" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Tư, 22 tháng 4, 2015
Siêu Cường Tranh Giành Thế Lực Ở Việt Nam, Ba Tư
Đào Văn Bình
...Các quốc gia Đông Nam Á đều nhận thấy trước mối đe dọa từ Trung Quốc, không có Mỹ thì không được, nhưng liên kết chặt chẽ với Mỹ theo kiểu Nhật Bản, Nam Hàn và Phi Luật Tân để đối đầu với Trung Quốc sẽ là thảm họa. Cho nên chính sách của họ là “Half and Half” tức “Lửng Lơ Con Cá Vàng” hay “Đánh Đu”. Chính vì thế mà mới đây, thủ tướng Mã Lai vừa qua Bắc Kinh gặp Ô. Tập Cận Bình, tuần lễ sau đã bay sang Hạ Uy Di (Hawaii) đánh gôn (golf) với Ô. Obama.... (ĐVB)
Những chuyển biến quan trọng:
Nhật Ký Biển Đông hai tuần đầu Tháng Tư ghi nhận những chuyển biến quan trọng như sau:
1) Chiến sự tại Yemen leo thang, Mỹ và Ba Tư đối đầu
- Reuters (Aden) ngày 1/4/2015: “Các nhân chứng cho biết một đơn vị phiến quân Houthis và đồng minh, hỗ trợ bởi thiết giáp đã tiến vào trung tâm Aden - căn cứ chính của các chiến binh trung thành với Tổng Thống Abd-Rabbu Mansour Hadi cho dù Saudi và đồng minh đã tiến hành các cuộc không kích kéo dài bảy ngày.” Theo AP ngày 2/4/2015, phiến quân đã tiến chiếm dinh tổng thống sau cuộc giao tranh lớn tại trung tâm thương mại của thành phố Aden nằm ở ven biển ở phía nam. Theo Reuters cùng ngày, một số binh sĩ đã đổ bộ bằng đường biển vào Aden nhưng không rõ thuộc quân đội nào. Nhưng Saudi Arabia và đồng minh nói rằng họ đang kiểm soát vùng biển này. Nếu vậy, đây là cuộc triển khai bộ binh lần đầu tiên của Saudi và đồng minh.
- AFP ngày 3/4/2015: “Theo giới chức bộ nội vụ Saudi, thêm hai binh sĩ chết trong cuộc chạm súng ở biên giới.” Hiện lực lượng đặc biệt của Saudi đã chính thức tham gia vào cuộc chiến đối đầu với Shiite Houthis.
- AFP (United Nations) ngày 4/4/2014: “Nga kêu gọi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc thúc đẩy một lệnh ngưng oanh tạc tại Yemen trong khi liên quân do Saudi cầm đầu đã tiến hành cuộc không kích xứ sở này qua ngày thứ mười.” Trong khi đó tin của AP, tổng thống al-Sisi của Ai Cập tuyên bố rằng bảo vệ an ninh cho Eo Biển Bab al-Mandab ngoài khơi Yemen, cửa ngõ tiến vào Hồng Hải là ưu tiên của Ai Cập. Các tổ chức cứu trợ nói rằng hơn 500 người đã thiệt mạng ở Yemen trong hai tuần qua. Hiện chưa rõ trong đó có bao nhiêu phần tử chủ chiến. Theo báo cáo của Saudi Arabia, khoảng 500 phiến quân Houthis đã chết tại khu vực biên giới với Yemen. Có tin cho hay, phe nổi dậy Southis sẵn sàng đàm phán nếu liên quân ngưng các cuộc không kích. Theo VnPlus ngày 5/4/2015 trích bản tin của Tân Hoa Xã, Bộ Ngoại giao Nga ngày 5/4 bác bỏ cáo buộc cho rằng Moskva đã lợi dụng các máy bay chở khách, được bố trí phục vụ công tác sơ tán công dân nước này, để cung cấp các vũ khí cho Yemen.” Tin tức cho biết vào ngày Thứ Năm 9/4/2015, phiến quân Southisvà lực lượng trung thành với nhà độc tài Ali Abdullah Saleh đã tràn ngập Thành Phố Shbwa là thủ phủ dầu lửa của Yemen cho dù những cuộc oanh kích của liên quân do Saudi lãnh đạo.
- AFP ngày 7/4/2015: “Hoa Kỳ đầy mạnh việc chuyển giao vũ khí cho liên quân do Saudi Arabia dẫn đầu để đối phó với đà tiến quân của phe nổi loạn tại Yemen. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn chia xẻ tin tức tình báo, thiết lập tổ phối hợp kế hoạch bên trong trung tâm chỉ huy của Saudi.” Theo VOV ngày 8/4/2015: “Phát biểu trong cuộc họp với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị tại thủ đô Moscow của Nga vào ngày 7/4, Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov nhấn mạnh, cuộc khủng hoảng tại Yemen cần phải được giải quyết thông qua các cuộc đàm phán. “ Hồi Quốc (Pakistan) cũng kêu gọi các bên ngồi lại với nhau để tránh làm trầm trọng thêm sự chia rẽ trong khối Hồi Giáo toàn cầu. Theo Reuters ngày 10/4/2015, Quốc Hội Hồi Quốc đã biểu quyết không đồng ý tham gia chiến dịch quân sự do Saudi Arabia cầm đầu. Trong khi đó theo Reuters ngày 8/4/2015 “Ba Tư đã gửi hai chiến hạm tới Vịnh Aden - xác định sự hiện diện quân sự ngoài khơi Yemen nơi Saudi Arabia đang lãnh đạo chiến dịch không kích để loại trừ phong trào Houthis do Ba Tư hỗ trợ.” Theo tin từ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, hằng ngày, máy bay tiếp dầu của Mỹ tiếp tế nguyên liệu cho máy bay Saudi và đồng minh tiến hành các cuộc oanh kích ở Yemen.Vậy không còn nghi ngờ gì nữa, Mỹ và Ba Tư đang đối đầu tại Yemen trong lúc thỏa hiệp hạt nhân giữa hai quốc gia chưa kết thúc. Vào ngày 14/4/2015, Hội Đồng Bảo An LHQ đã biểu quyết chấp thuận đề nghị của Hội Đồng Hợp Tác Vùng Vịnh (Gulf Cooperation Council) ngăn cấm việc bán vũ khí cho lực lương nổi dậy Southis.
Không biết có phải là hành động ủng hộ Ba Tư hay không? Theo Reuters ngày 13/4/2015, Nga tự ý rút bỏ lệnh cấm vận do chính Nga ban hành năm 2010 trước áp lực của Phương Tây để cung cấp hệ thống hỏa tiễn phòng không S-300 cho Ba Tư. Nếu thủ đắc hệ thống phi đạn tối tân nhất thế giới này, khả năng phòng thủ trên không của Ba Tư sẽ gia tăng. Điều này đúng vì Do Thái vừa lên tiếng công kích quyết định của Nga. Còn trang tin TheDailyBeast nhận định, “Hỏa tiễn của Putin khiến Hoa Kỳ khó lòng tấn công Ba Tư.” (Putin’s Missile Could Make U.S. Attacks on Iran Nearly Impossible). Hệ thống hỏa tiễn này có tầm bắn xa 93 dặm và tầm cao 90,000 bộ tức 27km mà một chuyên viên cao cấp nghiêm cứu về không quân của thủy quân lục chiến Mỹ nói, các máy bay F-15, F-16, F/A-18 không nên đến gần “con quái vật” này.
2) Ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Quốc tại Đông Nam Á và Ba Tư
Trong lúc Hoa Lục gia sức bồi đắp các bãi đá ngầm tại Biển Đông và biến cải thành các căn cứ hải quân và không quân, bất chấp lời cảnh cáo của Hoa Kỳ và các nước trong vùng… thì tân bộ trưởng quốc phòng Mỹ Carter thăm Nhật Bản, Nam Hàn công bố sẽ triển khai những vũ khí tối tân nhất của Hoa Kỳ tại Bắc Á. Cùng lúc đó báo chí Mỹ loan tin Nga đồng ý bán hệ thống hỏa tiễn phòng không S-400 cho Trung Quốc mà theo các nhà phân tích nó có thể tiêu diệt tất cả các mục tiêu trên không, kể cả tiêm kích tàng hình F-35 tối tân nhất của Mỹ.
Trong thời gian hai bên chạy đua vũ trang, dàn trận và thủ thế nhau, Hoa Lục lợi dụng sức mạnh tài chính và kinh tế của mình để tạo ảnh hưởng toàn cầu, đặc biệt tại Đông Nam Á mà Hoa Lục bắt chước Mỹ gọi đó là “sân sau” của mình.
- Reuters ngày 2/4/2015: “Viện trợ quân sự cùng với việc bán vũ khí và hàng tỉ đô-la đầu tư, Hoa Lục đã tăng cường mối liên hệ với Cambodia và giới phân tích coi đây như một bộ phận của việc mở rộng ảnh hưởng trong vùng , kể cả việc tranh chấp ở Biển Đông. Bộ Trưởng Quốc Phòng Tea Banh đã đọc diễn văn trong buồi lễ tốt nghiệp tại Học Viện Quân Sự của Cambodia, trực tiếp cám ơn những vị khách, trong những bộ binh phục tươi mát của Giải Phóng Quân Trung Quốc đã giúp xây học viện này vào năm 1990.”
(Hãy xem hình ảnh Tướng Trung Quốc gắn lon/quân hàm cho sinh viên sĩ quan Cambodia tốt nghiệp)
Cambodia/Kampuchia có mối liên hệ tốt với Việt Nam nhưng gắn bó với Trung Quốc- gần như truyền thống - để cân bằng ảnh hưởng của Việt Nam. Mặc dù Bà Clinton, Ô. Obama đã tới thăm Kampuchia và kể cả đệ nhất phu nhân Michelle, nhưng Kampuchia không “đi” với Mỹ là vì Mỹ cứ chĩa “khẩu đại bác nhân quyền” vào dinh thủ tướng của Ô. Hunsen. Nếu cứ tiếp tục dùng “lá bài nhân quyền” Mỹ sẽ mất hết ảnh hưởng ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ. Ô. Tập Cận Bình và trước đây là Ô. Ôn Gia Bảo, đem gói bạc khổng lồ viện trợ và đầu tư vào Kampuchia nhưng không hề nói gì đến chuyện nội bộ nhà người ta. Còn Ô. Obama và Bà Clinton đem theo bó bạc nhỏ xíu mà cứ lớn tiếng trách cứ chuyện này, chuyện nọ thì - theo tâm lý người đời- Kampuchia sẽ theo ai? Nhân quyền cũng là con dao hai lưỡi – chưa chắc làm tăng thêm uy tín của Mỹ nhưng làm suy yếu địa vị của Mỹ trên quy mô toàn cầu.
(trái) Thủ tướng Campuchia Hun Sen và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Trung Quốc viện trợ 700 triệu USD/năm, Campuchia sẽ ủng hộ "chủ quyền". Ảnh giaoduc.net.vn 11/11/14 -
(phải) Đệ nhất phu nhân Michelle Obama và phu nhân Thủ tướng Campuchia Bun Rany thăm trường trung học Hun Sen Prasaat Bankong ở ngoại ô Siem Reap, 21/3/2015
Theo VOA tiếng Việt ngày 9/4/2015: “Thái Lan cũng đang mưu tìm tăng cường quan hệ quốc phòng với Trung Quốc. Tuần này, Bộ trưởng Quốc phòng Thái Lan Prawit Wongsuwan đi thăm Trung Quốc cùng với một phái đoàn trong đó có Tư lệnh Hải quân Thái để thảo luận việc mua hai chiếc tàu ngầm chạy bằng diesel (dầu cặn) do Trung Quốc chế tạo và theo nhà khoa học chính trị Panitan Wattanayagorn - một cố vấn quốc phòng Thái, cho rằng những cuộc tiếp xúc lớn hơn nêu bật bầu không khí chiến lược (ngoại giao) đang thay đổi.” tức là gần với Hoa Lục hơn và dần dần xa Mỹ. Điều này không lạ vì Thái Lan nổi tiếng về chính sách ngoại giao “Gió chiều nào theo chiều ấy”. Nay Hoa Kỳ không đủ mạnh để trấn áp Hoa Lục mà Hoa Lục lại là nền kinh tế lớn nhất toàn cầu mà Thái Lan cần phải dựa vào đó để phát triển. Do đó “ngả” theo Trung Quốc là khuynh hướng tự nhiên nhưng Thái Lan không dại gì chống đối lại Hoa Kỳ và vẫn duy trì mối giao hảo ở một mức độ nào đó. Đó là chinh sách ngoại giao đa phương, không giống như Phi Luật Tân theo chinh sách ngoại giao đơn phương, ôm chặt lấy cột trụ Mỹ.
Ngoài ra, để né tránh cấm vận của Mỹ và đồng minh, đống thời tìm hậu thuẫn quốc tế, Ba Tư ngày càng thắt chặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. VnPlus ngày 5/4/2015 loan tin, “Hãng thông tấn FNA của Iran ngày 5/4 dẫn lời Chủ tịch Phòng Thương mại Iran-Trung Quốc Asadollah Asgaroladi cho biết Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ sớm thăm chính thức Iran trong tương lai gần. Ông Asgaroladi phát biểu: "Mối quan hệ Iran-Trung Quốc đã được cải thiện một cách đáng kể và chuyến thăm sắp tới của Chủ tịch Tập Cận Bình tới Iran sẽ mở đường cho việc tăng cường trao đổi giao thương giữa hai nước." Hiện Iran là nhà cung cấp dầu thô lớn thứ ba của Trung Quốc, chiếm khoảng 12% tổng lượng dầu tiêu thụ hàng năm của Trung Quốc.”
Chuyến viếng thăm của Ô. Tập Cận Bình sẽ ảnh hưởng lớn tới khu vực Vùng Vịnh Ba Tư và Vịnh Aden vốn là nơi bất khả xâm phạm của Mỹ vì nó là giếng dầu của thế giới .
3) Bang giao Việt-Mỹ nâng lên tầm vóc mới
Chưa bao giờ, và chưa thấy một quốc gia nào trên thế giới mà các giới chức cao cấp nhất về quân sự của Hoa Kỳ lại ghé thăm Việt Nam như: Ba đời bộ trưởng quốc phòng (Ô. William Cohen, Leon Paneta và Chuck Hagel), tướng chủ tịch ban tham mưu hỗn hợp, tư lệnh Thái Bình Dương và ngày nay tới bộ trưởng hải quân. Điều đó cho thấy Việt Nam càng ngày củng cố mối liên hệ sâu rộng hơn về mặt quân sự với Hoa Kỳ, cho dù Mỹ không hài lòng về chuyện Việt Nam cho Nga sử dụng Cam Ranh làm căn cứ tiếp dầu cho máy bay ném bom chiến lược tầm xa của Nga. Hiện nay Mỹ đang hứa hẹn sẽ trở thành nhà đầu tư và tài trợ số 1 ở Việt Nam. Đại diện các hãng sản xuất vũ khí lớn nhất thế giới của Mỹ như Lockeed Martin, Boeing cũng đã thăm Việt Nam trong mấy tuần lễ vừa qua.
- Bloomberg News ngày 2/4/2015: “Kỹ nghệ chế tạo ở Việt Nam đang gia tăng vững chắc, đầy mạnh bởi dân số trẻ và lương công nhân thấp. Nếu bạn nghĩ rằng Trung Quốc, Nam Hàn và Thái Lan là những khu vực chế tác khổng lồ ở Á Châu thì hãy vẫy tay chào thêm “say hello to” một quốc gia mới: Đó là Việt Nam. (If you thought Asia's manufacturing giants are just China, South Korea and Thailand, say hello to a new one: Vietnam.)
- BBC tiếng Việt ngày 4/4/2015: “Lãnh đạo Trung Quốc 'vội vã' mời Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam sang thăm Trung Quốc ngay trước chuyến đi được dự kiến của ông Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ vì 'lo sợ' chuyến đi này gây bất lợi cho quan hệ Trung - Việt và lợi ích của Trung Quốc, theo nhà quan sát từ Hà Nội.”
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.Ảnh http://m.voatiengviet.com/
Thế nhưng chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng chỉ có tình cách “nghi lễ ngoại giao” và cục diện Biển Đông “đâu vẫn hoàn đó”. Bằng cớ là khi Ô. Trọng về rồi, báo chí Trung Quốc bắt đầu mỉa mai, công kích Việt Nam. Theo VOA tiếng Việt ngày 14/4/2015, “Một ấn phẩm của tờ Nhân dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, mới lên tiếng cho rằng Việt Nam đang lợi dụng cả Bắc Kinh và Washington để phục vụ cho mục đích riêng và điều đó sẽ đẩy Hà Nội vào tình thế nguy hiểm.”
Còn chuyến thăm viếng Hoa Kỳ sắp tới đây của Ô. Nguyễn Phú Trọng sẽ vô cùng quan trọng cho cả hai phía Việt và Mỹ. Chương trình lảm việc của Ô. Obama hiện đang dày đặc với những vấn đề vừa nhức đầu vừa khẩn cấp của thế giới, chẳng lẽ mời Ô. Nguyễn Phú Trọng tới Tòa Bạch Ốc chỉ để nói “How are you?” rồi về sao? Nhân dịp này Ô. Obama muốn khẳng định và trấn an thế giới về quyết tâm “Xoay Trục” của Mỹ và ông chọn Việt Nam chứ không phải Phi Luật Tân là trọng điểm chiến lược trước khi ông đi gặp Ô. Tập Cận Bình vào cuối năm nay. Chuyến đi Bắc Kinh của Ô. Nguyễn Phú Trọng, chuyến viếng thăm Việt Nam của thủ tướng Nga và chuyến đi Mỹ sắp tới đây làm nổi bật sự cạnh tranh giữa các siêu cường và vị thế khó khăn của Việt Nam trong cơn lốc lịch sử này.
Một Việt Nam mạnh lên về kinh tế và quân sự, cùng lúc xích gần lại hơn với Mỹ là chuyện Trung Quốc phải hết sức thận trọng. Đánh thì đánh không được. Lấn dần biển đảo thì Việt Nam bị dồn tới chân tường sẽ không đưa quân Mỹ vào nước nhưng sẽ cùng Phi Luật Tân mời Mỹ tới Biển Đông - lúc đó Hoa Lục tính sao? Việc Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ thăm Việt Nam cho thấy Việt-Mỹ trong tương lai sẽ thao diễn hải quân chung bởi vì trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ ngày 17/6/2013 Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Đỗ Bá Tỵ đã gặp ông này đề bàn về vấn đề tập trận.
Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ chào mừng ông Ray Mabus sang thăm và làm việc tại Việt Nam - 8 tháng 4, 2015
4) Nga hướng sang Viễn Đông để tìm sinh lộ
Trong khi áp lực cấm vận của Mỹ và Âu Châu còn đang đè nặng lên Nga, thỏa hiệp ngưng bắn giữa Kiev và phe ly khai rất mong manh và có thể bị phá vỡ bởi trận thư hùng tại Mariupol sắp tới, Nga triển khai chính sách Viễn Đông - một vùng không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoàng Ukraine. Theo VOA tiếng Việt ngày 13/4/2015, “Giáo sư Vladimir Kolotov, Giám đốc Ban Lịch sử Viễn Đông thuộc Đại Học St. Petersburg nói : Một cuộc cạnh tranh ráo riết đã bùng nổ mới đây để tranh giành ảnh hưởng tại Việt Nam, trong bối cảnh các cuộc tranh chấp lãnh thổ trong Biển Nam Trung Hoa, tức Biển Đông, trở nên gay gắt hơn giữa Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, và Philippines.” Và Nga coi hợp tác chiến lược sâu rộng về mọi mặt với Việt Nam để biến Việt Nam thành đầu cầu hay cửa ngõ để tiến vào Đông Nam Á là một thực tế chính trị không thể phủ nhận.
- VnExpress ngày 6/4/2015: “Trả lời phỏng vấn của hãng Itar-Tass trước chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev từ ngày 5 đến ngày 7/4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định hợp tác kỹ thuật quân sự cùng với năng lượng là các lĩnh vực trụ cột của quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt – Nga và trong giai đoạn mới. Trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự, Nga hiện là đối tác quan trọng của Việt Nam. Thời gian tới, hai nước sẽ chuyển sang hợp tác sâu rộng trong lĩnh vực liên doanh sản xuất, nghiên cứu khoa học, thành lập các trung tâm dịch vụ và bảo hành /bảo trì).” Theo UPI thì hai bên đã ký kết những thỏa hiệp về năng lượng giữa các công ty Gazprom Neft và PetroVietnam và gần kết thúc Thỏa Hiệp Tự Do Mậu Dịch Á-Âu gồm Việt Nam, Belarus và Kazakhstan và Nga do Nga lãnh đạo. Còn trang tin Sputnik News cho biết “Công việc đào tạo cán bộ cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận-1 được tiến hành tại Học viện năng lượng hạt nhân ở Obninsk, ngoại ô Moskva và trong tương lai, các nhân viên, kỹ sư điều hành nhà máy này phải giao dịch bằng tiếng Nga. Và một trong những kết quả khác là Hãng GazpromNetf của Nga sẽ là đồng sở hữu nhà máy lọc dầu Dung Quất. ” Theo VOA tiếng Việt, “Đặc biệt đáng chú ý, hai nước đồng ý rằng các vụ tranh chấp Biển Đông cần được giải quyết một cách hoà bình, trên cơ sở “tôn trọng luật pháp quốc tế”, kể cả Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), thực thi đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và hướng tới việc thiệt lập một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).” Còn theo VnPlus, “Chuyến thăm lần này của người đứng đầu Chính phủ Nga nhằm thực hiện nội dung thực tế nêu trong các tuyên bố của Tổng thống Nga Putin về tầm quan trọng của việc mở rộng sự hiện diện của Nga tại Đông Nam Á, có tính tới triển vọng thị trường các nước nằm trong tiểu khu vực này.”
- Sputnik News ngày 6/4/2015: Nhân dịp thăm viếng Thái Lan, Thủ Tướng Nga Medvedev đã chính thức mời Thủ Tướng Thái Lan Prayuth Chan-ocha thăm Nga. Cũng theo Sputnik News, Ô. Lan Prayuth Chan-ocha coi trọng mối liên lạc với các nhà lãnh đạo Nga và rất cảm phục, kính trọng Tổng thống Vladimir Putin. Ông thổ lộ điều này trong cuộc phỏng vấn với Phó Tổng Giám đốc hãng thông tấn TASS Mikhail Gusman. “Tôi mong ông chuyển lời tới ban lãnh đạo Nga, cá nhân tôi rất kính trọng ngài Vladimir Putin. Ông ấy đã thăm Thái Lan năm 2003. Đó là một con người mạnh mẽ, luyện tập thể thao nghiêm túc,” Theo RFI, “Bên cạnh nông phẩm (thiếu hụt vì cấm vận trả đũa Âu Châu), lãnh đạo hai nước cũng nêu ra vấn đề bảo đảm an ninh đối với khách du lịch Nga, với khoảng 1,6 triệu người tới Thái Lan trong năm ngoái. Thủ tướng Thái Lan cũng nhắc đến khả năng đặt mua máy bay quân sự và trực thăng chống hỏa hoạn của Nga với hãng thông tấn Nga Itar Tass. Tuy nhiên không có thông tin cụ thể nào về thương lượng lọt ra bên ngoài.”
Ngoài việc tạo ảnh hưởng lên Thái Lan, tưởng cũng nên nhắc lại đây, vào Tháng 3, 2013 Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga Sergei Shoigu đã thăm Miến Điện và có cuộc hội đàm với bộ trưởng quốc phòng nước này.
5) Cuộc khủng hoảng Ukraine.
Khoảng 290 linh nhảy dù cùng thiết vận xa Mỹ đã vào đây giữa lúc nội tình chính trị, kinh tế lẫn quân sự Ukraine đang lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Theo Reuters ngày 9/4/2015, “Ô. Oleksander Turchynov đứng đầu hội đồng an ninh quốc gia Ukraine trong một phiên họp nói rằng Ukraine coi sự xâm lược của Nga như một yếu tố lâu dài và việc trở thành hội viên của NATO là một bảo đảm đáng tin cậy cho chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ.”
Đứng về mặt tự ái dân tộc và thể diện quốc gia, ông này nói đúng. Nhưng đứng về mặt thực tiễn chính trị thì luận điểm của ông cực kỳ nguy hiểm cho sự tồn vong của đất nước Ukraine. Giả sử Ukraine gia nhập NATO, hệ thống lá chắn hỏa tiễn THAAD của Mỹ triển khai sát biên giới Nga. Thủy quân lục chiến Mỹ và quân NATO đóng sát biên giới Nga. Xe tăng của Mỹ và NATO chĩa mũi súng qua biên giới Nga. Máy bay chiến đấu Mỹ và NATO ngày đêm bay trên bầu trời sát biên giới Nga thì….nước Nga nghĩ sao? Chắc chắn đại chiến sẽ nổ ra và đất nước ông là bãi chiến trường đẫm máu. Do đó muốn lãnh đạo đất nước thì phải biết đất nước mình nằm ở đâu? Nằm ở nơi hẻo lánh sát Nam Cực như Úc Châu? Hay ở sát Bắc Cực như Green Land? Hay ở gần một đại cường như Mễ Tây Cơ, Gia Nã Đại gần Mỹ? Hoặc Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam, Triều Tiên nằm sát Trung Quốc? Biết được vị trí của đất nước mình tức hiểu được yếu tố “Địa Lý Chính Trị” tức: địa lý như thế nào thi chính trị như thế đó, để có chính sách ngoại giao khôn khéo giữ yên đất nước và không bị lôi kéo vào các cuộc tranh chấp của các đại cường, không biến đất nước thành tiền đồn, bàn đạp hoặc căn cứ phòng thủ từ xa cho bất cứ siêu cường nào, tức không bao giờ dùng máu xương của dân tộc đề phục vụ “lợi ích cốt lõi/quyền lợi sinh tử” của ngoại bang. Hiểu được như thế, lãnh đạo đất nước như thế mới là yêu nước. Chứ còn ngả nghiêng theo một đại cường nào đó để đối đầu một đại cường khác khiến đất nước tan hoang, chia năm xẻ bảy là phản quốc chứ chẳng yêu nước gì cả. Tháng Hai 2014, phe quốc gia cực đoan (Nationalist) Ukraine, nghe theo lời xúi dại của Mỹ và NATO tiến hành cuộc biểu tình lật đổ Tổng Thống Yanukovich (đang theo đuổi chính sách phi liên kết) với hy vọng gia nhập Liên Hiệp Âu Châu và NATO. Thế nhưng kết quả ra sao? NATO chưa tới, viện trợ kinh tế từ Mỹ và Tây Phương nhỏ giọt cho một nền kinh tế đang trên bờ phá sản…thì đất nước đã bị cấu ra làm ba. Crimea vĩnh viễn thuộc Nga và không bao giờ lấy lại được. Còn vùng Donetsk và Luhansk sớm muộn gì cũng thành quốc gia độc lập hay trở thành một thành phần của Liên Bang Nga. Phần còn lại của Ukraine cũng đang nát bét vì nạn xứ quân rồi cũng sẽ chia năm xẻ bảy. Đây là một thảm họa cho Ukraine do tính toán sai lầm của tập đoàn chính trị đầu sỏ Ukraine mà hầu hết là các tỉ phú nắm giữ các đại công ty chỉ nghĩ đến lợi nhuận của mình nhưng lại “bù lu bù loa” cho rằng mình yêu nước.
Cho rằng Nga là quân xâm lược xấu xa, đáng nguyền rủa đi nữa, nhưng nguyền rủa có lợi ích gì khi đất nước bị chia cắt, tan hoang với một tương lai đen tối? Lãnh đạo một đất nước phải đặt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên hết và không thể đối ngoại theo kiểu thương-ghét. Có những quốc gia coi bộ “dễ thương” nhưng vẫn không thể ngoại giao hay liên kết được vì như thế sẽ có hại cho đất nước. Nhưng có những quốc gia “dễ ghét” nhưng vẫn phải ngoại giao vì nó là một siêu cường hoặc nó có khả năng ảnh hưởng tới đất nước mình. Chẳng hạn Nhật Bản đã nuốt nỗi nhục năm 1945 để liên minh với Mỹ không ngoài mục đích bảo đảm an ninh cho xứ sở mình trước nguy cơ xâm lấn của Hoa Lục. Anh Quốc cũng phải quên đi nỗi cay đằng bị Mỹ đánh bật ra khỏi lục địa Bắc Mỹ và ôm sát lấy Mỹ chỉ vì ngày hôm nay Anh Quốc không còn là đế quốc nữa mà rớt xuống thành “cường quốc hạng hai”. Ngày nay, nếu không “dựa hơi” vào Mỹ thì Anh Quốc chẳng là gì cả. Trong lần thăm viếng Trung Quốc mới đây, Ô. Cameron đã bị báo chí Hoa Lục chế riễu, “Anh Quốc không còn là cường quốc nữa”. Còn Việt Nam phải hợp tác toàn diện với Mỹ để dùng sức mạnh quân sự của Mỹ kiềm chế Trung Quốc tại Biển Đông mặc dù trong thâm tâm chưa chắc Việt Nam đã tin cậy Mỹ.
Bối cảnh chính trị thế giới ngày hôm là sự tái diễn của thời Xuân Thu Chiến Quốc với tất cả sự tàn độc của nó. Các nước nhỏ muốn sống yên để phát triển, lãnh đạo phải được trang bị bằng lòng yêu nước nồng nàn và phải có tài kinh bang tế thế như Phạm Lãi, Quản Trọng, Nhạc Nghị. Thật là điều ngu dại, sốc nổi nếu không nhìn thấy những âm mưu, thủ đoạn của các siêu cường nhằm lôi kéo, chia rẽ các nước nhỏ hoặc dùng viện trợ để dụ dỗ, biến các nước nhỏ thành tiền đồn, bàn đạp hay căn cứ phòng thủ từ xa. Nhưng hung hăng, hấp tấp chống lại các đại cường - nếu đại cường đó không có ý định xâm lăng đất nước- cũng là điều ngu dại đưa đất nước đến thảm họa. Do đó chính sách ngoại giao của các nước nhỏ phải vô cùng uyển chuyển và khôn khéo.
Chúng ta đã thấy chính sách ngoại giao đó đang được triển khai nhịp nhàng tại các quốc gia Đông Nam Á, ngoại trừ Phi Luật Tân như: Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Tân Gia Ba, Kampuchia và Việt Nam. Xin nhớ cho “Cây cổ thụ có thể bị quật ngã trước phong ba bão tố, nhưng cây tre đong đưa theo ngọn gió thì không bao giờ bị quật ngã cả.”
Hiện nay, Đông Nam Á tương đối đoàn kết, không có xung đột sắc tộc và giáo phái, tình hình chính trị ổn định và mỗi quốc gia đều có chính sách ngoại giao vô cùng khôn khéo cho nên có thể thoát qua cơn đại nạn này. Các quốc gia Đông Nam Á đều nhận thấy trước mối đe dọa từ Trung Quốc, không có Mỹ thì không được, nhưng liên kết chặt chẽ với Mỹ theo kiểu Nhật Bản, Nam Hàn và Phi Luật Tân để đối đầu với Trung Quốc sẽ là thảm họa. Cho nên chính sách của họ là “Half and Half” tức “Lửng Lơ Con Cá Vàng” hay “Đánh Đu”. Chính vì thế mà mới đây, thủ tướng Mã Lai vừa qua Bắc Kinh gặp Ô. Tập Cận Bình, tuần lễ sau đã bay sang Hạ Uy Di (Hawaii) đánh gôn (golf) với Ô. Obama. Thủ tướng Thái Lan vừa qua gặp Ô.Tập Cận Bình nay lại mời thủ tướng Nga tới chơi cho biết. Và nếu nước Mỹ đừng có chĩa mũi dùi nhân quyền vào đất nước Thái Lan thì ông tướng Lan Prayuth Chan-ocha cũng sẽ mời Ô. Obama tới thăm. Nếu có lời mời thì Ô. Obama chắc chắn sẽ đi, dại gì đẩy đất nước cựu đồng minh đầy tiềm năng này vào tay Trung Quốc? Nhưng nếu có đi, xin Ô. Obama nhớ thưởng thức món lẩu Thái rất hấp dẫn, rồi tráng miệng bằng sầu riêng và ổi xá-lị Thái Lan cũng ngon lắm đó. Còn Việt Nam, trong lúc Ô. Nguyễn Phú Trọng sang Bắc Kinh gặp Ô. Tập Cận Bình thì thủ tướng Nga thăm Việt Nam, tiếp đón vô cùng nồng hậu và cùng lúc đó hai khu trục hạm Mỹ ghé Cảng Tiên Sa, Đà Nẵng… rồi ông bộ trưởng hải quân cũng ghé đây …cho vui vẻ cả làng.
Thủ tướng Chính phủ Liên bang Nga Dmitry Medvedev hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Thủ đô Hà Nội, sáng ngày 7 tháng 4, 2015
Là nước nhỏ đau khổ và tủi nhục lắm bạn ơi! Lúc nào cũng bị bọn côn đồ ăn hiếp. Nhận viện trợ thì giống như đứa con đỏ hỏn ngậm vú mẹ, rút núm vú ra là chết. Làm đồng minh với nó thì bị nó o ép. Làm nô lệ, tay sai cho nó thì không xong. Đánh nó thì không được cho nên cứ phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” để sống yên và vươn lên. Nhưng đó là cái khôn ngoan, cái “biết” của Lão Tử và lời dạy của các cụ Việt Nam,
“Anh hùng như thể khúc lươn. Khi cuộn thì ngắn, khi vươn thì dài.”
Đào Văn Bình
(California ngày 15/4/2015)
Thứ Hai, 20 tháng 4, 2015
MAI TÔI ĐI
(Thơ song ngữ) