Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

CÁCH SỬ DỤNG DANH TỪ ĐƠN VỊ TIẾNG VIỆT



1. Dẫn nhập

Trong mươi năm gần đây, cùng với quá trình dạy tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ thứ hai, có rất nhiều vấn đề lộ ra, cho thấy ngữ pháp tiếng Việt chưa thật sự được lập thức một cách đầy đủ và hệ thống. Loại từ là một trong những vấn đề như thế. Có thể nói, đối với người nước ngoài, đây là một thách thức lớn đeo đẳng họ từ những giờ đầu tiên theo học đến khi họ được xem là thành thạo tiếng Việt.
Thật ra, danh từ đơn vị là một trong những khái niệm ngữ pháp được rất nhiều nhà nghiên cứu tập trung khảo sát (Nguyễn Tài Cẩn, Lý Toàn Thắng, Hồ Lê, Trần Đại Nghĩa, Vũ Đức Nghiệu, Cao Xuân Hạo, v.v.) với tên gọi “từ chỉ loại”, “danh từ chỉ loại”, “danh từ đơn thể”, (và phổ biến nhất là) “loại từ”; và diện mạo của nó ngày càng trở nên rõ ràng hơn.
Đặc biệt, với hàng loạt công trình trong những năm 1990, Cao Xuân Hạo đã đứng hẳn trên bình diện ngữ pháp để xử lý danh từ đơn vị trong khuôn khổ của một cấu trúc danh ngữ, dù rằng quan niệm của ông có nhiều điểm vẫn còn đang tranh cãi [5] [7].
Theo Cao Xuân Hạo, danh từ đơn vị là loại danh từ chỉ những hình thức tồn tại của các thực thể phân lập trong không gian, thời gian hay trong một chiều nào khác được hình dung giống với không gian, có thể được tri giác tách ra khỏi bối cảnh và khỏi các thực thể khác, kể cả các thực thể cùng tên; chẳng hạn: bên, bó, cái, con, dãy, kí, khẩu, phía, thước, viên, xâu, yến, v.v..

Theo danh sách mà Cao Xuân Hạo đưa ra thì danh từ đơn vị có thể bao gồm các danh từ đếm được nhưcái, chiếc, tấm, con, trái, bức, cục, viên, thanh,... hoặc nhóm danh từ chỉ những đơn vị tính toán gồm lít, thước, ký, tấn, thúng, ly, muỗng, bao,… hoặc nhóm danh từ chỉ những sự vật đếm được là những đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, xã, phường, v.v..
Cao Xuân Hạo đã lập thức một cách hết sức cụ thể rằng trong cấu trúc danh ngữ có danh từ đơn vị làm trung tâm có thể có các định ngữ sau [4: 90-91]:
- Định ngữ chỉ lượng: đứng trước là các lượng ngữ (các lượng từ xác định – một , hai, ba, bốn, năm,... – và các lượng từ không xác định: những, các, mọi, mỗi, từng, tất cả,...); đứng sau là các lượng từ mốt, hai, ba, tư, rưỡi, sáu, bảy, tám, chín; chẳng hạn: năm quyển sách, những ngôi nhà này, hai kí rưỡi thịt, một chục cam;
- Định ngữ chỉ loại: do danh từ khối đảm nhiệm; chẳng hạn: hai kí rưỡi thịt, một chục cam;
- Định ngữ hạn định: do ngữ danh từ, ngữ vị từ, tiểu cú (cụm chủ vị), đại từ chỉ định (này, ấy, kia, nọ, đó), số từ, các từ diễn đạt nghĩa “duy nhất” (đầu tiên, thứ nhất, cuối cùng, thứ bảy, đẹp nhất, v.v.) đảm nhiệm; chẳng hạn: quyển sách anh tặng tôi, quyển sách bìa màu đỏ ấy, bài thơ cuối cùng vừa viết xong ấy;
- Định ngữ miêu tả: nhằm bổ sung một ý, nhưng không nhằm hạn định cho trung tâm; chẳng hạn: bắt được một con cá mè to tướng.
Trong khi đó, danh từ khối chỉ có thể có một định ngữ phía sau là định ngữ chỉ loại; chẳng hạn: thịt bò, cábiển, khoai tây.
Danh từ đơn vị, nói chung, không có khả năng tự lập thành ngữ danh từ (trừ một vài điều kiện nhất định), cho nên nhận diện được các định ngữ cũng có nghĩa là nhận diện được các quan hệ ngữ pháp trong một ngữ đoạn danh từ. Điều đó, đối với người nước ngoài (học tiếng Việt) lại càng đặc biệt có ý nghĩa. Theo quan sát của chúng tôi, trong quá trình sản sinh ngôn ngữ (tự mình tạo ra phát ngôn), học viên nước ngoài thường xuất phát trước hết từ danh từ khối (và kế đó, từ các định ngữ theo sau) để xây dựng ngữ đoạn danh từ vì trong đầu họ cái đối tượng tri nhận được gọi tên bằng một danh từ khối (vì họ dịch từ tiếng mẹ đẻ ra) chứ không phải bằng một danh từ đơn vị. Chẳng hạn, khi nhìn thấy một quyển sách mới màu xanh, trong đầu họ sẽ xuất hiện tên gọi “sách” (chứ không phải là “cuốn”, càng không phải là “cuốn sách”) và sau đó, họ sẽ “gán” các thuộc tính cho “sách” (“mới”, “màu xanh” hoặc “xanh”, “này”); từ đó hình thành ngữ đoạn. Có thể nói, cái mà học viên nước ngoài cần chính là những “chỉ thị” nhằm trả lời câu hỏi “Khi nào thì cần danh từ đơn vị và khi nào thì không?”. Những “chỉ thị” đó càng đơn giản, mang tính thao tác, càng giúp họ dễ sản sinh phát ngôn.
Xuất phát từ điều vừa nói, trong khuôn khổ bài này, chúng tôi sẽ xây dựng các “công thức” nhằm chỉ ra cho người học thấy, với những gì họ muốn nói, khi nào thì cần hoặc không cần một danh từ đơn vị. Hay nói rõ hơn, chúng tôi sẽ làm một chỉ dẫn “ngược”: chẳng hạn, chúng tôi không giải thích danh từ đơn vị “cuốn” cần và có thể có những định ngữ nào theo sau nó mà chúng tôi chỉ ra, khi nào cần một danh từ đơn vị xuất phát từ những yếu tố (được gọi là định ngữ, mà trước hết là danh từ khối) họ đã có trong đầu. Về lý thuyết ngữ đoạn, chúng tôi dựa chủ yếu vào quan điểm của Cao Xuân Hạo trong [2] [3] [4].


2. Cách thức sử dụng danh từ đơn vị

2.1. Trường hợp danh từ đơn vị buộc phải có mặt trước danh từ khối
2.1.1. Danh từ đơn vị buộc phải xuất hiện trong một danh ngữ có danh từ khối đi kèm với lượng từ.
Lượng từ trong tiếng Việt có 2 loại: số từ và lượng từ không xác định.
2.1.1.1. Đối với số từ thì theo công thức: [số từ + Dtđv + Dtk], ví dụ: bảy trái cam; hai cuốn sách; một đĩa cơm, ba cây bút.
Sẽ sai ngữ pháp nếu danh từ đơn vị không được đặt giữa số từ và danh từ khối (chẳng hạn: hai quạt máy, ba xe máy, năm sách, ba gà). Danh từ đơn vị có thể vắng mặt (do tỉnh lược) trong những trường hợp sau:
- Khi liệt kê một danh sách nhiều đối tượng đồng chất:
(1) Trong kho hiện còn ba quạt máy, năm tủ lạnh, bốn máy giặt.
(2) Phòng nào cũng chỉ có một giường, một tủ.
- Khi nói về những đối tượng mà khái niệm đơn vị của nó là hiển nhiên, nội dung truyền đạt chủ yếu nằm ở sự phân biệt các “loại”, các “thứ” khác nhau. Do vậy, hiện tượng tỉnh lược này thường thấy trong bối cảnh mua bán, trao đổi. Nói chung, ngoài khẩu ngữ, cách dùng này khó có thể xem là chuẩn mực.
(3) Chị ấy có hai gái/con/em trai. (thay vì Chị ấy có hai đứa con (gái)/em trai)
(4) Ba đá đi! (thay vì Ba ly cà phê đá)
(5) Một bánh mì thịt! (thay vì Một ổ bánh mì thịt)
2.1.1.2. Đối với lượng từ không xác định, kể cả số đơn (một, mỗi, từng) và số phức (các, những, mấy, vài, dăm, mươi), có thể theo công thức: [lượng từ không xác định + Dtđv + Dtk]. Ví dụ: một người đàn ông, mỗi đĩa cơm, từng miếng thịt, những món quà, các bức tranh, vài giọt nước, mươi cuốn sách.
Có ba lượng từ biểu thị ý nghĩa “toàn bộ” cũng đòi hỏi phải có danh từ đơn vị là cả và nguyên, toàn bộ, vì ý nghĩa “toàn bộ” của nó hàm ý rằng đối tượng được nói đến là một thực thể hoặc một khối duy nhất (trên thực tế, trong cái khối duy nhất ấy có thể bao gồm nhiều bộ phận, nhiều phần), phân lập với những đối tượng khác (khác với tất cả – từ này cho biết sau nó là nhiều thực thể riêng biệt).
(6) Hai anh em nó ăn nguyên con gà.
(7) Chiếc xe hơi phá nát cả bức tường.
(8) Họ dán quảng cáo trên toàn bộ bức tường.
Công thức này cũng được ứng dụng khi định ngữ là danh từ khối được thay bằng một vị từ, chẳng hạn: các buổi học, mỗi bữa ăn, vài món ăn, một bài hát, cả băng cướp, nguyên ngày nghỉ.
Khác với trường hợp số từ, khi có lượng từ bất định khả năng tỉnh lược danh từ đơn vị hầu như không có, kể cả trong khẩu ngữ (không thể nói: “Tôi có gặp một đàn ông”, “Mỗi sách giá ba chục ngàn”, “Tôi nhận được những quà rất đẹp”).
Lý do là sự có mặt/vắng mặt danh từ đơn vị hoặc là sai ngữ pháp hoặc sẽ làm thay đổi ý nghĩa của danh từ khối theo sau. So sánh:
(9) Mỗi căn nhà trị giá một tỉ đồng. // *Mỗi nhà trị giá một tỉ đồng.
(10) Chúng tôi đến thăm từng nhà. // ??Chúng tôi đến thăm từng ngôi nhà.
(11) Họ đưa thư mời đến từng nhà. // *Họ đưa thư mời đến từng ngôi nhà.
(12) Mỗi nhà phải có một người đi họp. // *Mỗi căn nhà phải có một người đi họp.
(13) Mỗi bàn bốn người. // ??Mỗi cái bàn bốn người.
Câu (9) nói về giá tiền của cái thực thể vật chất (là “căn nhà”) nên phải có danh từ đơn vị; câu (10) – (12) nói đến một tập hợp gồm các thành viên có quan hệ huyết thống với nhau (= gia đình) nên không thể có danh từ đơn vị; câu (13) nói đến cái không gian trong đó có bốn người tồn tại nên không thể dùng danh từ đơn vị.
Cũng có một lệ ngoại dành cho danh từ Hán Việt – vốn là những danh từ khối chỉ chất liệu nhưng có thể được dùng như danh từ đơn vị. Danh từ Hán Việt có thể kết hợp trực tiếp với cả số từ lẫn lượng từ bất định mà không cần đến danh từ đơn vị. Ta có thể nói bốn bác sĩ, ba quân nhân, các sinh viên, vài cán bộ, một tiểu thuyết, mỗi phương tiện. Nhưng điều đó không có nghĩa là sự có mặt hay vắng mặt danh từ đơn vị không có ý nghĩa: trong một phát ngôn mà danh ngữ biểu thị những thực thể chưa xác định hoặc chưa hiện thực thì không thể xuất hiện danh từ đơn vị. So sánh các câu sau đây:
(14) a. Ở đây đang cần hai/một số bác sĩ. (ss: *Ở đây đang cần hai/một số người bác sĩ.)
b. Chúng tôi may mắn được gặp hai (người/ông) bác sĩ có lương tâm.
(15) a. Sắp tới công ty sẽ tuyển dụng khoảng 60 công nhân may. (ss. *Sắp tới công ty sẽ tuyển dụng khoảng 60 cô công nhân may.)
b. Cả 60 (cô) công nhân may phân xưởng I đều chưa chồng.
Liên quan đến phạm trù số cần chú ý rằng danh từ khối thì không bao hàm số; trong khi đó, danh từ đơn vị bao giờ cũng phải được đánh dấu về số, sự vắng mặt lượng từ được hiểu là một.
(16) Nó mới mua bút chì. (không xác định được lượng)
(17) Nó mới mua cây bút chì. (hiểu là một cây)
2.1.2. Danh từ đơn vị buộc phải xuất hiện trong một danh ngữ (có chứa danh từ khối) để biểu thị một/những thực thể đã được xác định.
Những dấu hiệu thể hiện tính xác định của danh ngữ có thể được nhận diện qua:
2.1.2.1. Sự có mặt của các từ chỉ định như này, kia, ấy, đó. Có thể đưa ra công thức sau: [Dtđv + Dtk + này/kia/ấy/đó], ví dụ: con chó đó, bức tranh ấy, đứa em này.
Xét về mặt chức năng, từ chỉ định trong trường hợp này là định ngữ của danh từ đơn vị chứ không phải là định ngữ của danh từ khối chỉ chất liệu [3: 277]. Hệ quả là (i) danh từ khối có thể vắng mặt nếu cả người nói và người nghe đều đã biết (cái này, bức đó, cây kia); (ii) những danh ngữ có từ chỉ định theo sau danh từ khối mà không có mặt danh từ đơn vị thì, về nguyên tắc, sẽ được hiểu là biểu thị chủng loại – có nghĩa là trong hầu hết trường hợp đều có thể giải thích là tỉnh lược danh từ đơn vị loại hoặc thứ (có thể là một số từ khác:hạng, kiểu, cỡ, hiệu...); nếu không, danh ngữ đó được xem là không hợp ngữ pháp.
(18) Gà này thịt mềm lắm. à Loại gà này...
(19) Áo đó hết rồi. à Loại/Kiểu áo đó...
(20) Tôi nghĩ máy này tiết kiệm điện hơn. à ... loại/thứ/kiểu máy này...
(21) *Cô ấy tặng tôi quà này. à ... *loại quà này.
Trong các ví dụ trên, câu (21) không được chấp nhận vì không có danh từ đơn vị, nhưng không phải là kết quả của sự tỉnh lược vì không có khả năng hiểu “quà” như một thứ chủng loại.
Đối với những danh từ khối biểu thị vật chứa thì sự có mặt danh từ đơn vị có thể tạo thành một danh ngữ biểu thị bản thân cái thực thể với đầy đủ thuộc tính vật lý của vật chứa ấy; trong khi đó, nếu vắng mặt danh từ đơn vị thì vật chứa sẽ được hiểu là vật được chứa (hoặc hiểu rộng hơn: nội dung chứa đựng bên trong nó). So sánh các câu sau đây:
(22) a. Cái chén này của ai?
b. Chén này của ai?
(23) a. Cái túi này của chị Lan.
b. Túi này của chị Lan.
(24) a. Chị Lan mua cái túi này.
b. Chị Lan mua túi này.
Trong nhiều tình huống, các câu (a) và (b) trên đây có thể thay thế cho nhau; nhưng thường các câu (a) được hiểu là bản thân “cái chén”, “cái túi”; trong khi các câu (b) thường được hiểu là những gì có trong “chén” hoặc “túi” đó (chẳng hạn “chén cơm”, “chén canh”, “túi sách”, “túi quần áo”).
Nhưng trường hợp sau đây có điểm cần suy nghĩ:
(25) Nhà này có ba người. (ss. *Căn nhà này có ba người.)
(26) Có ba người sống trong nhà này. (ss: Có ba người sống trong căn nhà này.)
“Nhà” trong câu (25) nói về một nhóm người có quan hệ nhất định (= gia đình), do đó không thể thêm danh từ đơn vị. (Tương tự, chúng ta nói “Trường không cho phép nghỉ học” chứ không thể nói “Ngôi trường không cho phép...”). Trong khi ở câu (26), “nhà” lại là một không gian, một vật chứa. Vấn đề nằm ở chỗ ở (26) vẫn có thể nói “căn nhà này”, một hiện tượng có vẻ không tương hợp với điều vừa nói ở các ví dụ (22) – (24). Theo quan sát của chúng tôi, hiện tượng này không phải là cá biệt đối với những danh từ biểu thị những sự vật hay không gian bao chứa, như xe, nhà, phòng, chùa, đình, trường, v.v.. (Có thể nói: “Có ba người ngồi trong (chiếc) xe đó/(căn) phòng đó/(ngôi) đình đó”).
Thậm chí, trong khẩu ngữ, có cách dùng nhập nhằng giữa có và không có danh từ đơn vị khi chỉ bản thân vật thể theo kiểu “Ngôi chùa/Chùa này xây cách đây 100 năm”, “Căn nhà/Nhà này hơi mắc”, “Chiếc xe/Xe của tôi chạy bằng điện”, v.v.. Tuy nhiên, để dễ dàng cho người học, chúng tôi cho rằng, khi chỉ bản thân một vật thể cụ thể nào đó với các thuộc tính vật lý của nó, sự có mặt của danh từ đơn vị nên xem là chuẩn mực.
Đối với danh từ chỉ người có một vài điều cần lưu ý:
- Trong tiếng Việt, em/con trong “đứa em/con đó” và “em/con đó” không cùng nghĩa với nhau. Trường hợp có danh từ đơn vị (đứa, thằng), em/con là danh từ chỉ người trong quan hệ gia đình. Trường hợp không có danh từ đơn vị, em chỉ người nhỏ tuổi hơn mình, con chỉ một bé gái với hàm ý thân mật/coi thường hoặc chỉ một động vật. Suy rộng ra, “người/ông/thằng anh”, “người/bà/con/cô chị” bao giờ cũng chỉ một thành viên trong quan hệ gia đình/thân thuộc với ai đó (trong “Thằng anh chăm lắm”, chỉ có thể hiểu là “thằng anh” của ai đó đang được nói đến); trử trường hợp “ông anh”, “bà chị” có thể được dùng như đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (cách gọi thân mật của “anh”, “chị” – “you”).
- Hồ Lê cho rằng khi cần tính đếm số lượng “người có cương vị nào đó trong gia đình, dòng họ” thì không bắt buộc phải dùng danh từ đơn vị [5: 15]. Theo quan sát của chúng tôi, đây có thể xem là một cách nói tắt, tỉnh lược, chứ không phải là cách dùng được xem là thỏa đáng về mặt ngữ pháp, và không nên xem là chuẩn mực trong ngữ pháp thực hành (dạy tiếng). Lý do là nó chỉ “ổn” với một vài trường hợp “nghe quen” (“mấy anh tôi”, “mấy ông anh tôi”, ví dụ của Hồ Lê), còn những trường hợp khác thì không; chẳng hạn, không thể nói “Tôi nhớ những chị của tôi”, “Tôi nghe nói nó còn một hai anh sống ở ngoài quê”, “Nó có một vài chú làm to lắm trên tỉnh”. Hơn nữa, trong ngữ cảnh mà đối tượng đề cập đã xác định thì sự có mặt của danh từ đơn vị lại càng cần thiết.
- Riêng những danh từ chỉ người trong quan hệ thân tộc, có thể kết hợp với ấy tạo thành những đại từ nhân xưng như anh ấy, cô ấy, bà ấy. Trong trường hợp này, danh từ đơn vị không thể xuất hiện: không thể nói “ông anh ấy”, “người cô ấy”, “người bà ấy”.... Nếu có mặt danh từ đơn vị, lập tức ngữ đoạn sau đó mất tư cách đại từ nhân xưng: “anh”, “cô”, “bà” lại trở về tư cách danh từ quan hệ và “ấy” là từ trực chỉ (“ông anh ấy” phân biệt “ông anh này”, “ông anh kia”).([1])
2.1.2.2. Sự xuất hiện của một ngữ vị từ hay một tiểu cú (cụm chủ -vị) làm định ngữ sau danh từ khối. Có thể đưa ra công thức: [Dtđv + Dtk + định ngữ: ngữ vị từ/tiểu cú].
Định ngữ đang nói đến có hai loại: một là định ngữ hạn định (giúp phân biệt đối tượng đang nói với những thực thể cùng loại trong không gian, thời gian) và định ngữ trang trí (cung cấp thêm thông tin về đối tượng nhưng không giúp phân biệt với những cái đồng loại). Cần chú ý rằng, về ngữ pháp, những định ngữ đang bàn xuất hiện sau danh từ khối, nhưng không “bổ nghĩa” cho danh từ này mà “bổ nghĩa” cho danh từ đơn vị đứng trước đó ([2]).
Định ngữ hạn định có thể là các ngữ vị từ, tiểu cú; chẳng hạn:
(27) Tôi rất thích cái áo mà anh đã mặc hôm sinh nhật.
(28) Bài hát ca sĩ Ánh Tuyết đang hát trên ti vi là của Văn Cao.
(29) Chị mang biếu mẹ cái bánh vừa làm xong.
Cần chú ý là những ngữ vị từ/tiểu cú này phải được đánh dấu tính hiện thực (Cao Xuân Hạo cho là “chỉ một hành động đã hoàn thành” [4: 83]), vì chỉ khi đó nó mới có khả năng làm rõ sở chỉ của danh ngữ chứa nó – và có nghĩa là đối tượng được xác định đầy đủ, phân lập hoàn toàn trong không gian, thời gian. Nếu không, sự có mặt của danh từ đơn vị không phải là điều bắt buộc. Chẳng hạn, câu (29) ở trên, định ngữ “vừa làm xong” cho biết “cái bánh” là một đối tượng duy nhất; trong khi đó câu (30) sau đây khác hẳn:
(30) Bánh (chị) làm thì chị biếu mẹ, bánh (chị) mua thì để nhà dùng.
Hai từ “bánh” trong (30) không chỉ một vật cụ thể nào cả (chưa có sở chỉ) mà có thể hiểu là “loại bánh”, “thứ bánh”; và nếu không có ngữ cảnh thì có thể hành động “biếu” cũng chưa hề diễn ra.
Định ngữ hạn định cũng có thể là những từ ngữ biểu thị ý duy nhất (duy nhất, cuối cùng, đầu tiên, sau cùng, trên cùng, số thứ tự, từ chỉ ý tuyệt đối, từ định vị không gian hay thời gian, từ láy); tức là những từ ngữ đủ sức làm rõ sở chỉ của danh ngữ, và qua đó phân lập đối tượng trong không gian, thời gian. Ví dụ:
(31) Đây là bản nhạc đầu tiên của anh.
(32) Anh lấy cho tôi quyển sách trên cùng ấy!
(33) Cái máy thứ năm mới được xem là hoàn chỉnh.
(34) Lấy cho mẹ con dao nhỏ nhất/nhỏ nhỏ!
(35) Con gà hôm qua thịt mềm quá!
(36) Cắt quả dưa to to nhé!
(37) Ông ấy đưa ra quyển sách rất dày.
Định ngữ trang trí là loại định ngữ khó phân biệt với định ngữ hạn định hoặc định ngữ chỉ loại. Định ngữ trang trí chỉ đi với danh từ đơn vị, lý do là chỉ những thực thể phân lập thì mới có thể có những thông tin “trang trí” phụ thêm. Ví dụ:
(38) Tôi nắm bàn tay mềm mại của cô ấy.
(39) Tôi nắm bàn tay/tay trái của cô ấy.
(40) Cô ấy mở to đôi mắt đen tròn nhìn tôi. (ss: *Cô ấy mở to mắt đen tròn nhìn tôi.)
Ở câu (38) “mềm mại” là định ngữ trang trí; còn ở (39), “trái” là định ngữ chỉ loại (do vậy có thể có danh từ đơn vị “bàn” hoặc không – cả danh từ đơn vị và danh từ khối đều có thể có định ngữ chỉ loại, x. phần Dẫn nhập). Ở (40), “đen tròn” là định ngữ trang trí nên phải có mặt danh từ đơn vị “đôi”.
2.1.3. Danh từ đơn vị được sử dụng khi có mặt những từ phiếm định.
Danh từ đơn vị cũng buộc phải xuất hiện trong những trường hợp có những từ phiếm định như gì đó (/đấy/ấy), nào đó (/đấy/ấy). Danh từ khối thường chỉ có thể có mặt trong trường hợp nào đó, nhưng không có mặt trong trường hợp gì đó; lý do là đại từ gì thường chỉ chủng loại (thường hỏi “Chị mua gì?”, và câu trả lời là “Tôi mua cam”), nên nó đóng vai trò thay thế danh từ khối.
(41) Mỗi lần đi qua một chiếc cầu nào đó, tôi thường nhớ về chiếc cầu quê tôi.
(42) Có con gì đó (/con cá nào đó) cắn đứt sợi dây câu rồi.
(43) Samsung cần phải làm điều gì đó mới mẻ hơn.
(44) Hạnh phúc là có việc gì đó để làm, có cái gì đó để mơ ước.
2.1.4. Danh từ đơn vị thường xuất hiện khi sử dụng các biểu thức “đồng nhất”: [Dtđv + Dtk + nào… cũng...], [không + Dtđv + Dtk + nào...], [bất kỳ/cứ + Dtđv + Dtk + nào… cũng…], [bất kỳ/cứ + Dtđv + Dtk + nào...]
(45) Bài báo nào trên mạng cũng đáng đọc.
(46) Trên mạng không bài báo nào đáng đọc.
(47) Ngọn/Quả/Dãy núi nào cũng bị khai thác nham nhở.
(48) Bất cứ ngày nào anh cũng có thể đến đây.
(49) Anh có thể thử bất kỳ thứ rượu nào ở đây.
Danh từ đơn vị cũng thường được sử dụng trong biểu thức “tổng đoán” (Cao Xuân Hạo), với công thức: [Dtđv + gì + cũng…].
(50) Ngoài chợ thứ gì cũng có
(51) Trong sở thú con gì cũng có.
Trong thực tế vẫn có trường hợp không có sự xuất hiện của danh từ đơn vị trong bối cảnh đang nói. Theo chúng tôi, đây có thể xem là hiện tượng tỉnh lược, thường thấy trong khẩu ngữ, ví dụ:
(52) Đi chơi thì em mặc áo nào cũng được
(53) Đường xấu thì đi xe nào cũng bị xóc.
(54) Thịt nào nấu cà ri cũng được.
Có bốn lý do để xem đây là hiện tượng tỉnh lược:
(i) Trước danh từ khối có thể thêm danh từ đơn vị (loại, thứ, kiểu, màu, chiếc, v.v.), ý nghĩa của câu không thay đổi, thậm chí còn rõ hơn;
(ii) Danh từ đơn vị có thể xuất hiện sau danh từ khối, lúc này danh từ khối biến thành đề, câu vẫn bảo toàn nghĩa:
(55) Đi chơi thì em mặc áo màu/kiểu nào cũng được.
(56) Thịt loại/con nào nấu cà ri cũng được.
(iii) Nếu thêm một định ngữ vào thì yêu cầu về một danh từ đơn vị là bắt buộc (vd: “Đường xấu thì đi chiếc xecũ/hơi nào cũng bị xóc”, “Thứ/Loại thịt tươi/bò nào cũng nấu cà ri được”);
(iv) Nếu xem đây là một khả năng tùy chọn của danh từ đơn vị thì sẽ tạo thành một lệ ngoại không cần thiết, có thể gây thêm khó khăn cho người học.
Tuy nhiên, trường hợp sau đây thì khác. Một cô gái hỏi mẹ “Mẹ ơi, mua thịt gì?” – đây là một câu hỏi nhằm vào chủng loại của “thịt”; câu trả lời sẽ là:
(57) Con mua thịt gì cũng được.
Có thể nhận ra ngay “gì” trong (57) là từ phiếm định cho biết một chủng loại bất kỳ của “thịt”. Hay nói khác đi, vị trí của “gì” chính là vị trí của định ngữ chỉ loại của một danh từ khối; như vậy “thịt bò”, “thịt heo”, thịt gà” thì cũng chẳng khác gì với “cá biển”, “cá đồng”, “tôm hùm”, v.v.. Nếu cho rằng trước danh từ khối có một danh từ đơn vị bị tỉnh lược (“loại/thứ thịt gì cũng được”), e rằng hơi khiên cưỡng.
Rõ ràng, việc danh từ đơn vị hay danh từ khối kết hợp trực tiếp với gì cũng, nào cũng phụ thuộc vào cách chọn lựa xuất phát điểm của người bản ngữ: nếu tri nhận nó là một cá thể thì dùng danh từ đơn vị, nếu tri nhận nó như một chủng loại thì dùng danh từ khối.([3])
Cho nên, cách giải thích hiện tượng trên như là sự tỉnh lược chỉ là một giải pháp mang tính thực dụng.
2.1.5. Danh từ đơn vị phải có mặt trong danh ngữ xuất hiện sau một phó từ chỉ hướng, theo công thức: [... V + từ chỉ hướng + Dtđv]. Trong đó, V là vị từ hành động chuyển vị, vị từ biểu thị quá trình xuất hiện, vị từ biểu thị kết quả [4: 81-82]. Ví dụ:
(58) Cô ấy đưa ra hai tờ một trăm ngàn.
(59) Nó mở túi ra, bỏ vào tấm giấy khen vừa nhận.
(60) Trước mặt tôi bỗng xuất hiện một người đàn ông lạ mặt.
(61) Anh đã tìm ra chiếc chìa khóa chưa?
(62) Tôi đã nhận ra điều đó từ lâu.
Trong những ví dụ trên, nếu danh ngữ nằm giữa V và từ chỉ hướng thì sự có mặt của danh từ đơn vị không phải là bắt buộc; so sánh:
(63) Cô ấy đưa ra tờ giấy chứng nhận.
(64) Cô ấy đưa (tờ) giấy chúng nhận ra.
2.1.6. Danh từ đơn vị + danh từ khối cũng được sử dụng mà không hề có những dấu hiệu hình thức như đã trình bày từ 2.1.1 đến 2.1.5 trong trường hợp sự vật được xác định đối với cả người nói và người nghe.
(65) Anh đã nói chuyện với thằng bé chưa?
(66) Con ăn tô phở rồi.
Trong hai câu trên, “thằng bé” và “tô phở” là những đối tượng được xác định, có sở chỉ duy nhất đối với cả hai bên hội thoại, nhưng trong hai cấu trúc danh ngữ này không hề có dấu hiệu nào đánh dấu tính xác định, trừ sự có mặt của danh từ đơn vị.
Cao Xuân Hạo cho rằng một thuộc tính cú pháp quan trọng của danh từ đơn vị là “luôn luôn phải được chỉ rõ tính xác định hoặc tính không xác định” bằng cách kết hợp với một yếu tố nào đó trước hoặc sau nó [5: 80]. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, trong ngữ cảnh cho phép, một danh ngữ mang tính xác định có thể chỉ gồm [Dtđv + Dtk] mà không cần bất cứ yếu tố nào khác. Vai trò đánh dấu tính xác định này do danh từ đơn vị đảm nhiệm. Ví dụ:
(67) (Gia đình hàng xóm của tôi có bốn người.) Người/Ông bố là bác sĩ, khoảng 55 tuổi. Người/Bà mẹ là giáo viên, khoảng 50 tuổi. Đứa/Thằng con trai là kỹ sư mới tốt nghiệp, còn đứa/cô con gái là sinh viên. Người/Ông bố rất hiền lành...
(68) (Cô ấy xem con mèo hoang đó như một người bạn.) Có một lần, tôi thấy cô ấy ôm con mèo vào lòng và hát cho nó nghe.
(69) Nó vung tay ném mạnh. Hòn đá trúng vào cửa sổ bác hàng xóm.
Trong ba câu trên, sự có mặt của các danh từ đơn vị (người, ông, bà, đứa, thằng, cô, con, hòn) là bắt buộc. So sánh với các câu sau:
(70) Có lần bà mẹ phạt con...
(71) Cô ấy rất thích mèo, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cô ấy nuôi mèo.
(72) Trong túi nó có rất nhiều đá.
Ở (70), “con” không có sở chỉ rõ ràng nên người nghe có thể hỏi: “Phạt đứa nào?”; ở (71) “mèo” không có sở chỉ, cũng không hiện thực nên thêm “con” là sai; ở (72) “đá” không có sở chỉ nên không thể thêm “hòn”.([4])


2.2. Trường hợp danh từ đơn vị được sử dụng riêng lẻ (không có danh từ khối theo sau)
Danh từ đơn vị có thể sử dụng một cách riêng lẻ, có nghĩa là không có mặt danh từ khối; và thậm chí, trong nhiều trường hợp nếu sử dụng kèm với danh từ khối có thể là không hợp ngữ pháp. Trong nhiều sách dạy tiếng, cách sử dụng riêng lẻ như vậy hầu như không được đề cập đến, và mặc nhiên nó được xem như là một hiện tượng tỉnh lược danh từ khối.
Trong thực tế, danh từ đơn vị hoàn toàn có thể đứng riêng, không đi kèm với danh từ khối (vd quyển nào? con này bao nhiêu tiền?). Và cách dùng này là rất phổ biến. Các danh từ đơn vị dùng theo cách này có dạng tương đương ở tiếng Anh là one. Ví dụ với danh ngữ “that one” của tiếng Anh, tùy theo sự vật mà nó chỉ, có thể được dịch sang tiếng Việt là cái đó, tờ đó, quyển đó, trái đó, con đó...).
The yellow ones are ripe anh pretty soft. (Những trái màu vàng chín rồi và khá mềm.)
What about the brown ones? (Còn những trái màu nâu này?)([5])
Cách sử dụng danh từ đơn vị riêng lẻ cũng có một vài qui tắc mà người học tiếng cần lưu ý.
2.2.1. Danh từ đơn vị sẽ được dùng riêng lẻ khi sự vật đang được đề cập ở trước mắt người nói lẫn người nghe. Hay nói khái quát hơn, danh từ đơn vị sẽ không cần đến danh từ khối khi chủng loại sự vật đã được người nói và người nghe nhận biết chính xác.
Một cô hàng sách sẽ hỏi người mua "quyển nào?" chứ ít khi hỏi “quyển sách nào?” khi trước mặt họ là một cái kệ đầy sách. Tương tự như vậy, chủ quán chỉ hỏi “mấy ổ?” khi trước mặt là tủ bánh mì và dĩ nhiên biết rõ là người mua đang muốn mua bánh mì.
Cũng có thể sự vật không hiện diện trước mắt; chẳng hạn,
(73) (– Hôm qua anh đi mua sách à? Có quyển nào hay không?) – Có vài quyển hay. Tôi sẽ cho anh mượn một quyển.
Như vậy, nếu chủng loại sự vật đã được xác định trong phát ngôn trước đó (của một trong hai người đối thoại) thì danh từ khối cũng sẽ được tỉnh lược.
(74) A: Ngày mai nhớ mang theo Kim Dung nhé!
B: Quyển nào?
A: Quyển nào cũng được.
Có một điều thú vị là hiện tượng tỉnh lược dạng này phổ biến đến mức, trong nhiều trường hợp, nếu danh từ khối được “phục hồi” thì có thể tạo ra một sắc thái nghĩa đặc biệt. So sánh hai ví dụ sau:
(75) (– Đưa giùm tôi quyển sách!) – Quyển nào?
(76) (– Đưa giùm tôi quyển sách!) – Quyển sách nào?
Câu đáp (76) không thể nói là sai ngữ pháp, nhưng người nói có vẻ ngạc nhiên với hàm ý rằng “Ở đây làm gì có quyển sách nào mà anh hỏi?”. Thậm chí, sự xuất hiện danh từ khối hầu như không thể chấp nhận trong một số tình huống nhất định, chẳng hạn:
(77) (– Bán cho tôi ba con cá.) – *Mấy con cá?
Rõ ràng, tình huống giao tiếp ở chợ khó có thể chấp nhận một hàm ý nào “bất thường” như ở ví dụ (76).
Như một hệ quả của nội dung vừa trình bày, nếu đề cập đến một khối sự vật gồm nhiều chủng loại thì danh từ đơn vị sẽ không thể đứng một mình.
(78) *Trong những thứ mà anh đã mua, anh thích quyển nào nhất?
(79) *Anh cứ chọn một quyển trong đống đồ đạc trong tủ.
Chú ý:
- Hiện tượng tỉnh lược thật ra phức tạp hơn điều vừa trình bày. Người ta thường tỉnh lược danh từ khối khi muốn chỉ bản thân sự vật với tư cách là một thực thể (cá thể hoặc tập hợp) phân lập. Tuy nhiên, cũng có khi, để chỉ một sự vật hiện diện trước mắt, người nói lại nhấn mạnh vào thuộc tính về chủng loại hoặc chất liệu của nó. Khi đó, danh từ khối vẫn hiện diện, và cái bị tỉnh lược lại là danh từ đơn vị. So sánh các câu sau đây:
(80) (Khi mang phở ra, người phục vụ nói:) – Phở đây! Tô này của anh, tô này của chị!
(81) (Làm xong bánh mì, người bán nói:) – Bánh mì của chị đây! Ổ của chị đây!
(82) (– Đưa giùm tôi lọ muối!) – Muối đây! / Lọ muối đây! (/*Lọ của anh đây!)
Ở (80), “Phở đây!” chỉ vật thể ở dạng chất liệu, còn phát ngôn sau thì chỉ từng cá thể (“tô”); tuyệt nhiên không thể nói “Tô phở đây! Phở này của anh, phở này của chị!”. Ở (81) cũng tương tự, “Bánh mì của chị đây!” dùng để chỉ vật thể ở dạng chất liệu, trong khi phát ngôn sau, “Ổ của chị đây!” dùng để chỉ một cá thể, phân biệt với “ổ” của người khác.
Câu (82) thì có hơi khác. Người nói dùng “Muối đây!” hoặc “Lọ muối đây!” tương tự hai câu trên, nhưng không thể dùng “Lọ của anh đây!” vì mối quan tâm của người đối thoại là cái chất liệu (“muối”) nằm bên trong chứ không phải là bản thân “cái lọ”.
Như vậy, hiện tượng tỉnh lược đang bàn tuy phức tạp nhưng chung quy vẫn chịu sự chi phối của cách nhìn nhận sự vật của người nói (chất liệu/chủng loại hoặc thực thể phân lập).
- Có một hiện tượng thường rất khó tiếp nhận đối với người nước ngoài: trong một số trường hợp, danh từ đơn vị ở phát ngôn trước khó đứng làm trung tâm cho một ngữ đoạn đóng vai trò hồi chỉ ở phát ngôn sau, nếu không có danh từ khối. Xét ví dụ sau:
(83) Quý ròm lại lúi húi lục cặp lôi ra một thanh sô cô la. Nó đặt thanh kẹo vào tay nhỏ Diệp: “Cả cái này nữa, tao cũng trả cho mày.” (“Anh và em”, Nguyễn Nhật Ánh)
Ở (83), “thanh kẹo” hồi chỉ “thanh sô cô la”, danh từ khối “kẹo” có ngoại diên rộng hơn “sô cô la” nên được lựa chọn, dù ở vị trí này “sô cô la” cũng hoàn toàn đúng về mặt ngữ pháp và ngữ nghĩa. “Cái này” hồi chỉ “thanh kẹo”, nhưng hầu như người Việt sẽ không chọn “thanh” thay cho “cái” (“Cả thanh này nữa, tao cũng trả cho mày”) trừ phi sau “thanh” có một danh từ khối (“Cả thanh kẹo này nữa, tao cũng trả cho mày”).
Một ví dụ khác:
(84) A: Tớ thấy thằng Tèo tặng cho con bé Thúy một hòn sỏi rất đẹp.
B: Nó lấy đâu ra cái/?hòn đó?
Rõ ràng, “cái đó” dùng để hồi chỉ “hòn sỏi” tự nhiên hơn là “hòn đó”.
Theo nhận xét của chúng tôi, trong tiếng Việt, những danh từ đơn vị mà khả năng kết hợp với định ngữ là danh từ khối của nó càng hẹp (có tính chất tình huống hoặc có tính chất tu từ) thì càng ít khả năng đứng một mình (không có danh từ khối) để tạo nên một ngữ đoạn hồi chỉ (thường là những từ có tần số sử dụng ít hơn). Chẳng hạn, trong các câu như “(Ngôi sao ở trước mặt đẹp quá!) Em có thích ngôi đó không?”, “(Em thấy con thuyền ở đằng xa không?) Con đó là của bố anh đấy!”, sự vắng mặt danh từ khối (“sao”, “thuyền”) là khó chấp nhận. Xét từ góc độ này thì cái, con, chiếc, loại, thứ, có lẽ là những danh từ “mạnh” nhất; còn những danh từ chỉ đơn vị tính toán, đo lường hầu như không thể tạo thành ngữ đoạn hồi chỉ (kiểu *“tấn đó”, *“lít kia”, *“thước này”).
Tuy nhiên, đây là hiện tượng rất tinh tế về ngữ nghĩa. Do vậy, mô hình thích hợp nhất để giảng dạy cho học viên nước ngoài vẫn nên là [Dtđv + Dtk + này/kia/ấy/đó].
2.2.2. Danh từ đơn vị được sử dụng riêng lẻ (không cần danh từ khối) khi nó là trung tâm của một ngữ đoạn đóng vai trò thuyết minh, giải thích cho đối tượng đã được đặt làm đề/chủ ngữ. Có thể xem đây là một kiểu cấu trúc định nghĩa (hoặc giải thích), thường có mặt hệ từ là. Mô hình thường thấy là [Dtđv + Dtk + X làDtđv + (Dtk) + Y], trong đó danh từ khối có thể không xuất hiện trong vế sau, Y là định ngữ dùng để diễn giải cho X.
(85) Bức tranh này là bức đẹp nhất trong phòng triển lãm.
(86) Quyển sách đầu tiên mà ông ấy viết chính là quyển “Trăn trở”.
Ở vế đầu của biểu thức trên, có thể là một ngữ đoạn biểu thị một thực thể có sở chỉ xác định:
(87) Em là đứa em gái anh ít quan tâm nhất.
Tất nhiên, các câu trên sẽ sai ngữ pháp nếu ngữ đoạn hồi chỉ vắng mặt danh từ đơn vị (vd: “Bức tranh này là tranh đẹp nhất...”, “Em là em gái anh ít quan tâm nhất”).
Các biểu thức có hệ từ là như trên biểu thị một quan hệ đồng nhất giữa hai thực thể (cái được định nghĩa/giải thích và cái định nghĩa/giải thích), cho nên sự vắng mặt danh từ khối là rất tự nhiên. Ngoài trường hợp này, danh từ đơn vị vẫn đòi hỏi định ngữ là danh từ khối nếu sự vật được nói ở vế sau là một thực thể hoàn toàn khác với thực thể được nói ở vế trước, cho dù nó có thể giống nhau về tên gọi. Xét hai câu sau:
(88) Quyển sách của tôi là quyển anh đang đọc.
(89) ?Quyển sách của tôi dày hơn quyển anh đang đọc.
Ở (88), “quyển sách của tôi” và “quyển anh đang đọc” là một. Trong khi đó, ở (89), “quyển sách của tôi” và “quyển anh đang đọc” là hai thực thể khác nhau; do vậy, có khả năng là chúng khác chủng loại (“quyển anh đang đọc” có thể là tạp chí, tạp san... chứ không phải sách). Sự phân biệt tinh tế này thể hiện rõ hơn ở ví dụ sau đây:
(90) Tôi đã nhìn thấy những chiếc xe tăng người Pháp bỏ lại ở lòng chảo Điện Biên, những chiếc xe tăng người Mỹ để lại trên đất Quảng Trị. (www.sudentkgu.vn)
Rõ ràng, ở (90) không thể viết: “... những chiếc người Mỹ để lại trên đất Quảng Trị”.
2.2.3. Danh từ đơn vị cũng có thể sử dụng riêng lẻ, nhưng khác với những trường hợp khác ở chỗ nó hoàn toàn không chấp nhận sự có mặt của danh từ khối, và có thể cũng không cần bất kỳ định ngữ nào khác. Về mặt ngữ nghĩa, có mối quan hệ tổng thể - bộ phận giữa danh ngữ có chứa danh từ khối ở phần đầu của câu (hoặc ở câu trước) và các danh ngữ chỉ gồm danh từ đơn vị ở phần sau của câu (hoặc ở câu sau).
2.2.3.1. Đây là trường hợp mà trong cấu trúc câu, danh ngữ biểu thị tổng thể (thường do danh từ khối đảm nhiệm) đã xuất hiện ở phần đề (có thể là đề, có thể là bổ ngữ thuộc phần đề), và ở phần thuyết các danh từ đơn vị làm thành những cặp tương phản hoặc song hành. (Nói một cách đơn giản, đây là trường hợp danh từ đơn vị tự mình lập thành danh ngữ).
Có thể thể hiện bằng mô hình: [Đề, Dtđv thì..., Dtđv thì...] hoặc [Đề, có Dtđv..., có Dtđv...], trong đó danh từ đơn vị biểu thị từng bộ phận (cá thể hoặc tập hợp) trong cái tổng thể đã được nhắc đến ở phần đề (hoặc ở câu trước).
(91) Bạn bè tôi, người thì thành đạt, người thì không thành đạt, nhưng tất cả đều có vẻ hài lòng về cuộc sống của mình.
(92) Bạn bè tôi, có người thành đạt, có người không thành đạt, nhưng tất cả đều có vẻ hài lòng về cuộc sống của mình.
(93) Nó lựa mấy con cá to nhất để lại: con thì nó nướng, con thì nó chưng tương, con thì nó luộc hèm.
(94) Sách vở của tôi, chỉ vài cuốn được bọc bằng plastic, những cuốn còn lại thì chỉ được bọc bằng giấy báo.
Ở ví dụ (94), “cuốn” có định ngữ đi kèm (“vài”, “những”, “còn lại”), nhưng không phải là yếu tố bắt buộc; nếu không có các định ngữ này thì câu vẫn hợp ngữ pháp, có điều là câu có thêm ý nghĩa phân phối đều đặn giữa các tiểu đề (“...cuốn được bọc bằng plastic, cuốn chỉ được bọc bằng giấy báo”).
Cần chú ý là trong kiểu cấu trúc phân phối như vừa đề cập, không thể có mặt danh từ khối, kể cả khi có danh từ đơn vị; hay nói cách khác, ở đây hoàn toàn không có hiện tượng tỉnh lược danh từ khối. Chẳng hạn:
(95) *Quần của tôi, quần thì dài, quần thì ngắn.
(96) *Quần của tôi, cái quần thì dài, cái quần thì ngắn.
Và hai danh từ đơn vị khác biệt, dù được xem là đồng nghĩa, cũng không thể thay thế cho nhau; không thể nói “..., cái thì đẹp, bức thì xấu”, “..., quyển thì dày, cuốn thì mỏng”.
2.2.3.2. Danh từ đơn vị có thể được sử dụng không có danh từ khối đi kèm, nhưng nó không được đặt trong quan hệ tương phản hoặc song hành như trường hợp 2.2.3.1. Ở đây danh từ chỉ đơn vị cũng được dùng để chỉ một bộ phận của một tổng thể đã được đề cập trước đó, nhưng nó thường đi kèm với một định ngữ là lượng từ hoặc từ chỉ định, từ phiếm định. Cái tổng thể vừa nói được hiểu theo nghĩa rộng: có thể là một tập hợp (gồm nhiều cá thể) như các câu (97) (98), có thể là một chủng loại như các câu (99) (100) dưới đây:
(97) Có 30 tấm thẻ đánh số từ 1 đến 30. Chọn ngẫu nhiên 10 tấm.
(98) Trường này có 3 nhóm thể thao nhưng chỉ nhóm này là có hoạt động.
(99) Lá trên cành từng chiếc cuốn bay xa. (Bài hát “Chiếc lá cuối cùng”)
(100) Bình sứ đẹp quá! Hay là mình mua hai, ba cái làm quà?


2.3. Trường hợp không sử dụng danh từ đơn vị
2.3.1. Như đã thấy ở 2.1 và 2.2, danh từ đơn vị là yếu tố hết sức quan trọng trong khi xây dựng danh ngữ, nhưng nó sẽ không xuất hiện trước danh từ khối nếu người nói đề cập đến một chủng loại hoặc chất liệu chứ không phải một đối tượng được phân lập. So sánh:
(101) Tôi thích cam.
(102) Tôi thích trái cam đó.
“Cam” trong (101) chỉ một chủng loại, phân biệt với các chủng loại khác như xoài, măng cụt, chanh; còn “trái cam” trong (102) chỉ một cá thể riêng biệt, cụ thể.
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, cùng một tình huống, người nói có thể chọn lựa những cách tiếp cận khác nhau khi muốn nói đến những thực thể tồn tại khách quan. Chẳng hạn:
(103) Bạn đưa cuốn tập của bạn đây, mình chép giùm cho.
(104) Bạn đưa tập của bạn đây, mình chép giùm cho.
“Tập” trong (104) được nói trong sự phân biệt với sách, sổ tay, giấy, chứ không phải là một quyển vở cụ thể nào; còn nếu muốn nói đến một quyển vở cụ thể thì phải dùng câu (103). Cả hai đều thích hợp với bối cảnh giao tiếp.
Cần phải nói rằng, sự chọn lựa của người nói cũng tùy thuộc vào sự tương tác của các yếu tố khác trong câu, đặc biệt là vị từ. Xét đoạn trích sau đây từ truyện “Anh và em” của Nguyễn Nhật Ánh (chúng tôi trình bày lại để dễ theo dõi):
(105) Nhỏ Diệp chìa thanh sô cô la mời bạn.
(106) – Oanh ăn kẹo đi! Oanh ăn đi. Mình không thích sô cô la!
(107) (– Không thích sao bạn mua?) – Kẹo này không phải mình mua.
(108) (Thấy hai con nhóc đùn qua đùn lại, Quý ròm tức điên.) Hừ, tụi nó cứ làm như kẹo của mình là hàng ế không bằng.
(109) Quý hậm hực thò tay giật phắt thanh kẹo trên bàn và quay lưng bỏ đi.
Trong các câu trên, (105) (107) (108) có thể dùng “kẹo”, “sô cô la” hoặc “thanh kẹo”, “thanh sô cô la” mà không tổn hại gì đến tính ngữ pháp của câu; (106) khó có thể dùng “thanh kẹo”, “thanh sô cô la”. Riêng ở (109), “thanh kẹo” là khả năng duy nhất vì nó là bổ ngữ trực tiếp cho vị từ tác động “giật (phắt)” – người ta chỉ có thể “giật phắt” một vật cụ thể, riêng biệt chứ không thể “giật phắt” một chủng loại.
2.3.2. Ngoài ra, trong tiếng Việt, có một vài lưu ý rất thực tế. Chẳng hạn, khi nói về một đối tượng trong quan hệ sở thuộc (và là yếu tố cấu thành) một đối tượng lớn hơn (gần giống với quan hệ bộ phận – toàn thể) thì không cần đến danh từ đơn vị. Ví dụ:
(110) Chiếc xe này bánh trước thì thủng, đèn chiếu hậu thì vỡ, làm sao đi được?
(111) Cái ghế này gãy một chân rồi.
Các danh từ thân tộc khi làm bổ ngữ để chỉ một người có quan hệ (“của”) với người được biểu thị bằng danh ngữ đứng làm đề thì không cần danh từ đơn vị (để xác định), vì người nghe sẽ nhận ra ngay lập tức mối quan hệ “ai là gì của ai”. Ví dụ:
(112) Tôi về quê thăm bố/mẹ/chú/con/cháu.
(113) Cô ấy khóc vì nhớ bố/mẹ/con/cháu.
Các danh từ chỉ bộ phận thân thể thường cũng không cần danh từ đơn vị; nếu bộ phận thân thể đó thuộc về một đối tượng khác với đối tượng đứng làm đề thì cần thêm định ngữ. So sánh
(114) Chị Lan đau bụng nên về trước rồi. (bụng của chị ấy)
(115) Tôi sờ trán thấy không sốt nên cũng yên tâm. (trán của tôi)
(116) Tôi sờ trán nó thấy không sốt nên cũng yên tâm. (trán của nó)
(117) Nhìn thấy chị má hóp, mắt trũng sâu, tôi rất ái ngại.
(118) Bác sĩ nói gan anh có vấn đề, anh phải bỏ rượu.
Cần chú ý rằng trường hợp này khác với cách nói mà Hồ Lê [5: 14] cho là bắt buộc phải có danh từ đơn vị (“hai cái đầu”, “những cái đầu”). Về ngữ pháp, danh từ đơn vị cần có mặt khi “tính đếm”; tuy nhiên, trong tiếng Việt rất nhiều danh từ chỉ bộ phận trong cơ thể vừa có thể hoạt động như một danh từ khối, vừa có thể hoạt động như một danh từ đơn vị – nghĩa là có thể kết hợp trực tiếp với lượng từ (hai đầu gối, hai cổ tay, mấy ngón tay, hai tai, v.v.).
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, “cái” có thể xuất hiện trước danh từ chỉ bộ phận cơ thể ở những cách nói kiểu như “Trông cái mặt anh ta kìa!”, “Ngậm cái mồm lại!”, “Hai con mắt cô ta lúng liếng trông khiếp thật!”, “Hiểu... hiểu... cái đầu mày!”. Nhưng “cái” ở đây nên được hiểu là một quán từ xác định – tương tự như “cái” trong “cái người đàn ông kia”, “cái điều anh vừa nói” – chứ không phải là “cái” danh từ đơn vị.


3. Thay lời kết luận
Như đã nói trên, danh từ nói chung và danh từ đơn vị nói riêng hoàn toàn không phải là vấn đề mới của Việt ngữ học. Nó đã được nghiên cứu, khảo sát kỹ lưỡng hơn nửa thế kỷ nay; và, về chi tiết, dù các tác giả không đồng thuận với nhau thì kết quả nghiên cứu của họ cũng góp phần làm sáng rõ vấn đề đang bàn. Tuy nhiên, những gì mà những người đi trước đã lập thức chưa đủ để ứng dụng vào việc dạy tiếng.
Mục đích của bài viết này là cố gắng hệ thống hóa các cách sử dụng danh từ đơn vị cho người học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai. Trong đó, chúng tôi cũng cố gắng lý giải một số trường hợp sử dụng hoặc không sử dụng danh từ đơn vị có thể gây lúng túng cho người học. Thiết nghĩ, danh từ và hoạt động của từng tiểu loại danh từ trong cấu trúc ngữ đoạn, cấu trúc câu vẫn còn là một vấn đề cần tiếp tục làm rõ (và diễn giải đơn giản hơn) trong tương lai, theo định hướng thực hành.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Mạnh Hùng (2000). Vấn đề quán từ và nhận diện quán từ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 12, H..
2. Cao Xuân Hạo (1998). Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Nxb GD.
3. Cao Xuân Hạo (1999). Nghĩa của loại từ. Ngôn ngữ, số 2&3, H..
4. Cao Xuân Hạo (CB) (2006). Ngữ pháp chức năng tiếng Việt: Ngữ đoạn và Từ loại. Nxb GD.
5. Hồ Lê (2003). Ngữ pháp ngữ nghĩa của loại từ. Ngôn ngữ, số 11, H..
6. Lưu Vân Lăng (1997). Một số vấn đề về loại từ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 2, H..
7. Lý Toàn Thắng (1997). Loại từ và các tiểu loại danh từ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 2, H..
8. Nguyễn Tài Cẩn (1975). Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại. Nxb KHXH.
9. Nguyễn Tài Cẩn (1977). Ngữ pháp tiếng Việt - Tiếng, Từ ghép, Đoản ngữ. Nxb ĐH&THCN, H..
10. Nguyễn Thị Hai (2006). Về việc dạy danh từ chỉ đơn vị tự nhiên tiếng Việt cho học viên, sinh viên nước ngoài. Tc Khoa học, Đại học Sư phạm Tp.HCM.
11. Nguyễn Thiện Nam (2007). Lỗi loại từ trong tiếng Việt của người nước ngoài. www.ngonngu.net.
12. Trần Đại Nghĩa (1988). Một cách xác định loại từ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 4, H..
13. Trần Đại Nghĩa (1988). Phân loại các tổ hợp loại từ - danh từ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 5, H..
14. Vũ Đức Nghiệu (2001). Ngữ pháp ngữ nghĩa của hai kiểu danh ngữ “hạt dưa”, “một hạt dưa” – Ngôn ngữ số 11, H..




[1] Nói thêm, trong tiếng Việt, em ấy thường không được dùng làm đại từ nhân xưng mà dùng để trực chỉ; và khi đó, người ta thường dùng em đó hơn là em ấy.
[2] Theo Cao Xuân Hạo, ý nghĩa của hai câu có chứa danh từ đơn vị và không có chứa danh từ đơn vị rất khác nhau. Trong “Bà ta buồn vì con hư hỏng”, “hư hỏng” là vị ngữ của “con”; trong khi đó, trong “Bà ta buồn vì đứa con hư hỏng” thì “hư hỏng” là định ngữ của “đứa” [3: 282].
[3] Tất nhiên, vai trò của tình huống giao tiếp cũng rất quan trọng, x. Lê Thị Minh Hằng, “NP nào cũng...” và “NP gì cũng...”. Nghiên cứu, giảng dạy Việt Nam học và tiếng Việt, Nxb KHXH, 2013, H.
[4] Thật ra, danh từ khối, cũng có thể có sở chỉ, nhưng người nghe phải suy luận rất nhiều căn cứ vào ngữ cảnh. Hơn nữa, nó không bao giờ có thể đứng đầu câu làm đề (thuộc tính xác định là thuộc tính vốn có của đề). Liên quan đến tính bất định của danh ngữ, mà biểu hiện rõ nhất là ở danh từ khối, giới nghiên cứu thường bàn đến tính chỉ định (specific). Do khuôn khổ của bài này, chúng tôi xin chưa bàn đến.
[5] Phan Văn Giưỡng. Vietnamese For Foreigners Beginners, T.2. Nxb Trẻ. Tp.HCM.

Chủ Quyền Chí nh Nhà Nước Đang Tiêu Diệt Nhân Tính



Nền Văn Minh Nhân Bản đang bị chủ nghĩa nhà nước triệt hạ. Âm nhạc nghệ thuật không còn là con đường chung giao lưu và giao cảm giữa nhân loại với nhau, nó đã được tận dụng thành vũ khí của quyền chính và tập đoàn quyền lợi.



Valentina Lisitsa danh thủ dương cầm gốc người Ukraine, hiện đang cư ngụ tại Mỹ, đã bị ngăn chặn không được trình diễn tại Toronto Symphony Orchestra Canada vào tháng 4-2015, chỉ vì quan điểm chống chiến tranh phi nghĩa của cô "không vừa ý nhà nước Ukraine và Âu Mỹ" đăng trên Tweeter.

Chúng ta tự suy ngẫm về thế giới chúng ta đang sống và hãy tự hỏi rằng chúng ta có làm chủ được chính bản thân, ý nghĩ, sở thích của chính mình hay tất cả đều đang bị điều hướng bởi nhóm quyền lực qua nỗi sợ của chính chúng ta. Chúng ta thù oán người khác không phải vì "người khác" làm hại chúng ta, mà hệ thống quyền lực muốn và bảo chúng ta phải oán thù. Chúng ta "yêu kính" kẻ khác, không phải "kẻ khác" gia ân làm tốt cho chúng ta, mà hệ thống quyền chính muốn và buộc chúng ta phải yêu kính. Chúng ta tuân thủ vì thói quen huân tập với SỰ SỢ HÃI thường trực được nuôi dưỡng trong mỗi con người chúng ta.

Trường hợp "yêu ghét" nghệ sĩ Valentina Lisitsa, là một điển hình của ý niệm nhân bản cưỡng chống bản năng bán khai sinh vật người nơi mỗi chúng ta. Mỗi chúng ta tự trách nhiệm chọn lựa sống kiếp sinh vật bị điều khiển yêu ghét theo lệnh bầy đàn, hay vươn lên thành Con Người.

 




Canadian orchestra drops Ukraine-born pianist over anti-Kiev posts
Published time: April 07, 2015 02:09
Edited time: April 07, 2015 02:44

Get short URL


Image from facebook.com
2.7K6932
Trends
Ukraine turmoil Tags
Canada, Conflict, Human rights, Internet, Mass media, Music, Politics, Ukraine, WarA Ukrainian-born pianist was barred from playing at Canada’s Toronto Symphony Orchestra (TSO) for expressing views on the situation in Ukraine via Twitter, according to the soloist herself. The move led to a social media storm tagged #LetValentinaPlay.
READ MORE: Ukraine’s neo-Nazi leader becomes top military adviser, legalizes fighters
The orchestra has officially announced its decision to drop pianist Valentina Lisitsa from its Rachmaninoff Concerto #2 program earlier this week. TSO President and CEO Jeff Melanson cited “ongoing accusations of deeply offensive language by Ukrainian media outlets,” adding that Lisitsa’s “provocative comments” had allegedly “overshadowed past performances.”
In the statement, Melanson seems to be referring to Lisitsa’s Twitter posts, in which she expresses her views on the situation in Ukraine.
Lisitsa turned to Facebook on Monday with a plea, asking her fans for support to “tell Toronto Symphony that music can’t be silenced.”
“Someone in the orchestra top management, likely after the pressure from a small but aggressive lobby claiming to represent Ukrainian community, has made a decision that I should not be allowed to play,” she wrote, referring to her TSO performances on Wednesday and Thursday. “I don’t even know who my accusers are, I am kept in the dark about it.”
Lisitsa said she took to Twitter to shed some light on the other side of the story, “the one you never see in the mainstream media – the plight of my people, the good and bad things that were happening in Ukraine.”
READ MORE: ‘Rather be in prison than work for fascists’ – Crimean Prosecutor Poklonskaya
Some of her work included translating Ukrainian-language websites and eyewitness accounts.
“I became really good in unmasking fakes published by Western media,” Lisitsa said.
Her statement also gives a brief summary on her actual views: “The worst thing that can happen to any country is fratricide war, people seeing each other, their neighbors as enemies to be eliminated …[a] Year later, we have the same rich people remaining in power, misery and poverty everywhere, dozens of thousands killed, over a million of refugees.”
After expressing her views, Lisitsa claimed to have received numerous death threats.
The last straw was the decision to drop her performance: “My haters didn’t stop there. Trying, in their own words, to teach me a lesson, they have now attempted to silence me as a musician.”
READ MORE: Ukraine cops get ‘shoot-to-kill orders’ amid unrest over army hit & run killing of 8yo
Lisitsa revealed that TSO offered to cover her entire fee for the canceled program, if she chose to stay silent about the reason behind the decision.
“They even threatened me against saying anything about the cause of the cancellation … If they do it once, they will do it again and again, until the musicians, artists are intimidated into voluntary censorship,” she wrote.
The reaction on Twitter was massive, with the hashtag #LetValentinaPlay surging in popularity and thousands of supporters speaking out.
International concert violinist and recording artist Hannah Woolmer tweeted: “To me, this IS a VITAL campaign pls can all my followers retweet if they agree that @TorontoSymphony should #letvalentinaplay.”
Seventy-two-year old Hana Ustohal wrote on Facebook: “What kind of monsters are in power of this country to make such an insane and sadistic decision to not allow you to play. I’ve cancelled my ticket for Wednesday concert.”
Twitter user Ike Hike warned that the TSO’s decision “looks bad,” adding: “Would you seek fame as silencing art for partisan politics and smear Canada? You should #letvalentinaplay.”
Lisitsa maintained on her Twitter account that she does not mix music with politics, and does not “preach” during performances. Her opponents, however, accused her of being a “Kremlin mouthpiece” and a “hate monger.”
Maria Kolos wrote on Facebook, supporting the TSO’s decision: “Thank you TSO for not tolerating this offensive Kremlin mouthpiece.” Mat Babyak also said: “Thank you for not giving a platform to a racist hate monger! Keep her out of Canada!”
Another user, Iryna Cimorelli, pointed towards a large number of Ukrainian immigrants when expressing her support for the TSO. “Toronto is full of Ukrainian immigrants who are true patriots of their county and they would never ever allow this woman to play on that stage after her propaganda speeches. Never!!! Good for them for kicking her out, she can play in [the] Kremlin now!!!”
Lisitsa has a substantial following on YouTube and Twitter. One of her most popular videos – Beethoven’s ‘Moonlight Sonata’ – has over 9 million views. Due to her successful online career, she is sometimes referred to as “the web’s favorite pianist.”

Lisitsa was born in Kiev into a Russian-Polish family. Her family came to the capital from Odessa, Ukraine. She immigrated to the US in the 1990s.
Her career was successfully launched through a YouTube channel, which now has received around 43 million visitors. Lisitsa now travels around the world performing classical pieces.
Separately, Lisitsa has been running a Twitter account under the nickname NedoUkraïnka (“sub-Ukrainian”), which she came up with after the Ukrainian Prime Minister Arseny Yatsenyuk published a statement calling the supporters of eastern Ukrainian militia forces “subhumans.”
Kiev launched a military operation in Donbass in the southeast of Ukraine last April after locals rejected the new coup-imposed authority in the capital and demanded more autonomy.
Since then, the death toll has climbed to over 6,000, as the conflict between the Ukrainian government and the self-proclaimed People’s Republics of Donetsk (DPR) and Lugansk (LPR) continues.
One of the major latest developments was the peace deal brokered on February 12 by Russia, France and Germany between the sides of the Ukrainian conflict, which led to a decrease in hostilities. The agreements were signed in the Belarusian capital, Minsk, and called for a ceasefire, the withdrawal of heavy weaponry and prisoner exchange.

Thời của hai chữ “đạo văn”



Hoàng Tuấn Công



“Đạo văn” là gì?
Chữ Hán 盜 [đạo] cổ văn vẽ hình người đang nhỏ nước dãi, cúi nhìn cái liễn đựng thức ăn vẻ thèm muốn, nghĩa gốc làtrộm cắp.[1]"Thuyết văn giải tự": “盜-私利物也[đạo-tư lợi vật dã] (đạo nghĩa là [lấy] vật làm lợi riêng). "Hán Việt từ điển"-Đào Duy Anh giải nghĩa: “Đạo 盜: lấy trộm của người. Lấy cái vật mình không đáng được lấy”. "Hán Việt tự điển"-Thiều Chửu: “Đạo 盜: Ăn trộm ăn cắp, cái gì không phải của mình mà mình lấy đều gọi là đạo cả.” ...

Vậy, “đạo văn” hiểu đúng theo nghĩa đối dịch là ăn cắp văn của người khác.

Có thể nói “đạo văn” là “ngón nghề” xuất hiện khá muộn ở Việt Nam. Xưa kia, các cụ làm sách lưu truyền hậu thế chủ yếu bằng chép tay hay khắc in ở các cơ sở tư nhân, không ai chứng nhận tác quyền. Thế mà chẳng ai sao chép, trộm cắp của ai. Ngược lại, lịch sử văn học Việt Nam để lại khá nhiều tác phẩm khuyết danh (vô danh thị). Một số tác phẩm giá trị gây tranh cãi về tác giả, nhưng đều do nguyên nhân khách quan. Mấy ngàn năm chế độ phong kiến cho tới gần trọn thế kỷ XX, khái niệm “đạo văn”dường như hãy còn xa lạ, hãn hữuvới môi trường văn chương, học thuật dựa trên nền tảng tài năng, ý thức sáng tạo và lòng tự trọng của người cầm bút. (Xin chớ lầm sự vay mượn, vận dụng điển cố, điển tích tài tình, có sáng tạo của người xưa với nghĩa của hành vi “đạo văn” tràn lan hiện nay).

Từ điển thường đi sau thực tế ngôn ngữ đời sống một bước (dài, ngắn tùy khả năng cập nhật). Nhưng, những gì các nhà biên soạn thu thập và giải nghĩa chính là con dấu xác nhận cho vấn đề nào đó từng tồn tại, diễn ra trong xã hội đương thời. Các cuốn từ điển tiếng Việt tên tuổi xuất bản ở Việt Nam trước năm 1945 (như: Từ điển Việt-Bồ-La-A.D.Rhodes; Đại Nam quấc âm tự vị-Huình Tịnh Paulus Của; Việt Nam tự điển (Hội khai trí Tiến Đức), Hán Việt từ điển-Đào Duy Anh...) thu thập rất nhiều loại“đạo”: thâu đạo, án [ăn] tlộm [trộm](người ăn trộm-Từ điển Việt-Bồ-La), đạo chích (kẻ trộm), đạo tặc (trộm cắp, giặc giã), đạo kiếp (trộm và cướp), đạo đồ (bạn trộm cắp) đạo táng (chôn trộm, chôn giấu vào chỗ đất cấm) đạo danh (ăn cắp tên người làm tên của mình)... Chủ yếu là "đạo" của cải vật chất, và không thấy có từ “đạo văn”. Riêng Hán Việt từ điển-Đào Duy Anh (XB lần đầu 1932) có từ “đạo thi” giảng theo nghĩa hẹp: “Dùng trộm câu thơ của kẻ khác”. Sau Đào Duy Anh có “Từ điển Việt Nam” (Thanh Nghị-Vĩnh Bảo, Sài Gòn 1951): “đạo văn (đt) đánh cắp văn”; “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức (cũng xuất bản ở Sài Gòn) trước 1975: “Đạo văn (đt)Chép văn của người khác làm văn của mình.” Tuy nhiên, ở miền Bắc, các cuốn Từ điển tiếng Việt, Từ điển tiếng Việt thông dụng, Đại từ điển tiếng Việt, Từ điển từ và ngữ Việt Nam do các tác giả Văn Tân, Hoàng Phê, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Đạm, Nguyễn Lân... chủ biên hoặc biên soạn, ấn hành những năm 1968, 1995 đến 1998-2000 vẫn chưa thấy từ “đạo văn” xuất hiện (điều này không có nghĩa trong thực tế chưa có chuyện đạo văn xảy ra, nhưng chắc chắn là hãy còn hãn hữu).

Xã hội phát triển, thời đại internet, các loại sách báo, tạp chí, loại hình xuất bản “bung ra” ra.“Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Nhiều tài năng sáng tạo xuất hiện, nhưng thành phần bất tài, lưu manh chữ nghĩa ăn theo cũng không ít. Năm 2000, TĐTV (Hoàng Phê) tái bản, lần đầu tiên thu thập từ “đạo văn”, nhưng kèm lời chú “ít dùng”và giảng theo nghĩa hẹp: “đạo văn đg (id) Lấy hoặc căn bản lấy sáng tác văn học của người khác làm của mình”. Giống từ điển của Lê Văn Đức, ở đây nhà biên soạn (dường như) đã tránh không đối dịch từ “đạo văn” [ăn cắp văn] trước khi giảng nghĩa từ. Nếu Lê Văn Đức dùng từ “chép văn”thì TĐTV Hoàng Phê lại thay "ăn cắp văn"bằng "lấy sáng tác văn học" để mô tả khá “lịch sự”, nhẹ nhàng hành vi “đạo văn”. Mặt khác, cái mở ngoặc lưu ý “ít dùng” (từ điển Hoàng Phê) phải chăng phản ánh môi trường của văn chương, học thuật sáng tạo ở Việt Nam ít nhiều còn trong sạch? Tuy nhiên, dấu ấn “rơi rớt” đó sẽ mau chóng bị chuyện lưu manh văn chương, chữ nghĩa xô đổ...

Dường như “thời” của hai chữ “đạo văn” đã đến!

Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, từ “đạo văn” được hầu hết các cuốn từ điển tiếng Việt ghi nhận. "Đạo văn" đã trở thành từ thông dụng xuất hiện trên báo chí, ngôn ngữ đời sống hàng ngày. Thậm chí “đạo văn” trở thành vấn đề nhức nhối của văn chương, học thuật (hiện nay nếu gõ hai chữ “đạo văn” trên google sẽ có hiển thị hơn 1 triệu kết quả). TĐTV xuất bản 2005 (Nguyễn Kim Thản-Nguyễn Đức Dương-Hồ Hải Thụy): “Đạo văn: Lấy cắp lời văn từ tác phẩm (đã công bố) của tác giả để đưa vào sáng tác của bản thân: Lên án gay gắt thói đạo văn.” Ở đây, nhà biên soạn đã mạnh dạn dùng từ “lấy cắp” để chỉ thẳng bản chất vấn đề. Tuy nhiên “chép văn”, “lấy sáng tác văn học” hay “lấy cắp lời văn”đều mới chỉ nghĩa hẹp của “đạo văn”. Bởi thế, lần tái bản năm 2007, TĐTV (Hoàng Phê) đã lược bỏ giới hạn loại hình “văn học” để giảng nghĩa rộng hơn: “đạo: lấy hoặc căn bản lấy sáng tác của người khác làm thành của mình: đạo văn, đạo thơ, đạo nhạc”. Thế nhưng, cố gắng cập nhật của các nhà biên soạn từ điển dường như vẫn không theo kịp tốc độ phát sinh của các loại “đạo” trong thời buổi loạn sách báo, các loại hình xuất bản.

“Đạo luận án” có thể xếp vào hàng “đại bợm”, sẵn sàng bê nguyên xi hàng chục trang viết của người khác. (Đa số các công trình này đều "xếp kho" sau khi "bảo vệ" xong nên rất ít khi bị phát hiện). “Đạo nhạc” ưa hành nghề ở phương xa, “cuỗm đồ” của người ngoại quốc về "lắp ghép" (Chỉ đến khi có người tình cờ nghe ca khúc ngoại quốc mới phát hiện ra. Mời đọc tại đây). “Đạo thơ” có khi là ý tứ, cảm xúc, một vài từ, vài câu, cho đến cả khổ thơ, bài thơ rồi ung dung đem in báo, dự thi, thậm chí là...đem tặng! (mời đọc "Lại một nghi án đạo thơ cần làm sáng tỏ-Trịnh Anh Đạt) “Đạo báo”, xào xáo tin tức diễn ra thường ngày ở nhiều cấp độ. “Đạo ý tưởng” tinh vi và rất khó bề kiểm soát...Thời buổi intetnet, báo mạng phát triển trở thành mảnh đất lý tưởng cho “đạo văn” hành hoành. Chỉ cần vài cái “nhấp chuột”, kẻ đạo văn đã biến sản phẩm trí tuệ của người khác thành của mình, không mất chút mồ hôi, công sức. Hai tiếng “đạo văn” trở thành nỗi ám ảnh của những người cầm bút sáng tạo.

Người xưa thật tài tình, tinh tế khi dùng hình ảnh một người nhỏ nước dãi thèm muốn và cái liễn đựng thức ăn để làm nghĩa biểu đạt hành vi "đạo". Thực tế, hành vi trộm cắp dù là của cải vật chất hay sản phẩm trí tuệ đều có chung một điểm giống nhau: nhòm ngó, thèm thuồng và cuối cùng không cưỡng nổi ý đồ chiếm đoạt cái của người khác làm của mình. Bởi vậy, có thể nói trên đời có bao nhiêu loại trộm cắp, trong văn chương, học thuật có bấy nhiêu loại “đạo”. Người “đạo” một cách kín đáo, kẻ lại cực kỳ manh động. Có “đạo” thuộc hàng “đại bợm” (bê nguyên văn), có loại chỉ “ăn cắp vặt” (lấy từng đoạn, từng ý). “Đạo”theo kiểu “Đói ăn vụng, túng làm càn” có; đạo để “làm giàu” danh vị, mở “mày mở mặt” với thiên hạ cũng không ít. Điều đáng nói, phần lớn các vụ “trọng án” lại chỉ được “lật tẩy” một cách tình cờ tựa như cách “phát lộ” một di chỉ khảo cổ vậy.

Ở các nước phát triển, tội đạo văn (tiếng Anh: plagiarism) có thể bị đuổi học, phạt tiền, truy tố, tiêu tan sự nghiệp. Có thể lấy ví dụ ở Mỹ: Với sinh viên đạo văn, nhẹ thì bị trừ điểm, đánh trượt, tạm đình chỉ việc học, nặng thì bị buộc thôi học, ghi vào hồ sơ lý lịch, học bạ như là một vi phạm nặng về đạo đức. Nếu đang làm việc sẽ bị giáng chức, nặng hơn là sa thải và khó có cơ hội tìm việc làm nơi khác. Tên tuổi người vi phạm sẽ bị thông báo rộng rãi trong giới học thuật, khiến cơ hội công bố các công trình nghiên cứu hầu như khép lại. Nếu gây hậu quả nghiêm trọng và bị kiện (ăn cắp công nghệ, sáng tạo) người vi phạm có thể sẽ bị xử theo tội danh hình sự. Với một sản phẩm sáng tạo, điều trước tiên người ta phải nhờ đến hệ thống dịch vụ kiểm tra để phát hiện hoặc giúp người cầm bút chuyên nghiệp tránh xa hai chữ “đạo văn”, dù vô tình hay cố ý.

Trông người lại ngẫm đến ta. Nạn “đạo văn” diễn ra tràn lan trong thời gian qua có một nguyên nhân không nhỏ đó là luật pháp không nghiêm, thiếu quy định cụ thể. Những trường hợp bị thu hồi văn bằng, giải thưởng hoặc kỷ luật, đuổi việc ở Việt Nam rất hãn hữu. Phần lớn người đạo văn (hoặc cơ quan báo chí đăng bài) chọn giải pháp im lặng, bao che người vi phạm. Nếu làm gắt thì đưa ra lời xin lỗi. Những trường hợp xin “nộp” lại tiền giải thưởng, nhuận bút, kèm lời xin lỗi tác giả coi như đã “lịch sự” lắm rồi! Trong tình hình nhộn nhạo, “khổ chủ” đành xem như “công lý” đã được “thực thi”.

Dường như đạo văn thật dễ dàng và vô tội! Bởi thế, có kẻ học hàm, học vị tới PGS, TS, Hiệu phó một trường đại học vẫn còn đạo văn! (Xem tại đây) Trên báo chí thì có hẳn một “lực lượng” cầm bút trẻ, chuyên “dạo chơi” trên mạng, sục sạo vào các trang báo địa phương, nhìn ngó các trang Blog, FB cá nhân, thấy gì “ưng mắt” là “chôm” ngay tức khắc (xem tại đây).

Có lẽ hành vi trộm cắp đầu tiên của con người đơn giản chỉ là miếng ăn, sau đó mới đến của cải vật chất; cuối cùng, và “cao cấp” hơn cả là ăn cắp trí tuệ! Tuy nhiên, xét bản chất hành vi thì ăn cắp trí tuệ đáng phê phán và đáng hổ thẹn nhất. Bởi những người đạo văn đều có chữ, được học hành, giáo dục tử tế, đáng ra là lực lượng trí thức sáng tạo của đất nước. Vậy mà họ lại trộm cắp trí tuệ, giết chết văn chương, học thuật sáng tạo-học theo cái nghề thượng cổ vốn là vụng trộm miếng ăn, miếng uống của kẻ “bần cùng sinh đạo tặc”!

Tục ngữ có câu “Gái đĩ già mồm, kẻ trộm lắm gan”. Tuy mức độ manh động có khác nhau, nhưng có thể nói “gan” kẻ “đạo văn” to hơn gan kẻ trộm nhiều. Bởi xưa nay, có đạo chích, đại bợm nào sau khi đột nhập lại dám để lại tên tuổi, địa chỉ đàng hoàng như kẻ “đạo văn”? Dường như kẻ “đạo văn” không tự thấy mình phạm tội ăn cắp, và nhiều cơ quan báo chí cũng xem “trộm văn” là chuyện bình thường?

Nếu luật pháp vẫn nhân đạo, xã hội vẫn nương tay với thành phần lưu manh chữ nghĩa, chắc “thời” của hai chữ “đạo văn” vẫn sẽ còn dài dài...[2]

12/1/2015

H.T.C.


[1]-“Tìm về cội nguồn chữ Hán”-Lý Lạc Nghị-Jim Waters-NXB Thế giới-1997.
[2]-Chuyện đạo văn ngày nay có thể nói không bút nào ghi hết. Dưới đây, tôi chỉ xin kể một vài câu chuyện:

-Buổi chiều ngày mùng 1/6/2000, một người đàn ông ngoài 50 mươi tuổi, mắt đeo cặp kính cận đầy vẻ trí thức, gõ cửa bước vào phòng cha tôi (tại trụ sở Hội văn nghệ TH), câu đầu tiên ông nói sau mấy tiếng cười hề hề: “Một người ngu dốt như cháu cầm bút mà không ăn cắp của bác thì còn ăn cắp của ai ? !”Hóa ra ông là Nhà báo VT, phụ trách chuyên mục “Quê hương-Đất nước-Con người” của Đài PTTHTH! Ông đã chép toàn bộ bài viết của tác giả Hoàng Văn Đoài (tức cha tôi, Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ. Ông cụ lấy tên làng tôi Văn Đoài làm bút danh) viết từ những năm 70 thế kỷ trước, đem đi dự cuộc thi sáng tác về đề tài du lịch xứ Thanh. Không may cho ông, bài viết được giải cao, Ban tổ chức đăng trên báo Văn hóa thông tin TH. Khi được hỏi tại sao lại làm vậy, ông VT thật thà trả lời: “Cháu không biết đó là bài của bác, thấy bút danh lạ Hoàng Văn Đoài, cháu lại nghĩ ông ấy đã chết từ lâu rồi”(!) Điều đáng nói trước đó, trong nhiều tác phẩm phóng sự truyền hình, ông VT vẫn thường ăn cắp từng đoạn bài viết của cha tôi đưa vào lời bình, nhưng ông Cụ bỏ qua. Lần này, thấy tình hình có vẻ nghiêm trọng, ông VT quỳ xin cha tôi tha thứ, tự nguyện nộp lại tiền giải thưởng. Cha tôi không nhận và yêu cầu: “Ông thống kê tất cả những bài đã lấy của tôi, tôi sẽ đòi tiền ở những cơ quan Đài, Báo, Sở đã sử dụng, còn giải thưởng Sở Du lịch tặng ông, có tặng tôi đâu ?” Ông VT nói chỉ còn mấy năm công tác nữa là về hưu, nay xin được tha để “hạ cánh an toàn”, và “xin hứa không viết lách gì nữa, bác khỏi lo cháu tiếp tục ăn cắp của bác !” (Báo Văn hóa thông tin và Ban tuyên giáo TH cũng có lời giàn xếp, mong tác giả bỏ qua “sai sót” này) Cha tôi bỏ qua, nhưng về mặt đạo đức nghề nghiệp, cái án “đạo văn” vẫn treo trên đầu ông VT.

Ngỡ rằng ông VT sẽ hổ thẹn bẻ bút để thiên hạ không ai nhìn thấy tên tuổi, mặt mũi mình nữa. Thế nhưng, sau khi về hưu, ông vẫn tiếp tục cộng tác với Đài qua những lời bình chắp vá và đầy rẫy sai lầm về kiến thức lịch sử. Mười năm sau (2010), dịp kỷ niệm 85 năm ngày Báo chí CMVN, người ta thấy nhà báo VT đạo mạo với mái tóc hoa râm và cặp kính cận uyên bác trong buổi giao lưu truyền hình trực tiếp tối thứ 6/18/6/2010, (hôm sau 19/6/2010 tiếp tục hiện diện trên trang nhất báo TH)! Trong buổi được vinh danh Nhà báo lão thành bậc thầy, ông VT cất lời ân cần dạy bảo lớp nhà báo trẻ và đàn em!

-Năm 2007, Nhà viết kịch, Đạo diễn Vũ Hải đã đạo văn (từng đoạn dài) trong cuốn sách khảo cứu “Thắng cảnh Sầm Sơn” của cha tôi để đưa vào lời bình của vở diễn kỷ niệm 100 năm Sầm Sơn. Ngồi ở nhà xem qua ti-vi ông cha tôi giận run người vì thấy từng câu, từng đoạn trong cuốn sách của mình (trong đó có những phát hiện độc đáo về truyền thuyết đền Độc Cước và núi Trường Lệ) đang được biến thành lời bình thánh thót, với những lớp lang hoành tráng của ông Vũ Hải. Sau khi bị kiện, ông Vũ Hải có nhờ ông Mai Tư (khi ấy là Phó GĐ Sở Văn hóa thể thao và du lịch TH) đem đến 4 triệu đồng tạ lỗi với tác giả Hoàng Tuấn Phổ, nhưng cha tôi không chấp nhận. Vụ việc lằng nhằng rồi chìm vào quên lãng trong sự mệt mỏi của một Nhà nghiên cứu tuổi cao ở Việt Nam đi đòi quyền tác giả.

-Năm 2012, một P/v của Đài PTTH tỉnh lại đạo văn trong cuốn “Hát nhà trò Văn Trinh” của Hoàng Tuấn Phổ để đưa vào phần lời bình cho Phóng sự Tết, giới thiệu về Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và “Hát nhà trò Văn Trinh”. Tác giả Hoàng Tuấn Phổ đã phản ánh với BBT của Đài về việc này. Sự việc được xem như là một “sự cố không may”.

-Ông Lê Xuân Đức-người được mệnh danh là Chuyên gia số 1 về thơ Hồ Chủ tịch, với chừng 10 cuốn sách đã xuất bản. Ngoài việc phá hỏng nguyên tác thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (“tự chế” sai bét phần nguyên văn chữ Hán), ông LXĐ đã đạo toàn bộ chú thích trong cuốn “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-Chú thích và thư pháp” của GS Hoàng Tranh, Trung Quốc (NXB Chính trị Quốc gia) để đưa vào hai cuốn sách “Nhật ký trọng tù và lời bình” và “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” (trong đó, cuốn thứ hai được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2013). Chúng tôi đã có loạt bài viết về hai cuốn sách này của ông đăng trên Tuấn Công thư phòng. Tuy nhiên, ông LXĐ không lấy đó làm hổ thẹn, nên Xuân Ất Mùi 2015 (như bao Xuân trước) ông vẫn xuất hiện trên trang đầu các báo với những bài bình thơ chúc Tết của Bác Hồ. Cuối năm Ất Mùi, ông Lê Xuân Đức về Thanh Hóa dự Hội thảo về Nhà thơ Minh Hiệu, thông qua ông Đào Phụng (Chi hội trưởng Chi hội văn nghệ dân gian Việt Nam tại TH) ông Lê Xuân Đức dọa sẽ kiện tôi (Hoàng Tuấn Công). Tôi và độc giả mong chờ ông kiện để được giải thích tại sao khi thực hiện phần nguyên văn chữ Hán thơ Hồ Chí Minh chữ “tác” lại thành chữ “tộ” nhiều đến vậy, và tại sao “đi tìm xuất xứ thơ” của ông lại giống “chú thích” của GS Hoàng Tranh từng câu, từng chữ như thế?

-Cuối năm 2014, chỉ trong vòng 5 ngày (từ 27/10-2/11, phóng viên của 3 báo Gia đình.net; báo Giáo dục Việt Nam; báo Đại đoàn kết đã “đột nhập” Tuấn Công Thư phòng ăn cắp 3 bài phê bình từ điển của Hoàng Tuấn Công đem về xào xáo hoặc để nguyên văn đăng lại. Sau khi tôi lên tiếng thì tất cả phóng viên và bản báo đều đưa ra lời xin lỗi, lý do này, lý do kia...vô cùng thành khẩn. Những người có trách nhiệm ở các báo cũng gọi điện, thư từ xin tôi lượng thứ. Trước sự thành khẩn đến đáng thương, lại ngẫm câu “Vô phúc đáo tụng đình, tụng đình rình vô phúc”, nên tôi đành bỏ qua.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ HTC nhắc lại để minh họa cho muôn vàn câu chuyện đạo văn đã và đang diễn ra hàng ngày hàng giờ.

Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2015

Cần hiển tài thì phô tài, cần vô dụng thì hiện vô dụng.



Trang Tử dẫn một đoàn môn sinh lên núi thăm bằng hữu.Đến chỗ rừng sâu heo hút, thấy đám tiều phu đang đốn cây. Trang Tử hỏi: - Vì sao các anh chặt hết mấy cây kia, chỉ lưu lại mỗi một cây to này?


Tiều phu nói:

- Cây này xem bề ngoài đẹp đẽ vậy chứ vô dụng lắm, chẳng xài được gì cả!

Trang Tử quay đầu ngó môn sinh bảo:

- Cây này nhờ vô dụng mà được lưu lại, các anh phải học theo như vậy!







Đi qua núi, trời sắp sụp tối, Trang Tử dẫn môn sinh đến nghỉ đêm nơi nhà người bạn.

Người bạn đã lâu không gặp Trang Tử, mừng rỡ sai con:

- Hãy mau giúp cha làm thịt chim đãi khách!

Con cầm dao lên, hỏi cha:

- Nhà mình có hai con chim, nên giết con nào?

Người cha bảo:

- Tất nhiên là con không biết hót!

Nói xong, người cha mỉm cười bảo Trang Tử:

- Con tôi khờ quá, có vậy mà cũng hỏi, con chim không biết hót thì vô dụng quá, giữ lại làm chi?

Trang Tử quay đầu bảo môn sinh:

- Con chim được sống là nhờ biết hót, các anh phải học tập điều này.

Sáng hôm sau, các trò không nhịn được, hỏi Trang Tử:

- Thưa thầy, chiều qua vào rừng, thấy cây vô dụng được chừa lại, thầy bảo học nó. Rồi đến lượt con chim, nhờ có tài mà được sống, thầy cũng bảo học nó. Lời thầy dạy thực mâu thuẫn quá, rốt cuộc chúng con phải theo bên nào? - Hữu tài hay vô tài? Hữu dụng hay vô dụng?

Trang Tử cười to, nói:

- Các anh phải dùng trí phán đoán, tùy thời mà cư xử, ứng biến chứ! Hễ thấy cần hiển tài thì phô tài, cần vô dụng thì hiện vô dụng. Còn bình thường thì hãy trụ ở giữa hữu và vô, vậy thôi.

CÓ NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN Ở PHƯƠNG ĐÔNG KHÔNG?




NGUYỄN KIẾN GIANG



I.

Xin bắt đầu bài này bằng một kỷ niệm nhỏ nhưng thật sâu lắng đối với tôi. Hồi đó, cách đây chừng hai mươi lăm năm, sống trong cảnh cô đơn ở một góc núi hiu quạnh, đọc lại tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, lòng xúc động lạ thường. Dường như có một sức mạnh cảm thông vào đó nhấc mình lên thật cao, nhìn thấy sâu hơn, rộng hơn cả một “vùng cô đơn” của con người, và lòng cảm thấy đỡ cô đơn hơn... Nhắc lại kỷ niệm nhỏ ấy, tôi muốn nói rằng trong những khoảnh khắc như thế, cái Tôi của một tác giả lớn sống cách đây năm trăm năm (thời thường được gọi là Trung đại) có thể bằng cách nào đó “nhập” với cái Tôi của người đọc tưởng như có thể hòa chung.

Tôi bỗng hiểu ra một điều: cái Tôi hóa ra không phải là một sản phẩm hiện đại, nó là biểu hiện của ý thức về con người cá nhân và với tư cách đó, có lẽ nó đã xuất hiện từ lâu lắm rồi. Về sau này, khi đọc những công trình tâm lý học, đặc biệt là phân tâm học, tôi lại càng thấy như thế. Ðối với C. G. Jung chẳng hạn, ý thức về con người cá nhân - cái Tôi - xuất hiện rất sớm, khi con người thoát ra khỏi “vô thức tập thể” của một cộng đồng bầy đàn, và cuộc vật lộn của ý thức cá nhân để thoát ra khỏi “vô thức tập thể” ấy vẫn còn kéo dài cho đến tận bây giờ.

Như vậy không có vấn đề “có cái Tôi” hay “không có cái Tôi” trong lịch sử triết học và văn học của các nước phương Tây cũng như của các nước phương Ðông. Cái Tôi - ý thức về con người cá nhân của từng cá nhân - bao giờ cũng tồn tại. Xin nói trước đi một chút: ngay cả những phái triết học hay tôn giáo chủ trương “vô ngã” hay “diệt ngã”, mà Phật giáo là một ví dụ, trước khi làm cho các tu sĩ và tín đồ đạt tới chỗ đó, cũng từng khẳng định và phân tích cái “ngã” một cách thật chi li, đến mắc ngày nay một số nhà tâm lý học phải đi tìm trong văn học Phật giáo những lý giải và phân tích về cái Tôi, cái Siêu Tôi để bồi bổ cho những nhận thức của tâm lý học hiện đại trong lĩnh vực này.[1]

Dù rằng vấn đề đó đã được giải quyết, nhưng cần phải nhắc lại, vì cho đến nay, khi thảo luận về các vấn đề văn hóa, có người vẫn phân biệt “con người cá nhân” thời nay và “con người cộng đồng” thời xưa, hoặc phân biệt “con người cá nhân” ở phương Tây và “con người cộng đồng” ở phương Ðông hiện nay. Về một mặt nào đó, sự phân biệt ấy không sai lắm (nếu xét về mục tiêu tồn tại và hoạt động sống của con người). Nhưng sự phân biệt ấy có cái sai căn bản là phủ nhận sự tồn tại của “con người cá nhân” trong suốt chiều dài lịch sử ở bất cứ phương trời nào.

II.

Xin đi sát hơn một chút vào vấn đề đang bàn: khái niệm “con người cá nhân” ở phương Ðông.

Trước hết, ngay cả khái niệm “phương Ðông”, theo tôi, vẫn là một khái niệm chưa thật chuẩn xác về thời gian và không gian. Phương Ðông là gì, ở đâu? Có lẽ để tiện bàn hơn, ta có thể nói tới một vùng không gian chịu ảnh hưởng của mấy nền triết học lớn thời cổ ở châu á: Nho, Lão và Phật. Khoanh lại như vậy rồi, vẫn chưa nói hết tính phức hợp của chính những triết học lớn ấy. Những quan hệ tương tác, giao thoa, hỗn hợp của chúng, những tiến triển theo thời gian và không gian của chúng - quả thật là những điều không dễ gì phân tích và nhất là khái quát. Không, cái gọi là “văn hóa phương Ðông” hay “văn minh phương Ðông”, hay nói hẹp hơn, khái niệm con người ở phương Ðông, là những tập hợp vô cùng lớn và rất không thuần nhất. Trong lịch sử tư tưởng ở vùng này, đã diễn ra biết bao cuộc tranh luận giữa các triết học ấy và ngay trong bản thân mỗi dòng triết học. Tôi thật vô cùng khiếp sợ khi đứng trước những đống sách báo có liên quan tới vấn đề này, mà những gì tôi thấy được (chưa nói đến đọc được) cũng vô cùng nhỏ bé so với nững gì đã có, đang có. Nhiều lắm mỗi chúng ta cũng chỉ có thể nắm bắt một vài mảng, một vài mảnh nào đó mà thôi. Có lẽ đó là điều mà mỗi người nghiên cứu phương Ðông đều cảm nhận rất rõ, và hẳn đều phải tự nhủ mình tránh tình trạng “thấy rừng không thấy cây” hoặc chỉ “nhìn thấy một vài cây mà không thấy rừng”.

Chỉ lấy một ví dụ: ta thường nói tới “Văn hóa Trung Quốc” và ảnh hưởng của nó đối với các nước chung quanh cũng như đối với nước ta. Trong suy nghĩ của không ít người - trong đó có tôi -, một thời gian dài, khái niệm đó gần như đồng nhất với Nho giáo (hiện nay cũng có nguy cơ đó, khi một số người đề cao Nho giáo như nền tảng tinh thần của quá trình hiện đại hóa ở các nước Ðông Á). Trên thực tế, văn hóa Trung Quốc là một khái niệm rộng lớn hơn nhiều, mà Nho giáo chỉ là một bộ phận (tất nhiên là một bộ phận chủ đạo). Mới đây, trên tạp chí Vostok (Nga), số 3 năm 1992, nhà nghiên cứu M. E. Kharkova công bố một bài viết rất có giá trị: “Tính đa dạng văn hóa tộc người của Trung Quốc thời cổ”. Tác giả nhấn mạnh: vào thời Hán (thế kỷ II trước CN - thế kỷ II sau C.N.), nền văn hóa Trung Quốc là một tập hợp của một vài truyền thống văn hóa tộc người lúc đầu khác nhau, trong đó có hai “chất nền” chủ đạo: “trung tâm” và “phương nam” - thừa hưởng hai truyền thống văn hóa lớn của nước Chu và nước Sở Về đại thể, truyền thống văn hóa Chu kết tinh ở Khổng giáo, còn truyền thống văn hóa Sở kết tinh ở Lão giáo. Văn hóa Hán chính là sự tổng hợp của hai “chất nền” văn hóa vừa độc lập vừa giao nhau này.

Hai “chất nền” văn hóa nói trên mang những định hướng khác nhau và đối lập nhau.

Thứ nhất, về những quan niệm vũ trụ, truyền thống văn hóa Chu (“chất nền” trung tâm) có mấy đặc điểm: Phân bố không gian theo bốn phần, có trung tâm ở chính giữa; đối lập trung tâm với ngoại vi như văn minh với dã man. Ðó là mô hình thế giới “theo chiều ngang”. Trong bốn phương, phương Nam được coi là thiêng liêng (chưa rõ nguyên nhân), còn phương Tây thì được coi là “xứ sở tăm tối”. Trong khi đó, truyền thống văn hóa Sở lại cấu trúc không gian theo “trục Ðông - Tây”, và phương Tây được coi là thiêng liêng (vừa là xứ sở của cái chết, vừa là nguồn bất tử).

Thứ hai, quan niệm vũ trụ có liên quan mật thiết với những quan niệm tôn giáo. Văn hóa Sở thờ cúng Thánh Mẫu (Tây Vương Mẫu) gắn liền với tư tưởng về sự bất tử, do đó mang tính chất huyền thoại. Còn văn hóa Chu thờ quyền lực tối cao của Thánh Vương, tạo ra nền tảng cho lý thuyết về “nước” (quốc gia) sẽ được Khổng giáo phát triển về sau này thành khái niệm “lễ” (sách Lễ ký). Từ đó, tâm thức của hai truyền thống văn hóa ấy cũng khác nhau. Truyền thống Chu chú trọng tới hoạt động tạo dựng tích cực và nhằm thiết lập trật tự trong thiên hạ, biểu hiện trước hết ở những nghi lễ cũng như ở những công trình xây dựng đô thị không chỉ mang ý nghĩa thực tiễn mà còn mang ý nghĩa phương thuật - nghi lễ.

Thứ ba, về các quan hệ “con người - xã hội”, văn hóa Chu đặt quyền lợi xã hội lên trên, và các cá nhân chủ yếu được xem xét về mặt sinh hoạt xã hội của nó - từ đó mà đề cao đạo đức, còn những vấn đề bản thể của con người (sống và chết, chẳng hạn) thì nằm ngoài sự chú ý của Khổng giáo. Trái lại, “chất nền” phương Nam lấy việc hướng vào bên trong con người là chính. Nó tập trung vào việc thỏa mãn những nhu cầu tinh thần của cá nhân và giải quyết những vấn đề của cá nhân (phải chăng vì thế mà một số nhà nghiên cứu phương Tây cũng như Phùng Hữu Lan, nhà triết học nổi tiếng của Trung Quốc đầu thế kỷ XX, đã nói tới một thứ “chủ nghĩa cá nhân” nào đó, bắt nguồn từ chất nền văn hóa này?). Lý tưởng tuyệt đối của nó là “tính tự nhiên” của tất cả những gì hiện có. Tất cả những gì có liên quan với văn minh bị coi như sự vi phạm bản chất ban đầu của từng cá nhân cũng như của cả cộng đồng. ý niệm về bất tử là cái mà nó luôn luôn theo đuổi. (Chính ý niệm này về sau được Ðạo giáo - như một thứ tôn giáo không có liên quan mấy với triết học Lão Tử - tiếp nhận và biến thành cơ sở của nó).

Thứ tư, hai “chất nền” này có những thái độ ngược nhau đối với đời sống thầm kín (tính dục) của con người và đối với phụ nữ. Văn hóa phương Nam vun xới sự quí trọng phụ nữ, vì phụ nữ đẻ ra sự sống mới và gần gũi với thiên nhiên hơn đàn ông. Nhiều huyền thoại của nó kể về các quan hệ tính dục giữa người đàn ông trần tục với người đàn bà tiên thánh. ý nghĩa của quan hệ tính dục rất được coi trọng trong sự hòa hợp âm - dương. Cái “dâm” được hiểu như một nghệ thuật (thuật) hay một học thuyết (kinh), và được coi như một thứ “đạo” và trong thứ “đạo” này người phụ nữ đóng vai trò chủ động. Văn hóa tính dục được hoàn thiện, và về mặt này không có hạn chế đạo đức nào, tự do tính dục được hoàn toàn thừa nhận cho cả nam lẫn nữ. Trong khi đó, hành vi tính dục lại được văn hóa “trung tâm” khoác cho một ý nghĩa thiêng liêng, như sự bắt chước Trời và Ðất giao nhau, nhưng khác với phương Nam, các quan hệ này mang ý nghĩa xã hội quan trọng, vì nó hướng tới sự duy trì trật tự thế giới cũng như bảo đảm sự yên ổn vủa quốc gia. Không phải Khổng giáo coi các quan hệ đó chỉ có những mục đích thực dụng (để sinh con đẻ cái, nối dõi), hay chỉ như một thứ “nghĩa vụ” của người dân, nhưng rõ ràng nó đã vạch ra những giới hạn nào đó (đàn ông không thể có quan hệ tính dục ngoài gia đình, đó là để củng cố đạo đức gia đình và xã hội; phải kìm hãm mọi xúc cảm trong quan hệ với đàn bà). Ðối với đàn bà, Khổng giáo có sự đánh giá hai mặt: một mặt, coi người đàn bà là người giữ tổ ấm gia đình, là mẹ và người giáo dục con cái, người nội trợ và người giúp chồng về sự nghiệp; mặt khác, họ bị coi như kẻ mang những sức mạnh hỗn loạn có hại. Vì thế Khổng giáo yêu cầu phải tuân theo đạo lý trong quan hệ với phụ nữ, không để bị lôi cuốn về mặt tình cảm (những xúc cảm tính dục bị coi như bản năng thú vật).

Cuối cùng là sự khác nhau giữa hai “chất nền” văn hóa ấy về ngôn từ, văn tự và thi ca. ở văn hóa “trung tâm”, ngôn từ được coi là có sức mạnh thần diệu, nhất là khi nó mang hình thức văn tự. Ngôn từ thuộc về “lễ” và dùng ngôn từ là thực hành một “nghi lễ”. Quan niệm về thi ca (thi) của Khổng giáo cũng bắt nguồn từ đó (thinói lên chí của người quân tử). Văn chương không chỉ là giãi bày những gì mỗi cá nhân trải qua, mà phải thể hiện “chí” của cộng đồng. (Truyền thống cá nhân hóa văn chương trữ tình chỉ được khẳng định vào thế kỷ III sau CN). Trong khi đó văn hóa phương Nam coi trọng tính phi ngôn từ, vì không thể dùng lời mà truyền thụ tri thức và xúc cảm được (Ðạo khả đạo phi thường Ðạo: Ðạo mà ta có thể gọi được, không phải là Ðạo). Không phải ngẫu nhiên mà toàn bộ triết lý của văn hóa phương Nam này chỉ được gói gọn vào vài trăn câu Ðạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Hiểu thế giới không phải bằng ngôn từ lôgic mà phải bằng trực giác cảm tính.

Tất cả những phân tích vừa nói đúng đến đâu, điều đó có thể còn tranh cãi. Có một điều khá chắc chắn: cái mà ta thường gọi là “văn hóa” hay”văn minh Trung Quốc” thật ra là một tập hợp lưỡng nguyên, và khi nói tới ảnh hưởng của nó đối với văn minh Cổ đại hoặc Trung đại ở nước ta, phải tính đến toàn bộ tập hợp ấy, không chỉ chú trọng tới Khổng giáo. Theo tôi, cả Khổng giáo lẫn Lão giáo (xin phân biệt với Ðạo giáo về sau) có tác động sâu sắc ngang nhau đối với văn hóa Việt Nam ngày xưa. Mức độ ảnh hưởng của từng trào lưu có thể khác nhau đối với từng thời kỳ và từng tác giả, nhưng nhìn chung là thế.

Và đó là điều cần chú ý khi bàn về khái niệm con người cá nhân trong văn học cổ.

III.

Như đã biết, ngoài Khổng giáo và Lão giáo ra, Phật giáo cũng góp phần rất sâu sắc vào quan niệm về con người cá nhân ở phương Ðông. Ðến nay, có lẽ có ít ai cho rằng Phật giáo không có quan niệm riêng về con người cá nhân. Ðúng, Phật giáo là một tôn giáo (thật ra là một triết học) chủ trương đi tới Vô Ngã (Anatman). Triết lý về Vô Ngã là một trong những lý thuyết trung tâm của Phật giáo. Ðối với nó, mọi sự vật đều mang ba đặc trưng cơ bản: Tạm thời (Anitya, vô thường), Ðau khổ (Duhkha) và Vô Ngã (Anatman), mà đặc trưng thứ ba là quan trọng nhất và cuối cùng. Triết lý Vô Ngã phủ nhận sự tồn tại của một cái Ngã cá nhân, coi cái tôi chỉ là một nhân cách kinh nghiệm, hay nói theo thuật ngữ Phật giáo, là một tập hợp (ngũ uẩn) tạm thời, không thường hằng, do đó, đau khổ. Ngã không thể là bất tử, mà là một tồn tại ước lệ, là kết quả của kinh nghiệm thường ngày. Tất cả những nỗ lực của giới tu hành và tín đồ Phật giáo đều nhằm tới cái đích xóa bỏ Ngã, xóa bỏ những nguyên nhân và điều kiện đem lại đau khổ và sự tồn tại tạm thời của con người, để đạt tới trạng thái Vô Ngã, đồng thời cũng là trạng thái Giải thoát. Walpola Rahula, một Phật tử và một nhà nghiên cứu Phật giáo có uy tín, phân tích rất rõ về điều đó: “Chỉ duy nhất có Phật giáo trong lịch sử tư tưởng loài người đã đứng lên phủ nhận sự tồn tại của một Linh hồn như vậy của Ngã. Theo lời Phật giảng, ý tưởng về Ngã là một sai lầm và tưởng tượng, không hề phù hợp chút nào với hiện thực và đó la nguyên nhân gây ra những ý nghĩ nguy hiểm về “cái tôi” và “của tôi”, những ham muốn vị kỷ và vô độ, những ràng buộc, những căm ghét ác tâm, những ý niệm kiêu căng và những xú ố, dơ bẩn và những điều khác. Nó là nguồn gốc rối loạn của thế giới...”[2].

Nhưng chính vì đi tới Vô Ngã mà Phật giáo, như đã nói, phân tích rất kỹ về Ngã. Không ai cảm thấy rõ hơn Phật về sức mạnh tự bảo vệ và tự duy trì của Ngã. Cũng không ai cảm thấy rõ hơn Phật về sự “khủng khiếp” của một người bình thường khi bỗng nhiên thấy mình không còn Ngã (“ta sẽ không còn nữa, ta sẽ không có nữa”). Một người bình thường chỉ cần nghĩ rằng: “Thế là ta sẽ bị tiêu tan, ta sẽ bị hủy diệt, ta sẽ không còn nữa”, là anh ta hoảng hốt, rên rỉ, đấm vào ngực khóc lóc và trở nên đờ đẫn. Song đối với người theo Phật giáo, một quá trình “biện chứng” diễn ra trong tâm thức anh ta, không thể tránh được, như một nghịch lý: càng hướng tới Vô Ngã thì ý thức về Ngã càng mạnh. Ðó là cái Phật giáo gọi là “Ngã ngã sở” như một phản ứng mạnh mẽ đối với Vô Ngã (“Lìa ta thì chúng sinh đều không, lìa cái của ta thì các pháp đều không cả” - Tăng Triệu, hoặc “Ngã chấp” (chấp trước vào cái ta). Hoặc “Ngã ái” (yêu cái ta). Nói cách khác, trước khi đạt tới Vô Ngã, ý thức về Ngã được khẳng định hơn bao giờ hết. và cho đến khi đạt tới Vô Ngã, ý thức về Ngã vẫn không tiêu vong, nó chỉ đổi dấu, từ dấu + chuyển sang dấu -. Bởi vì khi Ngã bị trừ diệt cũng là khi Ngã được giải thoát. Mục đích cuối cùng của Ngã đã đạt được, ở cõi Vô Ngã. Không phải không có căn cứ khi có người nói rằng đạo Phật chính là đạo “cá nhân chủ nghĩa” nhất, tất nhiên không phải là hiểu theo nghĩa xấu, mà là hiểu theo nghĩa mục tiêu cuối cùng của người theo Phật giáo là giải thoát cho cái Tôi. (Theo lý thuyết Phật giáo, chỉ khi nào hóa thành Phật mới có khả năng cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, nghĩa là đem lại lợi ích cho đồng loại (các bồ tát), còn chừng nào chưa đạt tới đó thì sự giải thoát chỉ là riêng (các a la hán). ở đây chúng ta không thảo luận về nội dung đích thực của Ngã là gì đối với Phật giáo vì Phật giáo không thừa nhận Ngã và cho rằng chỉ khi nào một người không nhìn thấy Ngã, không có ý thức về Ngã, tức là cái không hề có ấy, chỉ khi đó mới tự giải thoát. ở đây tôi chỉ muốn đứng về mặt khoa học để tìm hiểu cơ chế đi từ Ngã đến Vô Ngã, biến cái có thành cái không có. Dù cho cái có ấy là “giả” đi nữa, thì trong đời sống hiện thực nó vẫn tồn tại.

Vì vậy, dù Phật giáo có phủ nhận Ngã, tức là phủ nhận con người cá nhân, thì con người cá nhân vẫn tồn tại như một tiền đề và như một cứu cánh. Phải chăng chính vì thế mà có một sự hòa nhập giữa Nho giáo và Phật giáo trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cũng như Việt Nam? Ðó là một câu hỏi khá lý thú đặt ra về mặt học thuật. Mà câu trả lời có thể tìm thấy ở Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh, ở đó Ngô Thì Nhậm thực hiện thật xuất sắc phương châm “Khu Thích dĩ nhập Nho” (Ðưa đạo Phật vào đạo Nho).

IV.

Một cái nhìn lướt nhanh - và vì lướt nhanh, không thể không sơ lược - như được thể hiện trên đây liệu có đủ căn cứ để nói tới những khái niệm về con người cá nhân ở phương Ðông ngày xưa? Ý thức về con người cá nhân, dù để khẳng định nó hay để phủ định nó, hay để không khẳng định cũng không phủ định nó, là một điều hiển nhiên ở phương Ðông hay ở phương Tây, hay ở một chân trời nào khác. Ðiều quan trọng hơn nằm ở chỗ khác: không có một quan niệm đồng nhất và thống nhất về con người cá nhân, mà có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Chỉ lấy ba trào lưu lớn nhất của triết học phương Ðông, ta thấy quan niệm về con người cá nhân của Nho, Lão và Phật đã hết sức khác nhau rồi. Với những gì đã trình bày, tôi tưởng rằng đó cũng là một điều hiển nhiên.

Vậy thì, những quan niệm về con người cá nhân của phương Ðông có cái gì giống nhau không? Có thể nói tới một mẫu số chung nào đó của chúng không? Những câu hỏi ấy được đặt ra là vì, theo tôi, người ta thường đem so sánh, đối chiếu những quan niệm đó với những quan niệm được gọi là của phương Tây. Thật ra, nếu xem xét kỹ các trào lưu triết học và tôn giáo của phương Ðông và phương Tây, có thể thấy những điểm giống nhau nào đó mà không hẳn trái ngược nhau. Bởi vì trong tiến tình vận động của tư tưởng loài người, nếu xét từ những thời xa xưa nhất, thì phương Ðông và phương Tây có không ít những điểm giống nhau (chưa nói tới những trào lưu này có khi cùng có một nguồn gốc chung nào đó. (Mới đây, một vài nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng Kitô giáo là một nhánh có cùng một nguồn gốc với các tôn giáo phương Ðông, nếu đó là sự thật thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả). Bất cứ ở đâu, ý thức con người (tức là từ khi con người có ý thức) cũng đều có những đối tượng giống nhau: cuộc sống con người (cá nhân và cộng đồng), vũ trụ và nhận thức, hay nói theo Phùng Hữu Lan, nhân sinh luận, vũ trụ luận và tri thức luận. Và vì cuộc sống con người và nhận thức của nó, cũng như vũ trụ xung quanh con người, thật ra không có gì khác nhau căn bản giữa các vùng trên trái đất, nên không thể không có những điểm tương đồng, tất nhiên đó là những tương đồng trong những khác biệt, gắn liền với những khác biệt. Vai trò của các bậc hiền triết mà Platon thời cổ Hy Lạp đặc biệt đề cao về căn bản cũng chẳng khác gì mấy vai trò của những thánh nhân (theo quan niệm Nho giáo), hay của những bậc Ðại giác (theo quan niệm Phật giáo). Cơ chế tâm lý của một người điên ở châu Phi hay của một người điên ở châu Âu, chẳng hạn, cũng không có gì khác nhau lắm dưới ánh sáng của tâm bệnh học. Ðiều đó giải thích rất rõ hiện tượng người phương Tây đi tìm những nguồn nhận thức ở người phương Ðông (đang thịnh hành hiện nay) cũng như người phương Ðông đi tìm những kho tri thức khoa học - kỹ thuật phương Tây (cũng rất thịnh hành hiện nay). Nhân đây, xin phép được bác bỏ thái độ tự cao tự đại của một số “nhà tư tưởng” nào đó ở một số nước Ðông Á, coi những giá trị phương Ðông cao hơn những giá trị phương Tây trong khi chính họ đang học và học rất nhiều ở phương Tây trong tiến trình hiện đại hóa đất nước mình. Khuynh hướng “tự tôn khu vực” này chẳng hứa hẹn điều gì hay ho cả, nó chỉ góp phần tạo ra và đẩy sâu hơn những khác biệt trên thể giới ngày càng được cảm thấy rất bé nhỏ này.

Chỉ nhìn vào khuynh hướng của một trào lưu nào đó ở phương Ðông và của một trào lưu nào đó của phương Tây, rồi khái quát hóa thành những bản chất riêng của tư tưởng mỗi khu vực, đem đối lập chúng với nhau, kiểu như phương Tây “chủ biệt”, phương Ðông “chủ toàn”, đó quả là một việc làm thiếu suy nghĩ đầy đủ. Bởi vì những khác biệt ấy cũng có ngay bên trong mỗi khu vực, thậm chí mỗi nước. Về điều này, Phùng Hữu Lan có một sự phân tích rất hay: “Nhiều người bảo rằng triết học Trung Quốc là triết học thế gian... Nhưng đấy chỉ là cái nhìn sơ sài về vấn đề. Ta không thể hiểu triết học Trung Quốc một cách giản đơn như vậy. Trong bản chất truyền thống thì triết học Trung Quốc không hoàn toàn thuộc về triết học thế gian hay xuất thế gian. Nó thuộc về cả hai. Một đạo học gia đời Tống đã nêu rõ đặc tính triết học Trung Quốc như sau: “Nhật dụng thường hành nào xa cách - Tiên thiên vị hoạch vội đến ngay”. Chính trong mục đích ấy mà triết học Trung Quốc nhắm tới. Với tinh thần ấy, nó vừa rất lý tưởng đồng thời cũng rất hiện thực và hoàn toàn thực dụng, mặc dầu không thiển cận”.[3]

Người viết những dòng này đã đi lạc vấn đề rồi chăng? Không. Tôi chỉ muốn nói rằng, đừng nên đem đối lập một cách tuyệt đối giữa phương Tây và phương Ðông (để tự ti hay tự tôn, như trong lịch sử đã có nhiều ví dụ). Những khác biệt là có thật, nhưng chỉ có ý nghĩa tương đối. Và chỉ với ý nghĩa đó, chúng ta có thể và nên bàn tới những khác biệt, ở đây là những khác biệt về con người cá nhân ở một thời kỳ phát triển lịch sử nào đó.

Những điểm chung (hay mẫu số chung) của những quan niệm về con người cá nhân ở phương Ðông là những gì? Một cách thật sơ lược, có thể nêu lên mấy điểm sau đây:

Thứ nhất, con người cá nhân ở phương Ðông không tìm cách đối lập với tự nhiên, ngược lại, cố gắng hòa với tự nhiên. ở phương Ðông, không có một Ðấng sáng tạo, một Chúa tể thế giới, tương tự Ðức Chúa Trời của Kitô giáo ở phương Tây. Ta không đọc thấy ở Nho giáo, Lão giáo hay Phật giáo một Ðấng sáng thế nào như thế cả. Khái niệm Trời, để từ đó mà có sự đề xướng “theo mệnh trời”, trong Nho giáo chẳng hạn, không được nhân cách hóa thành một Ðấng sáng thế. Trời là một khái niệm siêu hình, chỉ những sức mạnh nằm bên ngoài và vượt ra khỏi những sức mạnh ý chí của con người. Theo Mạnh tử, “biết Trời” tức biết ta là “dân Trời” (thiên dân) để làm điều nhân, đạt tới sự cao cả của con người. Còn trong Lão giáo, con người phải sống theo Ðạo, ứng xử tốt nhất của con người là “vô vi” (không phải với nghĩa không làm gì, mà chỉ có nghĩa là làm ít đi, là hành động không giả tạo và bị cưỡng chế vì giả tạo và cưỡng chế là trái với tự nhiên). Phật giáo không bàn về Thượng đế, chỉ bàn tới Chân lý cuối cùng, về sự giác ngộ chân lý đó, hòa mình với chân lý đó. Thế giới chứa đầy mọi sinh linh, mà đối với mỗi sinh linh ta đều phải tôn trọng, phải thông cảm, nên cũng không thể có sự chống lại vũ trụ hay làm chủ vũ trụ. Nói chung, khác với các thuyết lấy con người làm trung tâm (anthropocentrisme), các triết học phương Ðông coi con người chỉ là một bộ phận của vũ trụ, của tự nhiên và phải hòa chung vào tự nhiên.

Quan niệm về con người và tự nhiên ấy có một ưu điểm rất lớn: sự tôn trọng tự nhiên như vốn có. Ngày nay, ở phương Tây, phái sinh thái học và giới khoa học nói chung đang tiến tới quan niệm ấy trên cơ sở những dữ kiện và phân tích khoa học (có thể coi đó là trở lại với quan niệm phương Ðông nhưng trên một cơ sở khoa học - duy lý tỉnh táo hơn).

Thứ hai, con người cá nhân ở phương Ðông trong các quan hệ với xã hội không phải chỉ hướng theo một vec-tơ đặt xã hội lên trên cá nhân, như có người tưởng. (Thoạt nhìn là như thế, nhưng đi sâu hơn, không hoàn toàn như thế). Ðúng là Nho giáo chủ trương đặt cá nhân vào những mối lệ thuộc vào các quan hệ xã hội rộng lớn hoưn, nhưng Nho giáo không bao trùm toàn bộ tư tưởng phương Ðông. Và ngay trong Nho giáo, cá nhân không bị triệt tiêu bởi lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Nho giáo đề xướng một tôn ti trật tự chặt chẽ, tương ứng với tổ chức xã hội Trung Quốc thời cổ. Qui định vị trí của mỗi cá nhân và xác định thứ bậc giữa các cá nhân. Nhưng ở đây, cần thấy rõ ràng Nho giáo đề cao sự rèn luyện cá nhân (tu thân) như một tiền đề để cá nhân làm đúng vị trí của mình. Nghĩa là cá nhân càng tự giác bao nhiêu về vị trí của mình thì càng phải tu thân bấy nhiêu để giữ đúng vị trí ấy. Ở đây, những quan hệ cá nhân - xã hội theo hướng cá nhân phục vụ (và phục tùng) xã hội, “cá nhân cho xã hội”, không dựa trên sự cưỡng chế, mà dựa vào sự tự giác của cá nhân. Tất nhiên, về mặt chính trị và xã hội, có những bó buộc rất chặt chẽ, bởi vì chế độ chuyên chế thì ở đâu cũng vậy. Nói theo Marx, nguyên tắc cao nhất của chế độ chuyên chế là triệt tiêu con người với tư cách cá nhân. Nhưng xét về mặt ý thức con người, thì cá nhân không phải là đối tượng triệt tiêu, trái lại, là đối tượng giáo hóa, đối tượng “lễ” hóa. Trong lịch sử phương Ðông (đặc biệt ở các nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, không hiếm những tấm gương tự nguyện hy sinh cá nhân cho những lợi ích xã hội. Không cần phải “vua bảo chết, thần chết”, mà chính thần dân nhiều khi chịu chết một cách tự nguyện vì vua. Vì theo quan niệm Nho giáo, vua là “con trời”, là “cha của thiên hạ”. Chết vì vua không phải là chết cho cá nhân nhà vua, mà chết cholý tưởng xã hội kết tinh ở ngôi vua.

Nhưng, như đã nói trên, mối quan hệ cá nhân - xã hội không chỉ đi theo vec-tơ ấy. Còn có một vec-tơ ngược hẳn lại, mà Lão giáo là tiêu biểu. Thật ra, Lão tử là người kế thừa những tư tưởng “vị ngã” cực đoan của Dương Chu, người được Mạnh tử tóm tặt nhân sinh quan một cách ngắn gọn: “Dương Chu chủ vị ngã. Nhổ một sợi lông mà lợi cho thiên hạ cũng không làm”. Tư tưởng “khinh vật trọng sinh” ấy thấm rất sâu vào những tác giả theo phái này. Chính tư tưởng này qui định nhân sinh quan “lánh đời” để giữ mình và tránh điều hại. Nhưng người theo tư tưởng này thường thích ở ẩn (nơi sơn lâm cùng cốc), trốn xã hội, và như vậy là để tránh mọi nổi khổ của nhân thế. Có lẽ thời đại xuất hiện của phái này đầy rẫy những mối hiểm nguy bất trắc cho con người có học muốn “giúp nước phò vua”, chí ít tình trạng xã hội nhiễu nhương cũng làm cho họ chán ngán. Và họ chủ trương “vị ngã” bằng cách rút lui khỏi thế sự. Nhưng sự rút lui về cá nhân mình theo lối tách rời mọi quan hệ xã hội, như cuộc sống cho thấy, là không thể thực hiện được, là ảo tưởng. Cũng ảo tưởng như quan niệm nhập thế tuyệt đối của Nho giáo. Con người, dù ở thời đại nào, bao giờ cũng phải tạo được một sự cân bằng tâm thần (équilibre psychique) để có thể tồn tại bình thường. Không ai cứ “ra” mãi. Cũng không ai cứ “về” mãi được. Chính vì thế, con người cá nhân phương Ðông luôn luôn đi tìm sự cân bằng ấy. Một vài nhà nghiên cứu đưa ra một nhận định có cơ sở: các nhà nho thời xưa, khi ra phò vua giúp nước thì theo Nho, khi bất lực chán chường thì theo Lão. Có lẽ nói như thế này thì đúng hơn: hai tâm thế ngược nhau này luôn luôn tồn tại ở mỗi con người, khi thì cái này trội hơn cái kia, khi thì ngược lại. Cả hai nằm trong một thể thống nhất của con người cá nhân, biến hóa rất linh động có khi trong cùng một thời điểm, thậm chí trong cùng một khoảnh khắc. Có như thế mới giải thích được tại sao ở cùng một tác giả, ngay giữa lúc tham dự triều chính hết sức bận rộn, cũng tìm được một phút “rút lui” về bản thân mình. Phải chăng có thể thấy được hai thứ tâm thế ấy xen kẽ nhau trong bài thơ “Ðề điểu hô nhân đồ” (Ðề bức hoạ “Chim núi gọi người”) của Nguyễn Trãi (xin tạm dịch dưới đây)?

Vắng vẻ rừng sâu chim gọi người, 
Ngắm tranh tưởng thấy thực trên đời, 
Lui triều trưa rỗi treo lên cửa
Vườn cũ xuân về mộng đó thôi

Hay bài “Ðề Ðông sơn tự” cũng của ông:

Nỗi lòng canh cánh chữ quân thân
Lỗi hẹn nguyền xưa thẹn suối rừng
Ba mươi năm lẻ đời trong mộng
Mấy tiếng chim kêu đánh thức lòng[4]

Chừng nào đó, Phật giáo cũng đóng một vai trò gần giống như Lão giáo đối với sự cân bằng tâm thần của con người cá nhân phương Ðông ngày xưa.

Thứ ba, quan niệm con người cá nhân ở phương Ðông đặc biệt nhấn mạnh đời sống tâm linh của chủ thể. Nhận thức của con người về chính bản thân mình không chỉ là nhận thức về những hoạt động sống (đời sống hiện hữu) mà cả về hoạt động tâm linh suy tưởng. Vấn đề không chỉ là coi trọng mặt tinh thần của đời sống, như trau dồi cho mình những đức tính cần thiết. Con người cá nhân phương Ðông ở chiều sâu nhất của nó là con người hướng thượng, hướng thiện, hướng tới cái thiêng liêng và siêu việt. Ðó có thể là “mệnh”, là “đạo”, là “vô thượng”... tùy theo quan niệm của mỗi trào lưu tư tưởng lớn, có khi là tất cả những cái đó, nhưng bao giờ đó cũng là mối ưu tư lớn nhất của con người cá nhân phương Ðông. ở phương Ðông, hình như vấn đề “ý nghĩa cuộc sống” ít được đặt ra (như hiện nay ở phương Tây người ta thường nói tới một biến đổi lớn: từ “xã hội tiêu dùng” sang “xã hội tìm ý nghĩa cuộc sống”). Không phải ở phương Ðông người ta không quen đặt ra những câu hỏi trừu tượng mang tính bản thể luận, như có người nhận xét, mà là vì vấn đề đó đã được giải quyết từ xa xưa, giải quyết đến một chiều sâu ý thức mà sau này không cần phải đặt ra nữa. Con người cá nhân phưong Ðông tỏ ra ít băn khoăn về những nguyên ủy và cứu cánh của cuộc đời con người, của vũ trụ..., mà đó chính là lý do khiến một số người phương Tây nói tới chủ nghĩa thực dụng của con người phưoưng Ðông. Thật ra, đó chỉ là nhìn bề ngoài, nhìn vào một khoảnh khắc mà chưa phải nhìn tận chiều sâu và nhìn vào cái thường hằng của con người phương Ðông. Có thể trong một số thời điểm nào đó, mặt “thực dụng” nổi trội lên khi con người phải đương đầu với những nhu cầu sống tối thiểu của mình (khi đó mặt “đời sống hiện hữu” không thể không được đặt lên hàng đầu), nhưng chỉ cần trở lại bình lặng một chút trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng thì mặt “tâm linh” lại nổi lên mạnh mẽ, bùng cháy như một ngọn lửa khó dập tắt.

Còn có thể nêu lên những nét khác nữa của con người cá nhân phương Ðông, nhưng theo tôi, đó là những nét đậm nhất, sâu nhất. Tôi không nói rằng những nét đó chỉ thấy có ở con người cá nhân phương Ðông; những nét đó từng là, đang là và sẽ là của mọi con người cá nhân trên thế giới. Nhưng rõ ràng chúng biểu hiện khá rõ, khá vững bền ở phương Ðông. Tôi cũng không nói rằng, với những nét đó, con người cá nhân phương Ðông “cao hơn” con người cá nhân phương Tây, như có người đang cố chứng minh. Xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử loài người, “cao hơn” hay “thấp hơn” là những phạm trù rất tương đối. Chẳng hạn, nếu xét trên các bình diện phát triển khoa học - kỹ thuật, kinh doanh, dân chủ v.v... thì với những nét nói trên, không thể nói tới trình độ cao hơn của người phương Ðông được. Mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, nói rộng ra, mỗi nền văn minh đếu có những ưu thế và những chỗ yếu của nó: “cao hơn” về mặt này thường đi đôi với “thấp hơn” về mặt khác.

V.

Xin nói đôi lời về “bóng dáng” con người cá nhân phương Ðông trong văn học nước ta ngày xưa. Tuy văn học phản chiếu những quan niệm triết học, thậm chí có những trường hợp “văn - sử - triết bất phân” như người ta nói, nhưng văn học bất cứ thời nào cũng không phải là triết học, sử học. Nghệ thuật là thế, nó có một bản chất độc lập khác thường. Mọi việc gán cho văn học những quan niệm triết học một cách đơn giản đều sai lầm, cũng giống như mọi ý định rút những quan niệm triết học từ các tác phẩm văn học. Ðiều này chỉ đúng về căn bản đối với thứ văn chương thù tạc, ca tụng, mà người ta có thể đọc thấy rất rõ ở đó thứ triết lý “khuôn phép” (conformisme). Và chắc các bạn dễ dàng đồng ý với tôi rằng thói khuôn phép chưa bao giờ là một quan niệm triết học cả.

Tác phẩm văn học là một cơ thể sống được cá tính hóa ở mức cao nhất và khó lòng làm những thao tác phân tích theo sơ đồ. Dù sao, bằng cách này hay cách khác, cũng có thể nắm bắt được “bóng dáng” của những quan niệm triết học nào đó qua các tác phẩm văn học một thời nào đó, ở một địa bàn nào đó. Những quan niệm về con người cá nhân phương Ðông ít hay nhiều cũng ẩn hiện trong những tác phẩm văn học Trung đại ở nước ta và có lẽ không chỉ ở đó. Cả ngày nay nữa, trong tác phẩm này hay tác phẩm khác, vẫn có thể thấy được ảnh hưởng sâu và bền của những quan niệm đó.

Nhưng một lần nữa, xin đặc biệt nhấn mạnh: không thể qui con người cá nhân phương Ðông thành một số đặc trưng đơn giản và thuần nhất. Không, chúng ta cần tránh lối làm quen thuộc là lập ra một sơ đồ khái quát về con người cá nhân phương Ðông, từ sơ đồ “không có con người cá nhân” đến sơ đồ “có một khuôn mẫu cá nhân” cứng nhắc, thậm chí đến những tên gọi có vẻ hấp dẫn nhưng thiếu căn cứ như “chủ nghĩa cá nhân tiểu nông”, hay “cái tôi nhà Nho” với những định ngữ “cô đơn”, “tách ra khỏi cuộc sống xã hội”, “đứng bên ngoài”, “tiêu cực”, thậm chí “phản động”, v.v…

Trong bài này, nếu có đụng tới một số quan niệm nào đó về con người cá nhân phương Ðông, thì đó không phải là để lập ra một “sơ đồ” khép kín, mà như các bạn thấy, chính là để gợi mở, xới xáo ra một số vấn đề với tất cả những mâu thuẫn, những phóng chiếu vô cùng phức tạp của chúng. (Còn làm được điều đó đến đâu lại là chuyện khác, không chỉ vì “lực bất tòng tâm” mà cũng rất có thể lại rơi vào những sai lầm mình muốn tránh.

Một điều tôi cảm thấy rất rõ: những tác phẩm văn học lớn ngày xưa cho đến tận ngày nay vẫn còn làm mình rung động. Cái kỷ niệm nhỏ mà tôi có nhắc tới khi mở đầu bài này có sức âm vang đến tận hôm nay và chắc chắn đến tận cả khi mình không còn trên mặt đất này nữa.


[1] Xin xem Luong Can Liem: Bouddisme et psychiastrie (Phật giáo và tâm bệnh học), L’Harmattan, Paris, 1992.
[2] Walpola Rahula, Lời Phật dạy, Nxb Mũi Cà Mau, 1994, tr. 108.
[3] Phùng Hữu Lan, Ðại cương triết học sử Trung Quốc (tài liệu của Ðại học Sư phạm Huế), 1966, tr. 23-24
[4] Xem Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 330-331.

NGỌN ĐÈN





Em đừng cố làm tắt đi ngọn đèn
bấy lâu anh đã thắp
dẫu không xua được mùa đông lạnh giá ngoài kia
nó cũng đủ để làm hồng những ngón tay em
và đôi mắt em
như hai vì sao lửa

***

Nếu chỉ một lần
em không chối từ anh nữa
mùa đông sẽ là mùa xuân
bước chân anh sẽ thôi không tần ngần
bên bậc cửa
ngọn đèn thành bếp lửa
đủ để đốt cháy nỗi buồn và thắp sáng niềm vui

***

Nếu chỉ một lần thôi
em không khóc trên vai người đàn ông khác
giọt nước mắt em sẽ hòa lẫn giữa triệu triệu giọt mưa
anh sẽ không để em buồn nữa bao giờ

***

Nếu một lần thôi em không thờ ơ
khi đi qua anh, qua những vần thơ không một lần em đọc
nếu chỉ một lần em nhìn anh trách móc
anh sẽ biến nỗi buồn thành khoảnh khắc của tình yêu

***

Chỉ mong em, mong em
đừng như ngọn gió phiêu lưu
cố làm tắt đi những ngọn đèn
đã vì em
mà sáng…

Nguoiduynhat83

Cho quan tham chuộc mạng là khuyến khích tham nhũng





Tác giả: GS-TS NGUYỄN THÁI PHÚC, Giám đốc Học viện Tư pháp



Quy định này tạo điều kiện cho kẻ tham nhũng dùng chính ngay số tiền tham nhũng của dân, của nước để đổi lại mạng sống của mình.

Dự thảo BLHS (sửa đổi) vẫn duy trì hình phạt tử hình cho hai tội tham ô và nhận hối lộ (thuộc nhóm tội tham nhũng). Tuy nhiên, dự luật lại cho phép người bị kết án tử hình đã chủ động khắc phục hậu quả của tội phạm do mình gây ra, tự nguyện giao nộp cho Nhà nước ít nhất 1/2 số tiền, tài sản do phạm tội mà có, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì có thể được chuyển hình phạt tử hình xuống chung thân.

Đây quả là thông tin rất đáng chú ý. Nhiều người sẽ đặt câu hỏi thế này là thế nào? Kẻ tham nhũng dùng chính ngay số tiền tham nhũng bất chính (mà đáng ra phải được cơ quan điều tra (CQĐT) phát hiện, thu hồi vào ngân sách nhà nước) để đổi lại mạng sống của mình? Thế có khác gì khuyến khích người ta tham nhũng, vì cứ tham nhũng đi chắc gì đã bị phát hiện, nếu phát hiện chắc gì đã bị tòa tuyên án tử hình, nếu có bị tuyên án tử hình thì chắc gì đã phải bị thi hành án!

Từ chế định “thỏa thuận nhận tội” của Mỹ

Thực ra ý tưởng này không phải là mới mà chỉ là sự tham khảo, tiếp thu chế định “thỏa thuận nhận tội” (plea bargaining) trong pháp luật tố tụng hình sự Mỹ. Theo đó, bị cáo có thể thỏa thuận với tòa án về việc bị cáo sẽ nhận tội nhẹ hơn và sẽ phải chịu hình phạt nhẹ nhất so với truy tố của viện công tố và tòa án sẽ không xét xử bị cáo theo các truy tố nặng hơn đó của viện công tố.




Đây là cách tiếp cận đầy tính thực dụng trong đấu tranh chống tội phạm của pháp luật Mỹ. Bởi người ta cho rằng trong trường hợp này các bên đều có lợi: Viện công tố đỡ được gánh nặng chứng minh tội phạm theo truy tố ban đầu của mình mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ (vì ít nhất thì tội phạm cũng đã được phát hiện và kẻ phạm tội cũng đã bị trừng phạt); tòa án thì không phải tiếp tục phiên tòa nữa, Nhà nước tiết kiệm được khoản kinh phí cho hoạt động của guồng máy tư pháp; còn bị cáo thì tránh được trách nhiệm hình sự theo tội nặng hơn mà viện công tố đã truy tố lúc đầu.

Thực chất của “thỏa thuận nhận tội” là định lại tội danh theo hướng nhẹ hơn cho bị cáo. Ý tưởng trong dự thảo BLHS sửa đổi cũng theo logic “các bên cùng có lợi” vì CQĐT, VKS về hình thức được xem là hoàn thành nhiệm vụ thu hồi tài sản tham nhũng (trên thực tế Nhà nước sẽ nhận lại được tài sản của mình bị kẻ tham nhũng chiếm đoạt), kẻ phạm tội thì tránh được hình phạt tử hình, chỉ chịu hình phạt tù chung thân.

Trừng trị tham nhũng quan trọng hơn thu hồi tài sản

Bản chất câu chuyện ở đây là thay đổi hình phạt nhẹ hơn cho người bị kết án tử hình trên cơ sở kẻ phạm tội tự nguyện giao nộp lại cho Nhà nước 1/2 số tài sản tham nhũng đã không bị phát hiện và bị thu hồi trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Nếu như mục đích chủ yếu trong “thỏa thuận nhận tội” là phá án, phát hiện tội phạm thì ý tưởng trong dự thảo BLHS sửa đổi lại là vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng cho Nhà nước.


Mặc dù thu hồi tài sản tham nhũng cũng là vấn đề quan trọng và nan giải trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng nhưng theo tôi, trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, vấn đề phát hiện tội phạm tham nhũng, trừng phạt kẻ phạm tội tham nhũng quan trọng hơn vấn đề thu hồi tài sản.

Có thể lấy vụ án tham nhũng của Lã Thị Kim Oanh làm thí dụ: Tài sản tham nhũng hơn 4.000 tỉ đồng nhưng thu hồi không được bao nhiêu. Tuy nhiên, việc phát hiện vụ án tham nhũng và trừng phạt kẻ tham nhũng theo pháp luật đã đáp ứng được yêu cầu bức xúc của xã hội. Mặt khác, nhiệm vụ phát hiện, thu hồi tài sản tham nhũng không dừng lại cùng với việc kết thúc điều tra vụ án hoặc tuyên án. Vào bất kỳ thời điểm nào có thông tin về tài sản tham nhũng thì Nhà nước vẫn có quyền thu hồi tài sản tham nhũng đó.

Làm tăng ý chí của quan tham

Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng cần được nhìn nhận ở cả hai góc độ: mặt tích cực và mặt hạn chế. Hạn chế của ý tưởng này trong dự thảo BLHS sửa đổi là càng làm sâu sắc thêm ý chí phạm tội tham nhũng. Thủ đoạn che giấu tài sản tham nhũng sẽ ngày càng tinh vi hơn bởi lẽ tài sản tham nhũng không bị phát hiện, không bị thu hồi trong quá trình điều tra vụ án tham nhũng sẽ được xem như là phao cứu sinh cho kẻ phạm tội. Còn đối với CQĐT, VKS thì quy định này sẽ làm nhẹ hơn nghĩa vụ của họ về phát hiện và thu hồi tài sản tham nhũng, tăng thêm cơ hội cho các hiện tượng trục lợi, tiêu cực và lạm quyền trong quá trình điều tra, truy tố vụ án. (Các nghiên cứu về “thỏa thuận nhận tội” trong pháp luật tố tụng hình sự Mỹ cũng đưa ra nhận định như vậy).

Ngoài ra, nếu ý tưởng này thành hiện thực thì sẽ phát sinh thêm thủ tục tố tụng xem xét thay đổi hình phạt từ tử hình xuống chung thân.

Một lưu ý nữa trong học tập, áp dụng kinh nghiệm nước ngoài là phải tính đến các điều kiện lịch sử – xã hội, kinh tế, truyền thống văn hóa pháp lý ở mỗi quốc gia… Trong một hội thảo quốc tế về tố tụng hình sự tổ chức ở Hà Nội năm 2012, một học giả Trung Quốc khi giới thiệu về việc tham khảo kinh nghiệm nước ngoài (trong quá trình cải cách pháp luật hình sự – tố tụng hình sự ở nước họ) đã nói: Trung Quốc không tiếp nhận quy định “thỏa thuận nhận tội” vì nó xa lạ với truyền thống văn hóa pháp lý của Trung Quốc.

Thứ Năm, 2 tháng 4, 2015

Đọc báo nước ngoài - Vấn đề dân oan tại Mỹ - nghĩ về dân oan tại VN





From: "Mike Wilson"
Date: 3/26/15 7:15 am

Ở đâu cũng có dân oan. Ở Mỹ cũng vậy :

- có khiếu kiện về các vụ trưng dụng nhà đất để dành chỗ cho các công trình công cộng (eminent domain law)

- có những người bị án tù oan sai 10, 20, 30 năm hay bị tử hình oan sai (!)

nhưng không có đám lau nhau nào tại Mỹ
nhận tiền ngoại bang
để biểu tình chống phá chế độ Mỹ - như tại VN !!!

đám lau nhau tại VN
bị ảnh hưởng tuyên truyền xúi giục từ hải ngoại
và do không hiểu thực chất của các quyền công dân
mà các hạn chế là để bảo vệ lợi ích tập thể
trong một xã hội pháp trị, công minh và ổn định.

nth-fl

http://www.miamiherald.com/opinion/opn-columns-blogs/leonard-pitts-jr/article16214435.html

Leonard Pitts Jr.: A prosecutor’s lament for a wrongful conviction