Thứ Ba, 23 tháng 10, 2018

ĐÀO THÁI SƠN CÓ "ĐẠO VĂN " HAY KHÔNG?


Báo Tây ninh số ra ngày 22-10-2016, trên trang Văn học-Nghệ thuật ở chuyên mục Đến với thơ hay có đăng bài : " Không phải là một bài thơ trữ tình" của tác giả Đào Thái Sơn và bài này được Đào Thái Sơn đưa lên fb của mình kèm theo ảnh chụp trang Báo Tây ninh đăng bài. Do có nhiều duyên nợ với Báo Tây ninh nên tôi không khỏi " tò mò" để dành thời gian đọc hết bài viết. Sỏ dĩ tôi " tò mò" cũng bởi một lý do Tây ninh rất khan hiếm những cây bút viết " Nghiên cứu- lý luận- phê bình" ở lĩnh vực Văn học- Nghệ Thuật. Sau khi đọc bài tôi không khỏi thất vọng vì Ban biên tập Tây ninh đã chứng tỏ sự " cẩu thả" trong việc biên tập và cho đăng bài viết này, nhất là đối với một Bài thơ(kệ) đã được xem là một kiệt tác của Văn học cổ Việt Nam, một bài thơ(kệ) của bậc chân tu có nhiều công đức đối với nhân dân và được tôn thờ "thần thánh hóa" qua nhiều "truyền thuyết" lưu truyền đến ngày hôm nay : THIỀN SƯ KHÔNG LỘ.
Bài thơ (kệ) " NGÔN HOÀI" là một tác phẩm bất hủ mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu -phê bình- văn học Việt nam, các nhà sư, nhà thơ...vẫn chưa thẩm thấu được hết các tầng ý nghĩa và đã tốn không biết bao nhiêu là giấy mực để bàn luận với mục đích thấu đáo toàn bộ kiệt tác này một cách đúng đắn nhất. Vì vậy, các bạn sẽ dễ dàng tìm thấy rất nhiều ;hàng ngàn bài viết về Bài thơ này của giới chuyên môn cũng như người không chuyên.
Thế nhưng, Đào Thái Sơn là ai lại " mạnh dạn" khẳng định "Ngôn hoài" không phải là một " Bài thơ trữ tình".
Đọc bài viết , người đọc dễ dàng nghĩ ngay đây là những phát hiện rất mới của tác giả: việc đưa bài thơ vào chương trình giáo dục, một cách hiểu mới về ý nghĩa của bài thơ mà hướng dẫn cách giảng và hiểu bài thơ của sách giáo khoa là quá "khuôn sáo" và "không thích đáng" và tác giả đã diễn giãi để đi đến kết luận :" Ngôn hoài là một bài thơ thiền không nói về thế giới thực tại, mà mượn những hình ảnh của thực tại để ám thị khai ngộ : chọn nơi thích hợp vắng vẻ để tu tập, từ đó sẽ an tâm với đạo, rồi có lúc sẽ được đốn ngộ, ta và vật sẽ hòa đồng không còn vướng mắc nữa. Đó là chỗ thầy dạy tâm yếu cho đệ tử….Thơ thiền phải đứng trên góc độ của thiền mà giảng thì mới phù hợp. Không thể lấy cái tư tưởng trần tục để giải thích nó. Người học thơ thiền không phải cầu đắc đạo mà là giúp ta tiếp xúc với những giấc mơ giải thoát – thoát ra khỏi biển khổ của thế gian để tâm hồn được thanh thản trong trẻo, giải trừ ác nghiệp."
Thật ra, Đào Thái Sơn đã "đạo văn" một cách trắng trợn. Không chỉ vậy mà còn "thêm mắm, dặm muối" hết sức sai lệch. Tôi sẽ phân tích và chứng minh điều này ở phần sau
Trước hết, tôi muốn đề cập đến Đào Thái Sơn là ai? Và bài viết trên đã từng được đăng trên " Đất đứng" năm 2014 và cũng từng được nhận những lời bình xác đáng một cách "tế nhị"
ĐÀO THÁI SƠN LÀ AI?
Sơn xuất hiện và nhanh chóng trở thành gương mặt thơ sáng giá của tỉnh và nhanh chóng được giới Văn học -nghệ thuật không chỉ trong nước mà cả ngoài nước chú ý. Một nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng. Quả thật, khi lần đầu đọc thơ Sơn tôi không khỏi bị thu hút. Thơ Sơn có nét riêng.
Sơn nhanh chóng được Hội văn học- nghệ thuật tỉnh hỗ trợ in thơ và cũng được đăng nhiều thơ trên các trang mạng chuyên ngành trong và ngoài nước, kể cả trang mạng " lề trái". Thơ Sơn được đăng tải trên trang của nhà nghiên cứu- lý luận phê bình Inrasara, trang trên của nhà văn Phong Diệp...Sơn sớm trở thành " một nhà thơ có tên tuổi" được yêu mến.
Tôi không biết nhiều về Sơn, chỉ biết Sơn là giáo viện dạy văn và chỉ gặp Sơn một lần khi vào chơi, dự sinh hoạt của nhóm "Đất đứng".Nhưng tôi có cảm tình với Sơn, chủ yếu là qua những bài thơ của Sơn mà tôi đọc được. Chính cái cảm tình ấy, mà trong lần tình cờ cà phê với anh Ngạc Thụy,anh Hồng ở quán Ghita khi bàn chuyện tìm người phụ trách bộ môn Văn học của Hội văn học - nghệ thuật tỉnh , tôi đã buộc miệng đề cử Sơn( cho dù tôi không còn sinh hoạt, tham gia các hoạt động của Hội Văn nghệ Tây ninh từ rất lâu rồi).
Không biết gì lý do gì Sơn lại nhảy vào lĩnh vực Lý luận phê bình văn học, một lĩnh vực đòi hỏi người tham gia phải làm việc cật lực và hết sức nghiêm túc.Khi Sơn bắt đầu viết những bài "gọi là bình thơ" của vài tác giả dù chưa đặc sắc nhưng cũng là điều đáng trân trọng. Như đã nói, Tây ninh thiếu hẳn một cây bút "nghiên cứu -lý luận phê bình " chuyên nghiệp. 
Đáng tiếc, có lẽ cái "danh " đã khiến Sơn nôn nóng muốn khẳng định mình hơn thế nữa và có tư tưởng " Tự tôn" coi thường người đọc" đến độ không thể chấp nhận được. Sỡ dĩ, tôi mạnh dạn nhận định về Sơn như vậy là do Bài viết nêu trên của Sơn khi đăng trên trang "Đất đứng" đã được những lời bình " sáng giá".
Bài " Đôi điều về bài thơ Ngôn hoài của Không Lộ Thiền Sư của Sơn trên Đất đứng đăng vào ngày 18-7-2014 đến nay có gần 1400 lượt đọc, mặc dù chỉ có 3 lời bình ngay sau khi bài được đăng ( không biết có phải do Ban quản trị Đất đứng chặn bình luận hay không?).
Với 3 lời bình này đáng lý ra Sơn phải " thức tỉnh".
Hãy xem 3 lời bình này :
Giang Ngọc 18 Tháng Bảy, 2014 at 8:40 chiều
“Nhàn Ngư hay Ngôn Hoài “đều là những bài thơ cổ. Tôi không được học trong thời kỳ mà bài thơ này được đưa vào “Văn học” Tuy nhiên, nếu là có tôi thực sự “Không hiểu nổi .Không biết bài thơ này đưa vào chhương trình Văn Học lớp nào cho phù hợp khi trình độ học sinh chỉ là giới hạn trong ” Quốc ngữ chữ nuớc ta ở bậc “Trung học” Vào thời đó.
Bài viết trên tôi đã đọc ở trong Văn học Việt Nam hoàn toàn viết như thế. Nhưng cũng
chỉ là một giã thiết (hoặc là người đời hư cấu) Không khác gì chuyện “Tây Du Ký) Ngay
truyền thuyết Bồ Đề Dạt Ma qua sông chỉ bằng môt đôi dép cũng vào dạng như thế.
Van học giã sữ và văn học đích thục không thể nhầm lẫn vào nhau đưọc .
Giã thiết về Không Lộ rất nhiều bài viết trên thế giiớ ngay NGƯ NHÀN chưa chắc gì là THẬT thì làm sao “NGÔN HOÀI là đúng . Nói về thơ Thiền m àkhông biét rỏ về Thiền một chút. Chính là sự đi dạo chơi “Cởi ngựa xem hoa”.

Hoàng Phụng Thiên 18 Tháng Bảy, 2014 at 8:57 chiều
Bài này tác giả “trích” từ trong Văn học học Phật Giáo Việt Nam và thêm một phần của Lĩnh Nam Chích Quái ” Đó chỉ là những giã thiết đưa lên Giữa mấy vị Thiền Sư Đạo Hạnh Minh Thông, Không Lộ v.v….
Hai bài : Ngư Nhàn và ” Ngôn Hoài” cũng có tới 3 giã thiết khác nhau . ý văn tâm đắc nhưng trọng minh của Ngôn Hoài và Ngư Nhàn không đơn giản . Lóp 10 học trò chưa hiểu hết văn học hiện đại cũng như cận đại của VN . Ngay cả người “biết viết” Văn học” cũng chưa thấm nhuần đạo lý của đời .. Vậy mà ai đó đưa “nó” vào Văn ” lóp 10 .? Phải chăng làm một điều …. khá ngạc nhiên .
Thơ Đường, thơ “Lục bát” thơ tự do của Việt Nam còn biết bao loại chưa cho học sinh học đủ . Cớ gì đưa một bài thơ mang tính chất ” Phật, Thiền và vô vi vào văn lớp 10 ?.
Sữ học chính thống khác với giã sữ . Phải không các bạn.
Dương Kỵ 19 Tháng Bảy, 2014 at 12:44 sáng
Theo lịch sữ Phật Giáo : Trong nghiên cứu Phật giáo và văn hoá Việt Nam . Câu chuyện Thiền Sư Dương Không Lộ vẫn cón mang tính chất giã thiết .
@ giã thiết : Dương Không Lộ va Nguyển Minh Thông . Sách vở ghi lại có nhiều điều ngược nhau?. trong lịch sữ về Thiền.
” Đoạn luyện thân tâm thủy đắc thanh
” Sum sum trực cán đối hư đình
” Hữu nhân lai vấn không vuơng pháp
“Thân tọa bình biên ảnh tập hình .
Xem xong thì Thiền sư nói :’ Người đem kinh đến…………sao bảo ta không truyền “Tâm Ấn'”
Tác giả chép bài mà không hiểu hết ý nghĩa .chữ “tâm ấn” nên “cương ” bậy
Khi một sư muốn nói chữ Tâm ấn hay truyền tâm ấn là phải truyền lại “chưởng môn” cho đệ tử truyền thừa. Ở đây có ngĩa bóng là thế thường kế thừa truyền Y bát và tâm ấn .như Ngủ tổ đã truyền Y bát và bài kệ (Tâm Ấn cho Lục Tổ Huệ Năng chẵng hạn. Trong này ý thiền sư nói theo nghĩa đó.
Những bức tranh ” Thuỷ Mặc” Sơn Thủy” Phong Thuỷ không liên quan gì đến “Phong Thửy trong dân gian với Thiền cả. Phong Thủy trong nhà cửa thậm chí bí truyền lại càng dựa vào ngủ hành và bát quái thì làm sao có trong Thiền .
Bài Kệ khác với truyền tâm ấn mặc dầu hai bài là “kệ” . bài thơ : “Ngôn Hoài lại càng không phải hẵn là bài thơ mà cũng chẵng phải toàn là bài kệ. Kệ với thơ hoàn toàn mang tính chất khác nhau .Ở đây tác giả rất lập lờ vì không hiểu mà chỉ dựa vào bài trích nên sai ý lạc đề.
Lê Tắc chép truyện Không Lộ và Giác Hãi là chuyện giả thiết chưa được hoàn toàn xác thực . đây cũng là chuyện truyền kỳ ” Trong truyền kỳ mạn lục’ cũng như chuyện lịch sữ ” Phù Đổng Thiên Vương ” Người viết lấy cái TÂM” để diển giải cho cái TRÍ và cái LÝ . Cũng như ý thức trong thơ ” Lý Ngạo Đời”của Kha Tiệm Ly.
Nó không thật là nhu thế .Cho nên Thiền của các SƯ mà có nói tới ằng vân giá vũ . Đi mây về gío bắt cọp, vẻ Voi thì nó cũng chỉ là chuynệ ngoại cở trong Thiền . Không có thật.
Nếu mà thiên hạ luyện được “chưởng” như trong truyện của Kim Dung . Thì Nga Mỹ cần gì phải tốn công nghiên cứu khoa học phát minh Phi thuyền, hỏa tiển, bom hạt nhân.
Tác giả trích, chép mà thiếu khâu bình luận rỏ ràng cho nênbiến bài thành một ông ĐỒ Mặc quần ta đi giày Tây thắt cà vạt. Đội khăn đóng đi giữa phố không người.
Ghi chú : Lê Mạnh Thát : Lịch sữ Phật Giáo ( Nguyên là gốc thiền sư )
Nguyển Lang VNP,Giáo
Đại Việt Sữ ký toàn thư
Lĩnh Nam chích quái
Lê Xuân Quang .
” Đều là những người hoặc nơi có bài viết về Dương Không Lộ. Nhưng chưa có nơi đâu dứt khoát . Hà cớ gì ai đó lại đưa bài “thơ ” Ngôn Hoài đi vào van học VN cho lớp 10 ? Liệu ràng học sinh lớp 10 có bị “Tẩu hỏa nhập ma” khi học và nghe bình giải hay không ?.
Trong lời bình của Giang ngọc có câu : "Bài viết trên tôi đã đọc ở trong Văn học Việt Nam hoàn toàn viết như thế"..."Nói về thơ Thiền m à không biét rỏ về Thiền một chút. Chính là sự đi dạo chơi “Cởi ngựa xem hoa”
Trong lời bình của Hoàng Phụng Thiên có câu :Bài này tác giả “trích” từ trong Văn học học Phật Giáo Việt Nam và thêm một phần của Lĩnh Nam Chích Quái ”
Trong lời bình của Dương Kỵ có câu :Tác giả chép bài mà không hiểu hết ý nghĩa .chữ “tâm ấn” nên “cương ” bậy...Tác giả trích, chép mà thiếu khâu bình luận rỏ ràng cho nên biến bài thành một ông ĐỒ Mặc quần ta đi giày Tây thắt cà vạt. Đội khăn đóng đi giữa phố không người.
Lẽ nào một thầy giáo "dạy văn" một "nhà thơ có tiếng của tây ninh" lại phải đợi người ta nói thẳng vào mặt là " anh "Đạo văn" một cách hết sức ấu trĩ" ?
Khi đọc bài " Không phải là thơ trữ tình " của Sơn đăng trên Báo Tây ninh( tôi chưa đọc bài trên Đất đứng) tôi đã thẳng thắng com
" Đọc bài cứ nghĩ là những phát hiện của Đào Thái Sơn". Đáng tiếc, cậu lại bắt đầu rơi vài cái thói "Đạo Văn". Tôi vì quý tài Sơn nên không ngại mích lòng, Thế là Sơn chặn tôi ngay.
Sơn đã sửa tựa bài và gửi đăng báo Tây ninh. Bài được đăng Sơn chụp hình bài Báo và đăng trên Fb của mình . Sự hời hợp, có phần cẩu thả của Báo Tây ninh đã " giúp" Sơn khẳng định cái " Tôi vĩ cuống" của mình. Đó cũng là lý do buộc khiến tôi phải viết bài này
Trước khi chứng minh Sơn " đạo văn" như thế nào, có lẽ nên giới thiệu cho Sơn đọc một bài viết mang tính khái quát về 2 chữ "Đạo Văn"
THẾ NÀO LÀ ĐẠO VĂN ?
Theo Merriam-Webster Online Dictionary, đạo văn nghĩa là:
( nguồn :https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1816881328593780&id=100008157907770&notif_t=like&notif_id=1477304302355412)
Ăn cắp và hình thành những ý tưởng hay ngôn từ mới khởi nguồn từ ý tưởng của ai đó
Sử dụng sản phẩm của một ai đó mà không công bố nguồn
Giới thiệu một ý tưởng hay sản phẩm mới được chuyển hóa từ một nguồn đã có từ trước
Ở Mỹ, câu hỏi được đưa ra là “Từ ngữ và các ý tưởng có thực sự bị ăn cắp?” và Luật pháp Mỹ trả lời là có. Việc diễn đạt một ý tưởng độc đáo nào đó cũng được xem là một thành quả của trí tuệ và được bảo vệ theo Luật tác giả tương đương như việc bảo vệ một phát minh hoàn toàn mới.
Có rất nhiều cách để đạo văn. Việc “hô hoán” thành quả của một ai đó là của mình là trường hợp đầu tiên, chỉ riêng việc sao chép từ ngữ hay ý tưởng của một ai đó mà không ghi rõ nguồn cũng có thể được xem là đạo văn. Một khi đã có ý định sử dụng trích dẫn từ thành quả sáng tạo và lao động của người khác, bạn phải ghi rõ nguồn và tên trích dẫn từng đoạn một. Tuy nhiên thậm chí trích dẫn cụ thể nhưng lại sao chép quá nhiều cũng sẽ là một bằng chứng của đạo văn.
Hầu như tất cả các trường hợp “bị mang tiếng” đạo văn đều có thể tránh được, ít nhất là nếu bạn ghi rõ nguồn.

