Hành vi con người và nghiên cứu xã hội học)

Martin Holborn & Mike Haralambos, Lê Hải dịch [*]

Phần này sẽ bàn đến các quan điểm (view) triết học về hành vi con người. Các quan điểm đó ảnh hưởng đến cả loại dữ liệu mà nhà xã hội học thu lượm lẫn phương pháp mà họ vận dụng để thu nhặt dữ liệu.

Quan điểm về hành vi con người có thể chia đại khái thành hai nhóm, một nhấn mạnh đến các yếu tố bên ngoài còn một là đến các yếu tố bên trong. Cách tiếp cận của nhóm đầu coi hành vi là bị ảnh hưởng từ kết cấu của xã hội, vốn là khách quan và tồn tại bên ngoài nhận thức của cá nhân. Cách tiếp cận của nhóm sau quan tâm hơn đến trạng thái chủ quan của cá nhân: cảm giác của họ, ý nghĩa mà họ gắn cho hiện tượng, và động cơ mà họ có khi hành xử theo những cách nhất định. Theo quan điểm này, cách người ta phản ứng với các yếu tố bên ngoài được định hình qua cách mà cá nhân diễn giải các yếu tố đó.


Cách phân chia hình thức (dichotomy) kiểu vừa rồi có phần giả tạo. Trên thực tế đa số các nhà xã hội học áp dụng góc mở từ cả hai cách tiếp cận trên khi nghiên cứu và diễn giải kế quả. Cũng có rất nhiều biến hóa khác nhau trong mỗi lối tiếp cận. Ví dụ như phần sau sẽ bàn đến sự khác biệt giữa giới chuyên gia hiện tượng học (phenomenologist) và các nhà xã hội học nào chuyên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ảnh hưởng bên trong lên hành vi con người.


Trường phái thực chứng


Nhiều nhà sáng lập ra ngành xã hội học tin rằng có thể tạo ra một ngành khoa học về xã hội dựa trên nguyên tắc và qui trình giống hệt như các ngành khoa học tự nhiên, như là hóa học hay sinh học, mặc dù khoa học tự nhiên thường là việc với vật chât vô tri vô giác cho nên không quan tâm đến cảm giác, cảm xúc và các trạng thái chủ quan khác. Trường phái thực chứng (positivism) được coi là ảnh hưởng mạnh nhất từ quan điểm muốn áp dụng phương pháp của khoa học tự nhiên vào xã hội học.

Auguste Comte (1798-1857), được coi là đã sáng chế ra chữ xã hội học (sociology) và ghi nhận là một trong số những người sáng lập ra ngành này, cho rằng áp dụng các phương pháp và ước đoán của các ngành khoa học tự nhiên sẽ giúp tạo ra "một ngành khoa học xã hội thực chứng". ông tin rằng điều đó sẽ cho thấy tiến hóa của xã hội theo "các luật không đổi". Theo đó sẽ thể hiện ra rằng hành vi của con người bị chi phối bởi các nguyên tắc nhân quả cũng không đổi như là hành vi của vật chất, đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên.


Bên trong ngành xã hội học thì lối tiếp cận của trường phái thực chứng áp đặt một số tư tưởng sau. Hành vi của con người, cũng như hành vi của vật chất, có thể đo đạc khách quan. Cũng giống như là hành vi của vật chất có thể định lượng bằng các phép đo như là trọng lượng, nhiệt độ và áp lực, các phương pháp đo đạc khách quan có thể được xây dựng cho hành vi của con người. Các phép đo đó là tối cần thiết để giải thích hành vi.


Ví dụ, để giải thích phản ứng của một hóa chất khi đun nóng, người ta cần đo chính xác nhiệt độ, trọng lượng và các chỉ số khác. Nhờ các phép đo đó mà có thể quan sát chính xác hành vi của vật chất và đưa ra phát biểu về nguyên nhân và kết quả. Phát biểu đó có thể là AxB=C, nơi A là số lượng vật chất, B là độ nóng và C là lượng khí sinh ra. Khi người ta có thể thể hiện rằng vật chất đang nghiên cứu luôn phản ứng giống nhau trong những điều kiện cố định, thì có thể xây dựng lý thuyết để giải thích hành vi đó.


Từ quan điểm của phái thực chứng, các phương pháp và tư duy đó có thể áp dụng cho hành vi của con người. Các quan sát hành vi dựa trên phép đo khách quan sẽ tạo khả năng lập phát biểu về nguyên nhân và kết quả. Sau đó sẽ có thể thiết kế lý thuyết để giải thích hành vi đã quan sát được.


Tiếp cận của phái thực chứng trong xã hội học đặc biệt quan tâm đến các hành vi có thể quan sát trực tiếp được. Họ lập luận rằng những yếu tố không thể quan sát trực tiếp - như là ý nghĩa, cảm giác và mục đích - không đặc biệt quan trọng và có thể khiến hiểu sai. Ví dụ, nếu đa số thành viên trưởng thành của một xã hội kết hôn và sinh con, thì hiện tượng đó có thể quan sát và định lượng. Do đó mà tạo ra dữ liệu đáng tin cậy. Tuy nhiên, các ý nghĩa mà những thành viên của xã hội đưa ra cho các hoạt động đó - nguyên nhân khiến họ kết hôn và sinh con - không thể quan sát trực tiếp được. Ngay cả trường hợp có thể đo chính xác thì vẫn có thể làm lệch chú ý ra khỏi nguyên nhân thật của hành vi. Một người có thể tin rằng kết hôn vì thấy cô đơn, người khác cho là vì tình yêu, người khác nữa là vì 'phải làm thế', và một người khác là vì muốn có con. Dựa vào loại dữ kiện này để giải thích có nghĩa là cho răng mỗi cá nhân biết nguyên nhân tại sao kết hôn. Điều đó che mờ nguyên nhân thật của hành vi của họ.


Sự thiên vị của phái thực chứng cho các "sự kiện" có thể quan sát được chủ yếu là do tin rằng hành vi con người có thể lý giải cũng giống như cách lý giải đối với hành vi của vật chất. Các nhà khoa học tự nhiên không tìm hiểu nguyên nhân và ý nghĩa của vật chất. Hạt nhân và phân tử không hoạt động theo cách hiểu của ý nghĩa, mà đơn giản là phản ứng lại tác động bên ngoài. Cho nên khi nhiệt độ, tác động bên ngoài, được đặt vào vật chất thì vật chất sẽ phản ứng. Nhiệm vụ của nhà khoa học tự nhiên là quan sát, đo đạc và rồi giải thích phản ứng.


Tiếp cận của phái thực chứng đối với hành vi con người cũng áp dụng logic tương tự. Người ta phản ứng với tác động bên ngoài và hành vi của họ có thể được lý giải theo cách hiểu phản ứng này. Họ kết hôn và sinh con là phản ứng với nhu cầu của xã hội: xã hội cần hành vi đó để tồn tại và các thành viên của xã hội đơn giản là đáp ứng đòi hỏi đó. Ý nghĩa và mục đích họ kèm theo hành vi của mình là không quan trọng.


Người ta thường lập luận rằng lý thuyết hệ thống (systems theory) trong xã hội học tiếp nhận lối tiếp cận thực chứng. Khi hành vi được coi là đáp ứng các tác động bên ngoài (ví dụ như lực kinh tế hay yêu cầu của hệ thống xã hội), các phương pháp và suy đoán của các ngành khoa học tự nhiên trở nên thích hợp cho nghiên cứu con người. Chủ nghĩa Mác có lúc được coi là tiếp cận thực chứng, vì người ta có thể lập luận là coi hành vi con người là phản ứng trước tác động của hạ tầng kinh tế. Trường phái chức năng (functionalism) cũng được nhìn tương tự. Hành vi của các thành viên trong xã hội có thể được coi là phản ứng đối với các sắp đặt chức năng của hệ thống xã hội. Cách nhìn đó về hệ thống xã hội phần nào là đơn giản hóa vấn đề. Tuy nhiên, có thể công bằng mà nói là lý thuyết hệ thống gần với tiếp cận thực chứng hơn là các quan điểm sẽ được bàn tới tiếp theo đây.


Trường phái hành động xã hội


Những người ủng hộ cho trường phái hành động xã hội (social action perspectives) lập luận rằng đối tượng của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên có khác nhau về cơ bản. Và kết quả là các phương pháp và suy đoán cho khoa học tự nhiên không thích hợp cho nghiên cứu con người. Các ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu vật chất. Để hiểu và giải thích hành vi của vật chất chỉ cần quan sát chúng từ bên ngoài. Hạt nhân và phân tử không có nhận thức: chúng không có ý nghĩa và mục đích điều khiển hành vi của chúng. Vật chất đơn giải là phản ứng vô nhận thức trước tác động bên ngoài; nói theo ngôn ngữ khoa học thì vật chất hoạt động (behave). Kết quả là các nhà khoa học tự nhiên có thể quan sát, đo đạc và đặt logic bên ngoài cho các hành vi để giải thích chúng. Họ không cần khám phá logic bên trong nhận thức của vật chất đơn giản vì điều đó không tồn tại.

Không giống vật chất, con người có nhận thức (consciousness) - suy nghĩ, cảm giác, ý nghĩa, ý định và ý thức về việc tồn tại. Vì điều đó mà các hành động của con người là có nghĩa (meaningful): con người xác định tình huống và xác lập nghĩa cho hành động của họ và hành động của người khác. Kết quả là họ không chỉ phản ứng lại tác động bên ngoài, họ không chỉ đơn thuần là hoạt động - họ hành động (act).


Khi mường tượng về phản ứng của những con người tiền sử về lửa do núi lửa tạo ra hay đám cháy bất ngờ. Họ không đơn thuần là phản ứng trong hành động giống hệt nhau khi trải nghiệm lửa. Họ gán một loạt các ý nghĩa khác nhau cho lửa và các ý nghĩa đó chỉ đạo hành động của họ. Họ định nghĩa lửa như phương tiện của sự ấm áp và dùng lửa để sưởi ấm nơi ở; họ coi đó là phương tiện tự vệ và dùng để đuổi thú hoang; và họ coi đó là phương tiện làm thay đổi vật chất và dùng lửa để nấu ăn hay trui đầu cung tên. Con người không chỉ phản ứng với lửa, họ hành động theo những ý nghĩa mà họ đã gán cho lửa.


Nếu hành động phát xuất từ ý nghĩa chủ quan, thì tiếp đó là nhà xã hội học phải phát hiện ý nghĩa đó nếu muốn hiểu hành động. Nhà xã hội học không chỉ đơn giản là quan sát hành động từ bên ngoài và đưa ra logic bên ngoài để giải thích. Họ phải diễn giải logic bên trong từng chỉ đạo hành động của nhân vật (actor).


Max Weber (1864-1920) là một trong số những nhà xã hội học đầu tiên phác họa chi tiết quan điểm này. ông lập luận rằng các giải trình xã hội học cần bắt đầu bằng việc quan sát và diễn giải 'trạng thái tư duy' chủ quan của con người. Như trong phần trước đã giải thích, trường phái tương tác (interactionism) áp dụng lối tiếp cận tương tự, đặc biệt quan tâm đến quá trình tương tác. Trong khi trường phái chứng thực chú ý đến sự kiện và các mối quan hệ nhân quả, trươờng phái tương tác đặt nặng sự nhìn thấu (insight) và thông hiểu (understanding). Vì không thể vào trong đầu của nhân vật, quá trình khá phá ý nghĩa phải dựa vào diễn giải (interpretation) và trực giác (intuition). Do vậy mà phép đo khách quan không thể thực hiện và tính chính xác trong khoa học tự nhiên không thể áp dụng. Vì ý nghĩa liên tục được xác định lại (negotiate) trong quá trình tương tác đang tiếp tục diễn ra, cho nên không thể thiết lập mối quan hệ nhân quả đơn giản được. Cho nên một số nhà xã hội học lập luận rằng xã hội học chỉ giới hạn vào việc diễn giải hành động xã hội (social action).


Tuy nhiên, cả Weber và các chuyên gia theo trường phái tương tác đều nghĩ rằng có thể đưa ra giải thích về nguyên nhân của hành vi con người, nếu việc tìm hiểu ý nghĩa là một phần của các giải thích đó. Một số nhà xã hội học, đặc biệt là những ai theo trường phái hiện tượng luận, thì đưa lập luận đó đi tiếp và tuyên bố rằng nhà xã hội học không thể tìm ra được nguyên nhân của hành động của con người (human action).


Hiện tượng học


Với các nhà hiện tượng học (phenomenology) thì không thể đo đạc khách quan bất kỳ góc cạnh nào của hành vi con người. Con người giải nghĩa thế giớ bằng cách phân chia. Qua ngôn ngữ họ phân biệt sự khác nhau giữa các vật, các sự kiện, các hành động và con người. Ví dụ như một số hành động bị định nghĩa là tội phạm còn những hành động khác thì không' tương tự vậy một số người bị định nghĩa là tội phạm còn những người khác là tuân thủ pháp luật. Quá trình phân loại (categorization) là chủ quan: phụ thuộc vào ý kiến của người quan sát. Xác suất thống kê chẳng qua là sản phẩm của ý kiến của những người tạo ra. Cho nên chỉ số về lượng tội phạm là do cảnh sát và tòa án tạo ra, và không thể hiện gì khác hơn là ý kiến của những cá nhân có liên quan. Nếu các nhà xã hội học đưa ra bảng thống kê thì đó cũng là kết quả của ý kiến chủ quan - trong trường hợp này là của nhà xã hội học.


Các nhà hiện tượng học tin rằng không thể tạo ra dữ liệu thực tế cho nên không thể tạo ra và kiểm chức các giải trình về nguyên nhân. Điều mà nhà xã hội học có thể hi vọng nhất là hiểu được ý nghĩa mà các cá nhân đã đặt ra cho các hiện tượng riêng biệt. Nhà hiện tượng học không tìm cách xác định điều gì gây ra tội phạm; thay vào đó họ tìm cách khám phá xem những sự kiện nhất định được định nghĩa là tội phạm như thế nào và một số người nhất định bị định nghĩa là tội phạm như thế nào. Do đó nhà hiện tượng học khảo sát cách mà cảnh sát đi đến quyết định là có bắt và khởi tố người bị tình nghi hay không. Bằng cách này nhà hiện tượng học hi vọng sẽ xác định được ý nghĩ được gắn với những chữ phạm tội và tội phạm được cảnh sát sử dụng. Kết quả cuôi cùng của nghiên cứu hiện tượng học là hiểu được ý nghĩa được các thành viên trong xã hội dùng hàng ngày.


Mặc dù có khác biệt giữa những ai ủng hộ phái hành động xã hội và hiện tợng học, cả hai đều công nhận là lối tiếp cận thực chứng tạo ra bức tranh bị biến dạng về cuộc sống xã hội.


Peter Berger (1966) lập luận rằng xã hội thường được coi như sân khấu múa rối mà thành viên xã hội được coi như là "những con rối nhảy múa trên các dây điều khiển, vui vẻ biểu diễn những phần đã được giao". Xã hội truyền dẫn giá trị, chuẩn mực và vai trò, và con người phản ứng theo trách nhiệm như những con rối của Berger. Tuy nhiên, phái tương tác và phái hiện tượng học tin rằng con người không phản ứng thụ động với xã hội bên ngoài. Họ xem con người như tích cực tạo ra nghĩa riêng cho mình và xã hội của mình trong tương tác với người khác. Theo cách hiể đó thì họ suy nghĩ tương tự như các tiếp cận hậu hiện đại đã bàn ở phần trước.


Xã hội học và giá trị


[...]

Mường tượng xã hội học


Mặc dù các nhà xã hội học có góc nhìn (perspective), phương pháp và giá trị khác nhau, tất cả họ đều (ngoại trừ một vài nhà hậu hiện đại) chia sẻ mục tiêu thông hiểu và giải thích (explaining) thế giới xã hội. Phối hợp các góc mở (insight) do các tiếp cận khác nhau mang lại có thể là cách tốt nhất để đạt mục tiêu này.

Các lý thuyết cấu trúc về xã hội, ví dụ như hệ phái kết cấu và Mác-xít, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của xã hội trong việc định hình hành vi con người. Từ phía ngược lại, các tiếp cận như hệ phái tương tác nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hành vi con người trong định hình xã hội. Nhiều nhà xã hội học hôm nay tin rằng ngành xã hội học phải nghiên cứu cả cấu trúc xã hội lẫn tương tác xã hội. Họ tin rằng chỉ có phối hợp nghiên cứu các thay đổi lớn trong xã hội và cuộc sống cá nhân thì nhà xã hội học mới có thể xây dựng hiểu biết về cuộc sống xã hội (social life).


Ý tưởng này không mới, từng được nhà xã hội học rất nhiều ảnh hưởng người Đức Max Weber ủng hộ, và gần đây là nhà xã hội học người Anh Anthony Giddens. Tuy nhiên, có lẽ sự giải thích rõ ràng nhất cho quan điểm này là nhà xã hội học người Mỹ C. Wright Mills.


Mills (1959) gọi khả năng nghiên cứu cấu trúc xã hội cùng lúc với cuộc sống của cá nhân là 'mường tượng xã hội học' (sociological imagination). ông lập luận rằng mường tượng xã hội học cho phép người ta hiểu 'các rắc rối riêng tư' trong bối cảnh 'các vấn đề công cộng'. Thất nghiệp, chiến tranh và tan vỡ hôn nhân đều được người ta trải nghiệm qua những rắc rối họ tạo ra trong cuộc sống riêng. Họ phản ứng lại các vấn đề đó như cá nhân, và phản ứng của họ kéo theo tác động xã hội khi nhìn chung. Tuy nhiên, với Mills các vấn đề này chỉ có thể hiểu toàn bộ trong bối cảnh rộng hơn của các lực chung xã hội. Ví dụ các hoàn cảnh đặc biệt sẽ khiến một người bị thất nghiệp, nhưng tỷ lệ thất nghiệp tăng khi xét tổng thể sẽ trở thành vấn đề công cộng cần giải thích. Nhà xã hội học sẽ cân nhắc 'các định chế kinh tế và chính trị trong xã hội, chứ không đơn giản là hoàn cảnh cá nhân và cá tính của một nhóm cá nhân'


Theo Mills thì xã hội học cần là ngành nghiên cứu trải nghiệm sống (biography) của các cá nhân trong bối cảnh lịch sử xã hội. Mường tượng xã hội học không chỉ hữu dụng với nhà xã hội học, mà còn quan trọng với tất cả thành viên xã hội nào muốn hiểu, thay đổi và cải thiện cuộc sống. Có lẽ xã hội học có thể coi là thành công nếu cho phép người ta đạt được mường tượng này, và các lý thuyết và nghiên cứu trong các chương còn lại của sách này có thể được đánh giá theo cách đó.


[*] từ trang 14-17 giáo trình Sociology Themes and Perspectives, 7th edition, Collins

