MỘT ĐỜI THỰC - HƯ

" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

Sự hiểu biết bắt đầu từ đâu?



Hôm nay mình đọc được bài "Khi giới trẻ Việt không biết Picasso là ai?"

Thấy các bác bàn rất hăng và có vẻ đau lòng về điều này. Mình thì mình thấy... buồn cười. Tại sao các bác bắt tụi nó phải biết, phải quan tâm về hội họa nếu như nó không thích để thỏa mãn cái thích của các bác?

Cứ tưởng tượng, thay vì phỏng vấn họa sĩ để thấy họa sĩ bức xúc vì giới trẻ không biết Picasso, bạn phóng viên lại đem câu hỏi ấy đi hỏi 1 bác thợ điện, bác ấy có thể sẽ bảo: "Tôi thấy ko biết Picasso thì cũng ko sao nhưng tôi đau lòng và lo ngại sâu sắc khi quá nhiều bạn trẻ không biết cách lắp ráp mạch điện xoay chiều hay một chiều nó như thế nào, trong khi nó là cái sát thực đời sống các bạn." :)))) Bác họa sĩ có nhột khi bác ấy có thể sẽ ngơ ngác trước mạch điện không? Buồn cười. Ta không thích thú gì cái lĩnh vực ấy, nhưng ta sống ổn và hiểu cái ta đang lao động để sống ko phụ thuộc, thế là được phải không? Mình lại nhớ đến một anh chàng mình quen thời sinh viên và đã có kha khá kỉ niệm với mình. Nhớ nhất là anh ấy đã càm ràm mình rất nhiều cái vụ, em phải quan tâm chính trị chứ, em sống trong một đất nước như thế nào mà tên các bộ trưởng, các phó bộ trưởng, hỏi ai tên gì em cũng không biết? Các nghị quyết, nghị định nó ảnh hưởng trực tiếp lên đời sống nhân dân mà em cũng không biết. Mình lúc ấy im ru bà rù, không dám phản đối. Chứ giờ thì nhờ ơn anh chàng của ngày xưa, mình đã biết quan tâm, để ý cái hệ thống lãnh đạo nước mình nó như răng để ai có nhắc tên phó chủ tịch nước thì mình biết đó là bác lãnh đạo chứ không phải họa sĩ lập thể nào đó :))) Đến giờ mình vẫn không hiểu được tại sao anh ấy lại bức xúc vì cái không biết của mình. Việc chi mình phải du nhập vào những người không hiểu việc của chính họ nhưng hiểu việc của Obama, Putin và phán xét các chính trị gia phải cư xử thế nào mới đúng để thế giới tốt đẹp hơn?



The weeping woman - Picasso
Mình xoắn thế, không có nghĩa là mình cũng không biết Picasso, không ưa hội họa chút nào. Ngược lại, mình rất mê hội họa và có thể nói cho người nghe chi li tỉ mỉ từng cái ở Picasso như cảm giác của mình về từng bức tranh của ổng, từng người đàn bà tội nghiệp của ổng, và cả cái cảm giác về sự kì quặc dị hợm của ổng. Mình tìm hiểu kĩ về ổng đủ để dù không ưa cái lối nhẫn tâm với một số cái của ổng nhưng vẫn rất nghiêng mình ngưỡng mộ trước tài năng và sự khắt khe trong lao động nghệ thuật của chính ổng.

Mình nhớ, và rất thích tư tưởng của một người thầy dạy âm nhạc cho mình khi mình còn bé: "Âm nhạc à... các em biết không, có âm nhạc trong đời sống thì rất tốt, rất hay, nhưng không có thì cũng không sao."

Đó là bài giảng mở đầu của thầy khi lần đầu tiên gặp tụi mình, để rồi sau đó dẫn dắt tụi mình, những đứa nhóc hồi đó, đi vào con đường say sưa âm nhạc, yêu mến âm nhạc mà không hiểu tại sao. Mình không biết những người bạn cùng lớp hồi đó như thế nào, còn mình thì nếu như vài ngày không được nghe nhạc, chơi nhạc hay hát hò gì đó cho riêng mình thì sẽ cảm giác phát khùng lên và có thể đi gây sự với thiên hạ.

Mình xin trích một phần bài viết của họa sĩ Nguyễn Đình Đăng bàn về Giá trị của nghệ thuật :

"Trong Lời tựa cho tiểu thuyết Chân dung Dorian Gray – cuốn tiểu thuyết duy nhất của mình, Oscar Wilde (1854-1900) viết: “Cái cớ duy nhất để làm ra một vật vô dụng là vì ta ngưỡng mộ nó sâu sắc. Toàn bộ nghệ thuật là vô dụng.”
Năm 1891 Bernulf Clegg, một sinh viên đại học Oxford, đã gửi thư đề nghị Oscar Wilde giải thích. Trong thư trả lời, Wilde đã viết như sau (trích):
“Nghệ thuật là vô dụng bởi mục đích của nó đơn giản là chỉ nhằm tạo nên một tâm trạng. Nó không nhằm để chỉ dẫn hay tạo ảnh hưởng lên hành động theo bất cứ một kiểu gì. Nó vô sinh một cách tuyệt vời, và cái khoái lạc của nó là sự vô sinh. Nếu việc thưởng ngoạn một tác phẩm nghệ thuật lại được nối tiếp bởi một hành động dưới bất cứ hình thức nào, thì hoặc đó chỉ là một tác phẩm rất thứ cấp, hoặc người xem không cảm nhận được toàn bộ ấn tượng nghệ thuật của nó. Một tác phẩm nghệ thuật cũng vô dụng như một đóa hoa. Đóa hoa nở cho niềm sung sướng của chính nó. Chúng ta có được một khoảnh khắc sung sướng khi ngắm hoa nở. Đó là tất cả những gì có thể nói về quan hệ giữa chúng ta và hoa. Tất nhiên, người ta có thể đem hoa đi bán và thu lợi cho mình, nhưng việc đó chẳng dính dáng gì đến hoa cả. Đó không phải là một phần bản chất của loài hoa. Đó là một sự tình cờ. Đó là một sự lạm dụng.”
Thực chất, Oscar Wilde đã diễn giải lại quan điểm về nghệ thuật tuyệt đối của Kant. Kant cho rằng cái Đẹp là cái gì đó không có bất kỳ một chức năng nào khác ngoài chức năng làm cái Đẹp. Khi đó một vật thể có thể sẽ trở thành thuần túy là một vật thể, hiện ra hoàn toàn chỉ vì nó đẹp chứ không vì bất cứ công dụng nào khác. Như vậy, nghệ thuật theo Kant là một cách biểu diễn đẹp của một hình thức, thông qua đó nghệ sĩ mặc sức tưởng tượng để liên tục mở rộng quan niệm về chính cái Đẹp. Điều đó có nghĩa là nghệ thuật đã đi ra ngoài thế giới của lý trí, và cái Đẹp là điều ta không thể cắt nghĩa được."

Hiểu biết về bất cứ lĩnh vực nào, đối với mình cũng thế. Đơn giản là vì mình thích, thì mình sẽ tìm biết. Và nếu như mình ngưỡng mộ sâu sắc, mình sẽ tìm hiểu một cách sâu sắc.

Mình là đứa mê âm nhạc, mê hội họa. Nên có lẽ sự biết của mình về những thứ trong âm nhạc, trong hội họa, có thể khiến cho các bác đang buồn rầu về sự "giới trẻ Việt không biết Picasso" ấy được vui lòng và an ủi phần nào.

Nhưng mình nghĩ nếu cứ tư duy như thế này, thì các bác quan tâm sâu sắc đến thể dục thể thao sẽ đau lòng vì mình chả có hiểu biết tí teo nào về thể thao, luật các môn, và những người tài danh trong lĩnh vực này dù mình cũng có biết bơi sơ sơ, biết đi bộ và được các thầy cô lẫn bạn bè trong sở TDTT chỉ cho chơi đủ món hồi còn đi học như ném tạ, đá bóng, bóng bàn, karatedo, kungfu,...

Mà ở nước nào mình không biết, chứ ở nước mình thì mình nghĩ TDTT được coi trọng hơn Nghệ Thuật.
Khẩu hiệu "Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" khắp nơi, nhưng chưa thấy một cái dòng khẩu hiệu nào ghi "Đẹp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" cả.

Vậy thì một đứa không biết về bác ABC nổi tiếng nào đó trong TDTT như mình chắc chắn là đáng lên án hơn một đứa không biết về Picasso.

Nhưng biết làm sao được... Cơ bản là mình không thích, thì mình khó lòng nào mà hiểu được, dù đã rất cố gắng. Và sau chừng đó thời gian, mình thấy mình không biết tên tuổi lớn hay các trường phái gì đó trong các môn thuộc TDTT thì cũng chẳng hại gì lắm đến cuộc sống của mình. Nếu có thiệt thòi kể ra được, đó là thời học sinh cho đến sau này mình rất muốn tham gia những chương trình như Đường lên đỉnh Olympia, Đấu trường 100,...để giựt tiền và để lên truyền hình cho có tí oai khăn, cơ mà ngại nhất là nếu đụng phải mấy câu hỏi về TDTT thì chắc chắn mình sẽ rớt, vì mình không biết tí teo nào cả. Thế nên thôi. Mà thôi thì mình thấy cũng chẳng sao.

 Tuệ An
Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 23:20 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: phiếm

Hãy để “Mọi con sông đổ về biển cả”!





Tác Giả: Amari TX – VHN.NET



Tối 23 tháng Chạp (23/1), Chương trình nghệ thuật Xuân quê hương 2014
mừng kiều bào về quê ăn Tết đã diễn ra ấm cúng tại Hoàng thành Thăng Long.

Với 4,5 triệu người Việt Nam đang sinh sống, lao động và học tập tại 103 nước và vùng lãnh thổ con số ngày càng tăng lên nhanh chóng. Theo đánh giá của UBNNVNVNONN ” vai trò quan trọng của kiều bào trong ngoại giao chính trị , ngoại giao kinh tế và đặc biệt trong ngoại giao văn hóa ngày càng được khẳng định. Nhưng vẫn còn một bộ phận nhỏ người Việt ở hải ngoại mà đặc biệt là tại Hoa Kỳ trong tâm trí của họ vẫn mang sự thù hận một cách “bất thường”. Đành rằng mỗi một dân tộc trên trái đất này cũng có những mặt tốt, xấu đan xen lẫn nhau nhưng có lẽ một bộ phận nhỏ người Việt ở hải ngoại chống cộng cực đoan (CCCĐ) là một trong những bộ phận người Việt chất chứa nhiều mâu thuẫn bên trong nhất. Họ đã để cho sự xung đột bên trong của mình tồn tại dai dẳng , phi lý và cái giá chắc chắn đắt nhất đó là thời gian. Các mâu thuẫn cứ liên tục xuất hiện, đấu tranh và giằng xé lẫn nhau một cách “lạ lùng”. Một vết thương mà 39 năm đã trôi qua không lành miệng vì thái độ cực đoan đến mức phi lý của một số nhóm người.