Những biến hóa của đạo văn
Thật ra, biên giới của một bài nghiên cứu và một bài đạo văn đôi khi không thể trắng đen phân minh được. Việc tìm hiểu những hình thức đạo văn khác nhau sẽ cho bạn cái nhìn rõ ràng hơn:
1. “The Ghost Writer”: người viết trắng trợn sử dụng toàn bộ công trình của một ai đó thành của mình
2. “The Photocopy”: Người viết sao chép cách phân bố, bố cục của các đoạn văn từ một nguồn duy nhất, không hề sửa đổi lại.
3. “The Potluck Paper”: Người viết cố gắng “trá hình” việc đạo văn của mình bằng cách sao chép từ nhiều nguồn khác nhau, biên tập đối chéo các câu sao cho nội dung thật hợp lí mà không phải tương đồng với bản gốc.
4. “The Poor Disguise”: Mặc dù người viết đã giữ lại các nội dung quan trọng của nguồn, nhưng người đó vẫn sửa lại một chút về “diện mạo” của bài viết đó bằng cách thay đổi từ khóa hay câu cú.
5. “The Labor of Laziness”: Người viết dành thời gian để chú giải các nguồn khác nhau và nối chúng lại với nhau, thay vì dành nỗ lực tương tự cho công việc của mình.
6. “The Self-Stealer”: Người viết “mượn đáng kể” các thành quả trước đó của chính mình để phục vụ cho bài viết/nghiên cứu mới.

Đã dẫn nguồn nhưng vẫn là đạo văn!
1. “The Forgotten Footnote”: Người viết dẫn tên tác giả nhưng lại sao lãng việc điền thông tin cụ thể để dẫn chứng về đoạn dẫn nguồn tham khảo như năm xuất bản, trang, chương mục...
2. “The Misinformer”: Người viết cung cấp thông tin sai sự thật liên quan đến các nguồn tham khảo, khiến đọc giả không thể tìm thấy được nguồn chính xác.
3. “The Too-Perfect Paraphrase”: Người viết có dẫn nguồn nhưng lại “quên” dấu trích dẫn dù đoạn đó được sao chép từng từ một hay gần như thế. Mặc dù đã cung ứng đủ thông tin cơ bản cho nguồn dẫn nhưng người viết bị cho là đã không “tôn trọng” đến bản gốc và “dịch” sai thông tin.
4. “The Resourceful Citer”: Người viết dẫn ra tất cả các nguồn, đoạn văn và sử dụng việc trích dẫn một cách đầy đủ tuy nhiên công trình này vẫn được xem là gần như là không hề có tính độc đáo. Đôi khi rất khó để nhân ra hình thức này của đạo văn bởi vì chúng chẳng khác gì một bài nghiên cứu “dày công”.
5. “The Perfect Crime”: Hành vi phạm tội dù có tinh vi đến đâu thì cũng... vẫn coi là tội phạm. Trong trường hợp này, người viết chỉ dẫn nguồn ở một vài nội dung tham khảo cơ bản. Mặc dù tiếp tục sử dụng các nội dung khác của cùng một nguồn này để viết bài nhưng người viết không tiếp tục trích dẫn. Bằng cách này, người đọc có thể bị "đánh lừa" bởi cách trích dẫn "nửa vời" của người viết.
ĐÀO THÁI SƠN CÓ "ĐẠO VĂN " HAY KHÔNG? 
Trước hết tôi xin nói đến cái tiêu đề bài viết của Đào Thái Sơn đăng trên báo Tây ninh: " Không phải là một bài thơ trữ tình". Cái tiêu đề "Hồn ma không đầu" này quả thật "độc đáo" đã kích thích óc tò mò của người đọc, buộc phải đọc để biết . Thì ra, tiêu đề đầy đủ phải là " Bài thơ Ngôn Hoài không phải là bài thơ trữ tình" . Tôi đã cố lục lọi trong trí nhớ của mình những gì đã đọc về " Bài thơ Ngôn Hoài" xem có nhà nghiên cứu văn học nào đã xếp loại bài thơ Ngôn hoài vào thể loại " Thơ trữ tình" hay không? Nhưng tôi không tìm ra. Nghi ngờ cái "hiểu biết" của mình , tôi phải tốn công truy cập, tra cứu xem có bài việc nào xếp Ngôn hoài vào thể loại thơ trữ tình hay không để Đào Thái Sơn phải dày công " Nghiên cứu" phản biện và khẳng định "Ngôn Hoài không phải là một bài thơ trữ tình".
Có lẽ phải nhờ Đào Thái sơn chỉ dẫn ra vậy? Nếu Sơn không dẫn chứng được thì là Sơn đã "tự vẽ bùa đeo" để làm cái cớ viết ra bài viết trên. Hay cũng gì muốn thay đổi tiêu đề của bài viết đăng trên Đất đứng-một tiêu đề dễ dàng trùng khớp với nhiều bài viết trước đây, nên Sơn đã "đẻ" ra một cái tiêu đề "không giống ai"!
Bài " Không phải là bài thơ trữ tình" của Sơn có thể chia ra 3 phần khá rõ : Phần giới thiệu, phần trích dẫn và phần "luận".
Ở phần giới thiệu Sơn viết : "Bài thơ được đưa vào sách giáo khoa Văn học lớp 10 ( Sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000), đó là một tín hiệu vui và cần thiết." Như vậy, phải chăng hiện nay năm 2016 Bài thơ vẫn được giãng dạy? Thế nhưng trong bài " "Ngôn Hoài": Một bài Kệ Thiền rất khó dịch." của Nguyễn Cẩm Xuyên đăng trên báo Kiến thức ngày nay số 829 ngày 20-8-2013 ở cuối bài có đoạn : "... bài kệ của Không Lộ lại thuộc loại khó dịch. Có lẽ vì lí do này, những năm gần đây bài đã được đưa ra khỏi chương trình Trung học."
( xem nguồn : http://www.vanchuongviet.org/index.php…)
Như vậy, Bài Ngôn hoài đã đâu còn được giãng dạy, để Sơn phải cảm thấy lạ vì :"...là bài thơ thiền này lại được giảng và hiểu như một tác phẩm của thế tục!'? Nếu tôi không lầm thì Sơn dạy văn cấp 2 , còn bài " ngôn hoài" nằm trong chương trình văn lớp 10.
Nếu loại bỏ phần giới thiệu và phần trích dẫn ( phần mà Sơn đưa vào ngoặc kép" thì phần "luận" còn lại của Sơn là :
PHẦN LUẬN
Cách giảng và hiểu này mới nhìn có vẻ có lý, nhưng kỳ thực lại là một hiểu quá khuôn sáo và không thích đáng. Nếu dời sư Không Lộ xuống sống vào thời Trần hay thời Lê khi mà Nho học thịnh hành thì có lẽ được, hoặc giả là cho sư Không Lộ đang hoàn tục ! Còn đằng này Không Lộ là nhà sư chân tu của thời Lý, Phật giáo đang thịnh, nên áp đặt cách hiểu như thế là quá vô lý. Thực ra bài thơ này không có tựa, Ngôn hoài chỉ là người đời sau thêm vào mà thôi. Nên cũng không có chuyện tỏ lòng hay tỏ ý chí gì cả.
Qua Thiền uyển tập anh ta thấy Ngôn hoài thực chất nó là một bài kệ trả lời và truyền tâm yếu cho đệ tử chứ hoàn toàn không phải là một bài thơ trữ tình. Bài kệ là một chuỗi ẩn dụ, ám thị về một triết lý thiền hết sức uyên áo thâm thúy mà nhà sư muốn truyền cho đệ tử của mình.
Các tác giả SGK lớp 10 cho rằng theo thuyết phong thủy xưa, long xà là nơi có mạch đất uốn lượn như rồng rắn. Làm nhà trên mạch đất đó sẽ thịnh vượng. Đó chỉ là một cách hiểu. Nhưng nhà sư có xây cất nhà đâu, sư cần sự thịnh vượng giàu có để làm gì ? Sư đang khai thị cho đệ tử kia mà ! Thực ra ” long xà địa” Từ nguyên cho biết là đất có thể dung thân, sau làm nơi ở ẩn. Vậy ba chữ đất long xà chẳng qua là chọn nơi thanh vắng thích hợp để tu tập đạo học. Vì có tu thì mới có đắc đạo ! Hai chữ ” dã tình” phải hiểu là để cái tình vào nơi thanh tịnh, tức là tâm không bị ngoại vật tác động cho xáo trộn, có như thế thì mới ” lạc đạo” được. Hai câu thơ đầu nhìn bề ngoại có vẻ vui thú điền viên, nhưng kỳ thực lại là hàm ẩn một vấn đề khác – vấn đề chọn nơi thích hợp để thân tâm thanh tịnh, tu Phật.
Câu thứ ba chuyển hướng kỳ lạ. Đang vui tại sao trèo lên đỉnh núi trơ trọi để làm gì? Đó chính là thời khắc đốn ngộ của người tu đắc đạo. Đốn ngộ chẳng qua là trạng thái thể nghiệm tâm linh của một cá nhân một khi tâm linh đó được giải thoát. .
Cụm từ ” lên thẳng” và ” đỉnh núi trơ trọi” tách ra ta sẽ thấy rõ hơn về vấn đề này. Lên thẳng là thời khắc chớp nhoáng – như một sát na- Đỉnh trơ trọi là thế giới Không Vô. Một người mà đứng trên đỉnh núi thì không còn sau trước nữa. Đó là thế giới của bốn bề vắng lặng, cô tịch mà người đốn ngộ đã đạt đến.
Ở câu thơ cuối lại xuất hiện ” hàn thái hư” các tác giả SGK giải thích là ” lạnh cả trời – làm cho cả vũ trụ phải rùng mình ớn lạnh”. Dịch như thế là chưa chính xác. Vì ” thái hư” không phải là bầu trời, mà cõi thái hư là một thế giới của nhà Phật, thế giới ấy chỉ có người đạt đạo mới đến được.
Vậy “một tiếng kêu làm lạnh cả cõi thái hư” đó cũng như chuyện bay lên không, đi trên mặt nước, hàng long phục hổ…. Là trạng thái hòa nhập giữa Ta và Thế giới, giữa Thế giới và Ta, ta và vật đã hòa đồng làm một không còn cái tâm phân biệt nữa.
Ngôn hoài là một bài thơ thiền không nói về thế giới thực tại, mà mượn những hình ảnh của thực tại để ám thị khai ngộ : chọn nơi thích hợp vắng vẻ để tu tập, từ đó sẽ an tâm với đạo, rồi có lúc sẽ được đốn ngộ, ta và vật sẽ hòa đồng không còn vướng mắc nữa. Đó là chỗ thầy dạy tâm yếu cho đệ tử….Thơ thiền phải đứng trên góc độ của thiền mà giảng thì mới phù hợp. Không thể lấy cái tư tưởng trần tục để giải thích nó. Người học thơ thiền không phải cầu đắc đạo mà là giúp ta tiếp xúc với những giấc mơ giải thoát – thoát ra khỏi biển khổ của thế gian để tâm hồn được thanh thản trong trẻo, giải trừ ác nghiệp.
Và đây là phần mà Sơn đã "Đạo văn"
Hãy xem Sơn viết : "Thực ra ” long xà địa” từ nguyên cho biết là đất có thể dung thân, sau làm nơi ở ẩn. Trong câu này tôi thật sự không hiểu nổi 2 chữ "từ nguyên " ở đây là gì? Là tên của một học giả nào chăng?
Về 3 chữ " Long xà địa" trong bài thơ Ngôn Hoài nhà nghiên cứu An chi đã có bài diễn giải rất rõ. Theo An Chi viết : Vậy Long xà địa thực chất là gì? Đó là Đất ẩn dật.Đây là lối nói bắt nguồn từ một lời "hệ từ" trong Kinh dịch :Long xà chi trập dĩ tồn thân dã", nghĩa là rồng rắn mà ẩn nấp là để giữ mình vậy....Đây chính là cái nghĩa đã được Không Lộ Thiền sư sử dụng trong từ tổ danh từ " Long xà địa".Vậy " Tuyển đắc long xà địa khả cư" chọn được chốn ẩn thân có thể ở.
( xem nguồn :http://www.bachkhoatrithuc.vn/…/Ve-ba-chu-long-xa-dia-trong…)
Sơn đã " đạo" của nhà nghiên cứu An chi. Bởi thực chất Sơn không hề hiểu biết gì về 3 chữ " Long xà địa" cả ". Bởi không hiểu nên Sơn mới viết bừa : " Vậy ba chữ đất long xà chẳng qua là chọn nơi thanh vắng thích hợp để tu tập đạo học. Vì có tu thì mới có đắc đạo !." Không biết trong ba chữ " long xà địa" thì chữ nào thể hiện cái nghĩa " : là "Chọn nơi " và "tu đạo" vậy?
Không chỉ " đạo" của An Chi về ý nghĩa của 3 chữ " Long xà địa" là :đất có thể dung thân, sau làm nơi ở ẩn, Sơn còn "đạo " của Hòa thượng Thích Thanh Từ.
Trong bài :"Ngôn Hoài": Một bài Kệ Thiền rất khó dịch." của
Nguyễn Cẩm Xuyên có đoạn :
"Riêng gần đây xem một bản dịch của Hòa thượng Thích Thanh Từ, ý nghĩa có khác:
Chọn nơi xa vắng hợp lòng quê,
Năm tròn mặc khách đến hay về.
Có khi tiến thẳng lên đỉnh núi,
Mây tan trăng hiện tiếng cười hề!
Bản dịch không sát và có chỗ không hay lắm nhưng cái chính là đã thoát được lỗi khi dịch “long xà địa”. Chữ này đã được chuyển là “nơi xa vắng”.
( xem nguồn : http://www.vanchuongviet.org/index.php…
(KIẾN THỨC NGÀY NAY số 829 ngày 20.8.2013)
" Nơi xa vắng" đã được Sơn biến thành " nơi thanh vắng"
Sơn viết "Hai chữ ” dã tình” phải hiểu là để cái tình vào nơi thanh tịnh, tức là tâm không bị ngoại vật tác động cho xáo trộn, có như thế thì mới ” lạc đạo” được. Hai câu thơ đầu nhìn bề ngoại có vẻ vui thú điền viên, nhưng kỳ thực lại là hàm ẩn một vấn đề khác – vấn đề chọn nơi thích hợp để thân tâm thanh tịnh, tu Phật. " Tại sao phải hiểu hai chữ " Dã tình" là để cái tình vào nơi thanh tịnh vậy Đào Thái Sơn? Vậy ở hai câu đầu theo Sơn là "hàm ẩn một vấn đề khác- vấn đề là chọn nơi thích hợp để thân tâm thanh tịnh,tu Phật" cũng có nghĩa là "không có nơi thích hợp thân tâm không thanh tịnh thì không tu Phật đươc"!
Ở bài viết này tôi không có ý định tranh biện với những cái "phải hiểu" của Đào Thái Sơn mà chỉ minh chứng việc Sơn đã " Đạo văn mà thôi! ( Có lẽ để dành vào dịp khác vậy)
"Câu thứ ba chuyển hướng kỳ lạ. Đang vui tại sao trèo lên đỉnh núi trơ trọi để làm gì? Đó chính là thời khắc đốn ngộ của người tu đắc đạo. Đốn ngộ chẳng qua là trạng thái thể nghiệm tâm linh của một cá nhân một khi tâm linh đó được giải thoát. .
Cụm từ ” lên thẳng” và ” đỉnh núi trơ trọi” tách ra ta sẽ thấy rõ hơn về vấn đề này. Lên thẳng là thời khắc chớp nhoáng – như một sát na- Đỉnh trơ trọi là thế giới Không Vô. Một người mà đứng trên đỉnh núi thì không còn sau trước nữa. Đó là thế giới của bốn bề vắng lặng, cô tịch mà người đốn ngộ đã đạt đến. ”. - Đoạn văn này thật ra Sơn cũng đã "Đạo " . Hãy xem ":... “Lên thẳng” là hình ảnh của đốn ngộ, xảy ra trong chốc lát, như ánh chớp. “Đỉnh núi cao trơ trọi” đây thuần túy là ẩn dụ chỉ thế giới không vô. “Thái hư” là thế giới của nhà Phật mà chỉ kẻ đắc đạo mới có thể đạt đến. Và “cất tiếng kêu dài làm lạnh cõi thái hư ấy là dấu hiệu hòa nhập giữa ta và thế giới, thế giới và ta.” (Trích lại, tr.182, VHPG... của Nguyễn Công Lý, Nxb ĐHQG, TP/HCM).
Và Sơn đã viết :"Ở câu thơ cuối lại xuất hiện ” hàn thái hư” các tác giả SGK giải thích là ” lạnh cả trời – làm cho cả vũ trụ phải rùng mình ớn lạnh”. Dịch như thế là chưa chính xác. Vì ” thái hư” không phải là bầu trời, mà cõi thái hư là một thế giới của nhà Phật, thế giới ấy chỉ có người đạt đạo mới đến được"
Sơn đã không chỉ " Đạo văn" mà còn " đạo luôn cả những chỉ trích" đối với phần bình giãng bài thơ Ngôn hoài.
Khi bài thơ Ngôn hoài được đưa vào chương trình giáo phổ, đã có nhiều "ý kiến" đối với phần bình giãng bài thơ. tạp chí Hán nôm số số 1 (22) 1995) có bài " Từ cách dịch đến cách hiểu nội dung bài thơ Ngôn Hoài của Thiền sư Không Lộ" của Trần Ngọc Chùy ...Tạp chí Sông Hương số 228, trong bài " Tiếng hú trên đỉnh cô phong" của nhà thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh cũng có đề cập đến .Những "chỉ trích" phần bình giãng bài thơ " ngôn hoài" của Sơn cũng khác gì với các ý kiến của nhiều người trước đó .
Kết luận: Có lẽ, việc Đào Thái Sơn " Đạo văn" khi viết bài " Không phải là bài thơ trữ tình" đã quá rõ. Toàn bộ bài viết của Sơn không có một phát hiện gì mới. Có chăng là một phát phát hiện rất ư là " vô duyên" : Ngôn hoài không phải là một bài thơ trữ tình.
Hy vọng Đào Thái Sơn suy nghĩ và có hành động đúng đắn về hành vi " Đạo văn " của mình.

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2018

Tập Cận Bình & bước nhảy lùi vĩ đại của Trung Quốc





Jonathan Tepperman */
Huỳnh Hoa dịch


BLA: Một bài phân tích đáng xem về Trung Quốc và lãnh đạo không giới hạn nhiệm kỳ Tập Cận Bình. Những tựa nhỏ chúng tôi đặt thêm để dễ đọc. Chúng ta hãy cùng chờ xem Trung Quốc sẽ sụp đổ như thế nào? hay là chống chọi như thế nào - dưới sự lãnh đạo của tuổi trẻ tài cao Tập Cận Bình? Cũng như kết cục nào đang chờ đón Tập Cận Bình ở phía bên kia đỉnh núi.


<< Chỉ trong một thời gian ngắn, Tập Cận Bình đã thâu tóm quyền lực đến cực đỉnh tại Trung Quốc. Tập yêu cầu toàn quân đội phải thề tuyệt đối trung thành với mình (chứ không phải là nhân dân, tổ quốc). Tập đã đi vào lịch sử nhân loại như một trong những kẻ cuồng quyền lực nhất - giai đoạn hiện đại.


Trong nhiều thập niên, Trung Quốc (TQ) đã xoay xở tránh được phần lớn những vấn đề mà các chế độ độc tài thường phải hứng chịu. Nhưng giờ đây, trò chơi quyền lực cá nhân của Tập Cận Bình có nguy cơ phá hủy mọi thứ Trung Quốc đã làm được một cách kỳ diệu.

Những thành tựu kỳ diệu trong 40 năm qua

Trong 40 năm qua, Trung Quốc đã từng bước thực hiện được một danh sách dài những thành tựu nổi bật. Giai đoạn từ 1978 - 2013, nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng bình quân 10%/năm, đưa mức thu nhập trung bình của người lao động tăng lên 10 lần. Sự tăng trưởng này đã giúp khoảng 800 triệu người thoát ra khỏi đói nghèo; và Trung Quốc còn giảm được 85% mức tử vong của trẻ sơ sinh, cũng như nâng tuổi thọ bình quân của người dân thêm được 11 năm.

Đáng ngạc nhiên là Trung Quốc đã đạt được những thành tựu như vậy trong khi chính phủ nước này vẫn rất hà khắc về chính trị, điều chưa hề có tiền lệ trong lịch sử thế giới và tưởng chừng rất, rất khó thực hiện. Nhà nghiên cứu Trung Quốc Orville Schell miêu tả thành tích này như là “một trong những phép lạ gây sửng sốt nhất về phát triển kinh tế trong lịch sử thế giới”.

Nhưng những thành tựu kỳ diệu của Trung Quốc đã là nguyên nhân làm cho những gì đang xảy ra ở đất nước này, ngày hôm nay, trở nên thật bi thảm và gây hoang mang.


Tập Cận Bình & sự sùng bái cá nhân


Dưới vỏ bọc chống tham nhũng, Chủ tịch Tập Cận Bình đã và đang từng bước xóa bỏ hầu như mọi cải cách đã thực hiện, vốn làm cho Trung Quốc đạt được sự tăng trưởng ngoạn mục trong bốn thập kỷ qua. Thay cho một hệ thống dù khiếm khuyết, nhưng cực kỳ thành công, ông Tập đã xây dựng lên một sự SÙNG BÁI CÁ NHÂN to lớn, chỉ tập trung vào duy nhất cá nhân ông ta. Tập đã thâu tóm mọi quyền hành vào tay mình nhiều hơn bất kỳ nhà lãnh đạo Trung Quốc nào, kể từ thời Mao Trạch Đông.

Nhìn trong ngắn hạn, những nỗ lực của Tập có thể làm cho Trung Quốc bớt tham nhũng và ổn định hơn. Nhưng bằng việc hủy diệt nhiều cơ chế đã giúp cho phép lạ Trung Quốc xảy ra, có nguy cơ Tập sẽ đảo ngược những kết quả ấy và biến Trung Quốc thành một nhà nước cảnh sát khác nữa (hãy nghĩ tới một phiên bản Bắc Triều Tiên khổng lồ và cởi mở hơn): không có hiệu quả, vô tích sự, dễ đổ vỡ và hiếu chiến.


Đó là điều đáng lo không chỉ cho 1,4 tỉ người dân Trung Quốc, mà cho tất cả chúng ta.

Để hiểu điều gì đang làm cho chiến dịch xây dựng đế quốc cá nhân của Tập trở nên nguy hiểm như thế, trước hết cần hiểu những gì đã làm cho Trung Quốc trở nên phi thường trong thời gian dài như vậy?


Xuyên suốt lịch sử hiện đại, đa số các nhà độc tài và các nhà nước độc đảng đều có chung một số đặc điểm căn bản. Quyền lực nằm trong tay của một nhóm nhỏ các cá nhân. Để giữ quyền lực, các cá nhân này đàn áp những người bất đồng và cai trị bằng sự đe dọa. Bởi vì đám công chức quan liêu và dân chúng sống trong sợ hãi, họ cạnh tranh nhau để bợ đỡ các ông chủ. Không ai nói lên sự thật, nhất là khi sự thật ấy làm cho họ và các lãnh đạo của họ trông xấu xí đi.


Kết quả là, các bạo chúa tự cô lập – mà cái tôi của họ được thổi phồng lên bằng những lời xu nịnh thường xuyên và khúm núm – tự thấy mình ngày càng xa rời thực tế, xa rời phần còn lại của thế giới (hãy nghĩ tới Kim Jong Un, Bashar al-Assad hoặc Robert Mugabe) và rốt cuộc họ cai trị một cách tùy hứng, cai trị theo bản năng với rất ít ý thức về những gì đang thật sự xảy ra ở đất nước họ. Tác động của sự ngu muội này đối với chính sách đối nội và đối ngoại thật là thảm họa.

Trong khoảng 35 năm – tính từ khi Mao chết và Đặng Tiểu Bình phát động các cuộc cải cách của ông ta vào cuối thập niên 1970 cho đến khi Tập lên nắm quyền năm 2012 – Trung Quốc đã tránh được nhiều cạm bẫy kiểu này và đi ngược lại quy luật về các chuẩn mực chính trị bằng cách xây dựng cái mà các học giả gọi là chế độ “độc tài thích nghi” (adaptive authoritarian).


Trong khi vẫn duy trì chủ nghĩa cộng sản trên danh nghĩa, Trung Quốc đã tiếp thu nhiều hình thức của chủ nghĩa tư bản thị trường và một số cuộc cải cách tự do khác. Tất nhiên, hệ thống cũ vẫn có tính đàn áp cao độ (hãy nhớ vụ thảm sát Thiên An Môn) và còn xa mới hoàn hảo xét về nhiều phương diện. Tuy vậy, nó cho phép Chính phủ Trung Quốc thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả phi thường và tránh được nhiều chứng bệnh mà các chế độ độc tài khác mắc phải. Chế độ kiểm duyệt chẳng hạn, chưa bao giờ biến mất, nhưng các đảng viên cộng sản có thể không tán thành và tranh luận các ý tưởng, còn các báo cáo nội bộ đôi khi tỏ ra thẳng thắn một cách đáng ngạc nhiên.

Nhưng đã không còn như vậy nữa. Ngày nay, họ Tập đang hủy hoại một cách có hệ thống hầu như mọi phương diện từng làm cho Trung Quốc trở nên khác biệt, từng giúp Trung Quốc hoạt động tốt như thế trong quá khứ. Những nỗ lực của Tập có thể làm gia tăng quyền lực và uy tín của ông ta trong ngắn hạn, làm suy giảm một số hình thức tham nhũng. Tuy nhiên, cân nhắc kỹ, chiến dịch của Tập sẽ có những hệ quả thảm khốc trong dài hạn cho đất nước ông ta và cho cả thế giới.


Đặng Tiểu Bình biết phân bổ quyền lực cho nhiều người

Có lẽ, đặc trưng "bất thường" nhất của hệ thống mà Đặng Tiểu Bình đã tạo ra, là cách PHÂN BỔ QUYỀN LỰC CHO NHIỀU NHÀ LÃNH ĐẠO. Thay vì để một người thực hành uy quyền tối cao, như phần lớn các chế độ độc tài, Đặng Tiểu Bình phân chia quyền lực cho Tổng bí thư đảng (người cũng thường nắm vị trí chủ tịch đảng), Thủ tướng chính phủ và Bộ chính trị.

Đặng hy vọng một hệ thống như vậy sẽ bảo đảm không một cá nhân nào có thể tái thâu tóm kiểu quyền lực mà Mao từng có – bởi vì quyền lực không kiểm soát của Mao đã dẫn tới những sai lầm và lạm dụng khủng khiếp, chẳng hạn như các công cuộc Đại Nhảy vọt (trong đó ước tính khoảng 45 triệu người đã chết) và Cách mạng Văn hóa (trong đó bản thân Đặng đã bị thanh trừng và con trai của ông ta bị tra tấn tàn khốc tới mức anh ta trở thành bại liệt). Như ông Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei), chuyên gia về Trung Quốc tại Đại học Claremont McKenna College, giải thích, mô hình lãnh đạo tập thể mà Đặng thiết kế đã giúp loại bỏ những ý tưởng xấu và thúc đẩy những ý tưởng tốt bằng cách đề cao sự cân nhắc cẩn thận mà không khuyến khích việc mạo hiểm.

Tập Cận Bình thanh trừng khốc liệt để củng cố quyền lực

Từ khi lên nắm quyền năm 2012, Tập đã ra sức dỡ bỏ hệ thống lãnh đạo tập thể ở một số phương diện.


Trước hết, nhân danh đấu tranh với tham nhũng – một mục tiêu quan trọng mà Trung Quốc đang rất cần – ông ta đã THANH TRỪNG MỘT SỐ LƯỢNG LỚN QUAN CHỨC mà tội lỗi thật sự của họ, dưới cái nhìn của Tập, là KHÔNG THỂ HIỆN ĐẦY ĐỦ LÒNG TRUNG THÀNH với nhà lãnh đạo tối cao.


Việc Mạnh Hoành Vĩ (Meng Hongwei), Chủ tịch Interpol (Cảnh sát quốc tế), người bị Trung Quốc đột ngột bắt giam hai tuần trước, chỉ là một trường hợp nổi bật nhất và mới nhất; câu chuyện của ông ta là hết sức bất thường.

Trong vòng 6 năm qua, có khoảng 1,34 triệu quan chức tại Trung Quốc bị biến thành mục tiêu – một con số gây sửng sốt, và hơn 170 nhân vật lãnh đạo ở cấp bộ trưởng hoặc thứ trưởng bị bãi nhiệm (đa số bị cầm tù). Cảnh ngộ của Mạnh, cũng giống cảnh ngộ của Bạc Hy Lai (Bo Xilai) – Bí thư thành ủy đầy quyền lực của thành phố Trùng Khánh, bị hạ bệ năm 2012 – chứng tỏ rằng không ai được miễn nhiễm với sự trừng trị của Tập.


Từ năm 2012 đến nay (2018) số ủy viên ban chấp hành trung ương đầy quyền lực của đảng Cộng sản bị thi hành kỷ luật còn nhiều hơn cả thời kỳ dài từ cuộc Cách mạng Cộng sản tới năm ấy.


Tập Cận Bình muốn "ngai vàng" vĩnh viễn

Không hài lòng với việc chỉ xóa bỏ mọi sự cạnh tranh, Tập còn củng cố quyền lực bằng việc BÃI BỎ GIỚI HẠN NHIỆM KỲ đối với chức vụ của ông ta và từ chối đề cử một người kế vị, như những người tiền nhiệm của ông ta vẫn làm vào giữa thời gian cầm quyền của họ.



Hình ảnh Tập Cận Bình (phải) đang "trao đổi" với Ủy viên thường vụ Bộ chính trị Trung Quốc Lật Chiến Thư tại Đại lễ đường nhân dân Bắc Kinh ngày 11/3/2018, ngay trước phiên họp quan trọng của Quốc hội Trung Quốc về vấn đề sửa đổi hiến pháp.


Một cuộc biểu quyết nhanh chóng và nghiêm ngặt đã diễn ra. Gần 3.000 đại biểu QH Trung Quốc đã bỏ phiếu với tỉ lệ đồng thuận lên đến gần 100% (3 phiếu trắng, 1 phiếu không hợp lệ) để thông qua dự thảo sửa đổi hiến pháp nước này, bao gồm xóa bỏ quy định về giới hạn hai nhiệm kỳ đối với chức Chủ tịch (của Tập Cận Bình), đồng thời ghi vào hiến pháp Tư tưởng Tập Cận Bình về Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới. Bức ảnh này đã lột tả được nét gian hùm và sự nịnh hót, cũng như khiếp sợ của hạ cấp của Tập. Khi nghe công bố kết quả, Tập đã mỉm cười. (Ảnh: Reuters)




Tập cũng đưa “Tư tưởng Tập Cận Bình” vào vị thế trang trọng trong Hiến pháp Trung Quốc (một vinh dự mà chỉ Mao và Đặng có được); thâu tóm quyền kiểm soát trực tiếp các lực lượng vũ trang, tự biến mình thành “chủ tịch của mọi thứ” bằng cách tạo ra một số lượng lớn các nhóm hoạt động về chính sách, trải rộng từ tài chính đến vấn đề Đài Loan và an ninh mạng – tất cả đều báo cáo trực tiếp cho ông ta.

Một phương diện quan trọng thứ hai của hệ thống cũ là quan chức các cấp đều có thể kỳ vọng được thăng thưởng nếu có thành tích tốt. Đây không hoàn toàn là chế độ nhân tài, và hệ thống vẫn đầy sự tham nhũng và sự bảo trợ đỡ đầu. Nhưng cả hai khía cạnh này thực sự đã phục vụ một sự nghiệp chung ở một điểm chủ yếu: nếu một công chức làm tốt công việc của mình, anh ta hoặc chị ta có thể hy vọng có được một phần thành quả và được thăng tiến đều đặn.


Tập xây dựng một hệ thống dựa trên sự sợ hãi


Ông Tập trái lại, đã “thay thế hệ thống dựa trên sự khích lệ bằng hệ thống dựa trên sự sợ hãi” như nhận định của ông Bùi. Và sự chuyển dịch này kéo theo hai vấn đề lớn. Trước hết, nó làm méo mó những ưu tiên của quan chức, từ ưu tiên cho kết quả làm việc sang ưu tiên cho việc thể hiện lòng trung thành. Vấn đề thứ hai, theo Alexander Gabuev, chuyên gia về Trung Quốc tại Trung tâm Carnegie Moscow, là “khi nỗi sợ hãi là tất cả những gì bạn có, công chức trở nên sợ hãi tới mức họ không dám làm gì mà không có mệnh lệnh rõ ràng từ cấp trên. Thế là toàn bộ guồng máy quan chức trở nên thụ động. Không việc gì được hoàn thành cả”.

Một tài sản có liên quan của hệ thống cũ là cách thức mà nó khuyến khích chính quyền các địa phương – ở cấp làng xã, quận hạt và tỉnh thành – thử nghiệm các sáng kiến mới, từ công cuộc xây dựng thị trường tự do bốn mươi năm về trước đến cho phép sở hữu tư nhân về đất đai trong thời gian gần đây. Những cuộc thử nghiệm như vậy đã biến Trung Quốc thành một đất nước có hàng trăm phòng thí nghiệm chính sách, cho phép nó thử nghiệm những giải pháp khác nhau cho nhiều vấn đề theo những cách thức an toàn, lặng lẽ và ít rủi ro trước khi quyết định có nên áp dụng đại trà hay không. Hệ thống này đã giúp Bắc Kinh tránh được những quyết định phi lý và những sai lầm thảm họa mà nó đã từng có dưới thời Mao – chẳng hạn như trong thời kỳ Đại Nhảy vọt những năm 1958–1962, các quan chức kế hoạch ở trung ương nhấn mạnh rằng nông dân Tây Tạng phải trồng lúa mì bất chấp thực tế khu vực núi cao đất đai cằn cỗi hoàn toàn không phù hợp với loại cây trồng đó.

Tất nhiên, Bắc Kinh đã chấp nhận một mức độ tự trị nào đó để cho phép các quan chức địa phương được thử nghiệm những điều mới mẻ. Ông Tập, trái lại, có vẻ như nhìn những lối suy nghĩ độc lập ấy như là những mối đe dọa không tha thứ được. Theo mệnh lệnh của ông, chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu ngăn chặn những chương trình thử nghiệm quy mô nhỏ. Sebastian Heilmann của trường đại học Trier của Đức dự tính số lượng các cuộc thử nghiệm ở cấp tỉnh đã giảm từ mức 500 cuộc năm 2010 xuống còn khoảng 70 cuộc năm 2016 và có lẽ đã giảm nhiều hơn nữa kể từ lúc ấy. Thay vào đó, một lần nữa các chính sách lại được ban bố từ trên đỉnh, với rất ít sự quan tâm tới các điều kiện của địa phương.

Một ví dụ mới nhất: Cũng như ngành công nghiệp công nghệ Trung Quốc khét tiếng về ăn cắp và áp dụng các sáng tạo của nước ngoài, các quan chức Trung Quốc từ lâu đã làm điều tương tự trong lĩnh vực chính sách; họ nghiên cứu cẩn thận những gì được thực thi ở các nước khác rồi áp dụng những bài học ấy vào trong nước (Ví dụ tốt nhất cho sự bắt chước này tất nhiên chính là công cuộc xây dựng xây dựng thị trường tự do ở Trung Quốc, theo các mô hình của Nhật Bản, Đài Loan và Hoa Kỳ).


Giống như đối với những sáng kiến khác của ông Đặng, ông Tập cũng đã cắt xén thực tế này bằng cách làm cho các quan chức cấp tỉnh thành khó tương tác với người nước ngoài hơn. Năm 2014, chính quyền bắt đầu tịch thu hộ chiếu của công chức. Cũng như nhiều hạn chế khác được chính phủ thực thi gần đây, động thái này được biện minh nhân danh cuộc đấu tranh chống tham nhũng – nhìn bề ngoài, ý tưởng tịch thu hộ chiếu là để ngăn chặn các quan chức ăn bẩn chạy ra khỏi nước. Nhưng thực tế là chính sách này gần đây đã được mở rộng xuống cả các giáo viên tiểu học, và được tăng cường bằng những sự hạn chế liên quan khác – giờ đây các quan chức phải xin phép mới được tham dự các cuộc họp và hội nghị với nước ngoài và phải báo cáo về thời gian ở nước ngoài theo từng tiếng đồng hồ một – cho thấy rằng ưu tiên thật sự là giới hạn sự tiếp xúc với người nước ngoài và các ý tưởng của họ.

Cuộc đàn áp của Tập có ý nghĩa gì cho tương lai của Trung Quốc và cho chúng ta?


Trong khi cần luôn luôn cẩn trọng khi dự đoán sự thất bại của Trung Quốc – như lịch sử tóm tắt ở trên cho thấy quốc gia này rất giỏi trong việc tìm đường đi tránh những vấn đề mà về lý thuyết sẽ kìm hãm nó – thật khó để tránh cái kết luận u ám rằng nước Trung Quốc của Tập đang nhanh chóng trở nên ít khác thường hơn và giống một nhà nước cảnh sát điển hình hơn.

Trên bình diện nội trị, việc hoạch định chính sách của Bắc Kinh đã trở nên ít linh hoạt và nhanh chóng. Không khó tìm những ví dụ cho lối tiếp cận cứng nhắc hơn, cũng như những mặt tiêu cực của nó. Cứ xem trong mùa đông vừa qua, khi Chính phủ bắt buộc các hệ thống cung cấp hơi sưởi ấm trên toàn quốc phải chuyển đổi ngay lập tức từ chạy bằng than sang chạy bằng khí đốt. Điều này nghe có vẻ khôn ngoan ở một đất nước bị ô nhiễm như Trung Quốc. Nhưng mệnh lệnh được thi hành một cách bất ngờ trên khắp nước, không có ngoại lệ. Thế là ở miền Bắc lạnh giá của Trung Quốc, nhiều lò đốt bằng than bị dỡ bỏ trước khi các lò đốt bằng khí gas được lắp đặt – khiến cho nhiều thị trấn hoàn toàn không có hơi ấm để sưởi, dân chúng bị buộc phải đốt cùi bắp để sinh tồn.

Nếu Trung Quốc tiếp tục đi theo con đường hiện hành thì sẽ có thêm rất nhiều trường hợp mà những chính sách với ý định tốt được thực hiện một cách vội vã và vụng về, dẫn tới nhiều hậu quả tai hại hơn rất nhiều. Bởi vì các chế độ độc tài cá nhân rất kém cỏi trong việc thừa nhận lỗi lầm – không được phép làm gì, nói gì có hại cho huyền thoại về lãnh đạo toàn năng – Trung Quốc sẽ có khả năng trở nên kém linh hoạt trong việc sửa chữa những sai lầm một khi nó đã gây ra. Hoặc trong việc đối mặt với những vấn đề tiềm ẩn đang kéo nền kinh tế xuống, chẳng hạn như sự phụ thuộc nặng nề vào các doanh nghiệp nhà nước kềnh càng và không hiệu quả – bộ phận doanh nghiệp đã trở nên to lớn hơn, nhiều quyền lực hơn kể từ khi Tập lên cầm quyền; mức nợ công cao một cách nguy hiểm, đặc biệt là nợ của các chính quyền địa phương; và một xu hướng ứng phó với mỗi vụ suy giảm kinh tế bằng cách bơm thêm tiền vào hệ thống, nhất là cho các dự án hạ tầng cơ sở không cần thiết.


Trong thực tế, Trung Quốc không chỉ không có khả năng xử lý bất kỳ khuyết điểm nào trong các khuyết điểm này, mà nó còn có vẻ làm cho tình hình tệ hại thêm. Đó chính là điều mà Trung Quốc đã làm vào ngày 7 tháng 10, khi ngân hàng trung ương Trung Quốc công bố thêm một chương trình kích thích tốn kém khác nữa: kế hoạch chi ra 175 tỉ đô la nhằm vực dậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Khủng hoảng kinh tế gây bất ổn nghiêm trọng

Với mỗi động thái phá vỡ ngân sách mới, và trong hoàn cảnh không có sự cải cách, khả năng Trung Quốc phải trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế gây bất ổn nghiêm trọng – mà những nhà đầu tư có cái nhìn bi quan về Trung Quốc như Ruchir Sharma, phụ trách khối các thị trường đang nổi lên của Morgan Stanley từng cảnh báo nhiều năm trước – sẽ tiếp tục tăng lên. “Vấn đề lớn là liệu có thể một trong những quả bom hẹn giờ – nợ xấu, thị trường bất động sản quá nóng, doanh nghiệp nhà nước phình to lên – sẽ bùng nổ hay không”, Gabuev nói. “Do sự tập trung quyền lực của ông Tập nên không có ai nói cho ông ta những lời cảnh báo trước nếu một trong những quả bom này sắp nổ. Và bởi vì ông ta không thật sự hiểu biết rõ về kinh tế vĩ mô, còn mọi người thì ngại không dám nói ngược với hoàng đế cho nên có một rủi ro rất lớn là ông ta sẽ quản trị sai lầm khi nó xảy ra”. Thật vậy, sự ứng phó của Chính phủ Trung Quốc trước bất kỳ sự bất ổn nào đều có vẻ thật ngu ngốc. Như Schell giải thích: “Tập đã thực sự đưa Trung Quốc vào rủi ro rất lớn. Và bởi vì công cụ duy nhất của ông ta là đàn áp, nếu sự việc diễn biến theo chiều hướng xấu, rất có thể chúng ta sẽ thấy thêm nhiều cuộc trấn áp nữa”.

Những dự báo như vậy làm cho mọi người lo lắng. Trung Quốc là nền kinh tế lớn nhất thế giới về một số mặt, cho nên nếu nó sụp đổ, cả hành tinh này sẽ phải trả giá.

Nhưng lịch sử của các chế độ độc tài khác, chẳng hạn như nước Nga của Vladimir Putin hoặc Bắc Hàn của dòng họ Kim, cho thấy trò chơi quyền lực không ngừng nghỉ của Tập có thể sinh ra nhiều hệ lụy tệ hại hơn nữa. Từ khi nắm được quyền lực, Tập đã vạch ra một chính sách đối ngoại hiếu chiến hơn rất nhiều so với những người tiền nhiệm của ông ta, đã làm hầu như mọi nước láng giềng và cả Hoa Kỳ xa lánh, bằng việc đẩy mạnh đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông, đe dọa Đài Loan, và dùng sức mạnh quân sự để hậu thuẫn cho các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở các quần đảo tranh chấp.

Nếu như các vấn đề kinh tế của Trung Quốc trở nên tồi tệ, Tập có thể thử gia tăng căng thẳng ở những mặt trận này nhằm lôi kéo người dân ra khỏi cuộc khủng hoảng trong nước. Sự cám dỗ của hành vi đó tỏ ra mạnh mẽ đặc biệt nếu Tổng thống Donald Trump của Hoa Kỳ tiếp tục chọc ngoáy Trung Quốc bằng việc tăng cường chiến tranh thương mại và công khai phê phán Trung Quốc.




* * *
Tình hình còn có thể đáng sợ hơn nếu những vấn đề kinh tế của Trung Quốc hoàn toàn vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Trong trường hợp đó, nhà nước Trung Quốc có thể sụp đổ – kết cục điển hình của các chế độ độc tài điển hình khi đối mặt với các cú sốc kinh tế, với các mối đe dọa từ bên ngoài (đặc biệt là từ một thất bại trong chiến tranh) hoặc với sự nổi loạn của dân chúng – nhưng là một sự sụp đổ, mà do kích thước khổng lồ của Trung Quốc, có thể sinh ra những hậu quả cực kỳ khủng khiếp cho nhân loại.

Đó là lý do tại sao tất cả chúng ta nên hy vọng rằng Trung Quốc bằng cách nào đó một lần nữa sẽ tìm được con đường vượt qua lực hút chính trị và tiếp tục là một ngoại lệ đối với mọi quy luật – bất chấp những nỗ lực đang tiến hành của ông Tập nhằm làm cho Trung Quốc trở nên "bình thường" - theo ý nghĩa tệ hại nhất của từ này.


(*) Jonathan Tepperman là tổng biên tập tạp chí Foreign Policy.
Bản gốc: https://foreignpolicy.com/2018/10/15/chinas–great–leap–backward–xi–jinping/
Nguồn: http://www.viet-studies.net/kinhte/ChinaLeapBackward_FP_trans.html

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2018

Mỹ và Trung Quốc ai sẽ thắng?





Đài CNBC của Mỹ cho biết: 'Các công ty TQ, mặc dù đang sở hữu một phần hoặc toàn bộ một số công ty (Mỹ) ảnh hưởng lên đời sống thường nhật nhưng nhiều người không biết đến chuyện đó. Cho dù bạn đi xem phim, giặt đồ, hay chuẩn bị bữa tối, có một khả năng khá lớn số tiền bạn dùng cuối cùng sẽ chảy về TQ.'

Bài viết trên điểm qua 10 doanh nghiệp lớn của Mỹ mà TQ đang, đã mua gần đây.


1. Sàn chứng khoán Chicago, có giá ước tính gần 100 tỉ USD. Đang mua.

2. Hệ thống rạp chiếu phim AMC, lớn nhất nước Mỹ. Tập đoàn Dalian Wanda đã mua với giá 2,6 tỉ USD.

3. Công ty thực phẩm Springfield Foods, là một biểu tượng của ngành công nghiệp thực phẩm Mỹ, nổi tiếng nhất với thịt ham, bị một công ty TQ mua với giá 7,1 tỉ USD.

4. Tập đoàn Legendary Entertainment, nắm quyền các loạt phim như Jurassic World, Warcraft và Pacific Rim, cũng bị Dalian Wanda mua với giá 3,5 tỉ USD.

5. GE Appliances, chi nhánh của tập đoàn GE, có lịch sử sản xuất máy móc gia dụng hơn 100 năm nay, là một doanh nghiệp biểu tượng của nước Mỹ, bị Qingdao Haier mua với giá 5,4 tỉ USD.

6. Khách sạn nổi tiếng ở Manhattan, trong khu Phố Wall, Waldorf Astoria, bị tập đoàn Anabang Insurance mua với giá 2 tỉ USD. Tập đoàn này cũng mua Fidelity & Guaranty Life, một công ty bảo hiểm nhân thọ có lịch sử gần 60 năm.

7. Ba chuỗi khách sạn nổi tiếng Ritz-Carlton, Fairmont Scottsdale, Four Seasons Resort, nằm ở ba bang khác nhau cũng được tập đoàn mẹ Blackstone bán cho Anabang Insurance với giá 3,93 tỉ USD.

8. Riot Games, nổi tiếng thế giới với game League of Legends, đã bị Tencent mua lại hết trong hai lần, Tổng giá trị chính xác chưa rõ. Ngoài ra, Tencent còn có phần hùn trong hai hãng game lớn khác là Activision-Blizzard và Epic Games.

9. Ingram Micro, một công ty phân phối sản phẩm cho Apple và Cisco, bị tập đoàn HNA mua lại với giá 6 tỉ USD. HNA cũng đang đấu giá mua tạp chí Forbes nổi tiếng.

10. Motorola, một biểu tượng khác của ngành viễn thông Mỹ, ra đời từ 1928, sau khi bán cho Google, bị Lenovo mua lại với giá 2.9 tỉ USD, làm Lenovo trở thành hãng sản xuất smartphone lớn thứ ba thế giới.

Trên đây chỉ là 10 trường hợp tiêu biểu gần đây và TQ mua ngày càng nhiều theo biểu đồ của CNN.

Thứ Hai, 1 tháng 10, 2018

Tư liệu quý về việc xóa sổ Đảng XH Việt Nam năm 1988





.

Tư liệu cực quý, do gia đình cụ Nguyễn Xiển đưa ra.
Giáo sư Nguyễn Xiển là Phó tổng thư ký Đảng Xã hội từ năm 1946, Tổng thư ký liên tục từ 1956 đến năm 1988 đó (và thời điểm này còn đương kiêm Phó chủ tịch Quốc hội). Ông Lê Quang Đạo là Chủ tịch Quốc hội kiêm Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước – không chỉ một lần đến tận nhà vận động ông Xiển giải thể Đảng Xã hội với lý do đảng này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Ông Xiển chần chừ thoái thác, bởi là người rất nguyên tắc ông đòi hỏi “phải họp toàn thể đại biểu Đảng Xã hội để thông qua, vì vấn đề này quá quan trọng…”.

Thông tin nhanh chóng lọt ra ngoài, rất xôn xao trong số các đảng viên Xã hội đa số lúc đó đều đứng tuổi rồi. Ông Nguyễn Khắc Viện tuy đảng viên Đảng cộng sản Pháp và Đảng cộng sản Việt Nam nhưng tìm bằng được người đàn em bên Paris năm xưa là Lê Tâm – con rể cụ Xiển – để nhắn cụ nên cân nhắc thật kỹ đấy, đừng nên đi ngược lại trào lưu quốc tế…

Ông Xiển còn đang trao đổi với các đồng chí khác của mình thì nghe tin sửng sốt: ông Nguyễn Lân đã ký quyết định đồng ý giải thể Đảng Xã hội Việt Nam và “gửi lên trên”?! Đảng Xã hội Việt Nam được coi là giải thể vào đúng ngày kỷ niệm 40 năm thành lập, tức 22/7/1988.

Các chất vấn của ông Xiển đối với ông Lân không có lời giải đáp thỏa đáng, rằng trên cơ sở gì và ai cho ông Lân quyền tự ký một văn bản quan trọng như vậy. Tại sao không phải ông Xiển, hay ông Giáo sư Hoàng Minh Giám (Phó tổng thư ký) hay Luật sư Phan Anh… mà là ông giáo Lân?

Và thế là hai cụ già Nguyễn Xiển và Hoàng Minh Giám cùng nhau viết một lá thư, cho con trai mang đi gửi bảo đảm, đến địa chỉ Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam, đề nghị không công nhận nội dung của quyết định giải thể mà ông Nguyễn Lân đã ký kia. Một thời gian sau ông Xiển nhận được bức thư trả lời từ ông Phạm Thế Duyệt, lúc này là Thường trực Ban bí thư TW Đảng CS và Bí thư Hà Nội. Nội dung cũng về việc “hoàn thành sứ mệnh lịch sử”. Sự đã rồi… Sự việc này cũng còn được nhắc lại vài lần những khi ông Đỗ Mười – tổng bí thư ĐCSVN khóa sau – tới thăm chúc Tết các cụ lão thành như ông Xiển, hay khi con cháu ông Xiển có dịp trao đổi với ông Phạm Thế Duyệt sau này.
_________________________________

THƯ GỬI ĐỒNG CHÍ ĐỖ MƯỜI

Hà Nội, ngày 12 tháng 1 năm 1994

Kính gửi: Đồng chí Đỗ Mười
……

Vậy tôi xin trình bày với anh một số thắc mắc, băn khoăn của anh em để anh xem xét. Họ nói với tôi nhiều vấn đề nhưng chủ yếu là hai điều chính sau đây:

Một là mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng.

Hai là quan hệ giữa Đảng với trí thức.

Họ nói: “Đảng luôn tuyên bố là Đảng hoàn toàn vì dân, thậm chí là đầy tớ trung thành của dân. Nhưng trong thực tế, từ trung ương đến địa phương, người dân ngoài Đảng hoàn toàn bị lép vế, thậm chí như là thứ dân”.

Họ cho rằng số đảng viên so với toàn dân chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, nhưng từ ban lãnh đạo xã đến chính phủ trung ương, rất hiếm có người ngoài Đảng tham gia. Trong hội đồng nhân dân các cấp cũng như trong Quốc hội, có mấy ai là người ngoài Đảng.

Nhớ lại khi Bác Hồ mới về lãnh đạo đất nước, họ thấy trong Chính phủ của Bác cũng như ở các cơ sở, đa số là những người ngoài Đảng tin Bác và tin Đảng, tận tụy công tác đến cuối đời. Nhìn lại thấy rất ít người mắc khuyết điểm.

Đến nay thì từ chủ tịch xã, phường đến chánh, phó chủ nhiệm các khoa, trưởng phó phòng hành chính, tuyệt đại bộ phận đều phải là đảng viên. Mà buồn thay trong cái quốc nạn tham nhũng hiện nay thì có thể nói thủ phạm phần nhiều là những đảng viên, vì chỉ họ mới có quyền để mà tham nhũng!

Hôm trước, tôi có báo cáo với anh Phạm Văn Đồng là nhiều người rất thắc mắc về có ý định đưa ảnh bà Nguyễn Thị Định vào thờ trong đền Hai Bà Trưng. Anh Đồng đã cho đi điều tra. Tôi mong sẽ ngăn ngừa được những việc làm thiếu thận trọng như vậy cũng như việc xâm phạm Tháp Rùa trên Hồ Gươm.

Về vấn đề trí thức, anh chị em có nhiều thắc mắc. Họ hỏi tôi: Có phải trí thức ngày nay kém các bác ngày xưa mà trong chính phủ, các cơ quan, kể cả các viện khoa học, hầu như không có một người lãnh đạo nào là người ngoài Đảng.

…….

Họ nói: Gần đây, Đảng tuyên bố trí thức là một trong ba thành phần cơ bản của nhân dân, nhưng sao trí thức ngoài Đảng lại không được Đảng tin tưởng? Trái lại, họ còn bị rẻ rúng nữa. Một nhà trí thức lớn như Trần Đức Thảo đã từng tranh đấu thắng lợi với một nhà tư tưởng trứ danh như Jean-Paul-Sartre mà chỉ vì nói thẳng trong vụ Nhân văn – Giai phẩm mà bị bỏ rơi trong bao nhiêu năm. Đến khi ông ta chết ở Pháp, dược Pháp trọng thị, thì ta mới đề cao trong báo chí. Anh em cho đó là một việc đáng buồn! Một trí thức khác như Nguyễn Mạnh Tường, 22 tuổi đỗ hai bằng tiến sĩ ở Pháp, khi về nước tham gia kháng chiến được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng và hoàn thành xuất sắc, nhưng chỉ vì phát biểu không đúng theo chủ trương của Đảng mà bị bắt ngồi xó trong bao nhiêu năm, đến nỗi trở thành một người bất mãn, khiến gần đây cho xuất bản quyển “Un excomunié” rất tệ hại.

Gần đây, một trí thức lớn là Nguyễn Khắc Viện đã có công to trong kháng chiến chống Pháp và trong phổ biến văn hoá Việt Nam, thế mà tuy đã là đảng viên, nhưng chỉ vì nói thẳng mà bị coi như một kẻ phản động.

Một trí thức lỗi lạc khác là Phan Đình Diệu, một nhà khoa học được nhiều trường Đại học trên thế giới ca tụng nhưng chỉ vì trình bày thẳng thắn những ý kiến của mình mà bị hắt hủi, đến nỗi các báo chí không được đăng những bài đáp lại những lời phê phán của người khác.

Chắc anh còn nhớ lại nội dung câu chuyện giữa chúng ta trong buổi trao tặng huân chương sao vàng cho Đảng Xã hội Việt Nam trước khi kết thúc 40 năm hoạt động. Tôi có nói với Anh tại sao tôi không gia nhập Đảng Cộng sản: “Hồ Chủ tịch đã giao cho tôi làm Phó tổng thư ký rồi Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. Bây giờ đã già rồi, tôi vào Đảng Cộng sản làm gì!”.

Sau khi tuyến bố thôi hoạt động thì chúng tôi an phận thủ thường. Tuy không nhắc lại chuyện cũ, nhưng cũng thật khó hiểu vì sao khi đăng tin cáo phó hoặc mừng thọ một số đảng viên Xã hội hay Dân chủ, kể cả các nguyên ủy viên Ban chấp hành Trung ương, thì báo chí ta không dám nói đến khía cạnh hoạt động này của họ. Trường hợp đưa tin mừng đại thọ 90 tuổi của anh Hoàng Minh Giám trên báo Nhân dân (có đăng ảnh anh đến thăm gia đình) là một ví dụ điển hình. Vì sao lại không dám nhắc đến việc làm Phó Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam của anh ấy trong mấy chục năm qua, nhưng lại nêu đã từng làm Phó chủ tịch Quốc hội (một chức vụ anh Giám chưa bao giờ làm). Tôi đã đích thân yêu cầu Báo Nhân Dân đính chính nhưng đã không được đáp ứng đúng mức. Việc viết lịch sử cách mạng Việt Nam gần đây, trong đó có lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, thường quá chú trọng đến thành tích quy công cho Đảng, nhưng lại chưa nêu đúng mức hoặc bỏ qua những sai lầm, khuyết điểm (thậm chí có lúc nghiêm trọng) cũng như vai trò, đóng góp của quần chúng, những người ngoài đảng. Bản sơ thảo lịch Quốc hội khoá I là một ví dụ. Những bài viết về đăng trên một số báo gần đây không dám đề cập đến 40 năm của tôi trong Đảng Xã hội Việt Nam.

Tôi xin nêu thí dụ gần đây nhất: Nhà báo Hoàng Phong có viết một bài về sự nghiệp của tôi đăng trên báo Đoàn kết của Hội Việt kiều tại Pháp. Mặc dù rất thân, song cũng không dám đả động gì đến 40 năm làm Phó rồi Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam của tôi. Một số bạn thân có đề nghị tôi nhắc lại trong dịp này, những ý kiến mà tôi đã phát biểu ở Mặt trận và Quốc hội mà không được chấp nhận. Tôi không muốn nhắc lại chuyện cũ, chỉ đề nghị những việc gì Đảng nhận thấy sai thì phải sửa. Nếu Đảng tiếp tục đối xử với Anh Nguyễn Khắc Viện, Anh Phan Đình Diệu như hiện nay thì sẽ không được lòng tin ở trong nước cũng như trí thức Việt kiều ở ngoài nước. Trí thức Việt Nam khao khát độc lập, tự do, dân chủ, không thể bằng lòng với chế độ chưa có tự do báo chí – ngôn luận như hiện nay. Xin Đảng phải sáng suốt hơn các Đảng khác, phải thay chế độ “đảng trị” bằng chế độ “đức trị”.

Xin chân thành cảm ơn.

Kính chúc anh dồi dào sức khoẻ, hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình.

Kính thư

Đồng kính gửi:
– Các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị.
– Đồng chí Cố vấn Phạm Văn Đồng.”

Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018

HỎI VÌ SAO MƯA KHÓC





Dân lành đi qua cơn bão
nỗi đau chưa kịp tuôn trào
cớ sao mưa rơi áo não
có làm ướt kẻ quyền cao


Còn ai cân đai áo mão
dập đầu bái tế trời cao
xin đời đừng giông bão
dân lành thoát cảnh thương đau

Ta trong chăn nệm ấm
linh hồn lại đóng băng
hỏi vì sao mưa khóc
nặng kiếp người lầm than

Thứ Tư, 19 tháng 9, 2018

Lạ quá! Sao lại đổ lỗi “tư duy tiểu nông” làm hỏng ngành giáo dục



NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT



Tác giả: Nguyễn Quang Duy (Úc)
.

Báo Giáo dục Việt Nam ngày 22/09/2016, đưa nhận định của Giáo sư Nguyễn Xuân Hãn Phó Chủ tịch Hội Vật Lý Việt Nam “Đừng làm chương trình, sách giáo khoa bằng tư duy… tiểu nông”.

Hai năm sau, đến ngày 12/09/2018 cũng trên Báo Giáo dục Việt Nam Giáo sư Hãn lại đổ lỗi cho chương trình soạn và thẩm định sách giáo khoa theo “văn hóa tiểu nông” không khoa học nên mới dẫn đến việc khủng hoảng giáo dục.

Trả lời BBC tiếng Việt, Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng, khoa Đông Phương học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, cũng cho biết:

“Về chuyện cải cách giáo dục, tôi nhớ nhà toán học Hoàng Tụy từng nói Cải cách giáo dục của Việt Nam mấy chục năm nay thất bại vì tư duy tiểu nông, vì bóc ngắn cắn dài cắt khúc cuốn chiếu, thiếu một người nhạc trưởng có tâm, có tầm, có uy tín và uy lực, dám chịu trách nhiệm, huy động được cả tài lực lẫn vật lực của chính phủ và của xã hội”.

Đã nói tới khoa học thì thay vì vô cớ đổ lỗi cho “tư duy tiểu nông” hay “văn hóa tiểu nông”, chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân trước khi dẫn đến kết luận và tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề.

Văn hóa tiểu nông là gì?

Người Việt đa số sống bằng nghề nông. Đời sống nông dân chủ yếu là tự lực, tự cường, tự cung, tự cấp, sống thực, không hình thức, không tham lam, trao đổi với bên ngoài chỉ xảy ra khi thật sự cần thiết…Người nông dân vì thế rất độc lập, yêu quê hương, nhận trách nhiệm, sống nhân bản, hòa đồng với thiên nhiên, tôn trọng và duy trì những quy ước, những trật tự do cha ông để lại.
Đương nhiên nền văn hóa nào cũng có mặt trái như bản tính của người nông dân là ngại thay đổi, không cạnh tranh, không thích hợp cho việc buôn bán, không thích đời sống ồn ào phố thị…

Khi đất nước lâm nguy những nông dân sẵn sàng nhận trách nhiệm tòng quân cứu nước. Hết chiến tranh họ lại quay về lo cày cấy ruộng vườn xây dựng gia đình và đất nước.

Việt Nam được tồn tại đến ngày nay chính nhờ những nông dân tay lấm chân bùn thật thà chất phác.

Nông thôn Việt Nam cho đến 1954 rất độc lập với sự quản lý của chính quyền trung ương. Xã hội Việt Nam vì thế được phân quyền một cách hết sức rõ ràng.

Khi triều đình thuyết phục được tầng lớp nông dân thì mọi việc dù lớn thế nào cũng xong. Còn nếu như nhà vua không hợp với lòng dân thì “phép vua thua lệ làng” việc gì cũng hỏng.

Như Hội nghị Diên Hồng thà chết không hòa.

Như cải cách giáo dục tại Việt Nam trước năm 1945. Khi vua Thành Thái ra sắc lệnh theo tân học dùng chữ Quốc ngữ các thầy đồ ở thôn quê đồng loạt tuân theo dạy chữ Quốc ngữ cho con em nông dân và khuyến khích nông dân cắt tóc ngắn theo tân học…

Nông thôn thời đó thay đổi rất nhanh và cũng nhờ thế mà phong trào Việt Minh Cộng Sản đã nhanh chóng cướp được chính quyền khi Nhật đầu hàng Đồng Minh.

Văn hóa Cách mạng Xã hội chủ nghĩa

Năm 1949 khi Đảng Cộng sản Trung Hoa thắng cuộc, tình hình miền Bắc Việt Nam cũng bắt đầu thay đổi.

Đến năm 1952 Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu phóng tay phát động Cải cách Ruộng đất với chủ trương “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ”, toàn miền Bắc ngập trong máu và nước mắt nông dân.

Đa số những người giàu có ở nông thôn đã rời lên thành phố tránh chiến tranh. Khi chỉ tiêu 5% dân số là địa chủ được đưa ra thì thầy giáo, nông dân và những người có văn hóa ở nông thôn là thành phần bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Văn hóa tiểu nông bị xóa bỏ được thay thế bằng văn hóa cách mạng nhập cảng từ Trung Hoa.

Văn hóa cách mạng tôn thờ lãnh tụ, trung thành với tổ chức, trung ương tập quyền và độc quyền lãnh đạo, là hồng hơn chuyên, là tuyên truyền ngụy biện phản khoa học…

Khi biến thái văn hóa này kết hợp quyền lực và quyền lợi biến thành các nhóm lợi ích chỉ biết đến quyền và tiền.

Văn hóa mới cần phải có con người mới. Lớp người mới thấm nhuần văn hóa cách mạng ở nông thôn được ồ ạt đưa vào chính quyền, được đưa vào ngành giáo dục, được đưa lên thành thị.

Hầu hết người thành thị tránh công sản di cư vào Nam. Lớp người mới xã hội chủ nghĩa mang những thói quen từ thôn quê lên thành thị biến thành phố ra nông thôn.

Hà Nội ngàn năm văn vật biến thành Hà Nội vạn vật. Nhà nhà nuôi chó, nuôi heo, nuôi gà, nuôi vịt để ăn thịt và để tăng gia sản xuất. Hải Phòng, Vinh và các thành phố lớn cũng chịu chung số phận.

Xã hội miền Bắc đảo lộn từ nông thôn đến thành thị. Văn hóa mang màu sắc Bắc Kinh ảnh hưởng nặng nề đến giáo dục, nghệ thuật, văn nghệ, chính trị, tư tưởng, quân đội… nói chung là toàn xã hội miền Bắc.

Tầng lớp người mới này được đưa sang Trung Hoa, Liên Xô, Đông Âu du học trở thành tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa.

Mà xã hội chủ nghĩa là cái chi chi đến nay chưa ai rõ nên bao thế hệ trí thức xã hội chủ nghĩa miền Bắc cứ thế nhắm mắt mà đi, sai đâu sửa đó càng sửa càng sai.

Bởi thế thực hiện quản trị kiểu cuốn chiếu, không đâu vào đâu, lãng phí, gian dối, thiếu khoa học, thiếu viễn kiến, thiếu trách nhiệm, thiếu lãnh đạo có tâm có tầm… thì không chỉ riêng trong ngành giáo dục mà là phương cách quản trị ngày nay.

Phương cách quản trị đất nước này xuất phát từ văn hóa cách mạng xã hội chủ nghĩa không có chút tư duy tiểu nông tí nào.

Nông dân vốn bản tính làm đâu ra đó, sẵn sàng nhận trách nhiệm, không gian dối, ăn chắc mặc bền, quý trọng từng hạt gạo cộng rơm, tôn trọng của công, lo chuyện làng xã, tôn trọng quy ước và lãnh đạo làng xã…

Không hiểu cái gì cũng đổ lỗi cho ông bà coi chừng bị ông bà quở chết.

Bà Chủ tịch Quốc hội nói gì về giáo dục?

Trên Báo Giáo dục Việt Nam ngày 13/09/2018 Giáo sư Nguyễn Xuân Hãn bắt đầu bằng lời phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân: “Sách vở tôi học mấy năm sau em tôi vẫn dùng học lại được. Bây giờ mỗi năm một sách khác, tốn tiền nhân dân lắm!…”

Báo Lao Động nói rõ hơn về ý kiến của bà Chủ tịch Kim Ngân như sau: “Tôi thấy rất thương học sinh hiện nay học quá khổ sở. Thế hệ chúng tôi học cách đây đã 50, 60 năm nhưng kiến thức không quên điều gì. Tất cả các bài từ vỡ lòng vẫn nắm chắc. Trong đó, 3 tháng hè chúng tôi vẫn được nghỉ trọn vẹn. Học sinh hiện nay không có 3 tháng hè trọn vẹn, không có tuổi thơ, không có vui chơi…”

Bà Kim Ngân không nói rõ là trước đây học sinh chỉ học 1 buổi, hoặc sáng hay chiều. Không như ngày nay các em phải học cả ngày. Ở thành phố thích học thêm hội họa, võ thuật, nhạc,… cha mẹ cho học thêm không gò ép.

Bà Kim Ngân vốn xuất thân là nông dân, cả cha mẹ đều theo cộng sản, chính quyền miền Nam biết rõ nhưng không phải vì thế mà đối xử thiếu công bằng với bà.

Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm cựu Thứ trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên Việt Nam Cộng hòa từng cho biết: “chính trị chỉ là nhất thời, tương lai của dân tộc mới trọng đại, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đều phải ngưng lại trước ngưỡng cửa học đường”.

Bà học xong Trung học rồi vào Đại học Văn khoa Sài Gòn nhờ vậy ngày nay bà mới hiểu rõ nên nay đứng trước Quốc hội mới tỏ bày sự luyến tiếc nền Giáo dục Việt Nam Cộng hòa.

Việc bà Kim Ngân so sánh chẳng khác nào phủ nhận con đường “Bi đác” Xã hội chủ nghĩa, và biểu lộ tư tưởng về nguồn lấy nền tảng triết lý giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng làm căn bản.

Trên trang Báo Mới bà Chủ tịch Quốc hội Kim Ngân còn cho biết: “Chúng tôi ngày xưa đi học đâu đến mức vậy mà từ tên núi, tên sông, tên cao nguyên, thể hiện trên bản đồ sẽ ở đoạn nào giờ vẫn không thể quên được, lịch sử các trận đánh, các triều đại từ Lý, Trần, Tiền Lê đến giờ cũng vẫn nhớ nguyên. Còn giờ hỏi bọn trẻ những thứ đó hầu hết đều không biết”.

Nghĩ thật buồn các em ngày nay không hiểu biết về địa lý về sử ký Việt Nam thì làm sao biết được cội nguồn mà tìm về.

Làm toán mà đặt sai vấn đề thì đáp số đương nhiên là sai.

Làm nhân văn xã hội mà nhìn sai vấn đề thì xã hội ngày càng loạn.

Cách nhìn, cách đánh giá khi so sánh thể chế giáo dục Bắc Nam của bà Kim Ngân là cách nhìn đúng đắn, rất khoa học rất đáng khuyến khích.

Cũng là người Việt Nam, cũng thoát khỏi sự cai trị của người Pháp, cùng chịu chiến tranh mà tại sao miền Nam thành công cho đến nay cả người theo cộng sản còn luyến tiếc. Còn miền Bắc càng cải cách càng lún sâu vào khủng hoảng.

Bấy lâu nay tôi rất áy náy khi nghe nói đến cụm từ “tư duy tiểu nông”, nhân cơ hội mới được tỏ bày nếu có điều chi chưa đúng hay chưa rõ rất sẵn lòng đón nhận ý kiến và trao đổi.

Còn muốn có “một người nhạc trưởng có tâm, có tầm, có uy tín và uy lực, dám chịu trách nhiệm, huy động được cả tài lực lẫn vật lực của chính phủ và của xã hội”. như băng khăng của nhà toán học Hoàng Tụy thì phải trả ngay lại quyền cho người dân chọn lựa.

Vì sao chúng ta nên ủng hộ dân chủ?

Hết sức đơn giản vì nếu ông Tổng thống và Nội các của ông ấy không làm tròn nhiệm vụ như lời hứa hẹn thì chỉ trong vòng 4 năm người dân sẽ đuổi ông ta khỏi chính quyền trao quyền cho người khác thực hiện.

Vì giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội không phải của riêng ai, muốn thực hiện tốt ông ấy phải thăm dò ý kiến của Giáo sư Nguyễn Xuân Hãn, của Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng, của các thầy cô khác, của phụ huynh học sinh và nhất là của người dân trong và ngoài nước để đưa ra và thực hiện những chính sách khả thi nhất trong hoàn cảnh đất nước.

Có dân chủ Việt Nam mới thoát khỏi cách quản lý độc quyền thiếu khoa học, thiếu viễn kiến, thiếu trách nhiệm sai lại sửa càng sai càng sửa đất nước trải qua mấy chục năm nay.

Các thế hệ con em chúng ta không còn bị biến thành khỉ vì giáo dục kiểu hiện nay (lời của Giáo sư Hồ Ngc Đại) hay không bị biến thành “chuột bạch” tiếp tục bị mang ra làm thí điểm cho Công nghệ giáo dục.

Không con đường nào khác hơn Việt Nam phải tiến tới dân chủ tự do.

Melbourne, Úc Đại Lợi

Nhân tiện cũng xin giới thiệu cùng các bạn 3 bài viết cũ về Giáo Dục thời Việt Nam Cộng Hòa

Giáo dục Việt Nam: cố sửa hay trở về gốc? Nguyễn Quang Duy

https://conghoathoibao.com.au/…/giao-duc-vn-co-sua-hay-tro…/

Cần tư thục hóa giáo dục Việt Nam. Nguyễn Quang Duy

https://conghoathoibao.com.au/…/can-tu-thuc-hoa-giao-duc-v…/

Ưu việt của giáo dục miền Nam. Nguyễn Quang Duy

https://conghoathoibao.com.au/…/uu-viet-cua-giao-duc-mien-…/

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

THỰC NGHIỆM GÌ THỰC NGHIỆM 40 NĂM





Việt nam vào kỳ đột biến
dị năng chưa thấy dị tật đã đầy
bà Chủ tịch nói rất hay (*)
" thực nghiệm gì 40 năm" còn nằm !


Dân ta vốn chẳng có lầm
quan thời hơn hẳn bác bần cố nông
Đảng ta trên dưới một lòng
đưa bà Chủ tịch lên đồng dạy dân


"Thực nghiệm gì thực nghiệm 40 năm"
Tham nhũng gì tham nhũng hà rằm
dân ta vốn chẳng có lầm
nên nhờ đảng cử bà đầm khôn ngoan


Việt Nam vào kỳ đột biến
dị năng chưa thấy dị tật đã đầy!



Thứ Hai, 17 tháng 9, 2018

Ý NHI trên chiếc dây căng qua khoảng trống





Nữ sĩ Ý Nhi năm nay đã bước vào tuổi 74, mỗi ngày vẫn tự tay chăm sóc mảnh vườn trong khuôn viên tư gia thoáng mát tại quận Gò Vấp – TPHCM. Lặng lẽ và thong dong, nữ sĩ Ý Nhi đi qua hành trình thi ca của mình một cách ung dung, không màng những bon chen danh vọng và thị phi “làm sao biết được/ phía trước kia là biển, là rừng, là lũng sâu hay đầm lầy/ nhưng dù sao/ phải đi đến cùng con đường ta đã chọn/ dù phải đi/ như người nghệ sĩ trên chiếc dây căng qua khoảng trống…”.







Ý NHI TRÊN CHIẾC DÂY CĂNG QUA KHOẢNG TRỐNG


LÊ THIẾU NHƠN


Nữ sĩ Ý Nhi quê gốc Quảng Nam. Lý lịch của chị không thể không nhắc hai yếu tố, thân phụ là giáo sư Hoàng Châu Ký và phu quân là giáo sư Nguyễn Lộc. Thế nhưng, cuộc đời của chị đã gắn bó với thơ và được định đoạt bằng thơ. Sau khi tốt nghiệp khoa ngữ văn Đại học tổng hợp Hà Nội, nữ sĩ Ý Nhi bước vào làng thi ca và được đón nhận ngay từ những tác phẩm đầu tiên. Tuy nhiên, thơ Ý Nhi không mấy phổ cập đối với giới công chúng yêu thích vần điệu du dương và ngôn ngữ tha thướt. Trong nửa thế kỷ làm thơ, nữ sĩ Ý Nhi từng ngày rời xa những ẩn dụ bóng bẫy và những ngữ vị diêm dúa, nên chị càng tách khỏi đám đông hào hứng ngâm vịnh. Tính đại chúng của thơ Ý Nhi chỉ thể hiện qua hai ca khúc được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc dựa trên thơ chị là “Romance 1” và “Trong ánh chớp số phận”


Ca khúc “Romance 1” lấy ca từ gần như đầy đủ từ bài thơ “Vườn 1” của nữ sĩ Ý Nhi: “Em tìm đến góc xa nhất của khu vườn/ em muốn trốn vào sự bình yên/ em muốn trốn sâu mãi/ sâu mãi vào tình yêu của anh/ Đôi lần/ em nhìn tán cây mà ứa nước mắt/ vì màu xanh/ Đôi lần/ em nghe tiếng chim khuyên mà ứa nước mắt/ vì sự trong trẻo/ Rồi em khóc vì đốm nắng lan trên vạt cỏ/ vì bông hoa trắng như giọt lệ/ vì phiến đá dần tan trong ly nước mùa hè…/ Rồi em muốn được ra đi như thế/ ra đi mà tràn đầy biết ơn/ ra đi/ mà trên đôi mi đã khép/ còn lăn chảy giọt nước mắt hân hoan”. Ca khúc “Trong ánh chớp số phận” sử dụng chủ yếu một đoạn trong bài thơ “Năm lời cho bài hát” của nữ sĩ Ý Nhi: “Trong ánh chớp của phận số/ em đã kịp nhìn thấy anh/ Trong vòng quay không ngừng nghỉ của phận số/ em đã dừng lại đúng nơi anh/ ôi thời khắc huy hoàng/ Em lặng lẽ nói cười/ lặng lẽ nát tan/ em thành lá, thành sương, thành lửa/ Em lặng lẽ gọi kêu/ lặng lẽ cầu xin/ lặng lẽ chờ mong, lặng lẽ vỡ òa thành lệ…”. Và thật thú vị, nhạc sĩ Phú Quang chứng tỏ là một độc giả am tường thơ Ý Nhi khi cộng thêm vào ca từ của “Trong ánh chớp số phận” hai ý trong bài thơ “Viết nhân một câu thơ” có thay đổi chút ít, câu thơ “quỳ đã nở vàng ngoài dậu” thành câu hát “hàng dậu ấy hoa quỳ vàng đã nở”, còn câu thơ “xe cấp cứu đang chạy qua thành phố” thành câu hát “xe cấp cứu đang rúc còi đó chăng”.


Nếu không tính tập thơ “Nỗi nhớ con đường” in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ và tập thơ “Cây trong phố chờ trăng” in chung với Xuân Quỳnh, thì nữ sĩ Ý Nhi xác lập sự nghiệp thi ca từ tập thơ “Đến với dòng sông” xuất bản năm 1978. Có một giai đoạn, nữ sĩ Ý Nhi cũng theo đuổi những câu thơ khuôn thước và lấp lánh như “Những cơn mưa báo rét/ Bay mờ cả dốc dài” hoặc “Sau mỗi cung đường biển oà lên bất chợt/ Sóng ngời ngời ánh mắt trẻ thơ” hoặc “Ngã ba sông buổi ấy bình yên/ Màu nước đỏ dường như nhạt lại/ Con thuyền mỏng như mảnh trăng nằm đợi/ Cây bên bờ cây còn chưa biết tên”. Nếu tiếp tục lối viết ấy, nữ sĩ Ý Nhi cũng có thành tựu nhất định, bởi lẽ ở chị luôn có sự ngổn ngang và rối bời của một người đàn bà nhạy cảm “Đã bao lần nhớ đến tán cây kia/ Tôi tìm gặp một chút gì yên tĩnh/ Một chút gì chở che thương mến/ Trong nắng nôi bão gió của đời mình” hoặc “Có điều gì đã vỡ nát trong ta/ Đang kết lại dưới mặt trời như muối trắng/ Bài ca đã lãng quên bỗng thốt lời thương mến/ Như thể là gió biển hát qua môi”. Một phẩm chất không thể phủ nhận ở nữ sĩ Ý Nhi là sự tinh tế, để có thể chọn và đưa những khoảnh khắc chênh chao vào thơ: “buồm thẫm nâu trong chiều muộn chợt về/ hoa cúc trắng tần ngần qua các phố”.


Thơ Ý Nhi bắt đầu thay đổi từ khi nào? Vì sao chị khước từ những nhịp nhàng trầm bổng để dịch chuyển thơ về phía định dạng những câu nói gần gũi đời thường? Nữ sĩ Ý Nhi cho rằng, nhờ chị đã viết được bài thơ có tính mở cửa thẩm mỹ trong suy tư: “Đó là “Người đàn bà ngồi đan”, bài thơ mà mọi người thường nhắc đến. Mỗi thời sẽ nhìn bài thơ theo cách của mình, nhưng ở thời điểm ra đời, tôi cho rằng bài thơ có vai trò quan trọng. Đó là bước thay đổi của chính tôi và một phần nào đó ảnh hưởng đến sự thay đổi của thơ Việt Nam, vì bài thơ mang giọng điệu hoàn toàn mới. Trước đó, thế hệ nhà thơ chống Mỹ trong chiến tranh đề cao con người công dân hơn con người cá nhân. Những người trẻ chắc không hiểu hết được nhưng khi đó, bao trùm không khí là tinh thần chiến đấu quả cảm, của niềm vui chiến thắng. Tinh thần này cũng chiếm lĩnh thơ. Nhưng sau đó, khoảng năm 1983, 1984, cuộc sống có nhiều thay đổi, thơ cũng thay đổi. Con người ta bắt đầu nói đến con người cá nhân, tâm trạng cá nhân. Không còn những tình cảm đồng nhất, một chiều. Thơ có tính nước đôi: vui và buồn, hạnh phúc và đau khổ, cô đơn và hòa đồng... Có thể nói là một giọng thơ khác, rất quan trọng với tôi!”.


Bài thơ “Người đàn bà ngồi đan” được nữ sĩ Ý Nhi sáng tác tháng 1-1984. Cả bài thơ không có ý nào tài hoa, cũng không có câu nào đột phá, nhưng dắt người đọc vào một không gian thơ bồi hồi và khó quên:
Người đàn bà ngồi đan
Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời
Vội vã như thể đó là lần sau chót
Không thở dài
Không mỉm cười
Chị đang giữ kín đau thương
Hay là hạnh phúc
Lòng chị đang tràn đầy niềm tin
Hay là ngờ vực
Không một lần nào chị ngẩng nhìn lên
Chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt
Hay sau buổi chia ly
Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu
Trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng
Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Dưới chân chị
Cuộn len như quả cầu xanh
Đang lăn những vòng chậm rãi”.


Sau bài thơ “Người đàn bà ngồi đan”, nữ sĩ Ý Nhi tung tẩy trong phương pháp sáng tạo khác. Chị nhìn vào tâm hồn mình bằng cách chú giải về những nghịch lý trên cuộc đời. Chị tự thú: “Tôi là đứa trẻ muốn kêu to lên để nghe thấy lời mình trong biển/ là người đàn bà tìm về kết cục/ tôi đang đứng kề bên cái vạch nhỏ xíu/ của thủy chung và phản trắc, của tan vỡ và hy vọng, của hằn thù và tha thứ”, đồng thời chị chấp nhận: “Đôi khi ta như người leo núi rủi ro/ không phải vì kém cỏi/ không phải vì thiếu can đảm/ nhưng mà núi lở/ nào ai có thể bám vào khoảng không”. Với thái độ ấy, nữ sĩ Ý Nhi nhanh chóng phát hiện sự thật “thi đàn hôm nay/ chật ních những kẻ bất tài, những kẻ lỗi thời/ họ giống như những người đàn bà không biết mình đã qua thì xuân sắc/ cứ tô vẽ nói cười, dở mọi trò ngạo ngược”. Và then chốt là chị nhận điện được trách nhiệm của một người cầm bút trước được mất của những người xung quanh, trước khuất chìm của cộng đồng còn bao nhiêu mệnh kiếp gieo neo sau cuộc chiến tranh dai dẳng chia lìa: “Những người đàn bà gánh trên vai hàng chục cái tang/ Những đứa sơ sinh chỉ một mình sống sót/ Những người yêu cách xa biền biệt/ Những cụ già trơ trọi chẳng cháu con/ Là người giữ bài ca qua suốt tháng năm, qua tất cả mọi vui buồn bão sóng/ Dù chỉ một lần bước trên cát nóng/ chỉ một lần hiểu thấu khúc ca kia/ Suốt đời tôi chẳng thể bao giờ/ đặt bút viết những điều dối trá”.


Tách khỏi dàn đồng ca thơ thánh thót, thơ đãi bôi, thơ thù tạc, thơ tán tụng, thơ tâng bốc, nữ sĩ Ý Nhi dĩ nhiên bơ vơ hơn và cô độc hơn. Nữ sĩ Ý Nhi lắm phen tự vấn: “Tôi không ưa đồ trang sức/ kể cả nhẫn, vòng và các chức danh/ Tôi rất ít bạn/ đôi khi tôi mất họ vì một lẽ nào đó/ ngoài 30 tuổi tôi không tìm thêm bạn mới/ và không thường giao du với các đồng nghiệp…/Tôi ngại các tiệc vui/ nhiều khi tôi khóc vì chính cái khiến những người xung quanh tôi vui sướng/ và lại muốn thét lên khi mọi người yên lặng”. Đã mang lấy nghiệp vào thân, nữ sĩ Ý Nhi không trách trời gần lẫn trời xa, mà nhẹ nhõm với niềm riêng: “Tôi làm ra bài ca/ tự mình tôi hát/ tự mình khổ đau/ tự mình hạnh phúc/ tôi một mình lặng bước tới trùng khơi”. Trong nỗi âm thầm kiêu hãnh, nữ sĩ Ý Nhi thừa mạnh ưu điểm bản thân “chỉ có những ý nghĩ như lửa dưới vòm xanh trầm lặng”, nên chị tìm sự tự do một cách thanh cao và tìm sự giản dị một cách quyết liệt: “Không ai trói buộc/ không ai gông cùm/ không ai đánh đập/ không ai chửi mắng/ sao ta sống như trong lồng cũi?”. Chị giải quyết câu hỏi về lương tri người làm thơ giữa “Ngày thường” với sự đắn đo cần thiết: “Tôi cầm những đồng tiền lẻ/ như nhà thơ cầm giữ từ ngữ/ Những đồng tiền nhàu nát/ như những từ ngữ đã được dùng bao thế kỷ/ Tôi tính cách tiêu tiền/ khó khăn như nhà thơ tìm thi tứ”.


Nữ sĩ Ý Nhi trước và sau “Người đàn bà ngồi đan” có sự thay đổi rõ rệt về bút pháp. Năm 1975, chị đã “Viết cho con trên đường công tác” những câu lục bát: “Mẹ đi xa mấy dặm đường/ Bao nhiêu cảnh lạ vẫn thường có con/ Giấc lành con ngủ cho ngon/ Nghìn đôi mắt lá mãi còn xanh nguyên” thì hơn 20 năm sau chị lại nhủ thầm “Tập làm lục bát” trong tập thơ “Vườn” in năm 1998: “Biển xa sóng trắng như mây/ sông gần nước đã dâng đầy màu xanh/ ngủ đi anh, ngủ đi anh/ em xin cho giấc ngọt lành đêm nay”. Còn ở mảng thơ tài, một nữ sĩ Ý Nhi trong tập “Đến với dòng sông” in năm 1978 rạo rực “Em đã đợi chờ anh suốt cuộc đời mình/ Như đá xám chờ tay người tạc tượng/ Sông khô cạn chờ mùa mưa lớn/ Cây giữa rừng đợi ánh mặt trời lên” được thay thế bằng một nữ sĩ Ý Nhi trong tập “Mưa tuyết” in năm 1991 ân cần: “Xin anh/ trong niềm vui/ nhớ đến em/ Xin anh/ trong nỗi buồn/ chia sẻ cùng em/ Xin anh/ mãi như em đã gặp/ đã yêu/ đã luôn chờ đợi/ Xin anh/ hãy yêu/ và tha thứ”.



Thơ Ý Nhi khước từ mọi kỹ nghệ đánh bóng chữ nghĩa, nên nhiều bài thơ chỉ cần chị không chú ý đến nhạc tính thì trở nên thô cứng. Một hạn chế nữa ở thơ Ý Nhi là những tựa đề đôi lúc quá đơn sơ, chỉ đặt tên như một thủ tục bắt buộc, nên chẳng giúp ích được gì cho độc giả trong quá trình mở rộng biên độ cảm xúc khi tiếp cận bài thơ. Ngược lại, trong nhiều trường hợp, chị chủ động ngắt nhịp câu thơ để hiệu quả diễn đạt cao hơn./.

Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2018

Đạo văn kiểu Tây khác gì đạo văn kiểu Ta?






Nhà văn Anh - Ian McEwan bị cáo buộc đã sử dụng hồi ký của một nữ cựu y tá và tác giả của các cuốn tiểu thuyết ngôn tình Lucilla Andrews, khi viết cuốn “Đền tội”. Mặc dù trong lần xuất bản đầu tiên cuốn sách của mình, ông đã ghi xuất xứ từ cuốn hồi ký của Andrews! Nhiều tác giả lớn đã lên tiếng bênh vực McEwan, kể cả nhà văn vừa đoạt giải Nobel Kazuo Ishiguro. Nhà văn Úc Thomas Keneally, tác giả cuốn sách được chuyển thể thành phim “Bản danh sách của Schindler” nói về vụ này như sau: "Tác phẩm văn học được xác định bởi giá trị của sự gia tăng chất lượng mà tài liệu thô trong tay nhà văn mang lại, tôi tin rằng những gì McEwan đã bổ sung cho nguyên bản không khiến ai nghi ngờ".





Quan niệm việc đạo văn trong lịch sử văn học thế giới


TRẦN HẬU


Khi bàn về nạn đạo văn trong các công trình khoa học, mọi chuyện tương đối đơn giản: bất cứ trích dẫn nào cũng phải được trình bày đúng, còn tính mới khoa học của tác phẩm phải được chứng minh rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta nói về tác phẩm văn học, về quyền tác giả đối với việc xem xét lại kinh nghiệm của người khác và tác phẩm của người khác? Trong cuốn sách của mình “Viết như Tolstoy”, nhà báo Mỹ Richard Cohen phân tích các thủ pháp và mánh khóe của nhà văn, và một trong những mánh khóe ấy được ông gọi là đạo văn. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.


Có phải bao giờ đạo văn cũng bị xử tệ?
Ngay trong thời cổ đại, các triết gia Hy Lạp đã khẳng định rằng nghệ thuật luôn luôn là sự bắt chước một cái gì đấy lý tưởng đã tồn tại. Sáng tác các vở kịch về những đề tài thần thoại nhất định để hàng năm trình diễn chúng trong các lễ hội, rõ ràng các nhà viết kịch cổ đại không thể tránh khỏi sự lặp lại và vay mượn trực tiếp. Thời La Mã cổ đại, sự sao chép và cải biên các kiệt tác được coi là một công việc hoàn toàn bình thường. Terence, Horace, Ovidius và Cicero không hiếm khi sao chép các tác phẩm của người khác.
Nhà viết kịch thời đại Baroque Lope de Vega đã sáng tác hơn 200 vở kịch. Lúc bấy giờ, nhà hát là nơi giải trí chủ yếu của nhân dân, trong vài ngày phải hoàn thành một vở kịch mới, vì khán giả không muốn xem những gì vừa diễn tuần trước, Lope de Vega và các đồng nghiệp của ông buộc phải xào xáo các vở kịch của mình, vay mượn các cốt truyện, nhân vật và lời thoại, làm cho các tình tiết trở nên ly kỳ để tạo ra cảm giác mới mẻ. Và dĩ nhiên, không ai nghĩ tới việc phê phán Shakespeare vì ông đã mượn câu chuyện về Cleopatracủa Plutarchus mà không trích dẫn xuất xứ. Điều chủ yếu là ông đã làm điều đó một cách tài tình.
Việc soạn lại cốt truyện khác đã thúc đẩy sự phát triển của nền văn học các dân tộc. Trên thực tế, toàn bộ nền văn hóa vay mượn đều xuất phát từ hình thức sơ đẳng nhất của đạo văn (sao chép không ghi rõ nguồn gốc), đó là khi một tác giả trích dẫn một tác giả khác, nhưng kín đáo đến mức chỉ những độc giả dày dạn kinh nghiệm mới phát hiện ra. Vì vậy một thời gian dài, kỹ năng đạo văn một cách thông minh và khéo léo được coi như một phẩm tính của nhà văn tài giỏi.
Mark Tvain cũng nói rằng: “99% những gì tạo ra trí tuệ của chúng ta là đạo văn - dưới dạng thuần túy và sơ khai của nó”.
Xin cho biết danh mục tài liệu tham khảo của bạn
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI là giai đoạn xem xét lại khá cơ bản đạo văn như một hiện tượng. Số lượng tác phẩm được xuất bản ngày càng nhiều, nguồn tài liệu có thể tiếp cận khắp nơi, và người ta đạo văn cũng nhiều, hơn nữa, không cần phải thật khéo léo. Trong khoa học, đã xuất hiện các phần mềm máy tính đặc biệt phát hiện đạo văn. Trong giới văn học, cuộc tranh luận về sự vay mượn đã chuyển sang hình thức kiện tụng, còn các nhà văn phải trả giá cho những vụ tai tiếng công khai bằng những tổn thất về danh tiếng (nghĩa là tiền bạc).
Trong cuốn sách bán chạy của Stephen Ambrose “Tầng cao xanh” nói về các phi công quân sự, người ta tìm thấy những đoạn văn dài chép từ một cuốn sách lịch sử, không ghi rõ xuất xứ. Về sau, đạo văn được phát hiện trong những cuốn tiểu thuyết trước đó của tác giả. Ambrose quả quyết rằng chỉ một phần nhỏ các tác phẩm của ông được sao chép của những người khác, nhưng ông không thể phục hồi danh dự.
Một vụ tai tiếng khác xảy ra với nhà văn Anh Ian McEwan, một trong những tác giả thành công nhất của nền văn xuôi đương đại. Ông bị cáo buộc đã sử dụng hồi ký của một nữ cựu y tá và tác giả của các cuốn tiểu thuyết ngôn tình Lucilla Andrews khi viết cuốn “Đền tội”, mặc dù trong lần xuất bản đầu tiên cuốn sách của mình, ông đã ghi xuất xứ từ cuốn hồi ký của Andrews! Nhiều tác giả lớn đã lên tiếng bênh vực McEwan, kể cả nhà văn vừa đoạt giải Nobel Kazuo Ishiguro. Nhà văn Úc Thomas Keneally, tác giả cuốn sách được chuyển thể thành phim “Bản danh sách của Schindler” nói về vụ này như sau: "Tác phẩm văn học được xác định bởi giá trị của sự gia tăng chất lượng mà tài liệu thô trong tay nhà văn mang lại, tôi tin rằng những gì McEwan đã bổ sung cho nguyên bản không khiến ai nghi ngờ".
Rõ ràng, đó là phẩm chất chủ yếu phân biệt nhà văn với một kẻ đạo văn. Cả hai đều ăn cắp, nhưng nhà văn trả lại một cái gì đó lớn hơn. Nghĩa là, nhà văn được phép làm điều đó? Tuy nhiên, càng ngày sự tồn tại của Luật Bản quyền tác giả và cơ hội nhận được thu nhập từ văn học càng lớn đã đánh mất của nhà văn sự tự do sử dụng các tài liệu xuất xứ. Và thật khó nói một cách rõ ràng tự do này kết thúc ở đâu?
Cuộc đời người khác như nguồn một tài liệu
Vấn đề đạo văn liên quan tới không chỉ trách nhiệm pháp lý của tác giả mà cả trách nhiệm đạo đức. Việc sử dụng tác phẩm của người khác không được phép có thể gây ra thiệt hại đạo đức hoàn toàn cụ thể. Sau đây là một số ví dụ.
Năm 2004, khi nghiên cứu về những tên giết người hàng loạt, theo lời khuyên của bạn bè, nhà tâm thần học Dorothy Lewis đã đọc kịch bản của một vở diễn của nhà hát Broadway, và Dorothy phát hiện ra mình là nhân vật chính trong một tác phẩm của người khác. Kịch bản cũng nói về một nhà nữ tâm thần học, tuy nhiên, bà ta không chỉ nghiên cứu về những kẻ giết người hàng loạt mà thậm chí đã đem lòng yêu một tên trong đó. Tác phẩm đầy những chi tiết tiểu sử và trích dẫn lấy từ bài báo về Lewis.
Nhà viết kịch Anh Bryony Lavery, tác giả kịch bản thừa nhận với nhà báo rằng đã sử dụng bài viết của anh ta trong kịch bản của mình: “Tôi nghĩ rằng có thể thanh thản sử dụng tài liệu đó. Thậm chí tôi không nghĩ rằng phải xin phép bạn, tôi cho rằng đó là tin tức”. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp tác giả thực sự làm tăng giá trị của bản gốc, thì giải quyết thế nào với nỗi đau mà anh ta đã gây ra cho nguyên mẫu? Liệu tác giả có chịu trách nhiệm về những lo âu, dằn vặt ấy không? Điều gì sẽ xảy ra nếu một số khán giả của vở kịch sẽ suy nghĩ và kể lại với những người khác rằng Dorothy Lewis quả thật là tình nhân của kẻ giết người hàng loạt kia?
Việc khai thác các hình tượng và cốt truyện từ những tin tức và chuyện tiếu lâm nói chung là một kỹ năng quan trọng của nhà văn đối với lịch sử văn học thế giới. Rất có thể, chúng ta sẽ không được đọc “Bà Bovary” nếu như sinh thời Gustave Flaubert không nghe được câu chuyện Delphine Delamare đã phản bội chồng và tự tử. Đơn giản là thông thường chúng ta không coi tình huống này là đạo văn, vì chúng ta không quan tâm: liệu những người thân của Delamare có băn khoăn về việc nhà văn mô tả họ như thế không; và nói chung, họ có muốn những câu chuyện này trở thành cơ sở của các tác phẩm hay không?
Các nhà văn cổ điển cũng không thoát khỏi búa rìu dư luận khi sử dụng “tài liệu sống”. Ví dụ, Thomas Mann đã phải xin lỗi nhà viết kịch Gerhart Hauptmann. Không, Mann không sử dụng tài liệu từ các vở kịch của Hauptmann. Ông sử dụng chính Hauptmann, lấy những đặc điểm của nhà viết kịch gán cho một trong những nhân vật của mình trong tiểu thuyết “Ngọn núi phù thủy”.
Cuốn tiểu thuyết tự truyện “Hãy nhìn ngôi nhà của mình, Thiên thần” của nhà văn Mỹ cổ điển Thomas Wolfe đã gây tai tiếng thực sự tại thị trấn Asheville quê hương của nhà văn. Các cư dân ở đây phát hiện ra mình trong các nhân vật của cuốn sách, họ tức giận vì tác giả viết nhiều điều quá lộ liễu về họ; thậm chí họ nhớ cả những cảnh mà Wolfe đã bịa ra.
Wolfe nhận được những bức thư trách móc, xúc phạm, thậm chí đe dọa, nhiều năm sau ông không dám trở về thị trấn của mình. Cuộc trục xuất tạm thời này là một hình phạt nặng nề, cay đắng và bất công đối với ông. Bởi ông mong muốn điều tốt đẹp chứ hoàn toàn không có ý định vu khống ai hết.
Ông bố của nhà văn Anh gốc Ấn Salman Rushdie cũng phản ứng như vậy, khi lần đầu tiên đọc cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Những đứa trẻ lúc nửa đêm” và phát hiện ra ở đấy nguyên mẫu văn học của mình. Mặc dù là một nhà nghiên cứu văn học chuyên nghiệp, bức chân dung trào phúng của một kẻ nát rượu cũng khiến ông nổi giận.
Câu chuyện cuối cùng chúng tôi kể kết hợp tất cả những hình thức đạo văn nói trên: đó là cùng một lúc nhà văn vừa sử dụng bất hợp pháp tác phẩm, vốn sống của người khác vừa thâm nhập vào bí mật đời tư người thân của mình. Chẳng bao lâu sau khi F. Scott Fitzgerald cưới Zelda Sayre, cuốn nhật ký cũ của bà bị mất tích bí ẩn. Thế rồi hai năm sau, bà bỗng phát hiện ra trong cuốn tiểu thuyết mới của chồng “Đẹp và đáng nguyền rủa” một đoạn chép từ cuốn nhật ký bị đánh mất của bà! Mà không chỉ thế, phu quân của bà còn đưa vào tiểu thuyết một số câu trong các bức thư của bà.
Fitzgerald sử dụng thủ pháp này nhiều lần, nhưng một lần Zelda đã trả thù ông. Vốn là một nhà văn, năm 1932, bà xuất bản cuốn tiểu thuyết “Hãy cứu tôi, bản nhạc valse”, trong đó bà mô tả tỉ mỉ cuộc sống riêng của họ. Trò nghịch ngợm này đã thành công: Scott nổi cơn thịnh nộ, mặc dù thực ra ông ta xứng đáng phải nhận điều đó.
Nghề văn là như vậy: những cuốn sách khác, ý tưởng khác, cuộc đời khác – tất cả đều là nguyên liệu đối với tác giả. Và cho dù điều đó làm phật lòng các đồng nghiệp hay người thân, có lẽ, độc giả sẽ tha thứ tất cả. Tất nhiên, trong trường hợp đó là một cuốn sách hay.







Nguồn: Văn Nghệ Công An

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2018

Nguyên tắc chính của ngữ âm là một âm ứng với một ký tự, nhưng cách đánh vần của GS Hồ Ngọc Đại vi phạm hoàn toàn.




Mấy ngày nay tôi nghe các phản biện về cách học Tiếng Việt theo chương trình sách công nghệ. Với tư cách phụ huynh có con sắp bước vào năm học đầu tiên bậc tiểu học, tôi cũng không muốn con học theo chương trình này, bởi các lý do.


Thứ nhất, tôi muốn nói về cách dùng hình vuông, tròn, tam giác… Mục đích thứ nhất là đếm tiếng trong câu. Điều này là không cần thiết với Tiếng Việt. Trong Tiếng Anh có rất nhiều tiếng đa âm. Ví dụ “computer” bao gồm ba âm. Ngoài ra họ còn âm gió, âm câm… Vì một từ có thể đa âm nên họ nói rất nhanh trong giao tiếp dẫn đến khó nghe, nghe nhầm. Chưa kể cách đọc các âm còn phụ thuộc vào trọng âm (trọng âm rất quan trọng trong tiếng Anh). Vì vậy, cách phân tách các từ thành từng âm rất phù hợp để người học không bỏ sót âm trong từ và dễ dàng trong việc xác định trọng âm.





Nhưng với Tiếng Việt thì không có bất cứ từ đa âm nào. Các từ ghép cũng là ghép từ từ đơn âm và cách nhau rõ ràng bằng khoảng trắng. Như vậy bản thân cách viết Tiếng Việt là rõ ràng, không thể nhầm từ, bớt hay bỏ qua âm được. Sinh ra các hình tượng trưng làm lãng phí chi phí in ấn, bắt học sinh nhớ thêm khái niệm “vật thật”, “vật ảo” trừu tượng mà không dùng để làm gì trong thực tế.


Kể từ khi trẻ biết nói, rồi 2-3 năm mẫu giáo, việc đọc tiếng đã không còn là vấn đề với trẻ. Chưa nói hiện nay rất nhiều trẻ đã qua giai đoạn nghe tiếng (các bé có thể học thuộc rất nhiều bài hát, thơ, truyện) và còn học chữ ngay từ mẫu giáo nên giáo dục tiểu học nên bắt đầu ngay với việc học chữ, chứ không nên quá chú trọng vào kỹ năng nghe, đọc vẹt nữa.


Mục đích thứ hai khi dùng các hình vuông, tam giác, tròn… để tách các vần trong từ (tách nguyên âm và phụ âm) cũng là không cần thiết vì kể cả học theo cách cũ thì học sinh cũng học từ chữ cái trước rồi đến ghép vần. Trong đó chỉ rõ phần nguyên âm và phụ âm, sau đó đánh vần từng phần để ghép thành từ. Các cháu hoàn toàn có thể phân biệt được đâu là nguyên âm hay phụ âm và các phần của từng từ.




Thứ hai, với cách đánh vần c, k, q đều đọc là “cờ” và gi, d, r đều đọc là “dờ”, tôi thấy làm mất đi sự phong phú của Tiếng Việt và vô lý. Nguyên tắc chính của ngữ âm là một âm ứng với một ký tự. Cách của GS Hồ Ngọc Đại vi phạm hoàn toàn nguyên tắc cơ bản này khi một âm được thể hiện bằng ba ký tự khác nhau. Việc đồng âm gây nhiều khó khăn cho việc học viết (ta cứ vào vùng ngọng l, n mà xem, họ không những không phân biệt nổi l, n khi nghe người khác nói mà còn đa số sẽ viết sai hai vần này. Trong thực tế tại nơi tôi ở học sinh bắt đầu phải hỏi lại khi nghe để viết rằng dùng cờ hay cờ ca, cờ quy).





Nếu đều đồng âm là “cờ” thì khi đọc các từ c, k, q và khi viết cùng nhau ta sẽ đọc như thế nào? Qua nhiều thế hệ ta sẽ không có cách nào đọc nổi khi không còn khái niệm đọc thứ hai là “ca”, “quy” nữa. Nếu không đọc theo âm mà đọc theo tên chữ thì tạo rắc rối cho học sinh lúc đọc âm, lúc đọc tên chữ.


Hơn nữa, Tiếng Việt cũng có một quy tắc đơn giản nhất là đọc sao viết vậy. Tiếng Việt vì vậy còn không cần phân biệt tên chữ với âm đọc. Cái hay nhất của việc này là không cần kiến thức chuyên ngành ngôn ngữ, cách đọc và viết cùng thống nhất. Đọc xong là viết được ngay không cần thêm quy tắc gì đi kèm. Cách của GS Hồ Ngọc Đại đã bỏ quy tắc phổ quát nhất này để sáng tạo ra các quy tắc viết khác rườm rà hơn như tôi sẽ nói dưới đây.


Có quy tắc để khi nào dùng c, k hay q, nhưng như vậy là tư duy ngược làm chậm quá trình viết. Khi nghe đọc, học sinh phải hình dung ngay ra cấu tạo của từ đó để biết chữ đứng sau đó là chữ gì rồi mới nhớ lại quy tắc sử dụng c, k, q. Như vậy là tư duy ngược, đi ngược lại hoàn toàn quy tắc viết của Tiếng Việt là đọc sao ghi vậy.





Đã thế nó cũng không thể giải quyết nổi các từ bất quy tắc, ví dụ “quốc”, “cuốc”, “khước”, “cước”, “khe”, “que”… Với các từ này thì các em buộc phải ghi nhớ hoặc hỏi lại và khi hỏi lại thì thật đau đầu vì không có cách nào nói cho các em biết được dùng c, k hay q (sẽ có câu hỏi là dùng cờ hay cờ ca, cờ quy như tôi đã nói bên trên ấy. Điều này thực tế đã xảy ra với địa phương tôi đang ở).


Cách đọc gi, d, r đều đọc là “dờ” còn vi phạm nguyên tắc ngữ âm nghiêm trọng hơn nhiều, nhưng lại được “hợp lý hóa” bằng cách cho rằng dựa vào cách phát âm của “người Hà Nội”! Cái này thật vô lý.


Thứ ba là các vần ghép. Với các vần iê, yê, ia, ya đều được đánh vần là /ia/ vừa vô lý vì không giải thích được cho trẻ tại sao viết khác nhau lại đọc giống nhau mà còn có vấn đề về ghép vần. Vần trong Tiếng Việt vừa có thể đứng một mình để phát âm thành tiếng, vừa có thể thêm phụ âm để tạo thành từ khác. Nói cách khác, nếu đã đánh vần được vần đó thì sẽ có thể thêm phụ âm để tạo thành một từ khác.


Nếu theo cách cũ sẽ không tồn tại vần iê, yê, ya (vì không đánh vần được), do vậy cũng không thể ghép một phụ âm nào với các vần đó được. Học sinh sẽ hiểu là không tồn tại từ (cách viết) đó trong Tiếng Việt. Nếu giờ theo cách mới nó có thể đánh vần được là /ia/ thì ta cũng có thể có chữ là “kya, kiê, kyê” đều đọc là “kia”. Thật vô lý!


Học sinh theo chương trình mới sẽ không biết được từ đó có tồn tại hay không trong khi đó nếu học chương trình cũ thì sẽ biết ngay rằng không thể có cách viết đó được vì không đánh vần được. Cái này hữu ích cho người nước ngoài vô cùng khi học Tiếng Việt. Ngoài ra còn một số vần ghép nữa cũng được đồng âm mà lẽ ra là không thể có.


Thứ tư, tôi muốn đề cập về cách đánh vần mới. Tựu trung lại sẽ có hai quy tắc đánh vần. Thứ nhất là đánh vần tiếng có thanh ngang trước (đánh vần ghép nguyên âm cùng phụ âm). Thứ hai là với tiếng có thanh thì sẽ đánh vần tiếng đó với thanh ngang rồi thêm thanh sau. Học sinh phải nhớ đến hai cách đánh vần (trong đầu sẽ tự động phân thành hai giai đoạn: đánh vần thanh ngang rồi ghi nhớ tiếng thanh ngang sau đó đánh vần với thanh (dấu) đi kèm). Rõ ràng là phải nhìn tổng thể rồi nhớ lại quy tắc để lựa chọn đánh vần theo cách nào, như thế làm chậm đi quá trình đánh vần.





Trong khi đó theo cách cũ ta chỉ cần nhớ một quy tắc đánh vần duy nhất: Đánh vần nguyên âm ghép với phụ âm rồi thêm thanh (dấu), không cần phân biệt tiếng đó là tiếng thanh bằng hay có thanh đều dùng chung một quy tắc. Rõ ràng là tính thống nhất trong cách đánh vần cũ bao quát hơn và đơn giản. Hơn nữa, cách đánh vần theo kiểu mới chỉ để đánh vần cho giai đoạn đầu học chữ chứ không có ích gì. Trong khi đó theo cách cũ ta có lợi ích rất lớn.


Tôi lấy ví dụ một người không biết viết chữ “khách” như thế nào. Nếu theo cách mới đánh vần là “khach – sắc – khách”, chẳng để làm gì cả. Theo cách cũ đánh vần “khờ – a – chờ – ách – sắc- khách” hoặc “a – chờ – ách – khờ – ách – khach – sắc – khách”, hoặc “khờ – a- chờ – ách – khờ – ách – khach – sắc – khách” ta sẽ viết được tiếng đó ngay. Cái này vô cùng có ích với người nước ngoài học Tiếng Việt hoặc người chưa biết hình dạng chữ đó như thế nào. Đánh vần bình thường thì dài dòng hơn, nhưng lại phù hợp với tốc độ viết khi chưa biết viết như thế nào.


Thứ năm, tôi muốn đề cập nội dung khác trong sách công nghệ. Đã có nhiều người chỉ ra những bất cập trong cách dùng từ, trích đoạn bài viết, các câu chuyện trong sách tôi sẽ không đề cập sâu vào đó vì đó hoàn toàn có thể thay đổi trong các lần tái bản. Tuy nhiên, tôi chỉ nói rằng, các từ ít phổ thông, từ khó thì bản thân nó đã được ít sử dụng trong cuộc sống nên cũng không cần phổ biến làm gì. Việc đó sẽ tiếp tục được trau dồi trong suốt 12 năm học và suốt phần đời sau này.


Ở giới hạn học sinh “vỡ lòng” chỉ nên dạy những cái phổ biến và những cái mang tính đơn giản, rõ ràng, không đưa nội dung đa chiều vào bài học gây ra tranh cãi không cần thiết. Đến như Toán học hay Vật lý ta cũng chấp nhận các tiên đề, mệnh đề mà không cần phải chứng minh tính đúng đắn thì tại sao lại nói dạy trẻ những cái có sẵn là áp đặt, không cho trẻ phản biện.





Tôi nghĩ ở giai đoạn đầu này là lúc để kinh nghiệm và các đúc kết giáo dục cũ thể hiện được tinh hoa, tính nhân văn của mình chứ không phải để tư tưởng giáo dục mới phủ định và bài trừ hoàn toàn.


https://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/phu-huynh-phan-bien-cach-danh-van-cua-gs-ho-ngoc-dai-3806715.html