Hạnh phúc trong tầm tay


Mỗi sáng khi chạy bộ tôi đều có được một niềm vui nhỏ. Đó là trao đổi một câu chào hỏi và một nụ cười thân thiện với một nhóm bốn bà cụ người Úc mà tôi đoán đã ngoài tuổi bát tuần. Tôi không biết nhóm “tứ nhân bang” này đã bắt đầu sinh hoạt thể dục từ lúc nào. Chỉ biết là từ hơn 2 năm nay, ngoại trừ những ngày mưa to gió lớn, không trừ một ngày nào và lúc nào cũng đúng giờ, các cụ luôn có mặt trên lối đi quen thuộc dành cho người đi bộ xung quanh bờ hồ gần chỗ tôi ở. Tôi có cảm tưởng như các cụ là những thiên thần luôn có mặt bên cạnh người khác để mà nâng đỡ, cổ võ và khuyến khích người khác rèn luyện thân thể, giữ gìn sức khỏe. Mỗi lần gặp tôi, các cụ trở thành những ủng hộ viên thể thao luôn miệng hô hào “gắng lên, nhanh lên”. Hẳn các cụ phải vui lắm, vì lúc nào tôi cũng nói rằng các cụ là niềm cảm hứng của tôi. Lần nọ, sau câu chào hỏi thông thường, tôi dừng lại nói chuyện lâu hơn. Tách riêng một cụ lúc nào cũng cười nói huyên thuyên, tôi hỏi bí quyết nào giúp cụ lúc nào trông cũng khỏe mạnh và yêu đời. Cụ đáp gọn: “Hãy tận hưởng mỗi giây phút hiện tại”. Thì ra thế! Tôi tin rằng cụ bà không nói theo sách vở mà từ chính kinh nghiệm của bản thân. Ở tuổi già, có người chỉ biết sống với những kỷ niệm của tuổi thơ. Có người lại hoài niệm những thành tựu mình đã đạt được ở tuổi trưởng thành. Nhưng khôn ngoan hơn cả có lẽ là những người luôn biết tận hưởng giây phút hiện tại.
Ngoài lợi ích thể dục, giờ chạy bộ mỗi buổi sáng của tôi cũng trở thành một giờ “tâm niệm” về hạnh phúc của đời người. Mỗi bước đi của tôi đều là một quyết tâm “sinh ra là để được hạnh phúc”. Bất hạnh lớn nhứt trong đời người là gì nếu không phải là không muốn sống hạnh phúc. Tôi tin rằng hạnh phúc nằm ở trong tầm tay mỗi người. Trong các thứ tài sản thì hạnh phúc là tài sản riêng tư nhứt không thể mang ra trao đổi hay mặc cả với bất cứ ai khác. Nếu mình không hạnh phúc thì chẳng có ai có thể hạnh phúc thay mình.Trong những ngày vừa qua, ý tưởng trên đây lại càng “nung nấu” tôi hơn khi tôi đọc được một tin vui: Úc Đại Lợi là quốc gia hạnh phúc nhứt thế giới! Từ năm 2011 đến nay, lúc nào Úc Đại Lợi cũng được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (gọi tắt là OECD) xếp đầu danh sách những nước “hạnh phúc” nhứt trong các nước kỹ nghệ phát triển nhứt trên thế giới. Có một thời, hai nước Thuỵ Điển và Gia Nã Đại lúc nào cũng đứng đầu danh sách. Vậy mà nay Úc Đại Lợi “của tôi” đã qua mặt những nước ấy!
Theo chỉ số được gọi là “Cuộc sống tốt đẹp hơn” (Better Life) do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế đề ra, Úc Đại Lợi của tôi bóp còi qua mặt những nước khác về những yếu tố tạo nên hạnh phúc cho con người như: mức thất nghiệp thấp (tại Úc Đại Lợi số người thất nghiệp chỉ chiếm có 5,5 phần trăm; tại các nước trong khu vực Đồng Euro, tỷ lệ này lên đến 12,1 phần trăm), mức thu nhập trung bình của một người Úc sau khi đã trừ thuế và nợ nhà là 28.884 Úc kim (trong khối các nước có kỹ nghệ phát triển, thu nhập trung bình chỉ có khoảng 23.047 Úc kim). Từ 21 năm qua, tăng trưởng kinh tế của Úc Đại Lợi chưa một lần suy giảm, kể cả trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hồi năm 2009. Điều đáng kể hơn cả là khí hậu và môi trường sống của Úc Đại Lợi. Về điểm này thì chắc chắn người dân các nước khác phải ghen với dân Úc mà thôi! Tuổi thọ trung bình hiện nay của người Úc là gần 82 tuổi. Trong khối các nước có kỹ nghệ phát triển, tuổi thọ trung bình chỉ khoảng 80 (VL, 31/5/2013). Đọc xong bản tin này, tôi thấy thật hãnh diện được làm công dân Úc. Nhưng liệu tất cả mọi người dân Úc có thực sự “cảm thấy” hạnh phúc như cụ bà trong nhóm đi bộ “tứ nhân bang” mà tôi gặp mỗi ngày không? Bài bình luận của ký giả Michael Pascoe trên báo Brisbanetimes số ra ngày 28 tháng 5 vừa qua cho rằng Úc Đại Lợi là “một đất nước tương đối tốt đến nỗi dân chúng không nhận ra điều đó”. Tôi cũng không tin rằng vì Úc có những chỉ số “hạnh phúc” hàng đầu thế giới mà đương nhiên số người Úc cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn các nước khác. Các cuộc thăm dò ý kiến thường cho thấy con số người dân tại một số nước nghèo cảm thấy hài lòng với cuộc sống có khi lại nhiều hơn các nước có chỉ số hạnh phúc cao. Tại “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa, độc lập-tự do-hạnh phúc” chẳng hạn, số người nghèo mạt rệp nhưng vẫn cảm thấy hạnh phúc đâu phải là ít. Hạnh phúc là điều rất tương đối và chủ quan, bởi vì nó là một tâm trạng cá nhân có khi không lệ thuộc vào những thước đo được gọi là chỉ số hạnh phúc.
Theo phân tách của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, có ba yếu tố có thể góp phần làm cho con người cảm thấy hạnh phúc. Ba yếu tố đó là: tiền của, sức khỏe và tình bạn. Tiền của hay điều kiện vật chất dĩ nhiên ảnh hưởng đến hạnh phúc của con người. Chỉ có người ngu mới chối bỏ tầm quan trọng của những yếu tố vật chất đối với hạnh phúc hay phúc lợi của con người. Ngay cả một vị ẩn sĩ giam mình trong một hang động trên núi cao cũng cần phải có quần áo và thức ăn. Không có những điều kiện vật chất tối thiểu, con người khó có thể sống xứng với phẩm giá của mình. Nhưng tiền của không những không bao giờ thỏa mãn được lòng tham của con người, mà thường lại là nguyên nhân gây ra tranh chấp, giành giựt ngay cả trong cùng một gia đình. Đức Đạt Lai Lạt Ma khẳng định: “Tiền của không bảo đảm cho hạnh phúc”. Ngài cho biết không thiếu những người giàu có, ngay cả tỷ phú, mà Ngài đã gặp gỡ tâm sự rằng họ không cảm thấy hạnh phúc. Tiền của tạo ra một thứ tổ kén để giam hãm con người vào nỗi cô đơn.
Còn sức khỏe thì sao? Chắc chắn sức khỏe là một yếu tố quan trọng góp phần vào hạnh phúc của con người. Phần lớn trong chúng ta, ai cũng đã một lần cảm nghiệm được rằng khi đau đớn bệnh tật triền miên, giữ được một thái độ tích cực hay an nhiên vui sống không phải là điều dễ dàng. Ai cũng nhận thấy là để có thể vui sống cần phải ăn ngon, ngủ kỹ và vận động cơ thể. Tuy nhiên, sức khỏe thể lý không phải là yếu tố duy nhất mang lại hạnh phúc cho con người. Thiếu gì những người có thân hình lực sĩ, sức khỏe không chê vào đâu được, vậy mà vẫn có thể cảm thấy không hạnh phúc. Thiếu gì những người đói ăn, ốm yếu tại những nước kém phát triển vẫn cảm thấy hạnh phúc. Ngay cả những người già cả, ho hen, đi đứng không vững biết đâu vẫn cảm thấy hạnh phúc. Sức khỏe thể lý là điều cần thiết cho hạnh phúc nhưng chắc chắn không phải là yếu tố tối hậu. Hạnh phúc đích thực nằm ở nội tâm, mà nội tâm có khi lại chẳng lệ thuộc vào sức khỏe thể lý.
Sang đến yếu tố thứ ba góp phần mang lại hạnh phúc cho con người là tình bạn, ai trong chúng ta lại chẳng thấy “ấm lòng” khi có bạn hữu để trò chuyện, để chia sẻ kinh nghiệm hay chỉ để hiện diện bên nhau. Là những con vật có tính xã hội, mối quan hệ với người khác là điều thiết yếu cho hạnh phúc của chúng ta. Tuy nhiên, bạn hữu cũng có trăm thứ bạn hữu. Có người chỉ có “bè” mà không có “bạn”, nghĩa là không có những người tâm giao mà mình có thể tin tưởng và chia sẻ. Bạn theo kiểu “còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi” (Nguyễn Bỉnh Khiêm), chỉ mang lại trống rỗng và cay đắng hơn là hạnh phúc. Một tình bạn đích thực chỉ có thể được xây dựng trên sự tin tưởng và lòng cảm mến. Hai thứ tình cảm này lại chỉ xuất phát từ nội tâm của mỗi người hơn là sự hiện diện của người khác. Do đó, ngay cả khi ở một mình, con người cũng vẫn có thể cảm thấy tràn đầy tin tưởng và yêu mến đối với người khác. Cô độc không đương nhiên làm cho con người cô đơn. Như vậy, tình bạn, nếu hiểu như là sự hiện diện của người khác, chưa hẳn là điều thiết yếu để mang lại hạnh phúc cho con người (x.His Holiness The Dalai Lama, Beyond Religion, Ethics for a Whole World, Rider, Sydney, 2012 trg 31-38).
Được bậc thày về hạnh phúc như Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích, tôi càng xác tín rằng hạnh phúc nằm trong tâm trạng con người hơn là xuất phát từ những điều kiện khách quan bên ngoài. Nghèo mà vẫn thấy hạnh phúc. Sống xa chốn phồn hoa, ít được người đời biết đến mà vẫn cảm thấy hạnh phúc. Và nhứt là và ngay cả khi bệnh hoạn ốm đau, cũng vẫn có thể cảm thấy hạnh phúc. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đề nghị: hãy thử tưởng tượng hai người cùng một lúc được chẩn đoán bị ung thư trong giai đoạn cuối. Một người sẽ tỏ ra giận dữ khi nhận được tin ấy và cho rằng đời “bất công”. Người kia có thể tỏ ra bình thản và chấp nhận. Trong cả hai trường hợp, điều kiện vật chất, tức sức khỏe thể lý và sự đau đớn, đều như nhau. Nhưng người thứ nhứt lại có thêm nỗi đau tâm lý và cảm xúc, trong khi người thứ hai vì có tâm trạng bình thản cho nên được trang bị tốt hơn để chấp nhận cuộc sống và tiếp tục thụ hưởng những gì mà cuộc sống có thể mang lại. Sự khác biệt giữa hai người nằm trong tâm trạng hơn là điều kiện khách quan. Với lòng quả cảm, sự cương quyết, ngay cả trong những hoàn cảnh nghiệt ngã, con người vẫn có thể duy trì được hạnh phúc. Nói cách khác, nếu không có nội lực thì không có bất cứ một sự thỏa mãn nào có thể làm cho chúng ta cảm thấy thực sự hạnh phúc.Nhưng cũng theo nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, “nếu sự an bình nội tâm là thuẩn đỡ đầu tiên giúp chúng ta chống lại những khó khăn và đau khổ, thì cũng có những yếu tố khác góp phần mang lại hạnh phúc và niềm vui đích thực. Những cuộc nghiên cứu khoa học gần đây cho rằng yếu tố quan trọng nhứt là ý thức về mục đích (của cuộc sống) vốn vượt qua quyển lợi trước mắt và cảm nhận được mối liên kết với người khác hay với một cộng đồng. Cội rễ của những yếu tố đó, theo tôi nghĩ, là sự cảm thông hay nhiệt tâm” (sđd trg 39).Bây giờ thì tôi hiểu được tại sao lúc nào Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nở nụ cười trên môi. Đã từng là một nguyên thủ quốc gia phải bỏ nước ra đi lưu vong và trong hơn 50 năm qua đã phải chứng kiến không biết bao nhiêu nỗi khổ đau mà Trung Cộng giáng xuống trên dân tộc của mình, thì dù có là “Phật sống”, bản thân ngài hẳn cũng đã nếm trải khổ đau và dĩ nhiên cũng đã từng biết thế nào là thương khóc. Nhưng trong tất cả những lần xuất hiện trước công chúng, dường như lúc nào Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đều có sẵn nụ cười trên môi. Chắc chắn đó chỉ có thể là một nụ cười của hạnh phúc và hạnh phúc vì lúc nào cũng biết cảm thông với người khác, ngay cả với kẻ thù mà ngài luôn xem như “nạn nhân” của tham lam, của quyền lực, của hận thù. Họ cũng cần được giải thoát như bất kỳ con người nào. Tôi đang sống trong một quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao nhứt thế giới. Tôi luôn cảm nhận được điều đó. Tôi hãnh diện được làm công dân của đất nước này. Nhưng nếu tôi không có sự cảm thông trong tâm hồn, nếu tâm tình ấy không được tôi trau dồi và nuôi dưỡng mỗi ngày, thì dù có hưởng được mọi chỉ số hạnh phúc tốt nhứt trên thế giới này, tôi sẽ chẳng bao giờ có được hạnh phúc đích thực.

Chu Thập

KHI EM ĐẾN



PILINSZKY JÁNOS ( 1921-1981)

( Một trong những nhà thơ Hungary nổi tiếng nhất trong thế kỷ XX)





 KHI EM ĐẾN



Anh một mình, khi em đến,

anh sẽ là sinh vật sống cuối cùng,
chỉ là những túm lông trong chuồng trại rỗng tuếch
chỉ là những vì sao thay thế bầu trời.

Trong nỗi mồ côi không chôn cất,

như trên bãi rác mùa đông,
giữa đống phế liệu anh cào cấu
nhặt nhạnh kiếm đời mình.

Đây sẽ là hòa bình hoàn hảo.

Đến trái tim anh chúng cũng chẳng lắng nghe,
những chướng ngại vật ngất ngây
của lặng câm tứ phía.

Hiện thực vĩnh hằng trần trụi.

Sẽ là của em, chỉ là của em
từ buổi sơ khai đã rắp tâm chuẩn bị
chỉ để cho em, sự giản dị tuyệt tác này.

Như một kẻ –một cái giỏ câm lặng

thời gian chỉ ngồi không nói năng chi
nó đã hết chân - tay cho vọng ước,
chỉ còn lại thân khúc thở dập dồn

Anh bị mất toàn bộ, khi em đến,

không còn nhà, giường êm ấm cũng không,
chúng mình nằm khểnh khang không vương vấn,
trong nồng nàn quyện gắn trắng trơn.

Nhưng em đừng chớp lấy! chớ vội rời bỏ!

Nếu em yếu mềm, lúc ấy anh tiêu luôn.
Trong giường, giữa những cái gối, giữa tiếng ồn
phố xá, sẽ kinh hoàng nếu choàng tỉnh, kinh hoàng.

( Trong tập:”Hình thang và rào cản 1940-1946”) 

Nguyễn Hồng Nhung dịch