Một quy luật tự nhiên mà con người luôn chấp nhận và cùng chung sống và tôn trọng cái quy luật đó là: dòng sông tuy rằng có sự hợp nhất của vô vàn dòng chảy trong hành trình chảy ra đại dương mênh mông, vậy mà dòng sông đó nó luôn có một bên lở và một bên bồi. Nhưng hai bờ đó không bao giờ ngăn cản con sông chảy ra biển. Ấy vậy mà, một sự thật đã và đang diễn ra mà càng ngày bộc lộ sự non kém về chính trị, ấu trĩ về tư duy của bộ phận người Việt ở hải ngoại cực đoan . Hiện tượng phe cánh xô bồ, đấu đá trong tổ chức ở hải ngoại đã làm mất đi sức mạnh thật sự của đồng bào, mất đi tình đoàn kết quý báu của phần lớn người Việt còn có lòng với quê hương đất nước. Thật đáng tiếc, trong cộng đồng có một số người đã nhận thức lệch lạc, họ cố bám víu vào một quá khứ thù hận do ngoại bang đem đến đất nước Việt Nam những cuộc chiến tranh tàn khốc, dai dẳng, họ chối bỏ những gì mà cả một dân tộc đang nỗ lực cùng chính phủ làm nên bộ mặt mới của đất nước, họ đã vì mục đích cá nhân, phe nhóm sẵn sàng chà đạp lên lợi ích cộng đồng. Còn đối với lợi ích quốc gia, phẩm giá của dân tộc thì họ dửng dưng xem nhẹ. Thậm chí, họ còn không tiếc lời xúc phạm, phỉ báng, miệt thị chế độ xã hội tại Việt Nam. Trên mặt trận truyền thông để phục vụ cho phe nhóm của họ thì sao ? Đa phần những diễn đàn trên mạng đều do tổ chức hoặc cá nhân điều hành, những ai muốn tìm hiểu về đời sống văn hoá, chính trị của người việt hải ngoại thì ôi thôi ! họ như lạc vào trận đồ bát quái. Bằng những giọng điệu xuyên tạc, bằng những từ ngữ hạ đẳng , bẩn thỉu họ chửi bất kỳ ai mà họ không ưa dù là cộng sản hay không cộng sản. Khi thấy nhà nước Việt Nam rộng mở cửa đón tiếp người Việt từ hải ngoại về thăm quê hương, làm kinh tế và đầu tư, mời chuyên viên đem tài năng về giúp nước hoặc khi thấy con em từ trong nước sang Mỹ du học thì họ nhân danh là “người việt quốc gia” đấu tranh cho dân chủ, tự do và vì lý do ấy họ tự cho mình quyền mạt sát chính quyền Việt Nam lẫn bất cứ ai đóng góp công sức, trí tuệ, của cải để xây dựng đất nước. Những ngôn ngữ mà họ sử dụng hàng ngày , hàng giờ xả ra trên các trang mạng cực kỳ đốn mạt, nó đi đến tận cùng của thứ văn hoá lưu manh. Một khi cực đoan thì làm cho nhóm người này rối loạn phương hướng, khi mà hễ thấy có ai phát biểu hay làm việc gì mà họ “gai mắt”, thay vì cần suy xét kỹ càng thì họ không thèm kiểm chứng, chẳng cần tìm hiểu mục đích sâu xa của công việc mà người đó đang làm, họ kết luận ngay đó là hành vi tiếp tay cho “Cộng sản” và không ngần ngại quy kết họ là “Việt Cộng nằm vùng” !

Thiết nghĩ, bất cứ một con người nào cũng có một quá khứ, dù đó là một quá khứ đau buồn nhưng sau 39 năm nó chỉ còn là kỷ niệm, một khi đất nước chuyển sang một thể chế chính trị khác. Thực tế quốc gia Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn lui vào lịch sử. Không thể cứ luôn núp bóng dưới danh xưng “cộng đồng người Việt quốc gia” để thực hiện mưu đồ của cá nhân và phe nhóm. Đối với họ, cái gì “tổn hại” đến cái gọi là ”cộng đồng người việt quốc gia” đều xấu và phải bị trấn áp, vậy xin hỏi “cộng đồng” là ai vậy? chẳng lẽ cộng đồng người VN hải ngoại chỉ bao gồm những người to tiếng hò hét nhất, có những hành động lời nói lố bịch nhất? lúc nào cũng đòi hỏi mọi người phải nhìn nhận tổ chức băng đảng , hội đoàn họ là chuyện quan trọng nhất trên đời này!? Các thế lực cực đoan trong cộng đồng người Việt ở đây đã phát động chiến dịch bao vây, khống chế các cơ quan truyền thông, nhà báo chân chính, vì họ đã không làm theo cái gậy chỉ huy của bọn họ, tức là không có những bài vở bôi nhọ, xuyên tạc hình ảnh đất nước Việt Nam, không vu khống, la lối cái gọi là “chính sách độc tài, độc trị của cộng sản”, đã thế, lại còn phát động các cuộc biểu tình lôi kéo các vị nghị sĩ trong quốc hội Mỹ nhằm “Phong tỏa” mối bang giao của Việt Nam với nước sở tại và các đối tác trên thế giới trong mọi lãnh vực vv … và một khi không làm theo ý của họ thì lập tức các cơ quan truyền thông, nhà báo đó bị chửi rủa, bị khép tội, bị chụp mũ, bị vu vạ. Họ sẵn sàng nổi giận có những phát ngôn văng mạng nếu ai đó nói ngược lại ý muốn những tiêu chí phi thực tế của phe nhóm họ. Đã từng có những tuyên ngôn thật cực đoan như thể “kẻ nào không giống ta -theo ta là kẻ thù của ta”. Tất nhiên, những con người chủ trương sống như vậy luôn muốn bóp chặt ý nghĩa đa dạng của đời sống, luôn muốn biến xã hội muôn mầu trở thành một mầu ảm đạm. Và khi đó xã hội thay vì đa sắc vận động đã trở thành một sưu tập sống bầy đàn.

Những ngày kỷ niệm 30 tháng Tư, trước đây gọi là Ngày “Quốc hận”, “Tháng Tư Đen” lôi kéo cả trăm, có nơi cả ngàn người dự mít tinh, biểu tình, thì nay không còn “Rầm rộ” như trước nữa, âu đó cũng là quy luật. Nếu không tha thứ, hoà giải dân tộc, thì nhóm “nguời Việt quốc gia” theo chủ trương hận thù mãi sao? chẳng bao lâu sẽ gửi nắm xương tàn nơi xứ người lạnh lẽo, mà chẳng bao giờ được cảm thấy niềm xúc động rạt rào khi trở về mảnh đất quê cha đất tổ thân yêu, hay những niềm vui tràn đầy thấy lại và hoà mình vào đám đông tại những phố phường, thôn dã ở đó mình đã lớn lên, và gặp lại những bà con, bạn bè thân thương của những năm trẻ tuổi sôi động xa xưa. Những người cực đoan này nên nhớ là khi ông Jefferson thảo Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ vào năm 1776, ông đã soạn đi soạn lại và, theo lời yêu cầu của các đại biểu Quốc hội Cách mạng đầu tiên, ông xóa bỏ đoạn văn lúc đầu kết án cả dân tộc Anh và Nghị viện Anh,mà ghitrong văn bản chung quyết là chỉ kết án hoàng gia anh mà thôi.

Sau khi rút khỏi Việt Nam, Hoa Kỳ đã cô lập hóa Việt Nam với chính sách cấm vận hai chục năm trời, làm điêu đứng Việt Nam và khi hai nước tái lập bang giao, Việt Nam lại là nước muốn và cần giao hảo tốt đẹp với Mỹ hơn là ngược lại. Những người có tư tưởng hận thù dai dẳng, họ chỉ là một phần của cộng đồng Việt hải ngoại, còn biết bao nhiêu người khác nữa, với biết bao nhiêu ý tưởng, cảm nhận, cách nhìn cuộc sống khác. Một đất nước không thể mạnh lên nếu chúng ta không thuận theo xu thế của thời đại. Ở vào những thời điểm đầy thách thức, mỗi người dân Việt cần thể hiện lòng yêu nước của mình bằng những công việc, hành động cụ thể nhằm góp phần xây dựng quốc gia hưng thịnh. Muốn vậy phải phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để hơn 90 triệu người Việt Nam chung sức đồng lòng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tận dụng thời cơ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời tỉnh táo, linh hoạt nhưng kiên quyết gìn giữ toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc trên cơ sở những bằng chứng lịch sử, pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng ta cũng không cho phép bất cứ cá nhân, thế lực nào lợi dụng để hành động đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, lợi ích của đất nước. Đấu tranh là quyền của mỗi người, họ có quyền tự chọn cho mình một cách nào đó để tìm kiếm chiến thắng. Nhưng có thể khẳng định rằng, đấu tranh cực đoan không thể gặt hái thành công trong bối cảnh thế giới hòa nhập này.

Ngay cả trong chiến tranh, sự cực đoan trong tư tưởng sẽ dẫn đến chai cứng , mất cái mềm dẻo , mất bình tĩnh, dẫn đến hữu dũng vô mưu. Mà đã “vô mưu” thì thường là thất bại. Chỉ cần đặt một câu hỏi thôi: Nếu như 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa, chế độ Cộng Sản mà các vị muốn đập tan nó vẫn chưa sụp đổ, các cụ (vì tuổi trung bình của cờ vàng chống cộng hải ngoại hiện nay khoảng từ 60 đến 80 ) sẽ làm gì ? Đố các cụ trả lời được. Nếu họ tiên liệu được điều này thì đâu có suy nghĩ và hành động ấu trĩ đến cùng cực như vậy. Biến thù thành bạn đã rõ trong lời tuyên bố trong bài thuyết trình đầu năm 2005 của Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là Marine, theo ông:“rõ ràng là bây giờ Việt Nam và Hoa Kỳ không có bất đồng về chiến lược (no strategic ifferences)” và “Hoa Kỳ tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dứt khoát chống mọi âm mưu phân ly hay các đe dọa khác tại biên giới Việt Nam. Chúng ta có nhiều lãnh vực chung quyền lợi về an ninh vùng và an ninh thế giới. Sự hợp tác về quốc phòng hiện nay là bước đầu để cùng đương đầu với các thử thách về an ninh trong thế kỷ 21.” Sẽ là chưa muộn đối với những ai qua sự việc lố bịch này, có ý thức tự mình điều chỉnh hành vi, cách nhìn đối với đất nước của dân tộc đang chuyển động mạnh mẽ trên con đường đổi mới và hội nhập, ngày càng nhận được sự ủng hộ rộng rãi và sự đánh giá cao của bạn bè quốc tế.


Hoa Kỳ tháng 4-2014
Amari tx
Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 23:13 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: đó đây

Phát ngôn ấn tượng của người “làm chính quyền đau đầu”


Tác giả: Hoàng Hường

——
Công việc của nhà báo không phải để chấp nhận rằng tất cả những điều lãnh đạo của họ nói đều là sự thật, hay đáng tôn trọng. Phải luôn đặt câu hỏi. LTS: Năm 1969, dưới thời Tổng thống Richard Nixon, nhà báo Seymour Hersh đã đưa ra ánh sáng vụ thảm sát ở Mỹ Lai (16/3/1968) vốn làm thay đổi dư luận Mỹ chống lại cuộc chiến Việt Nam. Seymour Hersh được trao Pulitzer Prize cho loạt phóng sự này. Sau đó, ông về làm cho tờ The New York Times và dẫn đầu toán ký giả của báo này điều tra vụ Watergate vốn dẫn đến sự từ chức của Tổng thống Richard Nixon.

Seymour Hersh cũng đã đưa ra ánh sáng nhiều chuyện khác: máy bay KAL 007 bị Liên Xô bắn rơi; Israel bí mật sản xuất vũ khí nguyên tử, thất bại của Hoa Kỳ trong việc săn tìm Osama bin Laden ở Afghanistan, cảnh lính Mỹ ngược đãi tù nhân trong nhà tù Abu Ghraib..

Trung thành với phương châm làm báo “thể hiện lòng trung thành của mình là đặt câu hỏi” Seymour Hersh luôn làm giới chức Mỹ đau đầu.

Công luận tôn vinh ông là “anh hùng trong giới báo chí”, đồng nghiệp coi ông là “ông trùm phóng sự điều tra” là nhà báo tầm cỡ nhất thế giới, còn quan chức chính phủ Mỹ gọi ông là “kẻ khủng bố”.

Tuần Việt Nam trao đổi cùng nhà báo Seymour Hersh.



Nhà báo Seymour Hersh. Ảnh: The Politic


Người luôn bị những bữa tiệc từ chối

Tính cả vụ Mỹ Lai, ông đã khiến Chính phủ Mỹ đau đầu khi lật tẩy nhiều vụ việc. Có khó khăn không khi chọn lựa trở thành một nhà báo chân chính, nhưng có thể nguy hiểm ở thế đối đầu với Chính quyền?
Đó là điều tôi tin tưởng về chức năng của báo chí, và của một nhà báo, là để giữ được sự đứng đắn và trung thực ở mức độ cao nhất có thể cho những người trong cơ quan công quyền, và ràng buộc trách nhiệm của họ với những hành động mà họ đã làm; đặc biệt với những người có đủ quyền lực để yêu cầu những người đàn ông/đàn bà vào các cuộc chiến tranh.

Tất nhiên với tư cách một nhà báo tôi không đủ quyền lực để bắt buộc các nhân viên công quyền hành động đúng đắn, nhưng thực tế đôi khi những nhà báo có nhiều quyền lực hơn là chúng ta vẫn nghĩ, hoặc muốn. Chẳng hài hước khi bạn luôn là người không được mời đến các bữa tiệc, đến Nhà Trắng, chấp nhận thôi!

Nhiều câu hỏi từng được đặt ra: Tại sao những người lính Mỹ có thể làm những việc kinh khủng thế với những người phụ nữ và trẻ em vô tội ở Mỹ Lai. Đó không phải là cách con người nên đối xử với nhau. Ông có lời giải thích nào thuyết phục không?
Việc những người đồng bào Mỹ của tôi đã làm là khủng khiếp, và tất cả họ đáng bị trừng phạt vì những hành động đó; nhưng đối tượng đáng trừng phạt nhất là những cấp trên của họ. Chúng ta đều biết rằng chiến tranh là địa ngục , và không có gì đáng sợ hơn việc một cậu bé 19 tuổi được đặt một khẩu súng trường vào tay, khi mà cậu ta không hề biết môi trường văn hóa ở nơi mà cậu ta bỗng nhiên bị ném vào.

Còn những người nắm chức quyền, là những người – về lý thuyết – là lớn tuổi và khôn ngoan hơn tiếp tục phải chịu trách nhiệm lớn lao về thất bại ở Việt Nam. Họ là những ‘cha đẻ’ của những vụ việc vô cùng tệ hại ở Mỹ Lai và nhiều nơi khác ở Việt Nam. Khi những người lính trẻ cưỡng hiếp, giết hại người dân Mỹ Lai đều dưới sự chấp thuận của những cấp trên trực tiếp – những người chẳng có bất kỳ hành động gì để ngăn chặn cuộc sát hại.

Điều xấu hổ của đất nước tôi là ông Tổng thống và ban bệ của ông ấy đã không đòi hỏi tất cả những sĩ quan trong vụ này phải bị truy tố, kể cả những cấp cao hơn, bao gồm cả Tổng thống Mỹ và những quan chức trong chính phủ của ông ấy vì đã không có những phản ứng thích hợp khi họ là người tiến hành chiến tranh, và là nguyên nhân của những cuộc biểu tình khắp nước Mỹ.

Báo chí Việt Nam cho rằng: ‘Cuộc thảm sát Mỹ Lai đã ‘dội bom’ công luận, làm thay đổi quan điểm thế giới về chiến tranh Việt Nam và kích hoạt phong trào phản chiến’. Điều này đúng không thưa ông? Trước khi vụ thảm sát bị đưa ra công luận, người Mỹ nghĩ thế nào về cuộc chiến tranh Việt Nam?
Tôi không thể trả lời câu hỏi này vì tôi không biết người Mỹ nghĩ gì về cuộc chiến. Tôi chỉ biết rằng rất nhiều người phản đối cuộc chiến nhưng hai Tổng thống Johnson và Nixon vẫn tiếp tục tiến hành chiến tranh bằng mọi giá, cho đến khi phía quan điểm đối lập thắng.

Tôi đồng ý vụ thảm sát Mỹ Lai đã làm cho người Mỹ căm ghét chiến tranh, nhưng tôi nghĩ thời điểm quan trọng nhất là khi Calley (William Calley – viên sĩ quan trực tiếp chỉ huy trung đội thực hiện vụ thảm sát Mỹ Lai – PV) và những đồng đội của anh ta bị tòa án buộc tội giết người hàng loạt.

Sau đó, dù rất khó khăn cho Tổng thống Nixon tiếp tục cuộc chiến, nhưng ông ta vẫn làm. Đó là một thất bại lớn của nền dân chủ.

Ông có thể nói điều gì về William Calley. Cảm giác của ông thế nào khi phỏng vấn ông ta lần đầu tiên? Sự kiện Mỹ Lai đã tác động đến cuộc đời William Calley và những lính Mỹ tham gia vụ thảm sát như thế nào?

Điều đầu tiên tôi nghĩ là William Calley không nên là một sĩ quan quân đội, không nên phải lãnh đạo người khác trong một tình huống sống chết. Nhưng ông ta đã là một trong những sĩ quan quân đội trong chiến tranh và đã hành động thật nhục nhã.

Thật kinh khủng, những điều này lại xảy ra khá thường xuyên trong tất cả các cuộc chiến tranh. Những người đàn ông/đàn bà được đào tạo sơ sài và thực hiện máy móc mệnh lệnh cấp trên. Chiến tranh thường là bi kịch hơn là chủ nghĩa anh hùng hay những tung hô cao quý.

Tất nhiên thi thoảng nó cũng mang những điều tốt cho nhân loại, khi những người lính hy sinh bản thân họ cho những người khác, cho những lý tưởng cao quý; nhưng đáng tiếc là chiến tranh thường là dấu hiệu của sự yếu đuối và thất bại của lãnh đạo.

Tượng đài tưởng niệm các nạn nhân vụ thám sát Mỹ Lai tai khu chứng tích Sơn Mỹ. Ảnh: VOV


Làm báo không phải để chấp nhận mọi điều sếp nói đều thật
“Cách tôi thể hiện lòng trung thành của mình là đặt câu hỏi, chứ không phải chấp nhận bất kỳ điều gì liên quan đến sự trung thành. Nếu chúng ta không làm điều đó thì có nghĩa chúng ta quên lời hứa trung thành. Do vậy, chịu đựng mà không phản đối những gì thấp kém hơn, ngay cả khi nhân danh an ninh quốc gia, là điều sai trái”. Khi nhắc tên ông, người ta cũng thường nhắc đến quan điểm làm báo này, ông đã bao giờ rơi vào thế phải đi ngược lại chuẩn mực nghề nghiệp của mình?
Tôi mong rằng tôi không bao giờ đi chệch niềm tin đó. Công việc của nhà báo không phải để chấp nhận rằng tất cả những điều lãnh đạo của họ nói đều là sự thật, hay đáng tôn trọng; mà phải luôn đặt câu hỏi.

Tôi hiểu rằng tôi sống trong chế độ dân chủ nơi những ý kiến như của tôi có giá trị và được tôn trọng. Tôi cũng hiểu rằng ở một số quốc gia khác những ý kiến như vậy là không thể và nguy hiểm, nhưng chúng ta nên luôn nghĩ rằng một thế giới hoàn hảo nên tồn tại.

Mỹ được coi là ‘ông lớn’ trên thế giới. Các nước nhỏ và những khu vực không ổn định luôn mong Mỹ giúp đỡ gìn giữ hòa bình và sự ổn định. Tuy nhiên, nhiều người vô tội chết trên các con đường có dấu chân lính Mỹ, ở Việt Nam, Irag, Afghanistan.. Ông nghĩ sao?

Đất nước tôi đã phạm sai lầm khủng khiếp sau Thế chiến 2, vốn được coi là cuộc chiến tranh chính nghĩa, hay là cuộc chiến chính nghĩa cuối cùng. Chúng tôi đã sai khi tấn công Irag, Afghanistan, Libya…

Bạn không thể chống lại một cuộc thánh chiến được phát động cùng súng đạn. Bạn phải cố hiệu tại sao những ý tưởng điên rồ tồn tại và được phổ biến. Đáng buồn nhất là suy nghĩ rằng những người không theo hoặc chia sẻ niềm tin hay tập quán tôn giáo với bạn là kém cỏi hơn, muốn là có thể trừng phạt hoặc tiêu diệt họ. Nhưng chúng ta sống trong thế giới mà sự điên cuồng đó dường như đang được lan tỏa, có thể nhìn thấy điều này ở những chiến binh ở Syria, thậm chí ở ngay vài đơn vị quân đội Syria.

Tôi tin rằng đó là hậu quả của thất nghiệp, tuyệt vọng, mất phương hướng; và Al qaeda đã tận dụng điều này để chiêu dụ họ làm chiến binh.

Công luận gọi ông ” anh hùng”; Richard Perle (*) gọi ông “kẻ khủng bố”, ông gọi bản thân là gì?

Bạn biết câu trả lời của tôi. Tôi chỉ làm công việc của mình. Tôi nghĩ tất cả các nhà báo đều dành trọn sự nghiệp của mình để chinh phục lý tưởng của họ.

*Bài phóng sự ngày 17.3.2003 của Hersh lật tẩy những quan hệ làm ăn của Richard Perle, chủ tịch Ban Chính sách Quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ thời Tổng thống George W. Bush, với quỹ tư nhân quản lý đầu tư của Saudi Arabia trong các công ty an ninh, và một công ty Anh chuyên bán phần mềm theo dõi cho FBI và CIA, đã khiến Perle phải mau chóng từ chức.

———-
Mời độc giả đọc loạt bài về vụ thảm sát Mỹ Lai được thực hiện năm 2011, nhân dịp người chụp những bức ảnh khủng khiếp về vụ thảm sát – cùng loạt phóng sự của Seymour Hersh – nhiếp ảnh gia Ron Haeberle về thăm lại hiện trường xưa.

Kỳ 1: Thảm sát Mỹ Lai: nhìn lại ký ức kinh hoàng

Kỳ 2: Buổi sáng định mệnh qua hồi ức Ron Haeberle

Kỳ 3: Sát nhân, anh hùng Mỹ và những người sống sót

Kỳ 4: ‘Người chết sống lại’ và cuộc hội ngộ đẫm nước mắt

Kỳ 5: Mỹ Lai: Từ bức ảnh tranh cãi đến… hành hung nhà báo

Kỳ 6: Ron Haeberle và người dân Sơn Mỹ ‘phán quyết’ về bức ảnh

——————

http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/169351/phat-ngon-an-tuong-cua-nguoi–lam-chinh-quyen-dau-dau-.html

Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 23:07 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: Báo chí

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

Tháng tư Sài gòn



Trần Vấn Lệ




Người ta nói Sài Gòn tháng Tư / trời nóng quá không có một nụ cười / chiếc nón lá không che hết tóc / bỗng / bất ngờ một trận mưa rơi…

Người ta nói Sài Gòn hỗn độn / xe và xe / người và người / chen nhau / đi trên đường ai cũng muốn đi mau / ai qua đường…cũng ào ào như xe cộ!

Người ta nói Sài Gòn không còn xe thổ mộ / không còn những tiếng lạc ngựa leng keng / chỉ vang những tiếng chuông Chùa mà thèm…cõi yên tịnh / gọi là…cực lạc!

Tháng Tư Sài Gòn không chút gió mát / một chút môi hồng có đủ thương không? Những đứa nhỏ cầm cà rem mút mút / lưng ba lô sách vở nhẹ tênh…

Tôi xa Sài Gòn hai mươi lăm năm / nhớ nhìn về / thấy mây bồng bềnh / nhớ làm sao bèo trôi sông rạch / nhớ làm sao ánh mắt bạn bè…

Nhớ làm sao chiếc nón em che / nửa khuôn mặt muốn hôn mà sợ / có cái gì không tan thành khói? Cả chiếc xích lô chở khẳm mồ hôi!

Người ta nói…Sài Gòn thôi…thôi! Đừng nghĩ tới nữa! Những ngôi nhà cao ngất. Những bóng nhà che trường mầm non / cây trứng cá đỏ lòm trái chín…

Tháng Tư Sài Gòn có một nơi cô quạnh: chùa Bà Đanh…vẫn chùa Bà Đanh! Không ai quỡn vào đây khấn nguyện…người ta ra nhà thờ Đức Bà để ngắm trời xanh!

Tháng Tư Sài Gòn rồi tháng Năm, rồi tháng Sáu…rồi thời gian đi tới, tôi ngược về tìm chiếc xe ôm / tôi bảo người lái xe đưa tôi vào một con hẻm. Con hẻm vẫn còn nguyên rác rưởi tồi tàn…

Hai mươi lăm năm tôi còn lang thang đi kiếm một Thiên Đàng…không có! Những chiếc xích lô máy lâu rồi tắt thở…chúng nằm đâu trong nghĩa-địa-người?

Sài Gòn ơi Sài Gòn ơi đẹp lắm / chẳng qua là bài hát…dễ thương!
Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 22:32 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: thơ hay

Kẻ không trở về cát bụi






Vũ Anh Tuấn
Nguồn: Vietvanmoi ở Pháp.





Chín giờ tối hôm qua tôi nhận được điện thư của bạn tôi hẹn sáng nay gặp nhau ở một quán Cà phê vườn mà chúng tôi rất thích. Mỗi khi nhận được điện thư hẹn gặp của anh, mà lúc này tôi thường gọi đùa là của Thiện Quỷ, tôi cảm thấy rất hào hứng mong chóng tới lúc gặp. Biệt hiệu Thiện Quỷ của anh cũng được một số quý bà bạn chung của cả hai chúng tôi rất hưởng ứng, vì theo các quý bà đó, anh là kẻ chỉ phạm toàn là những… Thiện tội rất ư là đáng yêu!

Sáng nay gặp anh và nhìn vẻ mặt tươi tắn như thường lệ của anh, tôi cảm thấy vui vui, vì tin rằng sẽ được nghe anh nói về những điều đa đa vui ít ít buồn. Quả nhiên là vừa gọi cà phê và đồ điểm tâm xong, anh cho biết là hôm nay anh hẹn tôi đến để chia sẻ một vài điều chính yếu trong những dự tính của anh cho tương lai xa (vì còn cả vài chục năm) tức là cho vĩnh hằng vĩnh cửu. Anh kể:” Tuấn biết không? Sáng hôm qua mình tìm trên You Tube nhạc phong cầm của Pháp (french accordion music), vì mình rất thích phong cầm là thứ nhạc nghe rất êm đôi tai mình, là đôi tai cả đời chỉ thích nghe những lời êm dịu của phái ta (ý anh nói phái yếu). Sau khi cho phát tất cả 50 bài nhạc liền mình nằm dài ra gác đầu lên cuốn tự điển dày để thưởng nhạc. Nào ngờ không phải thưởng nhạc không, mà còn ngoạn cảnh nữa, vì là của Pháp nên vừa chơi nhạc nó còn vừa tuần tự chiếu trên màn hình các thắng cảnh, các đền đài kim cổ của Pháp, chao ơi! thật là tuyệt vời khi thấy lần lượt phô diễn qua mắt mình nào là quán Cối Xay đỏ, Nhà thờ Đúc Bà Paris, Điện Versailles, Điện Louvre,các lâu đài Chambord, Luxembourg, de Brie-Comte-Robert, De Ferrières, Vaux-le-Vicomte, Nemours, d’Abadia, Chenonceau, Ussé de la Loire, De Vitré, Asay-le-Rideau, Maison-Lafitte, la Bellue, Tanley vv…Ôi không thể tưởng tượng được là những lâu đài trên có thể đẹp đến như thế Tuấn ạ. Cậu dư biết là mình chẳng bao giờ cất tiếng ca tụng ai, hay cái gì cả, nhưng khi nó đẹp thật thì phải nói là nó đẹp. Và rồi sau khi xem thấy những đền đài đẹp như vậy thì Tuấn biết mình nghĩ gì không? Mình nghĩ rằng những nơi chốn đó, dù chúng đẹp và vĩ đại đến đâu đi nữa chúng vẫn phải có những người ở và mình tự hỏi tại sao số phận lại không cho mình được ở trong những nơi chốn đẹp như thế? Hỏi xong mình lại có ngay câu trả lời cho chính mình :”Mỗi con người một số phận, một định mệnh, mi được Hoàng Thiên cho ở Việt Nam thì mi phải vui sướng và hãnh diện chấp nhận chứ sao? Vả lại chắc gì nhửng kẻ được ở trong những đền đài, lâu các đó đã được sướng hơn mi, tự do hơn mi, an nhiên tự tại hơn mi? Biết đâu càng ở những nơi cao sang đó chúng càng phải bon chen, tranh chấp khổ hơn mi nhiều!” Sau khi biết suy nghĩ rất hợp lý và phải đạo như vậy, Tuấn biết mình đã làm gì không? Tôi trả lời là sao mà biết được và bảo anh cho biết. Anh nói :” Này nhé, mình và Tuấn còn trụ lại ở đây quá lắm là vài chục năm nữa, sau đó cả hai chúng ta sẽ dắt tay nhau bay qua cõi vĩnh cửu. Vậy thì, trong vài chục năm còn lại, chúng ta tuy được hoàn toàn tự do, nhưng vẫn còn có những việc cần làm, cho bản thân chúng ta, cho con cháu chúng ta, cho đồng bào chúng ta, và cho Đất Nước đã nuôi dưỡng chúng ta trong suốt cuộc đời này, do đó trong những năm tháng còn lại chúng ta khó mà làm gì hơn được. Tuy nhiên phải luôn nhớ cho thật kỹ là chúng ta còn cả cõi vĩnh hằng vĩnh cửu ngay trước mắt. Vì là những kẻ không thể coi “một khi đã chết, thì là tất cả đã hết” nên chúng ta có thời gian và không gian vô tận để làm tất tần tật những gì chúng ta muốn trong vô hạn, vô định,vô tận cơ mà! Lúc đó, khi qua cõi vĩnh cửu chúng ta thành vô hình vô ảnh muốn ở đâu cũng được thì có khó gì mà không tới ở tất cả những nơi chốn đẹp đó, thậm và chí không chỉ ở Pháp mà còn ở toàn cầu nữa! Nhưng Tuấn ạ, khi nghĩ tới những viễn cảnh này thì mình lại thấy là việc đầu tiên cần phải làm nhất là trong mấy chục năm còn lại này chúng ta phải lưu tâm cố gắng đi thăm các thắng cảnh của Quê Mẹ trước đã, khi sang Bên Kia thì mới nghĩ tới đi thăm thắng cảnh Thế Giới!

Ngưng một phút để uống vài hụm nước, bạn tôi kể tiếp:”Do nghĩ tới việc mình dự tính làm trong cõi vĩnh hằng, mình sẽ trong những năm tháng còn lại, sưu tầm tất cả những danh lam thắng cảnh trên toàn cầu để phục vụ dự tính của mình Tuấn ạ. Tôi hỏi anh ví dụ như những nơi nào chẳng hạn? Anh nói:” À ví dụ như tháp nghiêng Pisa ở Ý, Twins Square ở Mỹ, Trafalgar Square ở Anh, Thác Niagara ở Gia Nã Đại, Vườn Tivoli ở Đan Mạch, Taj Mahal ở Ấn Độ, Cổ thành Machu Picchu ở Peru, Kim Tự Tháp ở Ai Cập vv…

Tôi liền hỏi:” Nếu anh tính đi thăm tất cả những nơi đó thì anh còn đâu thời giờ mà đi hành hiệp, như anh đã tâm sự với tôi?(*) Anh trả lời:”Tuấn thực là vớ vẩn thật hay vờ đó, cậu dư biết là cõi vĩnh hằng là mãi mãi và mãi mãi mà, làm gì còn thì và giờ? Tôi sẽ thực hiện cả hai dự tính một lúc, vả lại hành hiệp xong hơi mệt, tôi cũng rất cần nghỉ ngơi thư dãn, và ngoạn cảnh đích thị là thư dãn vậy. Tôi gật gù khen là anh nói có lý. Thấy vậy anh nói tiếp:”Nè Tuấn ơi, hai dự tính đó chưa phải là hết đâu, mình còn một dự tính thứ ba cực kỳ quan trọng, vì dự tính thứ ba này sẽ là chỗ dựa tinh thần, sẽ là động cơ vận chuyển hữu hiệu hai dự tính trên.” Tôi háo hức hỏi anh :”Dự tính gì nữa vậy anh, xin cho biết liền đi!” Anh chậm rải trả lời:”Dự tính thứ ba này liên quan mật thiết tới đề tài muôn thuở của tôi là các Quý Bà viết hoa. Tôi sẽ, cùng với việc tìm hiểu, sưu tầm các danh lam thắng cảnh thế giới, tìm hiểu cặn kẽ không bỏ sót một Đại Giai Nhân nào của Thế Giới tự Cổ chí Kim ví dụ như tự cổ thì có Sappho (c 570 BC) nhà văn nữ đầu tiên của nhân loại, Nefertiti, Phryne, Helen of Troy, Salome, và đặc biệt là Bathsheba (vì trong cõi tạm này mình đã có lúc được quý bà gọi là David), Cleopatra VII, Hildegard of Bingen, nữ tác giả (1098-1179) cho tới kim thì mình đặc biệt chú ý tới tất cả các nữ tài tử đẹp nhất là Gail Russell, mà mình thích từ “năm chục năm trước mình hai tám”, rồi tới Audrey Hepburn (1929-1993), Marylin Monroe( 1926-1962), gặp lại nàng này mình sẽ bảo nàng cho biết nàng thật sự chết vì lẽ gì, rồi sau các tài tử mình sẽ lưu ý tới các Đại Giai Nhân trong các lãnh vực khác như Coco Chanel (1883-1971), Annie Besant (1847-1933), nàng này rất hợp với mình vì chuyên viết về Khoa Học Huyền Bí, Millicent Fawcett (1846-1929) vv… và vv… Khi gặp mình sẽ là người bạn tâm giao của tất cả những Đại Mỹ Nhân đó vì nơi cõi Vĩnh Hằng sẽ không còn giới hạn tuổi tác cũng như thời gian sẽ là vô định vô tận nên “dù xa cách nhau bao nhiêu nghìn vạn năm đi nữa tất cả sẽ vẫn là HIỆN TẠI VĨNH CỬU. Cái chính là mình phải biết sống mãi mà chẳng bao giờ chịu chết chịu chung số phận với những người không biết nên chấp nhận trở về với cát bụi! Nghe anh nói và nhìn ánh mắt quả quyết của anh, tôi cũng cảm thấy sôi sục lên trong tôi ý muốn theo gương dũng cảm của anh.

Tôi viết lại ở đây vì cảm thấy những gì anh đang suy nghĩ và nhất quyết thực hiện cho bằng được không phải là vô ích với người đồng loại, mặc dù với những người không có ý thức gì về cõi vĩnh hằng, anh có thể bị cho là hâm, là điên rồ, nhưng nghĩ cho cùng, dù có điên rồ thật thì cũng còn hơn là chỉ trong vòng trăm năm ít ỏi là được sống thôi, mà chưa chắc đã được sống đủ, để rồi sau đó biến dạng trong cát và bụi! Giờ này trong mắt tôi, bạn tôi là “Kẻ Không Trở Về Cát Bụi”…


Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 22:27 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: Truyện hay

Nghệ thuật này, bí kiếp nọ




Photo: Malcolm Lidbury



Tôi thấy thời buổi này người ta bịa ra đủ thứ “nghệ thuật” hết. Tôi thì thích từ ngữ mà anh bạn tôi dùng để nói về nó hơn: “Chiêu trò”. Vâng! Chính xác là chiêu trò và “thuật dụ người” thì đúng hơn.

Đơn cử cái cuốn Đắc Nhân Tâm là ông Dale Carnegie biến hóa từ “lòng thành” mà ra. Vậy mà giờ nhiều người cứ lấy “Đắc Nhân Tâm” ra áp dụng kiểu bề mặt, giả vờ lắng nghe người khác để lấy lòng. Điều đó thật ô nhục thay cho Đắc Nhân Tâm. Bao đời nay con người ta chẳng cần phải thuật này, thủ thuật kia, “bí kíp” nọ vẫn sống tốt và đầy tính người. Không hiểu là vì cái cớ gì mà càng về sau người ta càng bịa ra nhiều chiêu trò như thế. Có lẽ chăng là vì nền cơ chế thị trường, sự bùng nổ của dân số, sự quá tải của thông tin, sự nhanh nhảu đoản không có thời gian tìm hiểu nhau mà người ta cần phải có nhiều chiêu trò để “chinh phục” người khác càng nhanh càng tốt?

Đạt Lai Lạt Ma 14 đã nói: “Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là lòng tốt.” Vâng, không phải là chùa chiềng, không phải là tổ chức. Vấn đề là nếu bạn muốn đạt được sự hiểu biết hay thấu triệt về một điều, bạn phải bỏ thời gian để nhìn ra cái gì là bản chất của sự việc, có được bản chất bạn sẽ hiểu được những cái mà nó sinh ra một cách nhanh chóng; và theo cách đó, bạn sẽ biết cái gì là thật, cái gì là giả từ những tiếng ồn quanh bạn. Thường thì điều “thật” thường không ồn ào. Đó là lý do các thánh nhân, vĩ nhân luôn tìm ra những điều hay ho từ tĩnh lặng, từ tách biệt…

Nếu bạn muốn ai đó tin tưởng bạn, một lời nói của bạn đáng tin hơn 10 lời dèm pha, bạn phải có uy lực. Uy lực đó đến từ đâu, nó đến từ việc bạn nói được và làm được, lời hứa chắc như đinh đóng cột. Nó còn đến từ việc bạn luôn thành thật với mọi người xung quanh không gian dối. Điều này cần có nhiều thời gian để người khác trải nghiệm về mối quan hệ giữa ta với họ, hiểu biết về con người của ta, và qua đó hình thành lòng tin, sự cởi mở, niềm hứng khởi, thích chuyện trò, muốn giao du, vân vân.

Và biết sao không? Xã hội ngày nay quá nhanh, quá ồn và quá bận rộn để thỏa mãn cho những điều trên. Chúng ta cứ như là những xác chết gấp rút thi công các công trình hàng ngày, và tiếng động cơ, và tiếng công trình, và dự án, và chẳng còn ai chú ý tới một cá nhân nào, chẳng còn ai nghe một người nào đó nói và quan sát họ nữa. Rồi chúng ta “khám phá” ra các chiêu trò; thật ra cũng chỉ vì nhu cầu xã hội, nhu cầu phải làm sao thật nhanh để lấy được lòng tin của người khác bằng thuật dẫn dụ, bằng thôi miên bằng ngôn từ, bằng “đọc vị”, bằng quan sát ngôn ngữ cơ thể, bằng đủ các thứ mới. Đó không phải là bản chất vấn đề, đó là bề mặt, là ngọn của vấn đề; không có gốc thì ngọn trước sau gì cũng chết tươi thôi.

Đó là ngày mà tôi biết rằng: Kỹ năng mềm – trào lưu của thời hiện đại không phải là cách giải quyết vấn đề. Nó chỉ là một dạng chữa cháy. Nhiều người nghĩ mình sẽ dạng dĩ hơn nhờ học kỹ năng mềm, nhưng nói vanh vách đâu có nghĩa bạn là một người biết thuyết trình hay là một diễn giả có tầm? Vấn đề là kỹ năng sống, là sâu bên trong, là nhận thức của bạn, là cách bạn ứng phó với cuộc đời; nó vững chắc, nó mạnh mẽ và nó đặc biệt. Nó không phải là tư duy tích cực, nó là dạng trung dung mà tư duy tích cực không bao giờ có thể chạm tới. Bản sắc xuất hiện từ đó, và nếu bạn chỉ chạy theo bề mặt, học những thứ chữa cháy, vài ba thứ thủ thuật, nó làm con người bạn trở thành một kẻ ma lanh, ranh mãnh. Có thể bạn lưu loát thật đấy, có thể bạn có nhiều bạn bè thật đấy, nhưng chẳng có ai chân thành với bạn cả đâu nếu bạn cứ xài thủ thuật này đến “bí kíp” nọ.

Tôi không phủ nhận sạch trơn các nghệ thuật mà người ta khám phá ra, tôi chỉ nói nếu bạn muốn đi xa hơn và trở thành một người có năng lực, có sức hút, bạn phải lấy “nhân – tâm” làm gốc. Nhân là người, tâm là tim; tình người từ trái tim, theo cách nghĩ của tôi. Nếu bạn có thể làm được điều đó, lấy lòng thành làm nền tảng, tôi tin đi đâu bạn cũng có quý nhân phò trợ, vũ trụ cảm mến, may mắn sẽ đến.

Những cái mới hiện nay, những khám phá mới về mảng kỹ năng sống hiện nay thực ra chẳng có gì mới. Nó chỉ là phân nhánh hoặc phát triển từ nền tảng xưa nay con người đã sử dụng. Lấy sự thành tâm mà đối đãi với mọi người. Khi thành tâm, có thể bạn sẽ chịu “thiệt” thật đấy, có thể bạn sẽ bị tiểu nhân ganh ghét thật đấy, có thể bạn sẽ bị hãm hại thật đấy, nhưng chí ít bạn sẽ có được những bằng hữu hiểu bạn và dù có gì xảy ra cũng luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn; thà như thế còn hơn là ma lanh, là lanh lợi mà khi gặp chuyện thì hàng trăm người bạn “giao lưu” cũng không chịu giúp gì, đó mới đích thị là cô đơn, là thất bại.

Nếu bạn muốn học một thứ chính đạo, bạn phải học từ bản chất, thời buổi này không hơi đâu học từ nhánh hay từ ngọn, bởi vì thông tin ngày nay thay đổi quá nhanh; sẽ ra sao nếu ta cứ bỏ thời ra cập nhật liên tục những thứ ấy? Chúng ta đâu phải con rối! Đáng mừng thay, nghệ thuật chính quy không nằm trong nhóm thay đổi xoành xoạch, nó có nguyên lý, nó thuộc bản chất con người, tóm lại là bạn chả cần phải đi đâu xa. Nghe tôi này, ngồi xuống, ăn miếng nước, uống miếng bánh (?!??), định thần lại, nó ở bên trong bạn, thấy gì không? Nếu chưa thấy, lặp lại, không phải ai cũng thấy ngay lần đầu tiên. Nếu một ngày bạn thấy được nó, chưa xong đâu, hãy cố gắng thực hành nghiêm túc, thành công sẽ đến với bạn, không phải về kiến thức bạn có, về kiến thức mà mọi người sẽ tự nguyện dành tặng cho bạn; không phải về tình cảm bạn có, về tình cảm mà nhiều người dành cho bạn. Đó mới đích thị là “Nghệ Thuật”!


Lục Phong
Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 22:12 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: TẠP VĂN

Đừng sống thật với bản thân




*Photo: Adih Respati



Một câu khẳng định rằng không có nội tâm con người nào, dù trong sạch đến mấy, lại không ấn tàng trong đó một tật xấu khả ố nào đó. Cho dù là các bậc được mang tiếng là thanh cao thì tôi vẫn chắc chắn rằng trong suy nghĩ của họ vẫn còn có thứ xấu xa mà không ai biết được, ngoài họ. Vậy thì người tốt không phải là người giỏi che đậy cái xấu xa bên trong sao? Câu đó xem ra là đúng, và người tốt cũng là người biết che đậy cái xấu nữa.

Chúng ta thường hay phê phán các cụ ta thời xưa mang lắm bệnh sĩ diện, tức là muốn lắm nhưng giả vờ không thích, hoặc là đạo đức giả, khi những điều đó xét ở một thời đại dân chủ và tự do như bây giờ thì điều đó thực là ngu ngốc. Ngày nay người ta luôn kêu gọi mọi người hãy sống thật với bản thân mình, tức là nên sống đúng với cảm xúc thực, suy nghĩ thực của mình, là xấu hay đẹp đều nên phô ra cho mọi người biết, là viết những dòng tự thú (confession). Khi một nhóm bạn nam ngồi nói chuyện với nhau, một cô gái ăn mặc gợi cảm đi ngang qua, mọi người đều bàn tán về cơ thể cô ta, duy chỉ có một người im lặng, người đó dễ bị gán là đạo đức giả, thích mà còn làm bộ. Nhưng khoan hãy kết tội người đó vội.

Trong bản tính con người luôn có ít nhất một nết xấu, đó có thể gọi là bản tính tự nhiên, tuy nhiên nết xấu ấy cũng ẩn chứa tố chất cho các mục đích tốt đẹp nào đó. Con người chúng ta luôn có xu hướng che giấu những suy nghĩ và cảm xúc thật của mình và chỉ muốn phô bày ra những gì được dư luận chấp nhận và cho là tốt đẹp. Xu hướng thiếu trung thực, xấu che tốt khoe để được lòng xã hội thực ra không những đã góp phần văn minh hóa mà còn dần dần và trong mức độ nhất định nào đó làm đạo đức hóa trong con người chúng ta, vì không ai có thể nhìn thấu ngay vào bản chất thật của vẻ ngoài đứng đắn, danh giá, đạo hạnh và chính những tấm gương tưởng là tốt lành biểu lộ ra bên ngoài hằng ngày lại là một trường học để tăng tiến nền nếp đạo đức cho ta.

Tôi luôn nhớ thây giáo dạy triết cấp ba của tôi có nói với lớp: “Các em nhìn thầy là một thầy giáo lớn tuổi và đứng đắn. Khi ra ngoài đường nếu thầy nhìn thấy những cô gái trẻ trung, xinh đẹp độ tuổi các em thầy có thích không? Thầy vẫn sẽ thích nhưng thầy không thể biểu lộ sự thích đó giống như ở độ tuổi các em được, bởi thầy là người có tuổi để con cháu thầy nhìn vào và thầy là thầy giáo để các em noi gương.” Chúng ta có thể tự do phô bày, nhưng hãy nên biết giới hạn những gì được phô bày.

Trong tình yêu ngày nay, các cặp đôi luôn có nhu cầu muốn tìm hiểu rõ ràng quá khứ của nhau, và ngụy biện rằng điều đó sẽ tốt cho cả hai, để thông cảm cho nhau hơn, nhưng thường có tác dụng tiêu cực ngược lại với mong muốn. Khi cô gái che giấu quá khứ lỗi lầm của mình, nếu một ngày nào đó bị phát giác ra, người con trai chắc chắn sẽ cho cô là đồ giả dối, lừa gạt. Nhưng nếu người con gái đó nói ra điều đó trước thì sao? Người con gái sẽ thường hay bị dày vò bởi người tình, và người con trai khi biết điều đó lại càng đau khổ hơn so với không biết. Ấy vậy mà hầu như ai cũng muốn biết, cũng muốn trở nên đau khổ! Bởi vì bản tính con người hay tò mò và có nhu cầu muốn chiếm hữu trong tình yêu. Tại sao ta lại không chấp nhận bị lừa dối nhỉ, chẳng hay hơn sao? Điều đó xem chừng phi lý nhưng nếu xét sâu xa không phải không có lý.

Không phải điều gì chúng ta cũng nên nói ra cho người khác biết, có những thứ nên giấu kín trong lòng, đặc biệt là những nỗi đau. Xin nhắc lại một đoạn trong tác phẩm Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo, khi Jean Valjean đi tù khổ sai về xin giám mục chỗ ăn ngủ nhờ, vị giám mục đồng ý mà không cần biết những lỗi lầm trước kia của người tù khổ sai này, chỉ biết rằng anh ta là một người đau khổ cần được giúp đỡ. Trong suốt bữa ăn ông không hề hỏi hay gợi lại bất cứ một câu hỏi nào về những đau khổ trước kia của anh ta mà đáng ra ông được quyền hỏi, ông không muốn khoét lại nỗi đau từ quá khứ của anh ta, ông chỉ dùng tình thương người để cảm hóa một con người lầm lỡ, mà như ta vẫn thấy, không phải ai cũng biết dùng tình thương này đúng cách đâu.

Ta đi hơi xa về chủ đề đang nói rồi. Xin nhắc lại, vậy thì chúng ta cứ che đậy cái xấu và làm cho xã hội trở nên suy đồi hơn hay sao? Chính trị thì tha hồ lừa dối, thương trường cũng nhiều dối gian, đến ngay cả tình yêu, con người sống gần nhau mà cũng lừa dối như tác giả bảo thì ta còn biết tin ai được nữa. Tôi muốn nói là, để có một xã hội lý tưởng là điều hoàn toàn không thể, ta phải tin vào chính bản thân mình, phải biết dùng trí tuệ của mình, phải học, phải đọc để phán xét, để biết rõ hơn về người khác. Đôi khi phải dùng Tâm để cảm nhận. Đừng thần tượng bất cứ một ai, bởi nếu một ngày kia khi thần tượng của các bạn sụp đổ ngay trước mắt thì sao?

Tôi vẫn không hoàn toàn khuyến khích cho một xã hội đạo đức giả, nhưng với con người bây giờ, thà một xã hội đạo đức giả còn hơn là một xã hội đạo đức thật. Hãy thử hình dung xem.



Đời Thừa

Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 21:55 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: phiếm

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

Bị kịch đọc không vỡ chữ văn chương...



Nguyễn Thị Minh Thái





Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái

Trong các loại hình văn nghệ, thì nghệ thuật văn chương đứng riêng ra một lối, ở tính đặc thù của ngôn ngữ loại hình. Đó là tính phi vật thể của ngôn ngữ văn học, bởi văn học hiện diện với tư cách là nghệ thuật của ngôn từ. Nói trắng ra theo cách diễn nôm, văn học là nghệ thuật viết chữ của từng nhà văn, trong cái viết riêng tư đặc trưng, dẫn tới tác phẩm văn học là sự tổ chức đặc thù của con chữ, nên bản thảo của nhà văn phải được in ấn, xuất bản thành sách văn học và, đương nhiên, phải dẫn đếncái đọc của độc giả.


Chưa đến đáy cùng của chữ

Cho nên, quan hệ lớn nhất và duy nhất của tác phẩm văn học là quan hệ giữacái viết và cái đọc, giữa nhà văn và người đọc, đã chỉ thông qua… chữ và chữ. Và tất cả bản chất quan hệ này chỉ có thế và thế thôi. Vì thế, mối bận tâm lớn nhất, đặc trưng nhất của cả hai bên, nhà văn và bạn đọc, chính là việc viết chữ văn chương thế nào và đọc chữ văn chương ra sao? Ấy là chưa kể đến nghệ thuật chữ của từng nhà văn nhà thơ, nhất là nhà thơ, như Lê Đạt, ông thấy chữ thơ có thể tỏa bóng rợp mát cả một vùng tâm linh người đọc, ông thấy chữ có thể lay động và in bóng trên mặt sóng dưới chân cầu, nên cả nghĩ mà đặt tên tập thơ mình là “Bóng chữ”. Trên tinh thần triết học về lao động thi sĩ, chưa ai như Lê Đạt, tự gọi cái nghề làm thơ của mình là nghề làm “phu chữ”.

Kinh nghiệm đọc và phân tích văn chương kịch của ít nhiều năm chăm chỉ miệt mài làm cố vấn văn học kịch (theo tôi, cũng là kiểu “phu chữ”, trên tinh thần Lê Đạt) cho Nhà hát Tuổi Trẻ và Nhà hát Kịch Việt Nam, khiến tôi tin chắc rằng, chữ văn chương là thứ chứa chất nhiều hồn vía “phi vật thể” nhất so với sự hiển thị “vật thể”: thành hình tượng nhân vật bằng xương bằng thịt của diễn viên sắm vai nhân vật trên sân khấu, trong phim truyện, hoặc tạo hình trong nghệ thuật múa hoặc nghệ thuật ca hát… Chữ không những có hồn vía, mà có thể là bóng lay động, đa mang trong lòng nó nhiều nghĩa ở bên ngoài chữ, trong lòng chữ và thậm chí lặn thật sâu ở dưới đáy chữ, khiến người đọc hầu như không biết bao giờ mới dò tới tận đáy thẳm của nó…

Trải nghiệm cá nhân cho tôi biết, có những sách văn học đọc đi đọc lại suốt quãng đời dài của đời sống hữu hạn mà vẫn chưa thể đi đến đáy cùng của con chữ. Chính điều ấy khiến tác phẩm văn chương thứ thiệt luôn xuyên qua thời gian, không gian, để còn mãi với thời gian, không gian và luôn thách thức cái đọc trong sự hữu hạn đời sống trần thế của người đọc. Hẳn các nhà văn chúng ta đã xem tiểu thuyếtNgười đọc và bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết này, mà không nghĩ rằng, rất nhiều tác phẩm thuộc các ngôn ngữ vật thể khác, do được khởi nguyên từ ngôn ngữ văn học mà được sáng giá, lên giá, treo cao giá ngọc cho các ngôn ngữ hữu hình được chuyển thể từ cái vô hình của văn chương “phi vật thể”…

Vậy thì, chỗ của nhà phê bình văn chương ở đâu, và tại sao nhà phê bình cần có chỗ trong quan hệ thẩm mỹ rất căn cơ giữa nhà văn và bạn đọc, ( chính là quan hệ giữa cái viết và cái đọc) thông qua những con chữ rất “phi vật thể” này, để xác lập tư cách người đọc đặc thù, chính là nhà phê bình, người chuyên trị đọc/phải đọc “vỡ chữ”? Theo tôi, chỗ của nhà phê bình văn học là đứng giữa tác phẩm văn chương và người đọc, với tư cách người bình giá, thẩm định, môi giới cái đẹp của con chữ nhà văn đến với độc giả. Cũng vì thế, nhà phê bình đương nhiên phải thông hiểu cả hai nghệ thuật tạo nên mối quan hệ thẩm mỹ đặc thù giữa cái viết và cái đọc này, với một bên là nghệ thuật viết văn của nhà văn và một bên là nghệ thuật đọc văn chương của người đọc.

Ở chỗ đứng rất đặc biệt này, có thể rất nhiều khi/ít khi, nhà phê bình phải đương đầu và phải vượt thoát một bi kịch thường hay xảy ra đối với cái đọc tác phẩm văn chương, đó là bi kịch đọc không vỡ chữ. Thậm chí việc giải quyết bi kịch này có thể là việc cấp thiết nhất, cần đặt ra thường hằng đối với những ai đã mang lấy nghiệp phê bình văn học vào thân, nếu không muốn nói, đây cũng chính là vượt thoát của cả nền văn học Việt Nam trong suốt tiến trình hiện đại hóa của nó, đã, đang, và sẽ diễn ra dài dài suốt từ thế kỷ XX cho đến thế kỷ XXI hôm nay…

Cũng chính vì buộc phải vượt thoát bi kịch này mà các nhà phê bình hôm nay luôn phải đương đầu với bi kịch “đọc không vỡ chữ”, nhất là đối với các tác phẩm mới, các nhà văn mới xuất hiện.Ta từng chứng kiến cách đọc văn như đọc báo trong tác phẩm Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, cùng sự quá lời đến mức xúc phạm nhà văn, khi một vài cán bộ văn nghệ ở tỉnh Cà Mau đã kết tội nữ nhà văn này một cách thô bạo và khiên cưỡng trên báo chí…

Dịch thuật không vỡ chữ



Ngày gần đây, 8.5.2013, tại Trung tâm văn hóa Pháp 24 Tràng Tiền, Hà Nội, đã diễn ra cuộc thảo luận về dịch thuật và phê bình dịch thuật. Tôi cho rằng căn cơ của việc thảo luận này vẫn không ra ngoài việc đọc và dịch tác phẩm văn chương nước ngoài hiện nay, trong ít nhiều trường hợp, vẫn chưa thoát khỏi việc đọc chưa vỡ chữ của nguyên tác, dẫn đến việc dịch cũng không vỡ chữ thành tiếng Việt từ nguyên tác. Và thực trạng việc dịch văn chương ấy liệu có liên quan mật thiết đến việc đọc và dịch văn chương một cách có văn hóa không, và thực sự, đang có vấn đề về văn hóa đọc của nhà phê bình và văn hóa dịch của các dịch giả hay không? Và, cả văn hóa đọc lẫn văn hóa dịch này có liên quan đến văn hóa đọc văn chương hôm nay hay không?

Không hề ngẫu nhiên, trong nền dịch thuật Việt hôm nay, đã xuất hiện những nhà phê bình “ném đá” vào dịch giả, cùng những lời lẽ đánh đập thô bạo, quá lời, khiến một số dịch giả phải kêu lên “chưa có không khí phê bình dịch thuật lành mạnh”. Song, phải thấy rằng, không phải lúc nào, tác phẩm nào của dịch giả cũng sáng láng trong cách đọc vỡ chữ tiếng nước ngoài và cách uyển chuyển “Việt hóa” của người dịch am tường, thấu hiểu tiếng Việt, khiến cho, có lúc, dịch thuật văn chương nước ngoài sang tiếng Việt đã được gọi tên là “thảm họa dịch thuật”.

Việc đọc của nhà phê bình văn chương hôm nay đối với tác phẩm văn học, vì thế, đương nhiên, được/phải diễn ra trên hai loại tác phẩm: loại tác phẩm được viết bằng tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ, và loại khác, được dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt. Như đã nói, việc đọc của nhà phê bình văn học dịch là người Việt, chắc chắn phải dựa trên sự đọc “vỡ chữ” từ nguyên bản (tiếng Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc… chẳng hạn) và cái sự đọc này chắc hẳn phải ngang bằng với sự đọc “vỡ chữ” và diễn đạt tử tế bằng tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, của chính người dịch Việt. Các bản dịch hay nhất của những dịch giả người Việt từ nền văn chương của các quốc gia trên thế giới đã và đang nằm trên giá sách của người Việt yêu văn chương thế giới từ trước đến nay, đã chứng tỏ điều đó. Những thảo luận về sai sót trong dịch thuật hôm nay chỉ chứng tỏ rằng, trong tình cảnh lộn xộn, bát nháo, vội vã, thậm chí chộp giật, của thị trường xuất bản sách dịch hôm nay, đã xảy ra rất nhiều lỗi văn hóa trong dịch thuật, liên quan đến lỗi văn hóa trong cái đọc, và tất nhiên, đi liền với nó là cái viết bình luận bằng tiếng Việt trong dịch thuật, trước hết là của nhà phê bình văn chương nói chung và nói riêng, là của nhà phê bình dịch thuật… Chính dịch giả Trịnh Lữ (Cuộc đời của Pi và Đại gia Gasbi cũng đã phải nhận thực trên báo Thanh Niên: nguy hiểm nhất của nghề dịch là cái sai về văn hóa. Bởi người dịch vốn được coi là người vận chuyển và người thương lượng giữa hai nền văn hóa. Dich giả Trần Đình Hiến dịch Báu vật của đời cũng đồng thuận: dịch thực chất là giao lưu giữa hai nền văn hóa mà nhiều khi yếu tố văn hóa cho một dịch phẩm thành công quan trọng hơn ngôn ngữ. Văn hóa rất quan trọng với người dịch, cần phải có phông văn hóa sâu rộng của cả hai nền văn hóa. Trong ký ức riêng, tôi cất giữ kỷ niệm về một dịch giả bậc thầy hào hoa phong nhã dịch truyện ngắn cổ điển tiếng Nga của I.Bunhin sang tiếng Việt, khi cùng qua con phố nhỏ gần đồi đại học Tổng hợp Lomonosov ở Maxcơva, năm 1984, ông nói: Để dịch một chi tiết về cái phố nằm trên triền đồi dông dốc với những khúc lượn rất dễ thương này của Maxcơva, tôi đã phải đi qua đi lại đây hàng trăm lần, ngắm nghía, thưởng thức nó trong mấy năm đại học và cả khi quay trở lại làm nghiên cứu sinh…


Khó nhất là vỡ chữ thơ



Trong các thể loại mà nhà phê bình văn chương lấy làm đối tượng để bình giá, để phê bình, tôi thấy việc đọc “vỡ chữ” thơ (thẩm thơ) là điều khó khăn, phức tạp nhất và cho dù thế nào, cũng khó có ai thuộc thế hệ sau Hoài Thanh có thể “qua mặt” ông trong việc bình thơ, dù thơ của thế kỷ XXI rất khác với thơ của thế kỷ XX. Nhưng thế kỷ nào thì cũng cần thơ hay, cũng có thơ hay và những bài thơ hay trong ngôn ngữ của quốc gia này vẫn được dịch thật hay sang ngôn ngữ quốc gia khác. Về dịch thơ, tôi nghĩ bản dịch Đợi anh về của thi sĩ người Nga Simonov được nhà thơ Tố Hữu dịch sang tiếng Việt, hoặc bài thơ Không đề của Olga Bergol, nữ sĩ người Nga, được nhà thơ Bằng Việt dịch sang tiếng Việt, rồi Hoàng Hạc Lâu của thi sĩ Trung Hoa Thôi Hiệu đời Đường được thi sĩ Tản Đà dịch sang tiếng Việt… đã là những thí dụ sáng giá nhất về dịch thơ.

Về Thơ Mới, có lẽ không thể thiếu sự bình giá đích đáng của Hoài Thanh, như một tri âm lãng mạn nhất, có phép ứng xử văn hóa nhất với Thơ Mới trong giai đoạn đầu quá trình hiện đại hóa văn học Việt thế kỷ XX, trong bối cảnh hiện đại Việt Nam giao lưu văn hóa với phương Tây.

Việc đọc vỡ chữ Thơ Mới của Hoài Thanh, đương nhiên, đã gắn kết biện chứng, “liền ruột” với cách diễn đạt tiếng Việt của ông, cũng thật là mẫu mực về sự trong sáng, uyển chuyển và tinh tế trong cái viết của một nhà phê bình thơ. Vì vậy, có khi phải là một nhà văn mới có thể viết bình luận về một nhà văn, và nhà văn sáng tác tác phẩm văn chương và nhà văn bình luận tác phẩm văn chương là hai công việc cùng bản chất sáng tạo và, đương nhiên, tác phẩm của cả hai đều bình đẳng dưới ánh sáng mặt trời. Xin chú ý một đoạn thôi, khi Hoài Thanh viết về Thế Lữ, người khởi đầu Thơ Mới ở những năm 30 của thế kỷ XX, trong Thi nhân Việt Nam, với sự phát hiện đúng là của một kẻ tri âm về cái mới, mang tính tiền phong của thơ Thế Lữ: “Độ ấy Thơ Mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Dầu sau này danh vọng Thế Lữ có mờ đi ít nhiều, nhưng người ta không thể không nhìn nhận cái công của Thế Lữ đã dựng thành nền Thơ Mới ở xứ này. Thế Lữ không bàn về Thơ Mới, không bênh vực Thơ Mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ. Bởi không có gì khiến người ta tin ở Thơ Mới hơn là đọc những bài thơ mới hay. Mà thơ Thế Lữ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến kết cấu âm thanh. Thế Lữ đã làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch. Chữ dùng lại rất táo bạo. Đọc đôi bài, nhất là bài“Nhớ rừng”, ta tưởng chừng những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường”.

Tưởng không có lời nào huy hoàng, đích đáng hơn Hoài Thanh, khi viết về sức mạnh riêng của con chữ thơ Thế Lữ, với vai trò thi sĩ tiền phong, khởi đầu trào lưu Thơ Mới.

Di chuyển từ kịch bản lên sàn diễn



Như thế, hoàn toàn không ngẫu nhiên, việc đọc vỡ chữ của nhà văn làm nghề phê bình văn chương, còn liên quan đến một công việc sáng tạo vô cùng quan thiết với các loại hình nghệ thuật khác, khởi đi từ văn chương, thí dụ nghệ thuật sân khấu, điện ảnh, âm nhạc… là chuyển từ ngôn ngữ phi vật thể của kịch bản văn học sang ngôn ngữ vật thể của vở diễn trên sàn diễn, hoặc của bộ phim trên màn ảnh phim truyện. Về chuyện di chuyển đầy sáng tạo và cũng đầy thú vị này, tôi tin vào một bậc trưởng thượng của giới sân khấu, đó là NSND Nguyễn Đình Nghi, con trai trưởng của NSND Thế Lữ. Hai cha con họ chiếm hai vị trí nửa đầu và nửa cuối thế kỷ XX về công cuộc đưa nghề đạo diễn từ châu Âu vào Việt Nam và kiến tạo nghề này vững chãi ở Việt Nam.

Đạo diễn là một nghề mang tính chỉ huy tổng thể đối với tác phẩm sân khấu. Muốn làm cái nghề đưa tác phẩm văn học kịch lên sân khấu này, theo Nguyễn Đình Nghi, việc đầu tiên của đạo diễn là phải chứng tỏ quyền năng hành nghề ở khâu đầu tiên, hoàn toàn liên quan đến văn chương, đó là “đọc cho vỡ chữ” văn bản kịch. Nghĩa là đạo diễn có quyền lựa chọn kịch bản văn học, có khả năng làm hỏng một kịch bản hay, hoặc làm hay hơn một kịch bản trung bình. Một khi đạo diễn đã tìm được cách đọc kịch bản và cách dàn dựng trên sân khấu thì cả tác giả kịch lẫn diễn viên kịch đều khó bề cưỡng chống. Đạo diễn phải là người hiểu, cắt nghĩa, giải thích tác phẩm theo cách riêng của mình, khi ấy văn bản kịch sẽ mang ánh sáng của riêng người đạo diễn. Cùng một kịch bản văn chương, mỗi đạo diễn sẽ có cách ứng xử văn hóa riêng, càng riêng càng độc đáo. Tất nhiên, riêng ở đây không có nghĩa là phản bội tinh thần của người viết kịch. Nguyễn Đình Nghi nhấn mạnh rằng, đạo diễn kịch phải là người hiểu kịch bản, “tiêu dùng” nó như một khám phá, để làm bệ đỡ cho một ngôn ngữ khác, đó là dàn dựng vở diễn, chứ không phải hề đồng lóc cóc chạy theo nhà viết kịch. Và ông dẫn ra một thí dụ rất hay từ một bài thơ tình trong kho tàng thơ cổ Trung Hoa. Theo trí nhớ của ông, bài thơ có nguyên văn chữ Hán:Quân tri thiếp hữu phu/ Tặng thiếp song minh chu/ Cảm quân triền miên ý/ Hệ tại hồng la nhu/ Hoàn quân minh chu song lệ thủy/ Hận bất tương phùng vị giá thì…Ông tạm dịch nghĩa: Chàng biết thiếp có chồng, vẫn tặng thiếp đôi ngọc minh châu. Cảm cái tình sâu nặng của chàng, thiếp đeo ngọc trong áo lót mình màu phấn đỏ. Nhưng nghĩ mình là gái đã có chồng, không muốn phụ lời vàng đá với chồng, đành rơi lệ mà trả chàng đôi ngọc, hận vì không gặp chàng khi còn là gái chưa chồng. Khi bài thơ được dịch sang tiếng Việt, ông Nghi thấy ai cũng dịch thật sát nguyên văn cái hình ảnh đẹp nhất của bài thơ: thiếu phụ ấy đã khóc mà trả lại đôi ngọc minh châu cho người tặng. Ông Nghi cũng hiểu y chang như thế, ngay cả khi đọc bài thơ nguyên bản chữ Hán. Bỗng nhiên ông được đọc bài thơ ấy bằng tiếng Pháp, do một người gốc Trung Quốc dịch. Người đó dịch: Em xin trả lại chàng đôi ngọc. Đấy là hai giọt nước mắt em rơi xuống. Ông Nghi lập tức thấy vỡ ra một điều gì đó giống như một phát hiện. Bài thơ bỗng lạ hẳn, mới hẳn, hay hơn hẳn và rực sáng như khuôn mặt đẹp lúc xuất thần. Từ đó, ông liên tưởng đến sức mạnh tư duy của người đạo diễn sân khấu, và khẳng định: Hệt như dịch giả Trung Quốc trong bài thơ này, người đạo diễn phải có sức khám phá, phát hiện riêng, phải đẩy cho được kịch bản lên một tầm cao mới, trong ngôn ngữ vở diễn trên sân khấu. Bởi vậy, tự thân kịch bản văn chương đòi người đạo diễn sân khấu buộc phải có sức biện biệt về văn học. Sức biện biệt này càng mạnh, càng lớn, thì người đạo diễn càng hay, càng độc đáo. Vì thế, khi tôi đối thoại với ông về nghề đạo diễn cách đây đã vài chục năm, ông Nghi từng thú nhận cảm giác rợn ngợp khó tả của ông khi đứng trước… chữ của văn bản kịch, y như trước cánh cửa khép kín, mà thoạt đầu không thể tìm thấy ngay chìa khóa mở cửa. Là người tự trải nghiệm sâu sắc về văn hóa đọc… chữ kịch bản để chuyển sang cái dàn dựng sân khấu, Nguyễn Đình Nghi không bao giờ tin một kịch bản hay lại lồ lộ phơi trần tất cả ý nghĩa của nó ngay lần đầu chạm mặt. Bao giờ kịch bản hay cũng mang trong lòng nó những ý chìm sâu, lắng đọng mà chừng nào ông Nghi chưa tìm ra nó, thì chưa thể yên tâm bắt tay vào dàn dựng. Song, là người đọc tinh tế, ông cũng không bao giờ muốn kết luận thô thiển: tác phẩm văn học kịch chỉ nên viết vừa phải, để dành khoảng trống cho đạo diễn và diễn viên bù đắp, khi chuyển ngữ sang vở diễn sân khấu. Theo ông, một kịch bản đích thực là văn chương không phải là nơi để nhà đạo diễn sân khấu thêm thắt, bù đắp, mà chính là một kho báu cho đạo diễn phát hiện, đào bới mãi cũng chưa đi hết giới hạn văn chương cuối cùng của nó. Chính vì thế, dù cho Shakespeare đã viết kịch bảnHamlet kỹ lưỡng đến thế về văn chương kịch, thì hoàn toàn vẫn còn rộng chỗ cho đạo diễn và diễn viên trên toàn cầu sáng tạo ngôn ngữ sân khấu và điện ảnh. Trên thực tế, đã có hàng trăm bản dựng của hàng trăm đạo diễn và cũng thế, hàng trăm vai diễn Hamlet khác nhau trên sân khấu và điện ảnh toàn cầu. Càng gặp đạo diễn và diễn viên có tài thì chàng hoàng tử Đan Mạch ấy càng lộ diện nhiều khuôn mặt và số phận nghệ thuật phong nhiêu trên sân khấu và màn ảnh thế giới. Cuối cùng, Nguyễn Đình Nghi cho rằng việc khám phá chữ nghĩa của văn bản kịch phụ thuộc vào việc đạo diễn phải đặt mình vào trạng thái sáng tạo của nhà viết kịch, nghĩa là trạng thái… viết của người tạo con chữ trên mặt giấy, để cố gắng sống lại tâm ý của người viết, khi tạo nên tác phẩm kịch, rồi mới làm được việc tiếp nối của đạo diễn là đưa các con chữ lên, “vật thể hóa” nó trên sàn dựng và sàn diễn. Và chỉ khi nào người đạo diễn tìm ra trong công việc ấy một niềm hạnh phúc sáng tạo thì việc dàn dựng vở diễn mới có thể bắt đầu. Ông Nghi, khi nói những điều này, cũng hiểu rõ: một tác giả kịch không chỉ thể hiện bộ mặt tinh thần của mình chỉ qua một tác phẩm. Vậy, đấy lại là điều nhà đạo diễn phải tìm kiếm, thí dụ qua vài chục vở kịch, Lưu Quang Vũ muốn nói điều gì canh cánh và xuyên suốt với công chúng Việt vào mấy thập niên cuối thế kỷ XX ở Việt Nam chẳng hạn? Từ đó, Nguyễn Đình Nghi đã tìm được một định nghĩa đích đáng về nghề đạo diễn kịch, trên một căn bản triết lý về sức biện biệt văn học, đối với nghề này, như một đảm bảo bằng vàng cho việc sáng tạo vở diễn kịch. Theo ông:

*Đạo diễn sân khấu = người giải thích tác phẩm văn học

*Đạo diễn sân khấu = bội số của tác phẩm văn học

*Đạo diễn sân khấu = giấc mơ về tác phẩm văn học

Tôi và chúng tôi, những người làm công việc bình luận những vấn đề đặt ra từ sự phát triển đang hết sức phức tạp, đa dạng, bộn bề của nền văn nghệ Việt hôm nay đã đi đến thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, và đang gắng sức nhận thực, phân tích hiện trạng văn hóa đọc hôm nay, đặng tìm cách chuồi ra, thoát khỏi bi kịch “đọc không vỡ chữ”, từ những kinh nghiệm, bài học của tiền nhân, của đồng nghiệp và của những trải nghiệm từ bản thân việc viết phê bình của mình. Và đây là một cố gắng nhỏ nhoi của tôi và cũng là phát biểu có tính trải nghiệm cá nhân về công việc bình luận văn nghệ từ chính mình, không có ý nào khác…
Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 22:51 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH

Biến mất






Thất vọng dồn vào bờ trên những con sóng
trắng suốt từ đầu này tới đầu kia
liếm lưng bầy mòng két
không ướt một sợi lông.

Thất vọng bò trong dạ dày
trải rộng hàng cây số
từng viên sỏi câm trên bãi sỏi câm
im lặng chông chênh đóng vít vào tiếng ì ầm của sóng
biển ồn ào cất giấu nỗi lặng câm hoá thạch
không một tiếc nuối nào trắng bằng cánh mòng đang bay



Thời gian đóng vít ở chỗ này
đóng vít trên lưng một con sóng đang tan
đóng vít trong một tiếng ì ầm đang tắt
trong một hạt muối không bao giờ chào đời
trên lớp bọt sóng xuất hiện trong khoảnh khắc đủ để không bao giờ biết mình là bọt

ngày mai,
còn gì của người đàn bà đang đóng vít nơi đây
trong lặng im dấy loạn của biển cả?
người đàn bà
đóng vít trên một cánh mòng đang khép
đóng vít trên giọt mặt trời cuối cùng đang lịm trên đường chân trời
người đàn bà
vít vào khoảng trống một hiện diện rỗng
một chiếc đinh ốc nhỏ
vít vào lòng đại dương
ngày mai,
còn gì của người đàn bà
đang thải xuống biển cặn bã của đống thất vọng nhào lộn trong dạ dày?

thất vọng mở vào im lặng
mở vào những hy vọng mơ hồ
thất vọng tan như lưỡi sóng trên bờ môi biển
khoé miệng sỏi tiếc một nụ hôn chưa thành nụ hôn
ngập ngừng giữa đất và nước

Ngoài xa kia
chân trời của biến mất mở vào những thế giới khác
những thế giới biến mất trong những thế giới khác


Nguyễn Thị Từ Huy

Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 22:40 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: thơ hay

Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2014

Người đàn bà quét dọn nỗi buồn



Cuộc tình đẹp như ánh bình minh
Rồi đã chợt hoàng hôn
Làm sao không nuối tiếc
Anh ra đi, mây tím trời ly biệt
Cỏ may chiều... xoay
xoay... tít mù xa

Buồn lọt thỏm vào đêm.
Vắt một mảnh trăng tà
Ai hái trộm một trái sầu đã chín
Miền khôn dại, lá trở vàng... giăng kín
Chờ mãi một mùa hoa
tím ngát khắp sườn đồi

Ai đến, ai đi, cau héo trầu hôi
Lời yêu dấu cứ nhạt nhòe môi đắng
Con vạc kêu sương, lạc vào đêm trắng
Trăng dại tàn canh,
nhức nhối một vầng trăng

Có tiếng mù khơi, vọng giữa đêm khan
Ta khô héo tình ta, dọn nỗi buồn năm trước
Cỏ dại mịt mùng, biết làm sao được
Đi tìm lá Phu Thê,
hào hển một đời nhau.

Nguyễn Thị Liên Tâm
Người đăng: phamdinhtructhu vào lúc 22:31 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: thơ hay
Bài đăng mới hơn Bài đăng cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Bài đăng (Atom)

Wikipedia

Kết quả tìm kiếm

phamdinhtructhu
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

Bài đăng phổ biến

  • Bài 2 : MAI TRONG THI CA
    Nhat chi mai 1./ Thi ca trung quốc Từ ngàn năm trước, hoa mai đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao thi nhân. Hoa mai được nhắc ...
  • AI LÀ NGƯỜI ĐỨNG SAU TẬP ĐOÀN "LỪA ĐẢO " TRẦN ANH LONG AN.
    A.ĐÔI ĐIỀU VỀ CÔNG TY HỒNG ĐẠT VÀ TRẦN ANH LONG AN 1/ Công ty Hồng Đạt Công ty Hồng Đạt Long An chỉ là một doanh nghiệp tư nhân, hoạt động c...
  • Những “con kên kên” trong giới báo chí Việt Nam - kỳ 2
    Nhà báo” Huy Đức, Hoàng Linh, Năm Cam và Ba Tung: Cuộc chơi của tiền và quyền lực ngầm Chúng tôi tiếp tục gửi đến bạn đọc câu chuyện nổi...
  • (không có tiêu đề)
     **Thực hư nghề làm báo: Sự thật và những thách thức** **Sự thật không có đúng sai, chỉ có người sử dụng đúng hay sai!** Bài báo này sẽ mở đ...
  • Có phải cứ có vua thì gọi là “phong kiến”?
    Phong kiến vốn là gọi tắt lại của “phong tước kiến địa” (ban tước hiệu và đất đai). Chữ này bắt nguồn từ chế độ ban đất Trung Quốc thời Chu ...
  • Bảng chữ cái hình người Nude (18+)
    Bảng chữ cái hình người Nude (18+) Baron Trịnh A B C D E F G H I J K ...
  • Nguyễn Công Khế
    TƯ LIỆU LỊCH SỬ: Nguyễn Công Khế dùng thủ đoạn ti tiện đuổi Huỳnh Tấn Mẫm ra khỏi nghề báo, cướp ghế Tổng biên tập báo Thanh Niên Nếu nhà b...
  • NGÔN NGỮ CỜ VÀNG
    Xichloviet Các anh cờ vàng luôn lải nhải rằng CSVN là tay sai Tàu cộng, luồn cúi bọn Tàu để giữ đảng , ai cũng thấy rằng đó chỉ là những ...
  • Điệp viên giỏi nhất của CIA ở VN
    Quân đội Mỹ sử dụng nhiều tình báo trong cuộc chiến Việt Nam Tiếp theo phần một loạt bài về các điệp viên ít được biế...
  • Đi tìm di sản Đà Lạt - Kỳ 3: Bản sắc không gian “kiểu Đà Lạt”
    Có hai mảng chính kiến tạo nên diện mạo di sản kiến trúc Đà Lạt: mảng công trình thời thuộc địa (xây dựng từ 1916(1) đến giữa thập niên 194...

NHÓM

  • Ảnh nghệ thuật (32)
  • Bạn viết (52)
  • Báo chí (604)
  • BLOGGER (105)
  • Cảm xạ học (9)
  • Cây bonsai (362)
  • CHÂM (1)
  • Chân dung (75)
  • Chủ nghĩa Hiện sinh (5)
  • CHUYÊN ĐỀ (87)
  • chuyện xưa (70)
  • Cười chút chơi (80)
  • đó đây (65)
  • Đông phương học (118)
  • Đông y (4)
  • Gia đình (1)
  • Giáo dục (94)
  • Hán nôm (20)
  • HỌA THƠ (11)
  • HOÀI TRINH (4)
  • HOÀI TRINH- Măc Tường Ly (1)
  • HỘI HỌA (22)
  • Hôn nhân- gia đình (11)
  • khoa học- kỹ thuật (45)
  • KIẾN TRÚC (5)
  • LSTV (1)
  • Luật (1)
  • LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH (347)
  • Mai vàng (10)
  • MỘT ĐỜI THỰC HƯ (18)
  • Nghe nhạc (65)
  • NHẠC (2)
  • NHẠC THƠ (52)
  • Phật học (141)
  • phiếm (436)
  • Sống (366)
  • TẠP VĂN (302)
  • Tập Thơ (11)
  • Tây ninh (1)
  • Tham nhũng (64)
  • Thế giới (145)
  • THƠ (98)
  • THƠ CHÂM (48)
  • thơ hay (505)
  • Tiếng Việt (59)
  • Triết học (41)
  • Truyện hay (205)
  • Truyện kiếm hiệp (1)
  • TRUYỆN NGẮN (11)
  • Tư liệu (353)
  • Vẽ đẹp Việt nam (28)

Danh sách Blog của Tôi

Nhãn

  • Ảnh nghệ thuật (32)
  • Bạn viết (52)
  • Báo chí (604)
  • BLOGGER (105)
  • Cảm xạ học (9)
  • Cây bonsai (362)
  • CHÂM (1)
  • Chân dung (75)
  • Chủ nghĩa Hiện sinh (5)
  • CHUYÊN ĐỀ (87)
  • chuyện xưa (70)
  • Cười chút chơi (80)
  • đó đây (65)
  • Đông phương học (118)
  • Đông y (4)
  • Gia đình (1)
  • Giáo dục (94)
  • Hán nôm (20)
  • HỌA THƠ (11)
  • HOÀI TRINH (4)
  • HOÀI TRINH- Măc Tường Ly (1)
  • HỘI HỌA (22)
  • Hôn nhân- gia đình (11)
  • khoa học- kỹ thuật (45)
  • KIẾN TRÚC (5)
  • LSTV (1)
  • Luật (1)
  • LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH (347)
  • Mai vàng (10)
  • MỘT ĐỜI THỰC HƯ (18)
  • Nghe nhạc (65)
  • NHẠC (2)
  • NHẠC THƠ (52)
  • Phật học (141)
  • phiếm (436)
  • Sống (366)
  • TẠP VĂN (302)
  • Tập Thơ (11)
  • Tây ninh (1)
  • Tham nhũng (64)
  • Thế giới (145)
  • THƠ (98)
  • THƠ CHÂM (48)
  • thơ hay (505)
  • Tiếng Việt (59)
  • Triết học (41)
  • Truyện hay (205)
  • Truyện kiếm hiệp (1)
  • TRUYỆN NGẮN (11)
  • Tư liệu (353)
  • Vẽ đẹp Việt nam (28)

Lưu trữ Blog

  • tháng 12 2012 (114)
  • tháng 1 2013 (4)
  • tháng 3 2013 (6)
  • tháng 4 2013 (27)
  • tháng 5 2013 (54)
  • tháng 6 2013 (61)
  • tháng 7 2013 (55)
  • tháng 8 2013 (40)
  • tháng 9 2013 (145)
  • tháng 10 2013 (271)
  • tháng 11 2013 (123)
  • tháng 12 2013 (130)
  • tháng 1 2014 (11)
  • tháng 2 2014 (34)
  • tháng 3 2014 (109)
  • tháng 4 2014 (135)
  • tháng 5 2014 (107)
  • tháng 7 2014 (73)
  • tháng 8 2014 (55)
  • tháng 9 2014 (43)
  • tháng 10 2014 (79)
  • tháng 11 2014 (113)
  • tháng 12 2014 (112)
  • tháng 1 2015 (53)
  • tháng 2 2015 (35)
  • tháng 3 2015 (85)
  • tháng 4 2015 (102)
  • tháng 5 2015 (97)
  • tháng 6 2015 (113)
  • tháng 7 2015 (157)
  • tháng 8 2015 (193)
  • tháng 9 2015 (4)
  • tháng 10 2015 (29)
  • tháng 11 2015 (67)
  • tháng 12 2015 (120)
  • tháng 1 2016 (20)
  • tháng 2 2016 (25)
  • tháng 3 2016 (45)
  • tháng 4 2016 (70)
  • tháng 5 2016 (94)
  • tháng 6 2016 (130)
  • tháng 7 2016 (78)
  • tháng 8 2016 (140)
  • tháng 9 2016 (119)
  • tháng 10 2016 (102)
  • tháng 11 2016 (54)
  • tháng 12 2016 (34)
  • tháng 1 2017 (8)
  • tháng 2 2017 (8)
  • tháng 3 2017 (26)
  • tháng 4 2017 (8)
  • tháng 5 2017 (20)
  • tháng 6 2017 (27)
  • tháng 7 2017 (33)
  • tháng 8 2017 (20)
  • tháng 9 2017 (16)
  • tháng 10 2017 (28)
  • tháng 11 2017 (25)
  • tháng 12 2017 (17)
  • tháng 1 2018 (20)
  • tháng 2 2018 (10)
  • tháng 3 2018 (15)
  • tháng 4 2018 (7)
  • tháng 5 2018 (12)
  • tháng 6 2018 (14)
  • tháng 7 2018 (11)
  • tháng 8 2018 (4)
  • tháng 9 2018 (23)
  • tháng 10 2018 (4)
  • tháng 11 2018 (7)
  • tháng 12 2018 (1)
  • tháng 1 2019 (1)
  • tháng 2 2019 (3)
  • tháng 3 2019 (4)
  • tháng 4 2019 (1)
  • tháng 5 2019 (1)
  • tháng 6 2019 (5)
  • tháng 7 2019 (2)
  • tháng 9 2019 (1)
  • tháng 11 2019 (1)
  • tháng 1 2020 (4)
  • tháng 2 2020 (3)
  • tháng 3 2020 (4)
  • tháng 4 2020 (1)
  • tháng 5 2020 (2)
  • tháng 7 2020 (2)
  • tháng 8 2020 (2)
  • tháng 9 2020 (6)
  • tháng 10 2020 (6)
  • tháng 11 2020 (3)
  • tháng 1 2021 (3)
  • tháng 2 2021 (1)
  • tháng 4 2021 (1)
  • tháng 5 2021 (4)
  • tháng 6 2021 (2)
  • tháng 7 2021 (1)
  • tháng 8 2021 (4)
  • tháng 9 2021 (2)
  • tháng 10 2021 (1)
  • tháng 11 2021 (1)
  • tháng 2 2022 (1)
  • tháng 3 2022 (2)
  • tháng 4 2022 (1)
  • tháng 7 2022 (4)
  • tháng 8 2022 (2)
  • tháng 10 2022 (4)
  • tháng 11 2022 (2)
  • tháng 12 2022 (3)
  • tháng 1 2023 (4)
  • tháng 3 2023 (3)
  • tháng 5 2023 (1)
  • tháng 8 2023 (3)
  • tháng 9 2023 (2)
  • tháng 10 2023 (3)
  • tháng 11 2023 (7)
  • tháng 12 2023 (1)
  • tháng 7 2024 (1)
  • tháng 10 2024 (2)

Tổng số lượt xem trang

Giới thiệu về tôi

phamdinhtructhu
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

Bài đăng phổ biến

  • CHUYỆN " QUÝ BÀ" MUA DÂM- PHẦN 1
    Trước đây tôi đã nghe rất nhiều chuyện lạ ở VN: nào là chuyện “ông ăn chả, bà ăn nem”, nào là "Hội những máy bay bà già thích thị...
  • Cách chăm sóc cây bông trang nở hoa tuyệt đẹp
    Bông trang trong trang trí và nghệ thuật Bonsai Mọc thành từng bụi to và cao hơn hai mét. Bông trang lá to nhiều màu hơn như màu hồng, cam, ...
  • Phọt phẹt và "bựa"
    *  Phọt phẹt Người mẹ cứ "vạch vú" ra bắt con bú, thằng con không chịu cứ khóc. Ông nội ngồi bên dỗ cháu: "Bú ngoan đi cháu...
  • “Đạo bất đồng bất tương vi mưu”
    Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào...
  • Nguyễn Công Khế
    TƯ LIỆU LỊCH SỬ: Nguyễn Công Khế dùng thủ đoạn ti tiện đuổi Huỳnh Tấn Mẫm ra khỏi nghề báo, cướp ghế Tổng biên tập báo Thanh Niên Nếu nhà b...
  • Những “con kên kên” trong giới báo chí Việt Nam - kỳ 2
    Nhà báo” Huy Đức, Hoàng Linh, Năm Cam và Ba Tung: Cuộc chơi của tiền và quyền lực ngầm Chúng tôi tiếp tục gửi đến bạn đọc câu chuyện nổi...
  • Sự Thật Về Đại Học Fulbright
    TS Nguyễn Kiều Dung Lời mở đầu: Cựu TT Phan Văn Khải nhầm rồi. Ông muốn thành lập đại học đẳng cấp quốc tế thì phải hỏi các giáo sư, các nh...
  • (không có tiêu đề)
    1 - NHƯ NHỮNG DẤU YÊU 2- TA GỌI TÊN EM “DỊU DÀNG NGỰC BỰ 3- MÁNG CŨ  4-NỤ TÌNH E ẤP SƯƠNG MAI  5- THƯƠNG  6-NGƯỜI ĐÀN BÀ NGÂY THƠ 7- EM HỌC...
Chủ đề Đơn giản. Hình ảnh chủ đề của luoman. Được tạo bởi Blogger.