Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

Hành Trình Thức Tỉnh





Đức Dũng



Có bao giờ ta tự hỏi là ta đã làm được gì cho dân tộc, cho đất nước? Tôi không chia sẻ với các bạn về điều này, vì mỗi người có mỗi nhận thức và hành động khác nhau trong tiến trình cuộc sống. Nhưng tôi có thể đoan chắc rằng lịch sử của dân tộc Việt Nam đã có biết bao nhiêu anh hùng còn rất trẻ, và họ có một niềm tin mạnh hơn niềm tin vào một tôn giáo trừu tượng, nghĩa là họ luôn luôn khát vọng công bình, độc lập, tự do, và hạnh phúc cho đồng bào của mình. (ĐD)



Mình bước từng bước nhỏ lang thang trên con đường Duy Tân, từ hồ con rùa đến đường Phan Đình Phùng, mắt nhìn về ngôi trường Luật khoa Đại học đường (tên cũ trước năm 1975), lòng thấy buồn vô hạn, một nổi niềm không biết tỏ lộ cùng ai! Ước mong sao mình có thể vào được ngôi trường này, để trở thành luật sư bênh vực cho công lý và sự thật, những ước mơ cháy bỏng của thời niên thiếu, và một niềm tin vào sự thật cho mai sau

“Một lời biện hộ còn tệ hơn cả một lời dối trá, vì lời biện hộ là một lời dối trá được bảo vệ.”

— Giáo hoàng Gioan Phaolô II, [8]
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/...



Xuất phát từ ý tưởng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 xưng thú 7 tội ác của Giáo Hội, Công giáo còn được gì và mất gì? Thật vậy, ngày 12/3/2000 cả thế giới vui mừng biết bao nhiêu thì nay cả thế giới oán hận biết bao nhiêu. Khi mà Giáo hội không trung thực. Mình xin hỏi các vị chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội Công Giáo La Mã trả lời cho mình?

Phút tâm tình

Trong đời có những lằn ranh giới của cái thời gian đã trôi qua và làm phương hướng mới của cuộc sống, như vậy đối với người thanh niên cần định hướng cuộc đời mình khi đã nhận được biết bao nhiêu là kinh nghiệm của các tiền nhân., Do đó, chúng ta cần nhìn lại cái quá khứ lịch sử của đời mình, mà lịch sử ấy gắn liền với lịch sử dân tộc và phải nhìn chúng với cặp mắt thực tế khách quan. Và Linh mục Nguyễn Khảm có lý khi viết về đôi mắt trong tác phẩm: “Người phu quét lá” NXB Thời Điểm phát hành năm 2000:

Cũng thế thôi trong đời sống tinh thần, rât nhiều khi tôi khao khát ánh sáng và đôi mắt thật tốt để nhìn cho rõ vấn đề. Nhưng lại có những khi muốn mù lòa cho cuộc sống tự do thoải mái hơn. Những khi Thánh ý Thiên Chúa xuất hiện quá rõ ràng và gắn liền với Thánh ý là những đòi hỏi hy sinh và từ khướt tôi lại muốn mù. Để khỏi phải thấy. Để dễ ngủ quên trong tội lỗi, đam mê”
Có bao giờ ta tự hỏi là ta đã làm được gì cho dân tộc, cho đất nước? Tôi không chia sẻ với các bạn về điều này, vì mỗi người có mỗi nhận thức và hành động khác nhau trong tiến trình cuộc sống. Nhưng tôi có thể đoan chắc rằng lịch sử của dân tộc Việt Nam đã có biết bao nhiêu anh hùng còn rất trẻ, và họ có một niềm tin mạnh hơn niềm tin vào một tôn giáo trừu tượng, nghĩa là họ luôn luôn khát vọng công bình, độc lập, tự do, và hạnh phúc cho đồng bào của mình.

Đó cũng là mẫu số chung của những người mang trong mình bản sắc dân tộc Việt. Không phải vô cớ mà cố Giáo sư Trần Chung Ngọc đã đưa ra vần đề trong Công Giáo chính sử; Charlie Nguyễn đã vạch trần những vấn đề về Đạo Công Giáo; Bác sỹ Nguyễn Văn Thọ đã viết "Ít nhiều nhận định về Thiên Chúa Giáo (Phê Bình Giáo Lý); GS Nguyễn Mạnh Quang cũng có bài viết về Mối ác cảm của Nhân Dân thế giới đối với Giáo hội La Mã . Và cũng không phải ngẫu nhiên trên trang web của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có đăng bài của báo Nhân Dân “Sự thật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam”

Chúng ta cải đạo Anh Em vô thần ư? Hay chính Anh Em mà chúng ta gọi là Vô thần đang cải đạo chúng ta! Khi mà các Đức Giám Mục bên Âu châu đã vi phạm tội lỗi, từ ngày ĐGH Gioan phaolô 2 xưng 7 tội ác của Giáo Hội Vào ngày 12/3/2000 Tưởng Giáo hội trở thành Thánh Thiện Công Giáo và Tông truyền. Nhưng từ ngày hôm ấy cho đến nay những sự việc vẫn xảy ra hàng ngày trên thế giới! không biết do đâu? Chúng ta nên xét vấn đề này một cách nghiêm túc. Vì sao ĐGH Biển Đức 16 từ nhiệm, một sự từ nhiệm gây ra biết bao lời phỏng đoán, Tôi cũng không ngoài quy luật ấy, thật là buồn một sự thoái vị phải chăng là do đạo đức và nền luân lý Kytô không còn đứng vững trên thế giới, nhất là ở Âu Châu cái nôi của Công giáo có lẽ đang bị phân rã,và hơn thế nữa Đức Giám Mục Bùi Tuần đã có bài trên Giáo Hoàng Học viện (xin xem Cảnh báo các mục tử)

Chỉ còn lại Giáo hội Công giáo Á Châu chưa bị giống như tình trạng Giáo hội Công giáo Âu Châu, nhưng đừng vội khoe khoang Giáo hội Công giáo tại Á Châu đang đứng trước các vấn đề nan giải thật là hóc búa? Và ĐGM Bùi Tuần từng cảnh báo các mục tử tại Việt Nam và đây trích lời chia sẻ của Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng nguyên Giám Đốc Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn:

Ở những năm tuổi 60, tôi cảm thấy sức khỏe yếu dần, tôi càng nhận thấy rằng mọi sự rồi cũng sẽ qua đi, vinh quang rồi cũng qua đi, thế lực, tiền bạc rồi cũng sẽ qua đi. Câu hỏi đặt ra cho tôi đó là phải chăng 25 năm qua tôi làm việc vì lòng mến Chúa? Phải chăng lòng mến Chúa là động lực duy nhất thúc đẩy tôi làm việc cho Chúa hay còn động lực nào khác? Thú thật tôi cũng chẳng dám trả lời câu hỏi đó trước mặt các cha hôm nay.

Việc làm của chúng ta còn biết bao nhiêu động lực khác mà chúng ta nhiều khi không ý thức. Có khi để công việc được tốt đẹp, được thành công, chúng ta sẵn sàng đạp người khác xuống để bước lên, đạp một cách vô tư. Cách làm như vậy khiến công việc chúng ta trở nên vô ích. Chúng ta chẳng phục vụ Chúa và Giáo hội một chút nào cả khi chúng ta gây mất hiệp thông trong Giáo hội.”

Có khi nào chúng ta nghe rằng Thụ tạo là Mẹ của Đấng Sáng Tạo? Bản kinh Qur'an đã nói gì về vai trò của Đức Giêsu và Mẹ Maria? Công giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 15-16 thử hỏi trước khi đó Ông Bà Tổ Tiên của mình không biết Đức Giêsu đều không được cứu độ sao? vậy các Vua Hùng và qua nhiều thời kỳ Đinh, Lê, Lý, Trần nhiều anh hùng Dân tộc Việt Nam đã hy sinh vì Tổ Quốc thì sao v v ? và còn nhiều câu hỏi cần tìm hiểu.

Qua các bài trên, giới trẻ Việt Nam nói chung và giới trẻ Công Giáo nói riêng suy nghĩ như thế nào? Riêng tôi, tôi cho rằng quan điểm của GS TCN, Charlie Nguyễn, Bác sỹ Nguyễn Văn Thọ v.v thì hoàn toàn chính xác. Có thể nói nó như là điểm cần tham chiếu trong các nghĩ suy của các tôn giáo đối với Nhà Nước, ở chỗ các tôn giáo chân chính luôn luôn phục tùng và trực thuộc dân tộc và nhà nước, bất chấp nhà nước đó do đảng nào lãnh đạo. Nếu Thiên Chúa đã từng giáo dục con Chiên “hãy vâng lời”, nhưng thánh Phaolô còn đi sâu hơn là hãy cầu nguyện và cảm tạ các cấp chính quyền dân sự. Như vậy xin mời các bạn, nhất là giới trẻ Công Giáo, hãy suy nghĩ giúp tôi và cầu nguyện cho tôi. Vì tôi là người tội lỗi đã dám công khai đưa ra quan điểm này.

Sau khi chúng ta tìm hiểu những bản văn nêu trên, và còn nhiều nữa qua môi trường Internet. Thời đại ngày nay là thời đại của lý trí và chúng ta sẽ thức tỉnh hoàn toàn.

Và để kết thúc bài này, kính mời các Bạn xem phần trích bài "Nói với tuổi hai mươi" của Tác giả Thích Nhất Hạnh về Phần 7: Tôn Giáo do nhà xuất bản Lá Bối phát hành – 1966. Nguồn: http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/thien-tap/noi-voi-tuoi-20/phan-07-ton-giao


Phần 07: Tôn Giáo
Tôn giáo là sự cảm thông nối kết. Tôn giáo không thể là những lớp thành trì phân cách con người với con người, và thế hệ của em có trách nhiệm hoàn thành công cuộc giải phóng cho con người ra khỏi thái độ tự giam hãm trong những nhận thức có tính cách cố chấp và cuồng tín. Công cuộc giải phóng đó đã được bắt đầu từ lâu, đã được nỗ lực thực hiện, nhưng chưa được hoàn tất.

Nhận thức của con người về tôn giáo đã được thay đổi một cách đáng kể nhờ sự tiến bộ của khoa học, triết học và xã hội học.

Chúng ta nên phân biệt tôn giáo và nhận thức của con người và tôn giáo. Đức KYTÔ, Đức THÍCH CA và bản ý của các bậc thánh nhân ấy đã được từng thời đại từng địa phương quan niệm và nhận thức một cách khác nhau, và những nhận thức và quan niệm đó chưa hẳn đã là đúng với bản ý các Ngài. Có một bữa tôi thấy trong hàng sách một cuốn viết về thần học nhan đề "Thượng Đế của anh quá nhỏ bé" "Your God is too small". Thượng Đế thì không bé nhỏ, nhưng Thượng Đế của anh, Thượng Đế của nhận thức anh thì phải bé nhỏ. Bởi vì quan niệm và nhận thức của anh có thể còn ấu trĩ, sai lạc. Cho nên ta có thể nói đến những tiến bộ của tôn giáo, hoặc rõ ràng hơn là những tiến bộ của con người trong phạm vi nhận thức tôn giáo, thái độ tôn giáo và hành trì tôn giáo. Những tiến bộ ấy được trông thấy ở khắp mọi tôn giáo và nhờ đó những người theo tôn giáo càng ngày càng tỏ ra khiêm cung hơn,cẩn trọng hơn và khoan dung hơn.

Cuồng tín và cố chấp là những gì nặng nề và hủ bại nhất mà tôn giáo phải đả phá. Những nỗ lực liên tục của Cơ đốc giáo chẳng hạn trong mấy mươi năm gần đây điển hình nhất là phong trào Oecuménique và công đồng Vatican là những dấu hiệu của sự thao thức thường xuyên để khế cơ hóa tôn giáo trong những điều kiện trí thức và tình cảm của đời sống mới.

Tôn giáo đã có mặt từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, và đã là một nhu yếu lớn của đời sống nhân loại. Tuy vậy, tôn giáo của hôm nay không phải là tôn giáo của ngày hôm qua, và tôn giáo của ngày mai cũng sẽ không phải là tôn giáo của ngày hôm nay. Điều nầy là một sự thực lịch sử.

Nghiên cứu lịch sử tôn giáo bằng nhân chủng học, tâm lý học và xã hội học chúng ta thấy ngay điều đó, rằng tôn giáo không có bản chất cố định, bản chất của tôn giáo không thuần nhất, nó thay đổi tùy thuộc thời gian và địa phương, tùy thuộc những điều kiện sinh hoạt của từng xã hội.

Những tôn giáo có tính cách cổ sơ (religion primitive) nhằm đến sự thỏa mãn những nhu cầu khẩn bách nhất của con người; chống lại đói, lạnh, bệnh tật,chết chóc. Khoa học kỹ thuật chưa phát triển, chưa bảo đảm được cho con người chống lại những thứ ấy thì con người còn cần đến thần linh, đến ma thuật, đến tôn giáo.

Nền y tế hương thôn ở Việt Nam một khi có cơ sở và đã phát triển đúng mức chẳng hạn, thì các thần linh như ông địa, ông táo bà mụ, tà Phạm Nhan, và trăm thứ thần linh khác phải dần dần rút lui. Chất quinine đi tới đâu thì tà ma vắng mặt bớt đi tới đó.

Trong lịch sử tôn giáo những vị thần linh lớn càng ngày càng được tôn sùng, càng nắm được quyền chỉ huy các vị thần linh nhỏ bé hơn. Từ đó xuất hiện thứ tôn giáo đế quốc (religion impériale) hay tôn giáo quốc gia (religion nationale) mà tín ngưỡng được xem như là căn bản của kỷ luật quốc gia. Thần linh của các tôn giáo nầy có nhiệm vụ bảo trợ cho một quốc gia, làm cho quốc gia đó cường thịnh và ủng hộ cả cho những quốc gia đó trong việc chiến đấu tự vệ hoặc xâm lăng. Mỗi khi một quốc gia này thắng được một quốc gia nọ thì thần linh của tôn giáo nầy cũng thắng được thần linh của tôn giáo nọ.

Tôn giáo với chính trị gắn liền với nhau, không thể tách rời ra được. Sau đó, xuất hiện những tôn giáo tiến bộ (religion avancée) - vượt khỏi biên giới quốc gia và có tính cách tôn giáo đại đồng. Những tôn giáo nầy có khuynh hướng đi vào tâm linh nhắm tới thỏa mãn các nhu yếu tâm linh chứ không nhắm tới sự thỏa mãn các nhu yếu cấp bách của thân thể như trong các tôn giáo cổ sơ, những nhu yếu chính trị như trong các tôn giáo quốc gia nữa.

Chúng ta thấy có những tôn giáo nghiêng về cứu thế (religion sotériolorique) những tôn giáo nghiêng về nghĩa vụ (religion déontologique) và những tôn giáo nghiêng về triết học (religion philosophique). Ở các tôn giáo này, con người có quyền chọn lựa chứ không như ở các tôn giáo chưa tiến bộ; bởi vì ở đây các tôn giáo đã nghiêng về sinh hoạt nội tâm hơn là sinh lý và xã hội.

Tuy nhiên trong các tôn giáo này, ta vẫn còn thấy dấu vết lưu lại của những tôn giáo cổ sơ và quốc gia.

Đó không phải là bản ý của người sáng lập tôn giáo, đó là dấu hiệu của những nhu yếu sơ đẳng đang còn. Trong đạo Phật chẳng hạn, có nhiều tín đồ còn cúng Phật để cầu mạnh khoẻ, làm ăn phát đạt, trong đạo Cơ Đốc, nhiều tín đồ vẫn còn nghĩ đến thực phẩm như là một ân huệ của Thượng Đế và đó không phải là bản chất thực của những tôn giáo tiến bộ.

Tôn giáo còn tiến bộ nhiều nữa trong đà tiến bộ chung của nhân loại cùng với những tiến bộ về tư tưởng, khoa học và kỹ thuật. Mà tôn giáo cần thiết cho con người.

Vì vậy ta có bổn phận thúc đẩy sự tiến bộ của con người về nhận thức và thái độ tôn giáo, khiến cho tôn giáo giữ được vai trò nuôi dưỡng phát triển tâm linh của con người và đừng bao giờ còn trở nên những chướng ngại, những thành kiến cố chấp và cuồng tín cản trở sự tiến bộ và giải phóng của con người toàn diện.

Trong một tôn giáo, bao giờ cũng có một thiểu số người can đảm, có nhận thức cởi mở, đi tiên phong trong sự khám phá và nhận thức.

Cho nên em hãy tìm đọc những nhà đạo học và thần học nổi tiếng nhất để có thể đứng ở chỗ đầu đường mà nhìn về phía chân trời tương lai của những tôn giáo.

Em hãy đọc những người như Jacques Maritain, như Nicolas Berdyaev, như Martin Buber, như Paul Tillich, như Nagarjuna, như Karl Barth, như Asangha, như Thân Loan, như Thái Hư, như Vivekanada, như Hư Vân... Đọc những người như thế, ta thấy tôn giáo cao cả, thâm sâu, bao la. Ta thấy phần đông những người theo tôn giáo đều đi sau rất xa; đơn giản, lười biếng và ỷ lại về suy tư thực chứng cho nên dễ cố thủ, hẹp hòi và cuồng tín.

Nếu em có tôn giáo, em sẽ không thể như họ. Em sẽ học hỏi về tôn giáo để thấy phần thâm thúy và siêu tuyệt của nó, để lấy những chất liệu quý báu vô hại của nó làm món ăn cần thiết cho tâm linh em.

Em hãy đóng góp vào công cuộc khai phá và thực hiện, động cơ của tiến bộ tôn giáo. Nếu em chưa có một đức tin nào thì em hãy thận trọng đối với vấn đề tôn giáo.

Tôn giáo, người ta nói, cũng như tình yêu. Cho đến khi chưa yêu, em không hiểu được tình yêu, và em thấy tình yêu là lố bịch. Đọc một bức thư tình, em thấy buồn cười. Nhưng mà ngôn ngữ của những bức thư tình chỉ có nghĩa đối với những người trong cuộc, dù bức thư tình ấy bắt đầu bằng "Thưa quý nương..." Người có đức tin, theo Barth, và cả Buber nữa, là người đã nghe tiếng gọi của Tình Yêu và đã đáp lại không phải bằng một sự chấp thuận, mà bằng cả con người mình.

Phần lớn, người ta theo tôn giáo vì truyền thống gia đình, vì địa lý, vì tập tục...Nếu em sinh ra ở Ấn Độ, em có nhiều cơ hội để là một người theo Ấn Độ giáo. Sinh ra ở Mỹ thì Tin Lành. Ở Nhật bản thì Phật giáo hay Thần Đạo... Nghĩ như thế để khiêm nhượng, để cởi mở, để sẵn sàng học hỏi và trao đổi

Dù có đức tin tôn giáo hay không có đức tin tôn giáo, em cũng cần tìm hiểu học hỏi về các tôn giáo, và nhất là các tôn giáo có mặt tại Việt Nam. Nên tập nhìn các tôn giáo như những thực tại văn hóa và xã hội, như những di sản văn hóa xã hội, những nguồn tiềm năng của nhân loại, của đất nước.

Phải tìm hiểu và bồi đắp các tôn giáo để các tôn giáo có thể hướng về sự thúc đẩy tiến bộ xã hội, như chúng ta tìm hiểu bồi đắp và sử dụng các tài nguyên quốc gia.

Hãy xem các tôn giáo như những tiềm lực có thể xây dựng con người về phương diện tâm linh và xã hội. Tôn giáo không ít quan trọng hơn những miền cao nguyên trù phú, những miền đồng bằng bao la, những con sông tưới tẩm, những thác nước có thể biến thành điện lực. Phải bồi đắp, nuôi dưỡng và sử dụng các tiềm lực tôn giáo trong mục đích phụng sự con người.

Thế hệ em phải đánh tan sự kỳ thị, bưng bít. Thế hệ em phải thực hiện tinh thần hòa đồng, nghĩa là hòa hợp mà không phải đồng hóa, giữa các thực tại văn hóa và tôn giáo.

Em phải mở rộng nhận thức tôn giáo và vượt thái độ giáo điều.

Hãy mang niềm tin yêu đến gặp các bạn không đồng tôn giáo với các em và sẵn sàng cộng tác.

Nguyên tắc căn bản là: những hoạt động nhân danh tôn giáo phải là những hoạt động xây dựng cho cuộc đời, làm cao đẹp cho con người chứ không phải là những hoạt động nhằm bành trướng thế lực và quyền lợi riêng tư cho một bản ngã tôn giáo. Nghĩa là hãy đồng ý rằng tôn giáo là nhu yếu của con người, phải phục vụ con người, chứ không nên để con người chết chóc chia rẽ khổ đau vì phải phục vụ cho những giáo điều tôn giáo, những nhận thức độc quyền về tôn giáo...

Nắm được then chốt ấy em sẽ thấy tôn giáo trở nên đẹp như một người yêu. Trong buổi họp mặt với các bạn em có thể đem người em yêu tới giới thiệu cùng mọi người: ai cũng vui vẻ, ai cũng chấp nhận, ai cũng mừng cho em có lý tưởng, có đức tin, có nơi nương tựa tinh thần. Ai sẽ còn giữ sự kỳ thị?

Không khí tôn giáo vẫn còn nặng nề, trong lúc này, và điều đó trông cậy ở sự cố gắng, thái độ cởi mở và tôn trọng của em. Phải làm sao cho mọi ngôi chùa, mọi tu viện, mọi giáo đường trở nên những bông hoa im lìm đẹp nhất của đất nước. Và làm sao cho những cộng đồng tôn giáo đều hướng về sự phát triển đời sống toàn diện của con người, làm sao cho mọi tôn giáo gặp nhau trong thái độ thực sự nhân bản, không lấy những nhận thức độc quyền về tôn giáo - những giáo điều, mà lấy con người làm đối tượng và cứu cánh./. (hết trích)

Tôi tin, rất tin cuộc sống trên những nỗ lực không mệt mỏi để vượt thắng, trân trọng hiện tại, hướng tới ngày mai. và nhìn lại ta mới có thể thấy hết giá trị của đời mình.

Tôi mong bạn sẽ mỉm cười. Vì mình đã sống những ngày trọn vẹn. và đã thức tỉnh .

Đức Dũng

Ghi chú. Những cụm chữ khác màu là những đường link tới bài gốc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét