Thứ Hai, 18 tháng 7, 2022

Ý-NGHĨA NHỮNG TỪ THÔ-TỤC TRONG VIỆT-NGỮ


BS.Nguyễn Xuân Quang
Những từ mà chúng ta ngày nay cho là “thô tục”, đối với tổ tiên ta chúng mang đầy ý nghĩa về triết lý, vũ trụ quan và nhân sinh quan, nói một cách khác những từ này mang ý nghĩa của Dịch lý.
Vì đây là một bài khảo cứu về ngôn ngữ và Dịch học, nên tác giả xin phép viết các từ thô tục này “nguyên con” (nguyên chữ). Xin các nhà đạo đức tạm gác cái bầu đạo đức qua một bên khi đọc loạt bài này kẻo không sẽ nguy hại tới sức khỏe (đây là lời khuyên của một thầy thuốc).
NHỮNG TỪ CHỈ BỘ PHẬN SINH DỤC NỮ
Trước hết xin nói về những từ chỉ bộ phận sinh dục phái nữ vì xã hội loài người bắt đầu từ mẫu hệ và hư vô trung tính chuyển qua vũ trụ âm trước. Việt ngữ có những từ chỉ bộ phận sinh dục nữ như nường, lồn, dánh, ke, ghe, nốc, dốc, đốc v. v…
NƯỜNG
Nường là tiếng cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ thấy rõ qua từ kép “nõ nường”. Nõ là nọc là cọc là cặc (xem dưới). Nường là nương, là nang có nghĩa là cái bao, cái túi, cái bọc. Nường là nòng, nõ là nọc. Nõ nường là nọc nòng dương âm là càn khôn. Ta cũng có từ nõn nường hàm nghĩa chỉ bộ phận sinh dục:
Ba mươi sáu cái nõn nường,
Cái để đầu giường, cái gối đầu tay.
(ca dao).
Thật ra nõn nường chỉ bộ phận sinh dục gái tơ với nõn là non, trẻ, mượt mà như vải phin nõn, trắng nõn trắng nà. Từ nõn nà với nà là ná, nạ (mẹ) nàng, nường. Nõn nà là nường non, gái tơ, cái nường trắng nõn, trắng nà. Nõn nà là nàng đẹp tương đương với mị nương chính là Mã Lai-Java ngữ nona, nàng.
LỒN
Lồn là lồng, lòng, nòng, nàng, nường, nang có nghĩa là cái bao cái túi, cái bọc.
Lồn, lồng là dạng nam hóa, hiện kim của nòng, nường (l là dạng nam hóa, hiện kim của n). Lồn liên hệ với lồng thấy rõ trong Anh Pháp ngữ: vagina, vagin (âm đạo) liên hệ với invagination (lồng vào nhau) như intestinal invagination (chứng ruột lồng) còn có tên là intestinal intussusception. Lồng còn có nghĩa là vật đựng, dùng để “nhốt” chim hay gà. Ở một diện, chim biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam (xem dưới) và gà trống cũng vậy. Anh ngữ cock là gà trống và cũng là từ chỉ bộ phận sinh dục nam. Anh ngữ “cock” có gốc coc-, chính là Việt ngữ cọc, cặc. Rõ ràng cái lồn, cái lồng dùng để “nhốt” chim và gà của phái nam. Với nghĩa là túi, bao, bọc, lồn tương ứng với Pháp ngữ vagin, Anh ngữ vagina (âm đạo). Theo v=b như víu = bíu, vagin, vagina có gốc vag- = bag (túi, bao). Anh ngữ vaginate có nghĩa là có bao, có túi. Với nghĩa là lồng, lòng, dạ, lồn liên hệ với Ba Lan ngữ lono (‘bosom’, ngực, lòng; lap, đùi, chỗ trũng, chỗ lõm, với Phạn ngữ yoni (vulva, âm hộ) (theo qui luật l=d=y). Phạn ngữ yoni liên hệ với yauna (dạ con), yauna chính là yoni + a. Ta thấy rõ trong tiếng Việt, phái nữ nàng, nương, nường gọi theo bộ phận sinh dục nữ nường, lồn giống hệt như các tộc khác của Ấn Âu ngữ như Phạn ngữ yoshana, yosha, yoshit (đàn bà) là gọi theo yoni. Ý ngữ donna, Tây Ban Nha dona (n có dấu ngã), Bồ Đào Nha dona, v. v… có nghĩa là lady (bà, đàn bà, phái nữ) tất cả có gốc don-, theo d=l như dần dần = lần lần, don- = lồn. Ở Thái Bình có loài sò hến gọi là con don. Món canh don ở Thái Bình rất nổi tiếng. Sò hến có một nghĩa dùng chỉ bộ phận sinh dục phái nữ. Con don là con yoni con lồn.
Cũng xin nói thêm ở đây là vì có biến âm d=l nên ta có từ nói lái đôn lò.
KE
Trong Từ Điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes có từ ke chỉ “chỉ bộ phận sinh dục đàn ông hay đàn bà”. Về phía phái nữ ke chính là kẽ như kẽ nứt, kẽ hở, kẽ tay, đọc thêm hơi vào ke thành khe. Ke, kẽ, khe là những từ tượng hình chỉ bộ phận sinh dục nữ, Anh ngữ bình dân gọi là slit. Cũng trong Từ Điển Việt Bồ La có tứ dánh, dắnh chỉ lồn. Đây chính là từ dãnh, rãnh chỉ cái khe, cái mương, cái máng.
GHE
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu ca dao:
Khôn thì ăn cháo, ăn chè,
Dại thì ăn đếch, ăn đác, ăn ghe, ăn đồ.
(ca dao).
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua cách biếu xén quà cáp. Muốn chửi rủa ai, vào dịp giỗ tết đem biếu hai quả cau và ba chén chè. Hai quả cau “nang” chỉ hai cái “trứng” của phái nam và ba (chén) chè nói lái lại là ghe bà. Theo chuyển hóa k= gh như ké = ghé, kê = ghế (cái đòn kê để ngồi là dạng nguyên thủy của cái ghế ngày nay), ta có ke = ghe. Ghe là ke là kẽ, là khe. Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ nên ta có từ “ghế” tiếng nói trại đi của từ “gái”. Con ghế có ghe. Nguyên thủy cái ghe làm từ một thân cây khoét rỗng (dug-out) có hình cái khe. Vì thế mà thuyền độc mộc gọi là cái ghe. Phi Luật Tân Tagalog ngữ gay”là ghe biến âm với gái, theo g = c, gay = cây. Rõ ràng ghe, gay là thuyền độc mộc khoét từ một khúc cây và liên hệ đến gái, bộ phận sinh dục nữ. Ở đây ta có thể dùng tiếng Việt để giải thích nguyên ngữ của từ Anh ngữ she (nàng, nường, phái nữ, đại danh từ ngôi thứ ba số ít, giống cái). She liên hệ với Việt ngữ chị, với Quảng Đông ngữ chế (nên nhớ là Quảng Đông là phần đất cũ của Bách Việt). Áp dụng qui luật c = k = s như cắt = sắt, khe = she. She liên hệ với khe, ghe. She có khe, có ghe ! Một điểm cũng cần nói tới là Việt ngữ ghe cũng có nghĩa là thuyền tàu (ship). Như đã nói, ghe biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ mang tính thuần âm nên chỉ nói là “cái ghe” chứ không bao giờ nói “con ghe”. She gần âm với ship và ship cũng có giống cái phải dùng she thay cho ship.
Xin bước ra ngoài lề bài viết để kể một câu chuyện lúc tôi đi tuần du hải dương (sea cruise). Trong một buổi gặp mặt thuyền trưởng, một du khách hỏi vị thuyền trưởng là tại sao ship có giống cái và nói là she. Vị thuyền trưởng trả lời là các người đi biển coi con tầu, chiếc thuyền như một mỹ nhân, một người yêu, họ sống chết theo con tầu, chiếc thuyền. Tôi có nói nhỏ với vị thuyền trưởng là trong Việt ngữ ghe ship có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Ông ta há hốc miệng. Bằng chứng là Ainu ngữ của thổ dân ở Nhật có từ chip là ghe thuyền cũng có nghĩa lóng là bộ phận sinh dục nữ (xem dưới).
NỐC, DỐC, ĐỐC
Nốc là cổ ngữ Việt chỉ thuyền, ghe. Ngày nay chỉ thuyền nhỏ, còn dùng ở miền bắc Trung Việt:
Ăn thì cúi chốc, kéo nốc thì than.
(Tục ngữ).
Hay
Đêm khuya thắp ngọn đèn chai,
Quen o nốc đáy, ăn hoài cá tươi.
(ca dao).
Cũng nên biết nốc ở dưới nước nên liên hệ tới nước. Nốc còn có nghĩa là uống như nốc nước, nốc rượu. Nốc biến âm với nác, nước, núc. Nguyên thủy nốc cũng làm từ một thân cây khoét rỗng. Nốc liên hệ với Anh ngữ nog (cái chốt bằng khúc cây) log (thân cây). Nốc là ghe cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Nốc liên hệ với An ngữ nook (chỗ lõm, “xó” nhà, chỗ lõm dùng làm chỗ ngồi ăn gần bếp). Theo n=l, nốc = lốc, lốc cũng chỉ bộ phận sinh dục như thấy qua câu ca dao:
Cô lô cô lốc,
Một nghìn ghính ốc đổ vào lồn cô.
Thật ra phải viết là “cô lô cô nốc” mới đúng. Từ hiện kim lốc là dạng nam hóa của nốc (giống như lõ của nõ) vô nghĩa. Như thế nguyên thủy nốc là thuyền độc mộc. Cổ ngữ Việt cũng có từ dốc, đốc chỉ thuyền. Trong Từ Điển Việt Bồ La có từ dốc chỉ cơ quan sinh dục đàn bà. Theo n = d như này = đây, ta có nốc = dốc, đốc. Đốc cũng chỉ cơ quan sinh dục đàn bà như thấy qua từ mồng đốc chỉ hạt tình (clitoris) (1). Mồng đốc là cái mồng thịt ở cái đốc, cái nốc phái nữ.
Như thế ta thấy một nhóm chỉ bộ phận sinh dục nữ qua các từ có nghĩa là ghe, nốc liên lạc với nước mang tính thái âm, thuần âm. Ngay cả từ đò đôi khi cũng được dùng để chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu ca dao:
Khi xưa anh ở cùng đò,
Bây giờ đò rách anh mò thuyền nguyên.
Từ đò gần âm với đồ. Từ đồ có nghĩa là ông đồ nho và cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục như thấy qua câu thơ của một nhà thơ cổ chế riễu hai ông nhà nho:
Hai đứa tranh nhau một cái đồ!
Đò biến âm với đỏ. Đỏ cũng có một nghĩa là con gái, bộ phận sinh dục nữ như thấy trong câu hát:
Thằng cu vỗ chài,
Bắt trai bỏ giỏ.
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá…
Cái đỏ đối với thằng cu, “đỏ” đối với “cu”.
Đò cũng biến âm với đó, dụng cụ bắt cá có hình túi cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu tục ngữ:
Đó rách ngáng chỗ.
Ý nói các bà vợ có “đó đã rách” nên nằm ngáng chỗ khiến các ông chồng không thể mò được “thuyền nguyên”. Cái hay nữa là “đó” cũng có nghĩa là “ấy”. Cái đó là cái ấy.
Điều rất thú vị là không những các từ cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ còn có nghĩa là ghe, nốc mà trong ngôn ngữ của người Ainu (Hà Di), thổ dân sống ở Nhật Bản có từ chỉ bộ phận sinh dục nữ cũng có nghĩa là ghe, nốc. Ainu ngữ chip chỉ ghe thuyền. Ta thấy rất rõ chip liên hệ với Anh ngữ ship (ghe thuyền, theo c=s). Ngoài ra Ainu ngữ chip cũng dùng như một tiếng lóng chỉ âm đạo: “chip, a slang word for the vagina” (Rev. John Batchelor, Aini-English-Japanese Dictionary, Tokyo, 1905). Người cổ Việt đã gặp người Ainu “trong phòng the” cách đây hàng mấy ngàn năm. Nên biết là cái nốc, cái độc mộc có thể đi khắp bốn biển sang tới tận Madagascar (ngày nay thuyền độc mộc còn dùng nhiều ở đảo này, ngôn ngữ Magdagascar liên hệ với tiếng Mã-Nam Dương và Nam Á) thì thuyền độc mộc hay cái “nốc” của phái nữ cổ Việt sang tới đất Nhật Bản cũng là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên cả.
Dĩ nhiên, ngoài ra còn có những tiếng lóng chỉ bộ phận sinh dục nữ. Chỉ xin nói tới một từ phổ thông nhất là từ lá đa.
LÁ ĐA
Lá đa chỉ bộ phận sinh dục nữ thấy qua câu ca dao:
Sự đời như cái lá đa,
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
Như đã giải thích ở chương Giống Đực Giống Cái trong Tiếng Việt Huyền Diệu, miền Bắc gọi là cây đa trong khi Trung Nam gọi là cây da. Từ da của Trung Nam theo duy âm, nòng có một nghĩa là cái túi cái bao, cái bọc thân người như da người, da trời. Thái ngữ nang là da. Với nghĩa là túi, bọc, nang nên lá đa là lá nường, là lá nàng, lá nòng, là lồng, lồn.
Về ngôn ngữ học, lá đa theo duy dương, nọc có nghĩa là lửa, mặt trời, đỏ.
Như thế lá đa theo duy dương là lá trời, lá đỏ (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Như trên ta đã thấy đỏ cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ như “con đỏ ẵm em”. Lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ vì thế lá vông cũng dùng chỉ bộ phận sinh dục nữ vì vông biến âm với vang có nghĩa là đỏ. Đỏ biến âm với đẻ, Phạn ngữ ja là đẻ cùng âm với Việt ngữ da, đa. Lá đa, lá vông có thể hiểu là “lá đỏ”, “lá đẻ”. Lá vông chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ thấy rõ qua tục mai táng của Việt Nam:
Cha gậy tre, mẹ gây vông.
Khi cha chết con trai chống gậy tre. Như đẵ biết tre là cây “que”, loài thảo mộc thẳng như cái que không có cành nhánh lớn. Que biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam, phái nam vì thế mà khi cha chết con trai phải chống gậy tre là vậy. Trong khi đó lá vông là lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ nên khi mẹ chết con trai phải chống gậy vông.
Ngoài ra về hình dạng lỗ sinh dục phái nữ cũng giống lá đa. Hình lá đa chỉ lỗ sinh dục phái nữ còn thấy rất rõ trong gốm cổ Moche của Peru (Gốm Tình Dục Peru Cổ).
Gốm diễn tả bộ giống phái nữ làm theo cơ thể học, người nữ hình Mẹ Đời ngồi ở tư thế sinh con, hai tay giơ lên phía đầu, ở trong Trứng Vũ Trụ (ở giữa), hình nòng O (bên trái) và hình lá đa (bên phải), Bảo Tàng Viện Larco (ảnh của tác giả).
Lá đa, lá vông, lá mơ đều có hình dạng giống nhau vì thế “hiện thực” hơn nữa, lá mơ lông cũng dùng chỉ bộ phận sinh dục nữ.
Hơn nữa tổ tiên ta chọn lá đa, lá da và từ lá đa, lá da được dùng phổ thông hơn các thứ lá khác vì cây đa, cây da là cây thờ, cây linh thiêng, Cây Đời (Tree of Life), Cây Vũ Trụ (Cosmic Tree) sinh ra vũ trụ muôn loài. Người đàn bà đầu tiên của loài người hay Mẹ Đời của truyền thuyết Mường Việt cổ là Dạ Dần sinh ra từ một cây si, cùng họ với cây đa (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Cái lá đa của phụ nữ Việt là một thứ lá “thiêng liêng” vì thế tục thờ “lá đa” nói riêng và thờ nõ nường, thờ dâm thần của người cổ Việt theo mẫu hệ là chuyện dĩ nhiên.
THÌ LA, THÌ LẨY, THÈ LE, TÈ LE
Xin nói tới một từ chỉ bộ phận sinh dục nữ rất bí hiểm không một ai biết nghĩa. Ta có bài đồng dao nói về con gái:
Thì la thì lẩy,
Con gái bẩy nghề,
Ngồi lê là một,
Dựa cột là hai,
Ăn quà là ba,
Kêu ca là bốn,
Trốn việc là năm,
Hay nằm là sáu,
Láu táu là bẩy.
Thì la thì lẩy là gì? Xin thưa bài hát này nói về “con gái” nên thì la, thì lẩy có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Tiếng dân dã bộ phận sinh dục gọi là cái “thè le” , “tè le” như thấy qua câu nói “dập cái thè le”, “cái tè le”. Mường ngữ có hai từ thim lớ (hay “xiêm rỡ”) chỉ tình nhân cùng âm với thì la. Thì la, thì lẩy, thè le ruột thịt với Mã Lai ngữ *tila, tilay, female genital, tộc Kelantan Borneo teli, vagina, Balinese teli, vulva và Phi Luật Tân Tagalog ngữ tilin, vagina. Tộc Gorontalo (WMP; Pateda 1977) tele, ‘vagina’ = tè le. Trong khi đó gốc til có nghĩa là hạt tình, mồng đốc, hột le, cái thè le (clitoris): tộc Bare’e (WMP; Adriani 1828) tile, ‘clitoris’ = (hột) le’, thè le, thè lè; tộc Samoan (OC; Milner 1966) tela (not in decent use), ‘clitoris’ = thè le. Tôi gọi là ‘hạt tình’ vì gốc til cùng âm với ‘tình’ và “hạt’ tương ứng ‘với “hạt” dẻ rừng (glans) tức qui đầu của phái nam. Về phương diện cơ thể học hạt tình, hạt til clitoris = hạt dẻ glans.
Ông đồ nào là tác giả làm bài đồng dao này cho con nít hát quả thật là một ông “đồ thâm” nho, một ông đồ “nho nặng” (nhọ), đồ này rất “đen” và rất “nhọ”. Cũng nên biết là bài đồng dao này rất phổ biến ở miền Bắc vì thế không phải chỉ có Trung Nam có liên hệ với Nam Đảo như Mã- Phi Luật Tân mà miền Bắc cũng có liên hệ.
NU NA NU NỐNG
Ta cũng thường nghe trẻ em hát bài đồng dao:
Nu na nu nống,
Cái bống nằm trong,
Con ong nằm ngoài. . .
Như đã giải nghĩa ở chương Dịch Học trong Tiếng Việt Huyền Diệu, na là một tiếng cổ Việt có nghĩa là nà (ná, nạ là mẹ), nàng, nang, nường như nõn nà = nõn nường (cái nà, cái nường trắng nõn). Cổ Việt nống là cái nọc để chống, để nâng vật gì lên. Na và nống là nường nõ, nòng nọc. Na là nà, là nàng, là nường là nòng là dòng là nước nên đi với câu hát thứ nhì có con cá bống, còn nống là cọc là nọc nên đi với câu thứ ba có con ong là loài có nọc (“ong non ngứa nọc”). Hai câu sau giải thích nghĩa của hai từ cổ ‘na” và nống”. Còn từ “nu” nghĩa là gì? Nu biến âm với neo, néo, đeo, đéo với đu, đụ. Nu na nu nống hiển nhiên là “đu na đu nống” là làm tình. Ông đồ nào làm ra bài đồng dao này cũng là loại đồ thâm.
NHỮNG TỪ CHỈ BỘ PHẬN SINH DỤC NAM
Việt ngữ có những từ chỉ bộ phận sinh dục nam như nõ, lõ, ke, que, buồi, cặc, chông, chim, cò, cu v. v…
Nhìn chung những từ chỉ bộ phận sinh dục nam có nghĩa là “vật nhọn” như nọc, cọc, que, roi, dùi…
Tiếng cổ Việt nõ chỉ bộ phận sinh dục nam như nõ nường (nọc nòng). Nõ là cây cọc, nọc như đóng cọc mít cho mau chín gọi là đóng nõ mít. Nõ nam hóa thành lõ. Trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ “lõ”: ‘làm dương vật cương lên như khi con vật giao cấu. Blỏ cùng một nghĩa’ và có từ “lô”, “con lô”: ‘cơ quan sinh dục của đàn ông’. Hiển nhiên lõ, lô là biến âm của nõ. Lõ trong tiếng Việt hiện kim chỉ vật gì đâm ra như cọc nhọn ví dụ mũi lõ, cặc lõ hay lõ cặc. Có phương ngữ nói là cặc lỏ (dấu hỏi). Theo l=n, lỏ = nỏ, vật bắn mũi tên (một thứ nọc, cọc nhọn). Thời cổ con người dùng cây nõ, cây cọc nhọn đâm thú vật mải về sau mới phát minh ra cây nỏ, cây ná bắn mũi tên. Ta thấy cây nõ đẻ ra cân nỏ, cây ná.
Ở đây ta thấy lõ (dấu ngã) và lỏ (dấu hỏi) theo hai cách nói và viết với hỏi ngã khác nhau của hai phương ngữ khác nhau đều đúng cả, chỉ có từ này cổ hơn từ khác mà thôi. Vì thế trong Việt ngữ vùng này nói theo âm dấu hỏi vùng kia nói theo âm dấu ngã chưa hẳn là ai đúng ai sai. Chúng ta phải chờ cho tới khi có một hàn lâm viện Việt Nam quyết định chọn viết theo dấu nào để dùng trong pháp ngữ Việt thì khi đó ta đem dùng trong các viết theo học viện (academic). Giả dụ các ông học viện sĩ (hàn lâm viện sĩ, viện sĩ) hỏi ý kiến tôi chọn cách viết theo dấu ngã hay theo dấu hỏi, thì tôi chọn viết theo lõ (dấu ngã) dựa vào các lý lẽ sau đây:
./ gốc nõ (cây cọc) cổ hơn nỏ (vật bắn cọc nhọn) như đã nói ở trên cây nõ đẻ ra cây nỏ.
./ theo cách giúp trí nhớ về hỏi ngã mà chúng ta thường nghe nói tới là “(Chị) Huyền ngã nặng, hỏi sắc(thuốc) không?” thì dấu ngã (lõ) đi với dấu nặng (cặc).
./ta thường viết mũi lõ rồi thì viết cặc lõ cho nó thuận chiều với nhau.
NỌC
Heo nọc là heo đực.
CỌC
Cọc chỉ bộ phận sinh dục nam như thấy qua thơ Hồ Xuân Hương:
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
(vịnh Quả Mít).
Anh ngữ cock gà sống cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục nam, có coc– chính là cọc.
CHÔNG
Chông là cọc nhọn cũng chỉ bộ phận sinh dục nam:
. . . . . .
Thịt chó tiểu đánh tì tì,
Bao nhiêu lỗ tội tiểu thỉ cắm chông.
Nam mô xứ Bắc xứ Đông,
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi.
(ca dao).
Chông cùng vần với chống là que, nọc để đỡ vật gì, với trống là đực với chồng là người có chông, có chống là người trống. Trong khi đó vợ biến âm với vỏ là cái bao, cái bọc, cái túi (xem Dịch Lý).
KE, QUE
Như đã nói trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ ke chỉ bộ phận sinh dục nữ và nam. Theo duy dương, ke biến âm với kẻ (kèo nhỏ, thước kẻ), với que chỉ bộ phận sinh dục nam.
CẶC
Trung Nam gọi bộ phận sinh dục nam là cặc. Cặc là biến âm của cược, cọc như tiền đặt cọc là tiền đặt cược (Lê Ngọc Trụ, Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị). Từ cặc liên hệ với những từ chỉ bộ phận sinh dục nam của Tây Ban Nha carajo, Latin dân dã caracium, Hy Lạp karas (pointed stake, cọc nhọn, REW. 1862) có car– là cặc; với Breton kalc’h, Cornish cal, Welsh col (sting, ngòi, nọc), Ái Nhĩ Lan colg (sword, gươm, kiếm, Pederson 1.105), giáo hội Slavic kocanu (c và u có dấu ă), Albanian kotsh (rod, stalk, que, roi, cọng cây, Berneker 536); Phạn ngữ kaprt(h)– (r có chấm ở dưới) (Walde –P. 1.348, 2.49). . .
BUỒI
Miền Bắc dùng từ buồi chỉ bộ phận sinh dục nam không dùng từ cặc. Buồi biến âm với bổ, búa (búa đây là búa có mỏ nhọn tức búa chim) cũng là vật nhọn. Buồi liên hệ với Anh ngữ bur (mũi khoan), ebur (ngà voi), spur (mấu nhọn như cựa gà, mấu nhọn ở gót giầy để thúc ngựa). Buồi biến âm thành “bòi »: trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ bòi: ‘cơ quan sinh dục của đàn ông’. Buồi ngày nay cũng nói trại đi thành “bòi” như “Đứa nào cười tớ nó ăn bòi”. Buồi, bòi liên hệ với Anh ngữ boy (con trai). Thằng “boy” có bòi, có buồi. Theo biến âm b=v, bòi = vòi, vọi. Khái Hưng trong truyện Trống Mái có một nhân vật rất nổi tiếng, một biểu tượng về tình dục (sex symbol) mang đầy hùng tính, nam tính tên là Vọi. Có lẽ Khái Hưng đã chọn tên này vì nó gần cận với Vòi, Bòi. Theo biến âm b=m, buồi = muồi, muỗi. Con muỗi là con mũi có vòi nhọn như kim nhọn hút máu; buồi = mùi. Trong mười hai con giáp Mùi là con dê là con thú có sừng biểu tượng cho dương, nam tương đương với con hươu. Hán Việt dương là dê. Dương có một nghĩa là đực. Đực biến âm với đục (chisel) là vật nhọn.
Nhìn chung buồi là bổ, búa, vật nhọn liên hệ với gốc tái tạo Ấn-Âu ngữ *pes-, *pesos– (Walde-P. 2.68, Ernout-M 7520. Anh ngữ penis có gốc pen- có một nghĩa là cây bút, viết. Bút là bót, vót, viết là vót, vọt, que vót nhọn, nguyên thủy que vót nhọn dùng làm viết vạch lên đất sét, đá mềm. Pháp ngữ verge, Latin virga phát xuất từ gốc rod (roi), stalk (que, cọng cây) ta thấy rõ gốc ver-, vir– liên hệ với Việt ngữ vọt. Hòa Lan ngữ roed (penis) liên hệ với Việt ngữ roi…
CHIM, CÒ, CU.
Dưới một góc cạnh, chim cò, cu có mỏ nhọn biểu tượng cho dương, bộ phận sinh dục nam. Theo biến âm ch= k như chặt = cắt, chim = kim (vật nhọn). Ta có từ ghép đồng nghĩa chim chóc. Chóc là chim. Tày-Thái ngữ chốc là chim. Với h câm chóc = cóc = cọc. Thái Lan ngữ nok là chim. Nok là nọc. Cò biến âm với cồ là đực. Đực biến âm với đục (chisel), vật nhọn. Đực là nọc như heo đực là heo nọc. Tục ngữ có câu:
Cơm no, cò đói.
Câu này cùng nghĩa với câu:
No cơm, ấm cật,
Rậm rật tối ngày.
Cu biến âm với cò, cồ. Chim cu biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam:
Mù u, ba lá mù u,
Vợ chồng cãi lộn, con cu giải hòa.
(ca dao).
Con trai nhỏ thường gọi là thằng cu. Như thế chim, cò, cu có gốc từ vật nhọn, kim, nọc, cọc nên biểu tượng cho dương, bộ phận sinh dục nam.
Tóm lại, qua những từ chỉ bộ phận nam nữ ta thấy có những điểm quan trọng cầm lưu tâm như sau:
-Trong những từ chỉ bộ phận sinh dục nữ như nường, lồn, ghe, nốc, khe, kẽ v. v. từ lồn hiện kim có gốc từ cổ ngữ nường, nòng là cái bao cái túi, cái bọc liên hệ tới Nòng (ngược với Nọc), Khôn (ngược với Càn) dùng trong vũ trụ quan, vũ trụ giáo, thờ mặt trời, Dịch học. Lồn, lồng là dạng nam hóa, hiện kim của nòng, nường (l là dạng nam hóa, hiện kim của n). Từ lồn dùng phổ thông cả ba miền Bắc Trung Nam. Còn những từ khác gọi theo “bề ngoài” như ke, ghe, nốc v. v… ít phổ thông. Ghe, nốc dùng nhiều ở Trung Nam thôi.
-Trong tất cả các từ chỉ bộ phận sinh dục nam như ke (que), buồi, cặc, chim cò đều có nghĩa là vật nhọn, nọc, cọc. Miền Bắc dùng buồi trong khi Trung nam dùng cặc. Điểm này một lần nữa ngôn ngữ cho thấy hai xã hội Bắc Nam mang màu sắc Nam Bắc phân ranh (giới) có thể một phần là do hậu quả của một thời Nam Bắc phân tranh. Từ buồi của miền Bắc có gốc là bổ, búa. Từ bổ biến âm với bố (ngược với mẹ). Điểm này ta thấy gần cận với Hán ngữ phụ (bố) biến âm với phủ (rìu, búa). Bố có bổ, có buồi; phụ có phủ. Buồi của miền Bắc gần cận văn hóa Trung Hoa. Bố Việt và phụ Trung Hoa đều có búa cả. Trong khi từ cặc của Trung Nam như đã thấy liên hệ với Phạn ngữ kaprt(h)- (r có chấm ở dưới), bộ phận sinh dục nam (nên nhớ là trong Chàm ngữ, Mã Lai ngữ có rất nhiều gốc Phạn) và gần cận với Mã Lai ngữ (bang Riau Johor) chok chỉ bộ phận sinh dục nam. Chok chính là cọc là cặc. Mã-Lai cận đại theo Hồi giáo vay mượn tiếng Ả Rập hak, zakar (cặc). Theo h = c (hủi = cùi) hak = cak, cặc và zakar có –kar là cặc. Từ cặc của Trung Nam gần cận với văn hóa Mã Lai Đa Đảo.
-Về bộ phận sinh dục nam Bắc Trung Nam có hai từ riêng biệt buồi và cặc, trong khi từ lồn ngày nay được dùng phổ thông khắp ba miền. Điều này cho thấy mẹ Việt Nam đời đời như nhất, ảnh hưởng mẫu hệ vẫn còn duy trì kiên cố trong xã hội Việt Nam; vai trò phụ nữ trong xã hội Việt Nam vẫn không thay đổi, nói một cách khác vẫn được duy trì, tôn thờ dù ở xã hộ mẫu quyền hay phụ quyền dù ở bất cứ một thể chế chính trị nào. . . Trong khi nam phái đã chia rẽ, phân biệt Bắc Trung Nam và đi theo các xu hướng, thể chế văn hóa , chính trị khác nhau.
-Lồn hiện kim có gốc từ cổ ngữ nường, nòng là cái bao cái túi, cái bọc liên hệ tới Nòng. Mặt khác buồi và cặc tuy là hai từ khác nhau, nhưng đều có nghĩa gốc là vật nhọn, nọc. Như thế những từ chỉ bộ phận sinh dục nữ, nam phổ thông hiện nay đều mang nghĩa nòng nọc (âm dương). Điểm này cho thấy Dịch lý giữ một vai trò cốt yếu trong tiếng Việt nói riêng và trong văn hóa Việt nói chung. Ta thấy rõ bai chữ cái nòng (O) và nọc (I) trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que có gốc từ bộ phận sinh dục nữ và nam.
Điều này giải thích cho thấy rất rõ là người cổ Việt thờ nõ nường. Khảo cổ học tìm thấy những đôi tượng đá tạc bộ phận sinh dục nam nữ (nõ nường) ở Sông Mã, tượng bộ phận sinh dục nam ở Văn Điển, trên nắp thạp Đào Thịnh có những cặp nam nữ đang làm tình… Nhiều nơi ở vùng đất tổ Việt như ở xã Khúc Lạc và Dị Hậu tỉnh Phú Thọ gần đây còn giữ tục thờ sinh thực khí. Hàng năm hai xã vào đám ngày mồng 7 và 26 tháng giêng. Đồ lễ ngoài trầu cau rượu thịt còn có 36 âm vật và dương vật (18 cặp) gọi là nõ nường, dân địa phương gọi là “nọ nường”. Làng Đông Kỵ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh tổ chức hội xuân rước nõ nường vào ngày mồng 6 tháng giêng. Một bô lão dẫn đầu đám rước một tay cầm dương vật và một tay cầm âm vật bằng gỗ vừa đi vừa hát:
Cái sự làm sao, cái sự làm vầy,
Cái sự thế này, cái sự làm sao.
Vừa hát cụ vừa múa điệu âm dương diễn tả theo động tác làm tình. Cụ lồng hai hai bộ phận nam nữ vào nhau v. v… Một vài xã ở Hải Dương cũng có tục này. Khi đi rước thanh nam hát:
Cái nạo thế sừ, là cái sự thế nào?
Thanh nữ hát đáp lại:
Cái nạy thế sừ, là cái sự thế này. . .
(Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Sự thờ phượng nõ nường, thờ phượng dâm thần hay sinh thực khí của cổ Việt không phải là thứ “man di mọi rợi”, là thứ ‘dâm phong” “ngoài vòng lễ giáo” như người Trung Hoa gán cho người cổ Việt. Nhiều người Việt ngày nay đã sai lầm cho rằng sự thờ phượng nõ nường là thô tục, là điều đáng xấu hổ. Phải hiểu nõ nường là nọc nòng là nguồn cội, là sinh tạo, là tạo hóa sinh ra vũ trụ muôn loài. Thờ nõ nường là đạo thờ nòi giống, là đạo duy trì giống nòi, là đạo hiếu sinh, trường tồn. Thờ nõ nường là đạo tối cổ của nhân loại. Hình bóng thờ nõ nường để lại trong những nền văn minh “tiến bộ hơn” nghĩa là muộn hơn như thờ linga và yoni của Ấn Độ. Vào thời phụ quyền sự thờ phượng “nõ” ngự trị hơn như hình thạch bi obelisk của Ai Cập, Menhirs ở Anh và các trụ thạch ở nhiều nơi khác. . . với ý nghĩa đã xa rời “đạo gốc”, nõ nường âm dương.
Một điểm rất lý thú là trong truyền thuyết vũ trụ tạo sinh của người Hawaii có hai vị thần tổ sinh tạo ra trần thế (Earth and the things on the Earth) có tên là thần Ku và Lono (Martha Beckwith, Hawaiian Mythology, tr.32) tương ứng với Việt ngữ là thần Cu và thần Lồn. Điều này cũng dễ hiểu, vì những tộc Mặt trời nước liên hệ với cổ Việt hay phát xuất từ cổ Việt ở Đa Đảo (Polynesia), Mã-Nam Dương đã dùng thuyền đi tìm đất mới tới tận các đảo xa xôi, trong đó có quần đảo Hawaii.
Chim biểu của bang Hawaii là con ngỗng ne ne ruột thịt với con vịt trời le le (ne ne là âm cổ của le le ; ne biến âm với na, nã là nước và le biến âm với lã là nước ngọt, ngỗng ne ne và vịt trời le le đều là loài chim nước). Ngỗng ne ne của Hawaii ruột thịt với le le Vụ Tiên của Việt Nam. Con vịt trời le le Vụ Tiên bay tận đến Hawaii biến thành con ngỗng ne ne. Do đó ngôn ngữ cũng như truyền thuyết về vũ trụ tạo sinh của người Hawaii vẫn còn sót lại những dấu tích của cổ Việt.
Người cổ Việt thờ nõ nường nên Việt Dịch nòng nọc là Dịch nguyên thủy. Trong khi Trung Hoa có thuyết âm dương nhưng không thờ nõ nường chứng tỏ Dịch Trung Hoa không phải là Dịch nguồn cội, là loại Dịch đã tân tiến, đã muộn.
NHỮNG TỪ CHỈ LÀM TÌNH
Những từ phổ thông chỉ làm tình miền Bắc có những từ như địt, đéo, lẹo (loài vật), phủ…, Trung Nam có từ đụ.
ĐỊT
Miền Bắc dùng từ địt chỉ làm tình, trong khi đó Trung Nam từ địt chỉ đánh hơi (Miền Bắc nói đánh hơi là đánh rắm). Trong những năm còn là sinh viên y khoa tôi thường được nghe kể lại câu chuyện một vị gáo sư Y Khoa người miền Nam, sau khi giải phẫu bụng cho một cô gái người Bắc di cư, lúc đi thăm hậu giải phẫu, vị giáo sư này hỏi người bệnh “Chị đã địt chưa?”. Con bệnh đỏ mặt, xấu hổ . . . Cho tới khi tôi viết những dòng này, không ai hiểu tại sao. Xin giải toả thắc mắc này.
-Địt là làm tình.
Theo biến âm đ=d như đa = da (cây), ta có địt = dịt. Từ dịt có một nghĩa là dính vào nhau, dán dính vào, buộc vào nhau như dịt thuốc vào vết thương. Theo d = r (dăng = răng), dịt = rịt, rít. Rít có nghĩa là dính như rít rịt. Theo d = ch như giăng = chăng, dịt = chịt, chít. Chằng chịt là cột cứng bằng nhiều dây rợ qua lại nhiều lần. Chít khăn là cột, quấn khăn. Theo d = n như dăm = năm, ta có dịt = nịt. Nịt là dây, đai, thắt lưng; nai nịt là cột người bằng thắt lưng, bằng dây. Như thế địt chỉ làm tình có nghĩa là dính vào nhau, cột vào nhau. Ta thấy rất rõ miền Bắc có từ đi tơ chỉ loài vật (thường là chó) giao hợp với nhau. Tơ là sợi dây. Đi tơ là cột vào nhau như cột bằng sợi tơ, sợi dây. Địt liên hệ với Phi Luật Tân Tagalog dikit, joined, Paiwan d’ekets (e ngược), to stick, gốc Uraustronesisch Dempwolff’s construction *deket (e ngược), to stick (Davidson). Rõ nhất là địt và Tagalog dik-, joined có nghĩa là nối với nhau, giao nhau cùng nghĩa với giao hợp. Địt liên hệ với Phạn ngữ snit, to love, yêu, có -nit là địt (n=đ như này = đây). Phạn ngữ snit biến âm với Phạn ngữ snih, attached, đính vào, cột vào. Rõ như ban ngày địt biến âm với dịt liên hệ ruột thịt với Phạn ngữ snit, snih. Ngoài ra địt cũng liên hệ với Phạn ngữ nidhuvana, sexual intercourse, làm tình. Rõ như “Con cua tám cẳng hai càng, Một mai hai mắt rõ ràng con cua” là địt liên hệ với phần đầu nid- của Phạn ngữ nidhuvana. Nid- = nịt = địt.
-Địt là đánh hơi
Theo biến âm đ = r như đôm đốp = rôm rốp (tiếng kêu), ta có địt = rít. Từ rít có một nghĩa là tiếng kêu do hơi thoát qua một ống hay một lỗ nhỏ như ấm nước sôi rít lên, còi tầu hỏa hay tầu thủy (chạy bằng hơi nước) rít lên từng hồi. Rít liên hệ với Phạn ngữ ri là rít, là rú lên. Ta có từ ghép rên rỉ với từ rỉ chính là Phạn Ngữ ri (các nhà ngữ học hiện nay cho rằng rên rỉ là tiếng láy với thành tố láy rỉ vô nghĩa là sai). Như thế đánh địt, đánh hơi là đánh rít. Vì thế mà người Bắc nói đánh hơi là đánh rắm, đánh rít là rắm rít. Rắm rít là đánh hơi. Ta thấy người Bắc nói rắm còn Trung Nam biến rít thành địt. Từ rắm rít là một từ ghép điệp nghĩa, rít có nghĩa là tiếng kêu thì rắm cũng phải có nghĩa là tiếng kêu. Thật vậy, rắm biến âm với rầm chỉ tiếng kêu như rầm rầm. Hiển nhiên đánh hơi cũng kêu thành tiếng. Trong một truyện tiếu lâm ví tiếng đánh hơi như tiếng sấm rầm rầm hay sấm gầm. Theo r = g như rợn = gợn (sóng) ta có rầm = gầm. Trong một buổi ngự triều, một vị vua đang ngủ gà ngủ gật, một ông quan lỡ đánh “bụp” rầm một tiếng làm vua giật mình thức dậy, hoảng hốt, vua hỏi “Cái gì kêu vậy?” Vị quan lanh miệng đáp: “Bẩm Thượng Hoàng, sấm kêu!”. Vua vặn lại “Sấm kêu sao lại thối?”. Vị quan chữa lại “Dạ có con cóc chết!”. Vua thắt mắc: “Cóc chết sao lại kêu?”. Vị quan giải thích: “Sấm kêu làm cóc chết!”. Vua giận “Cóc kêu gọi sấm thì làm sao sấm làm cóc chết được”. Rồi ra lệnh lôi vị quan ra chém đầu, nghi vị quan này muốn ám sát mình.
Rõ nhất là rít, địt liên hệ ruột thịt với Phạn ngữ dhish, to emit sound (phát ra tiếng kêu). Cũng rõ như “Con cua tám cẳng hai càng, Một mai hai mắt rõ ràng con cua” là địt ruột thịt Phạn ngữ dhish, phát ra tiếng kêu. Anh ngữ đánh hơi gọi là to fart liên hệ với Phạn ngữ pard (to fart), Hy Lạp ngữ là perdo, Old High German là ferzan. Các từ này có gốc fa-, pa-“ liên hệ với Việt ngữ phà là xì ra hơi, nhả ra hơi như phà ra hơi, phà khói, phì phà điếu thuốc và gốc pe-, fe– liên hệ với Việt ngữ phèo như thấy qua từ ghép phì phèo, với Hán Việt phế là phổi (phổi là cơ quan hô hấp phì, phà ra hơi…). Việt ngữ có từ phá thối nếu hiểu theo nghĩa thô tục thì gần cận với từ phà thối. Ở đây ta có thể dùng Việt ngữ phà ra hơi, đánh hơi để hiểu ngọn ngành Anh ngữ to fart là phà ra hơi.
Như thế ta thấy rất rõ hai từ địt của miền Bắc và Trung Nam là hai từ đồng âm dị nghĩa. Đúng ra Trung Nam phải nói đánh dít hay rít cho đồng điệu với từ rắm của miền Bắc theo đúng như từ đôi rắm rítthay vì địt mới không gây ra hiểu nhầm.
ĐÉO, LẸO.
Miền Bắc cũng thường dùng từ đéo chỉ làm tình như giai thoại “đá bèo” (nói lái lại là ‘đéo bà”) của Trạng Quỳnh và thơ Cao Bá Quát có câu:
Hai hồi trống giục, đù cha kiếp,
Một lưỡi gươm đưa, đéo mẹ đời.
Đéo biến âm với đeo, có nghĩa là bám cứng vào nhau, dính chặt vào nhau như “đeo như đỉa đói”. Đéo biến âm với “đèo” là chở nhau, ôm nhau, cõng nhau như đèo bòng tức đèo bồng (bồng là bế, bồng bế”). Đéo cũng biến âm với néo, hai khúc cây nối bằng một khúc dây dùng “neo” bó lúa để đập lúa. Néo hàm nghĩa cột cứng vào nhau (cùng nghĩa với nai, nịt, địt). Néo liên hệ với Anh ngữ nail, vật nhọn dùng đóng chặt hai vật vào nhau. Nguyên thủy neo, nail là nêu, cọc nhọn. Như thế từ đéo cũng có nghĩa giống như từ địt làm tình là dính vào nhau, cột vào nhau. Từ đéo biến âm với đeo, đèo, néo nghiêng nhiều về hình ảnh bám chặt vào nhau, ôm nhau, cõng nhau thường thấy nhiều ở loài vật khi giao cấu với nhau như hai con sam khi giao hợp ôm cứng nhau nên tục ngữ có câu “đeo như sam”, cóc ếch khi giao cấu ôm nhau, cõng nhau, đèo nhau… Theo biến âm đ = l như đãng tai = lãng tai, ta có đéo = lẹo. Lẹo cũng có nghĩa là làm tình như con đó với thằng đó lẹo tẹo với nhau. Hai con chó giao cấu với nhau thường nói là “mắc lẹo”.
ĐỤ
Trung Nam nói làm tình là đụ. Ta thấy có thể:
-Đụ là biến âm với đu có một nghĩa là bám cứng như đeo, với đâu (nối lại như đâu lại với nhau) cũng hàm nghĩa như từ địt của miền Bắc. Theo t = n như túm = núm (nắm, bắt) ta có địt = địn. Địn là từ nói trại đi của địt. Ta có từ đụn địn là từ nói trại đi của hai từ đụ địt. Địa khai ngôn ngữ đụn địn là đụ địt còn đào tìm thấy qua bài đồng dao sau đây:
Mười rằm trăng náu,
Mười sáu trăng treo,
Mười bẩy sẩy chiếu,
Mười tám rám trấu,
Mười chín đụn địn,
Hai mươi giấc tốt
. . . . . .
“Mười bẩy sẩy chiếu” là đêm mười bẩy sải chiếu, trải chiếu.“Mười tám rám trấu” là đêm mười tám đốt trấu làm lò sưởi đã cháy rám, đã cháy nám, đã bén cháy. Tất cả đã sửa soạn sẵn sàng xong, “Mười chín đụn địn” là đêm mười chín đụn địn, tức là làm tình đụ-địt. Các tác giả hiện nay thường giải thích “né tránh” cho khỏi thô tục cho đụn địn có nghĩa là “đi ngủ”. Từ ngủ cũng có nghĩa là làm tình như “con đó ngủ với nhiều thằng”. “Hai mươi giấc tốt” là đêm hai mươi ngủ ngon. Rõ ràng đêm mười chín đâu có ngủ, suốt đêm thức lục đục lo “đụn địn” nên đêm hôm sau mới lăn ra ngủ, mới có “giấc tốt”. Làm tình là liều thuốc ngủ thiên nhiên tốt nhất.
-Đụ là dạng giảm thiểu của đục. Từ đục bị đục bỏ chữ “c” cuối còn lại “đụ”. Đục chỉ động tác làm tình. Theo biến âm đ = th (đủng đỉnh = thủng thỉnh), ta có đục = thục, thúc, thọc, thụt, thọt liên hệ với Anh ngữ thrust, chỉ động tác làm tình.
-Đụ là biến âm với tụ, tủ (theo đ = t). Tụ có nghĩa là qui vào nhau như tụ tập, tụ họp. Đụ, tụ là kết vào nhau, dính vào nhau, đến với nhau. Những nghĩa này đều hàm ý làm tình thấy rất rõ qua từ Latin coitus, coire, Pháp ngữ coit có nghĩa đen là come together (có gốc “co-“, cùng, chung). Coitus, coit gần âm với Việt ngữ chơi (chơi là đến với nhau, cùng vui với nhau), chọi…
Còn tủ là phủ là che đậy. Phủ cũng chỉ nghĩa giao cấu, giao hợp như trong truyền thuyết có chuyện thuồng luồng “phủ” người. Làng Ngãi ở Bắc Việt có tục thờ bà Phạm Ngọc Dong. Bà đã được thuồng luồng phủ và sinh ra một bọc trứng nở ra Đại Hải Long Vương. Ông này sau làm tướng giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục bằng các quân lính hoàn toàn là loài thủy tộc. Hàng năm vào ngày mồng 3 tháng giêng, dân làng mở hội, cúng tế, bao giờ cũng có món gỏi cá để cúng ông thần sông Hà Bá và bà Chúa Đầm; cúng ở đình và ở các bến nước bằng gỏi cá. Vì thế tại vùng này có câu ca dao “Trống Mơ, cờ Sỏi, gỏi Nghìa” để ca tụng món gỏi cá nổi tiếng của làng Nghìa, làng Nghĩa tức làng Ngãi (Lê Thị Nhâm Tuyết). Mổ xẻ ta thấy quân Thục thuộc sắc dân Tầy-Thái thuộc họ ngoại Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương dòng Nước, âm, họ ngoại Âu Cơ (An Dương Vương dựng nước Âu Lạc kết hợp giữa Âu Việt của Âu Cơ và Lạc Việt của Lạc Long Quân). Vì thế phải có một vị tướng con của Thuồng Luồng có cốt cá sấu (cá sấu mới đẻ ra trứng) thuộc dòng nước là Đại Hải Long Vương (rõ ràng rồng Long có cốt cá sấu thuồng luồng) và phải dùng quân là các loài thủy tộc mới đánh thắng được quân Thục thuộc dòng nước. Ta cũng thấy tên Dong có nghĩa là bao bọc như thấy qua từ ghép đồng nghĩa bao dong. Lá dong là thứ lá dùng để bao, để bọc, để gói như bánh chưng. Dong là bao bọc là Nong là Nòng. Tên bà là Bao, Bọc nên bà đẻ ra một bọc trứng và bà là di duệ của Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng nở ra trăm Lang Hùng). Bà Phạm Ngọc Dong thuộc dòng nòng, dòng nước nên được thuồng luồng phủ là vậy. Ta cũng thấy công chúa Ngọc Dung (Dung biến âm của Dong như bao dung = bao dong) con vua Hùng vương có dòng máu “mẹ”, nước nên lấy một gã thuyền chài tên là Chử Đồng Tử (Cậu Con Trai sống bên Bến Sông) ở làng Chử Xá (Làng Ven sông). Cuối cùng tại sao chọn ngày 3 tháng giêng làm ngày hội? Xin thưa số 3 là số Đoài tức ao đầm và số 1 là số Chấn (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002) tức nước dương có một khuôn mặt là biển (Vua Mặt Trời Nước Lạc Long Quân có mạng Chấn nên có một khuôn mặt là Long Vương Thần biển hóa thành con Rùa Vàng Kim Qui giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa, xây thành xong con Rùa Vàng quay về Biển. An Dương Vương thuộc dòng nước Âu-Lạc, cuối đời cầm sừng tê giác bẩy khấc rẽ nước đi xuống biển là vậy). Ngày 3 tháng giêng đều là ngày của dòng nước, ao hồ sông biển.
Ở đây ta có thể dùng tiếng Việt tìm nguyên ngữ của Anh ngữ fuck. Từ “fuck” có gốc fu- ruột thịt với Việt ngữ phủ và fu(ck) = phủ = tủ = đụ.
Cuối cùng, như đã nói ở trên, là từ địt của miền Bắc liên hệ với phần đầu nid– của Phạn ngữ nidhuvana (sexual intercourse). Nid- = nịt = địt. Ta cũng thấy từ đụ của Trung Nam cùng âm –dhu- phần thứ hai của Phạn ngữ nidhuvana. Phải chăng miền Trung Nam lấy phần âm giữa còn miền Bắc lấy phần âm đầu ? Cả hai cùng một gốc Phạn ?
Những từ làm tình của Việt cũng mang ý nghĩa kết hợp, giao hòa, giao hợp nghĩa là mang ý nghĩa của Dịch lý. Qua hai từ địt của miền Bắc và đụ của miền Nam ta cũng thấy có sự phân biệt, chia rẽ như hai từ buồi và cặc.
Cước Chú
(1). Tôi gọi clitoris là hạt tình vì clitoris về cơ thể học tương đương với glans (qui đầu) của dương vật. Tiếng phổ thông glans chỉ một thứ hạt dẻ rừng, vì cơ thể học tương đương với nhau nên đã gọi glans là hạt thì clitoris cũng phải dùng từ hạt cho cân xứng.
Ta cũng thấy dân dã Việt Namgọi clitoris là “hạt chay” như thấy qua câu ca dao:
Chị em rủ nhau tắm đầm,
Của em son đỏ, chị thâm thế này?
Chị thâm là tại anh mày,
Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ lòm.
Bài viết dưới đây, Blog người hiếu cổ xin đưa ra một nghiên cứu sơ bộ về nguồn gốc của các từ biểu thị sinh thực khi nam giới trong cách gọi dân gian (thông tục). Trước tiên xin có một đoạn dẫn giải về tục thờ sinh thực khí và tín ngưỡng phồn thực như sau:
***
Tín ngưỡng phồn thực(1) là tín ngưỡng được sùng bái từ rất lâu đời và mang tính toàn thế giới. Chúng ta ngày nay vẫn còn thấy được rất nhiều hình vẽ, họa tiết hoặc tượng và các hoạt động mang tính nghi lễ liên quan đến văn hóa phồn thực. Có thể dẫn chứng một số ví dụ sau:
. Tại Việt Nam, tục thờ sinh thực khí ngày nay vẫn còn được lưu giữ tại các hội lễ mật tại miền Bắc, cùng với nghi thức “Linh tinh tình phọc” , hai vật tượng trưng này luôn được cất giữ rất trang trọng.
***
Nam giới tượng trưng cho dương khí, và sinh thực khí người nam tượng trưng cho 1 trong 2 nguyên lý để hóa sinh vạn vật. Người Nhật Bản rất coi trọng sinh thực khí nam giới, chính vì thế có rất nhiều lễ hội thờ và rước sinh thực khí nam tại đây. Điển hình là lễ hội Kanamara (xem hình 3) Tôi xin đi vào chủ đề chính của bài viết: Sinh thực khí người nam giới (tức bộ phận sinh dục nam) trong vốn từ dân gian rất phong phú, có rất nhiều cách gọi. Nhưng đúng với “tính võ đoán” của ngôn ngữ, ngày nay chúng ta chỉ biết từ đó nghĩa là như thế, nhưng không hiểu vì sao nó lại được dùng với nghĩa như vậy. Chính vì thế, nhân đọc về nghi lễ rước dương vật của người Nhật, tôi xin đưa ra mấy suy nghĩ về nguồn gốc của các từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi thông tục. Xin liệt kê những từ dùng trong dân gian (thông tục) với nghĩa chỉ sinh thực khí nam giới: - Buồi - Cặc - Dái - Nõ
***
Ta tìm hiểu từ “Cặc”: Từ này thực ra có liên quan đến từ “Cọc” (chữ Nôm) và “Cực” (chữ Hán). “Cực” có nghĩa là cái cột cao nhất của ngôi nhà, nôm na ta hiểu là cái cột. Mà cột với “cọc’ cùng tính chất, nên sau này người ta dùng chữ “cực” cũng với nghĩa là “cọc”. Người xưa chơi chữ rất hay, “cọc” đọc lái đi để chỉ sinh thực khí nam giới. Như vậy ta thấy ở đây có một chuỗi biến đổi khá logic: Cực – Cột – Cọc – Cặc Vì thế mà khi đọc bài thơ “Quả mít” của Hồ Xuân Hương, ta thấy rất rõ ẩn ý của bà: “Quân tử có thương thì đóng cọc Xin đừng mân mó nhựa ra tay” Lại có một minh chứng nữa cho luận giải “Cặc – Cọc”, đó chính là cụm từ “Cặc bần” của miền Tây Nam Bộ. Có câu: “Nước chảy, cặc bần rung bây bẩy Gió đưa, dái mít giãy tê tê”
“Bần” là một loài thực vật. Học giả Vương Hồng Sển viết về cây bần như sau: “Bần là cây gỗ tạp, mọc dựa mé nước, rễ nhiều, bám theo đất phù sa mà làm cho đất có phần vững chắc không trôi khi sóng đánh. Cây bần có lá xanh rất đẹp, ban đêm đom đóm đậu nhiều trông rất xinh. Có trái, ăn với mắm sống rất ngon. Chúa Nguyễn Ánh được nếm qua, rất hài lòng và ban cho tên chữ là Thúy Liễu. Rễ của bần dùng làm nút ve được. Phân ra có loại bần-chua, trái lớn; và bần-ổi, trái nhỏ hơn và tương đối ít chua hơn. Xưa nay, nghề uốn và chơi kiểng, phàm cây kiểng lão và gốc bần quá già, khi nào gốc dẽ ra ngoài bờ ngoài nước thì gọi là nó chiếu thủy, ý nói bóng cây ấy làm dáng và dòm xuống nước”(2) Nhìn hình 4 chúng ta thầy những cái nhô lên chính là “cọc bần”, nhưng người Tây Nam Bộ gọi là “Cặc bần” chính vì hiện tượng mà tôi đã lý giải ở trên.
***
Trong từ điển tiếng Việt, ta bắt gặp nhiều cụm từ như: Dái mít, dái tai, dái khoai,… Có một đặc điểm chung, các từ đó đều chỉ những bộ phận mà có nhô ra hoặc lồi ra ngoài. Như “dái tai” chỉ phần thịt tai chảy xệ xuống; “dái khoai” chỉ củ nhánh sinh ra theo dây khoai; “dái mít” chỉ phần quả mít non nhô ra và chưa thành hình quả(3)… (Xem hình 5) Vậy những thứ gì nhô ra và có dáng lồi hoặc trĩu xuống thì được gọi là “dái”, vì thế chúng ta đã hiểu vì sao sinh thực khí nam giới lại được gọi là “dái” phải không nào
***
***
Còn từ “Buồi” thì sao? Thực ra từ này tôi cũng chưa thực sự có một cách giải thích hợp lý. Tuy nhiên, dựa vào âm đọc và tự dạng của chữ Nôm, tôi đưa ra một giải thuyết: “Buồi” gần âm với “Bùi” 裴, mà từ “bùi” tôi có phân tích tại bài viết “Thâm nho nhọ đít: Nỡ lòng để con cháu không có quần áo!”: “Bùi” tức là “phi y" (không có quần áo), vì thế mà người xưa dùng nghĩa chơi chữ đó để chỉ sinh thực khí nam giới chăng? Giả thuyết này xin được các học giả cùng bạn đọc góp ý để người viết được mở mang kiến thức. Xin chân thành cảm ơn!
***
Tựu trung lại, tôi vừa đưa ra một số phân tích để sơ lược nêu ra nguồn gốc của các từ ngữ thông tục chỉ sinh thực khí nam giới để bạn đọc tham khảo. Biển học vô bờ, mọi người còn nhiều kiến thức rộng rãi hơn nữa, bài viết ở mức sơ lược, Blog người hiếu cổ rất mong được sự rộng lượng châm chước.
______________________________________
(1) Phồn thực : có nghĩa là sinh sôi nảy nở. Tín ngưỡng phồn thực hiểu đơn giản là sự sùng bái hoạt động tình dục nam nữ, coi đó là mầm mống của sự duy trì và phát triển nòi giống. Tín ngưỡng phồn thực thể hiện rõ nhất trong việc thờ sinh thực khí (tức bộ phận sinh dục) của nam và nữ và các nghi lễ tượng trưng cho sự giao hợp nam nữ.
Lồn là gì ? Ý nghĩa của từ Lồn
Lồn là âm hộ – Là cơ quan sinh dục nữ. Nơi để quan hệ tình dục.
Lồn là một khái niệm mà đã là dân Việt Nam thì hầu như ai cũng biết. Ngày nay chúng ta có thể gặp từ “lồn” ở bất cứ nơi đâu trong cuộc sống hàng ngày. Từ ông xe ôm đến bà đồng nát, từ thằng nhóc đánh giày đến các đứa bé sơn móng tay, từ ông bán bánh mì đến các bà bán thịt, từ thằng nghiện đến các chị cave, từ học sinh đến sinh viên, từ người ít học đến người nhiều học… Tất cả đều có thể, trong một phút giây nào đó, phát ngôn ra : “Lồn !”.
Lồn là gì
Cách dùng:
Từ tục, đây là một danh từ của týp ít người bình dân hôm nay còn sử dụng, có văn hóa thấp, nên từ ngữ này dùng không được thanh bai cho lắm, ý để chỉ “cái cửa mình”, để chỉ, để nói về bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Thông thường, trong sinh họat đời thường thì từ này được sử dụng trong tình huống kể chuyện tục, chuyện tiếu lâm, hoặc để người ta văng tục, chửi thề … theo kiểu thiếu văn hóa. Riêng trường hợp khác, trong câu vè bình dân, câu đố dân gian xa xưa thì danh “cái lồn” hay “lồn” thì từ này không có dụng ý xấu, hay tục tĩu mà là người xưa muốn ám chỉ, nói bóng gió đến hình tượng khác … chứ không phải để để ám chỉ bộ phận sinh dục của người phụ nữ như nói trên.
Người Việt nhiều khi dùng từ lồn để ví von, ca ngợi :
Đẻ đứa con khôn, mát lồn rười rượi
Đẻ đứa con dại, thảm hại cái lồn
Gắn phù lồn mèo, (dán bùa lồn mèo)
Sồn sồn như lồn phải lá han
Lồn là mít, đít lồng bàn (Tướng phụ nữ ham muốn dục vọng cao)
Lồn bà bà tưởng lồn ai
Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền.
Lồn lá vông, chồng trông chồng chạy
Lồn là mít, chồng hít chồng ngửi
Lồn lá tre, chồng đe chồng đánh
Lồn Cổ Am, Cam Đồng Dụ, Vú Đồ Sơn (Làng Cổ Am ngày xưa lắm người đỗ đạt nên người ta ví ở đó có những cái lồn tốt đẻ ra người tài)
Cơm nhà, cháo chợ, lồn vợ, nước sông (Phong lưu khoáng đạt)
Lo co đầu gối, lo rối lông lồn (Lo lắng)
Lồn chằng ghế đá, lồn vá xe hơi
Về ca dao:
– Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần lồn ám ảnh mà mê mẩn đời.
(Câu có ý tương tự : Ma bắt hồn, thần lồn bắt vía)
Đấy, “chữ nghĩa bề bề” còn bị ám ảnh bởi “lồn” chứ đừng nói đến bọn dân đen ít học.
– Lồn này lồn chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu địt dai đau lồn
– Lồn bà bà tưởng lồn ai
Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền
– Trên trời có ông sao rua
Lồn em tua tủa có thua chi nào
– Cơm ăn mỗi bữa mỗi niêu
Tội gì bắt ốc cho rêu bám lồn
Thơ:
– Thu Vân giới thiệu Thu Bồn
Thu Bồn sướng quá vỗ lồn Thu Vân.
Thu Bồn ngồi cạnh Thu Vân
Thu Vân tinh nghịch cấu chân Thu Bồn
Thu Vân ngồi cạnh Thu Bồn
Thu Bồn tinh nghịch cấu lồn Thu Vân
– Sầm Sơn sóng vỗ dập dồn
Ba cô áo trắng ngửa lồn lên bơi.
– Chợ Đồng Xuân có tiếng đồn
Có chị bán trứng vịt lồn rất to.
– Lồn lá vông, chồng trông chồng chạy
Lồn là mít, chồng hít chồng ngửi
Lồn lá tre, chồng đe chồng đánh
– Dậm chân xuống đất cái đùng
Vỗ lồn phành phạch anh hùng đến đây
Ngôn ngữ thời@:
– Vãi cả lồn: thán phục một điều gì đó.
– Sồn sồn như chó cắn lồn: nó giống với câu “sồn sồn như lồn phải lá han”, ý chỉ sự hấp tấp.
– Ngu lồn: rất rất ngu
– Hãm lồn: hãm tài, bế tắc, tiêu cực.
– Ăn cái lồn: không được đâu, không ăn thua đâu.
– Hà Thiên Lộn = Lồn thiên hạ, ý nói đa dâm.
– Mặt thiếu nhi mà lồn thì Từ Hy thái hậu: chỉ những cô gái còn trẻ nhưng đã ăn nằm với nhiều người.
– Khổ vì lồn: chỉ những chàng trai si tình, lụy tình.
– Vì lồn mà tâm hồn điên đảo: ý nghĩa tương tự câu trên.
– Lời như đồn = Đời như lồn: buồn đời, chán đời.
– Lộn cái bàn = Bạn cái lồn: thái độ bức xúc khi tỏ tình nhưng bị gái từ chối “chúng mình chỉ là bạn”.
– Cười như lồn cười với cứt: cười rũ rượi.
– Tiền ít mà đòi hít lồn thơm: chỉ những chàng trai vô dụng nhưng muốn gái đẹp.
Tuy nhiên, từ này được coi là từ bất lịch sự trong giao tiếp.
ăn cái lồn, có cái lồn – phủ nhận điều gì đó
thằng/con mặt lồn – chửi bậy
vãi cả lồn – thán phục điều gì đó, có thể mang nghĩa tiêu cực
xấu vãi lồn – rất rất xấu
như cái lồn – chê bai một điều gì đó
Vãi lồn còn được nói trại đi thành vãi lúa hay vãi lờ, hoặc viết thành vl.
Có thể mang ý nghĩa khi giận dữ. Ví dụ:
– “Nóng vãi lồn!” (nóng nực không chịu được);
– “Chán vãi lồn!” (quá chán);
– “Thời tiết như lồn!” (thời tiết xấu quá);
– “Nhìn cái lồn à?” (mày nhìn gì tao thế?);
– “Lải nhải cái lồn!” (đừng nói nữa tao nhức đầu lắm);
– “Thằng mặt lồn” (tao ghét mày rồi đấy!);
– Đơn giản hơn: “Lồn!” (chán không còn từ gì để nói).
Cũng có khi người ta dùng từ “lồn” để biểu đạt sự nghi vấn:
– “Cái lồn gì thế?” (cái gì thế);
– “Nó nói cái lồn gì thế nhỉ?” (bạn ấy nói gì tớ nghe không rõ);
– “Thế là thế lồn nào?” (thế này là thế nào);
– “Thằng lồn nào kia?” (thằng nào kia?);
Đa phần trong trường hợp này từ “lồn” chỉ mang tính chất bổ ngữ bổ sung sắc thái, có thể loại bỏ từ này mà không làm mất đi ý nghĩa của câu.
Cũng có lúc người ta sử dụng từ “lồn” để thể hiện sự phấn khích:
– “Sướng vãi cả lồn” (quá sướng);
– “Đẹp vãi lồn” (đẹp quá);
– Hoặc đơn giản hơn: “Vãi lồn!” (hay quá/tuyệt quá/kinh ngạc quá/wonderful…)
Từ lồn đa số mang nghĩa tục tĩu nhưng hiện nay vẫn có nhiều câu đố từ ngày xưa truyền lại trong đó có từ lồn:
Bốn cô trong tỉnh mới ra
Cái lồn trắng hếu như hoa ngó cần
Sư ông tẩn ngẩn tần ngần
Cái buồi cửng tếu như cần câu rô
Đôi khi có những câu đố tuy tục nhưng lời giải lại thanh, ví dụ là câu đố về bộ ấm chén. Nhưng trong một số giao tiếp, tối kỵ dùng từ lồn, đặc biệt là người hơn tuổi, điều đó hết sức bất lịch sự và thô tục.
Đàm đạo về lồn công nhận là mệt vãi cả lồn.

Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2022

 Tháng sáu bỏ đi rồi

tháng bảy về ngồi đợi
hạt mưa sầu bối rối
một mùa ngâu cơ cầu

Nào phải đâu tình đầu
để yêu thương lầm lỗi 

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2022

CHỈ DẪN CHO BẠN TỚI ĐỊA NGỤC

 

Susan Nguyễn
Theo thống kê của tôi, trong 31 cõi giới của Vũ trụ quan Phật giáo cũ, 25 cõi là cõi thần linh, thường được cho là đủ điều kiện để được gọi là “thiên đường”. Trong những cõi giới còn lại, thường thì, chỉ có một cái được nhắc đến là “địa ngục”, hay còn gọi là Niraya trong tiếng Pali (tiếng Ấn Độ cổ) hoặc Naraka trong Phạn ngữ. Naraka là một trong sáu cõi giới của Dục giới.
Hiểu một cách ngắn gọn, sáu cõi giới là sự mô tả những dạng thức tồn tại có điều kiện khác nhau mà các giống loài được tái sinh trong đó. Bản chất sự tồn tại của một cá thể được quyết đinh bởi karma (nghiệp). Một vài cõi giới thì thoải mái hơn những nơi còn lại — thiên đường nghe có vẻ thích hơn là địa ngục — nhưng tất cả đều là dukkha (khổ – một khái niệm quan trọng của Phật giáo), tức là tất cả các cõi giới đều chỉ là cõi tạm và bất toàn.
Mặc dù, một vài thầy giảng Pháp có thể cho bạn biết những cảnh giới này là những nơi có thật, tồn tại ở thể lý, nhiều người khác giải thích những cảnh giới này theo nhiều cách khác bên cạnh cách hiểu theo nghĩa đen. Nó có thể đại diện cho sự chuyển giao trạng thái tâm lý của một người hoặc các loaị hình tính cách. Nó có thể được hiểu như những biểu tượng của một kiểu hình thức phóng chiếu thực tại. Bất kể chúng là gì — thiên đường hay địa ngục hay gì khác nữa — không có nơi chốn nào là vĩnh hằng.
Nguồn gốc của Địa ngục
Một kiểu địa ngục hay thế giới ngầm được gọi là Narak hay Naraka cũng được tìm thấy trong Hindu Giáo, Đạo Sikh, và Đạo Jain. Yama, vị thần cai quản địa ngục của Phật Giáo, cũng xuất hiện lần đầu tiên trong kinh Vệ Đà.
Tuy nhiên, trong những văn tự đầu tiên chỉ mô tả Naraka như một nơi tối tăm và u sầu. Khái niệm về nhiều địa ngục vẫn tồn tại trong suốt thiên niên kỷ thứ 1 TCN, Những địa ngục này có những hình thức tra tấn khác nhau, và việc tái sinh vào cõi ngục nào phụ thuộc vào tội lỗi mà người đó đã phạm phải. Trong thời gian đó, nghiệp chướng của tội lỗi được tiêu tán, và người đó có thể rời đi.
Phật giáo của buổi sơ khai cũng có những lời dạy tương tự về các tầng ngục. Điểm khác biệt lớn nhất là kinh văn Phật giáo sơ khai nhấn mạnh vào việc không có ông thần hay trí thông minh siêu việt nào đưa ra phán xét hoặc chỉ định về nơi linh hồn sẽ tới. Karma, được hiểu là một quy luật thuận tự nhiên, sẽ dẫn đến sự tái sinh phù hợp.
“Địa hình”của cõi ngục
Vài văn bản trong Pali Sutta-pitaka có mô tả Naraka của đạo Phật. Ví dụ, Devaduta Sutta (Majjhima Nikaya 130) có đi vào các chi tiết đáng lưu ý. Nó mô tả một chuỗi tra tấn mà trong đó người ta sẽ trải nghiệm kết quả của chính những nghiệp mình gây ra. Đó là thứ khủng khiếp, kẻ sai trái sẽ bị đâm bởi thanh sắt nóng, xẻ bằng rừu và thiêu trong lửa. Anh ta sẽ phải đi qua một rừng gai và sau đó là một rừng kiếm lá. Miệng của anh ta sẽ bị mở ra để đổ kim loại nóng chảy vào. Nhưng anh ta không thể chết chừng nào những karma (nghiệp chướng) anh ta gây ra chưa hết kiệt.
Về sau, mô tả về các cõi ngục được phát triển thêm nhiều chi tiết hơn. Kinh Mahayana (Phật giáo Đại Thừa) đặt tên cho những tầng địa ngục và hàng trăm tầng ngục phụ. Mặc dù vậy, phần lớn trong Kinh Mahayana, người ta nghe về 8 địa ngục lửa hoặc địa ngục nóng và 8 địa ngục lạnh hoặc địa ngục băng.
Địa ngục băng thì ở trên những tầng ngục nóng. Những tầng ngục băng được mô tả những vùng đồng bằng hay núi non bị đóng băng hoang vắng và mọi người phải ở trần ở đó. Những tầng ngục băng là:
Arbuda (địa ngục đóng băng trong khi da phồng rộp)
Nirarbuda (địa ngục đóng băng trong khi những vết phồng rộp há miệng)
Atata (địa ngục run rẩy)
Hahava (địa ngục run rẩy và rên rỉ)
Huhuva (địa ngục của tiếng răng va lập cập cộng tiếng rên rỉ)
Utpala (ở địa ngục này da bị chuyển thành màu xanh giống như bông sen xanh)
Padma (địa ngục hoa sen nơi da bị nứt nẻ)
Mahapadma (địa ngục hoa sen lớn nơi cơ thể đông cứng đến mức phân rã ra)
Những địa ngục nóng bao gồm những nơi nấu người trong vạc hoặc lò nướng và những ngôi nhà bằng kim loại trắng nóng bắt nhốt người đó lại kèm theo những con quỷ dùng cọc kim loại nóng để đâm vào. Người sẽ bị cắt thành từng mảnh bằng cưa đang cháy và nghiền nát bằng những búa kim loại nóng khổng lồ. Và ngay khi ai đó bị nấu chín kỹ, thiêu cháy, cắt rời hoặc nghiền nát, người đó sẽ lại sống lại và trải qua tất cả những điều đó một lần nữa. Tên gọi thông dụng cho 8 tầng địa ngục nóng ấy là:
Samjiva (cõi ngục của những cuộc tấn công lặp đi lặp lại)
Kalasultra (cõi ngục của những đường kẻ hoặc dây màu đen, là đường chỉ dẫn cho những cái cưa)
Samghata (cõi ngục sẽ bị nghiền nát bởi những vật nóng và khổng lồ)
Raurava (cõi ngục của sự la hét khi chạy vòng quanh nền đất đang cháy)
Maharauvara (cõi ngục la hét khủng khiếp bởi bị thú vật ăn thịt)
Tapana (cõi ngục nóng như thiêu đốt trong khi bị giáo đâm xuyên qua)
Pratapana (cõi ngục nóng như thiêu đốt trong khi bị đinh ba đâm xuyên qua)
Avici (cõi ngục bị nướng trong lò liên tục)
Khi Phật giáo Đại thừa được truyền bá khắp châu Á, địa ngục “truyền thống” đã bị trộn lẫn với các địa ngục của văn hóa dân gian địa phương. Ví dụ, Địa phủ của Trung Quốc là sự kết thành do pha trộn từ nhiều nguồn và được cai quản bởi 10 vị vua Yama.
Xin lưu ý rằng, để nói một cách chính xác Cõi Hung Nô (ma đói) là tách biệt với cõi địa ngục, nhưng bạn sẽ chẳng muốn ở bất kỳ nơi nào trong cả hai nơi hết.
Barbara O’Brien