Heinrich Boell, tên đầy đủ là Heinrich Theodor Boell (1917 - 1985) là nhà văn và một dịch giả Đức. Ông được coi là một trong những nhà văn lớn nhất của Đức thời hậu chiến. Năm 1972 ông được nhận giải Nobel Văn học.
Tác phẩm và quan điểm chính trị của Boell thể hiện khát vọng xây dựng một xã hội mang tính nhân văn. Các tiểu thuyết tiêu biểu của ông: “Thiên thần im lặng”, “Và tôi đã không nói một lời duy nhất”, “Nhà không có người che chở”, “Qua con mắt của chú hề”, “Bức chân dung tập thể với một quý bà”…
.HEINRICH BOELL (Đức)
Tên của cô ấy không còn đọc được trên cây thánh giá bị đập vỡ tan tành một cách thô bạo; chiếc nắp quan tài đã bị cạy và nơi mà trước đây ít tuần còn là một ngôi mộ thì giờ đây là một cái hố sâu, trong đó những bông hoa thối rữa, bẩn thỉu, những cái nơ bạc màu, bị vứt lẫn lộn cùng với lá thông và những cành cây trơ trụi, tạo thành một cái đống ghê tởm. Chắc chắn là những mẩu nến cháy dở đã bị lấy đi...
“Đứng dậy đi em”, tôi khẽ nói, “hãy đứng dậy đi nào!” Nước mắt tôi trộn lẫn với nước mưa của đợt mưa đã rơi rả rích, buồn bã từ nhiều tuần nay.
Sau đó tôi nhắm mắt lại: tôi sợ mong muốn của tôi có thể trở thành sự thật. Ở đằng sau đôi mí mắt nhắm lại tôi nhìn thấy chiếc nắp quan tài bị vỡ giờ đây đã nằm trên ngực em, bị nén xuống bởi những lớp đất ướt đang lọt qua nó vào trong quan tài một cách lạnh lùng và thèm khát.
Tôi cúi xuống để nhặt khóm hoa bẩn thỉu đã từng được trồng ở trên mộ giờ đang nằm ở dưới đất, bỗng nhiên tôi cảm thấy như có một bóng ma hiện ra từ lòng đất ở phía sau tôi, nhanh và bất ngờ, giống như ngọn lửa thỉnh thoảng bốc lên từ một lò lửa đã bị đậy lại.
Minh họa
Tôi vội vàng làm dấu thánh, quẳng khóm hoa đi và vội vã bước đến lối ra. Bóng tối đậm đặc phình ra từ các lối đi hẹp có các bụi cây rậm rạp ở hai bên, và khi tôi ra đến con đường chính, tôi nghe thấy tiếng chuông báo hiệu cho những người đến viếng mộ ra khỏi nghĩa trang. Nhưng tôi tuyệt nhiên không nghe thấy bước chân của ai đó, tôi cũng không hề nhìn thấy ai, tôi chỉ cảm thấy ở phía sau mình bóng ma vô hình, nhưng hiện hữu ấy đang đi theo...
Tôi bước đi nhanh hơn, đóng cánh cửa sắt han gỉ, kêu ken két của nghĩa trang lại, băng qua bãi đất hình tròn, ở đó có một toa xe điện bị lật nằm chềnh ềnh giữa trời mưa; và những hạt mưa đáng ghét rơi lộp bộp xuống thân toa xe làm bằng tôn...
Từ lâu nước mưa đã thấm qua giầy của tôi, nhưng tôi không cảm thấy lạnh mà cũng không cảm thấy chân mình bị ướt. Sau đó tôi lên cơn sốt cao, người run lên cầm cập, và trong nỗi sợ hãi bám riết lấy tôi từ phía sau, tôi không còn tâm trí nào để nghĩ đến sự đau ốm và nỗi thương đau của mình...
Nằm giữa những ngôi nhà tồi tàn, ống khói của chúng nhả ra làn khói mỏng, nằm giữa những bờ dậu được chắp vá một cách sơ sài bao quanh những mảnh ruộng đã được cày có đất màu hơi đen, ngang qua những cột điện thoại xiêu vẹo có vẻ như đang nghiêng ngả trong lúc tranh tối tranh sáng, con đường tôi đi dẫn qua vô số những ngôi nhà nghèo nàn ở ngoại ô thành phố. Sơ ý giẫm lên những vũng nước, tôi càng vội vã hơn bước về phía bóng đen nhấp nhô ở đằng xa của thành phố vươn đến cả những đám mây đen lúc chạng vạng tối ở phía chân trời như một mê cung của cảnh nghèo khổ.
Những đống đổ nát khổng lồ màu đen xuất hiện ở bên trái và bên phải, tiếng la lối om sòm khác thường vọng ra từ những ô cửa sổ có ánh đèn leo lét làm tôi day dứt; tôi lại đi qua những mảnh ruộng được cày màu đen, đi qua các ngôi nhà, các ngôi biệt thự đã sụp đổ và nỗi sợ hãi cùng với cơn sốt càng không buông tha tôi, vì tôi cảm thấy một cái gì đó quái gở: phía sau tôi trời tối dần, trong khi bóng tối đang đặc quánh lại theo cách thông thường trước mắt tôi; phía sau tôi đã là đêm; tôi đang kéo theo màn đêm, kéo nó đến đường viền ở đằng xa của chân trời, và những nơi nào bàn chân tôi bước tới thì sẽ trở nên tối tăm. Mặc dù tôi không nhìn thấy gì, nhưng tôi biết rằng từ lúc rời khỏi ngôi mộ của người yêu, nơi tôi đã làm bóng ma hiện ra, tôi đã kéo theo tấm phủ nghiệt ngã, mềm mại của màn đêm.
Nơi đây dường như không có người ở, một nơi rùng rợn, rác chất đầy ở ngoại ô thành phố, còn thành phố thì nằm im lìm như một dãy núi thấp được tạo thành từ những đống đổ nát, lúc đầu nó có vẻ ở rất xa, nhưng giờ đây tôi đang đến gần nó một cách rất nhanh chóng. Một vài lần tôi đứng lại, cảm thấy bóng tối phía sau mình cũng kìm lại, nó dồn lại, lưỡng lự một cách mỉa mai, sau đó tiếp tục đẩy tôi đi bằng một áp lực mềm mại và cưỡng ép.
Đến lúc này tôi mới cảm thấy mồ hôi chảy xuống thành dòng trên khắp cơ thể; tôi bước đi một cách khó nhọc, gánh nặng mà tôi phải kéo theo nặng trĩu, đó là gánh nặng của cuộc đời. Tôi đã bị buộc vào nó bằng những sợi dây vô hình, chúng kéo và giật mạnh tôi, như một khối hàng thồ nặng bị xệ xuống ắt kéo theo con la bị kiệt sức xuống vực thẳm khi nó vượt núi băng đèo. Tôi cố gắng hết sức để chống lại những sợi dây vô hình ấy, những bước chân của tôi trở nên ngắn lại và không vững chãi, như một con thú bị dồn đến đường cùng tôi xông vào giằng, kéo những sợi dây đang kìm giữ tôi: đôi chân của tôi hình như đã bị chôn chặt dưới đất trong khi tôi còn sức lực giữ thẳng phần trên của cơ thể. Cho đến khi tôi bỗng nhiên nhận ra rằng tôi không thể chịu đựng nổi, rằng tôi bị buộc phải dừng lại, gánh nặng đã kìm giữ được tôi, tôi có cảm tưởng mình đang mất đi sự cương quyết, tôi hét lên một tiếng và xông vào một lần nữa giằng, kéo những sợi dây vô hình - tôi ngã sấp mặt về phía trước, những sợi dây vô hình đã bị đứt, tôi đã trút bỏ được gánh nặng và trước mắt tôi hiện ra một khoảng đất sáng sủa. Giờ đây cô ấy đang đứng ở đó, cô ấy, người đã nằm trong ngôi mộ tội nghiệp bên dưới những bông hoa bẩn thỉu, chính là cô ấy với khuôn mặt tươi cười đang nói với tôi: “Đứng dậy đi anh, hãy đứng dậy đi nào...”, mặc dù tôi đã đứng dậy và đi về phía cô ấy...
Phạm Đức Hùng dịch từ nguyên bản tiếng Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét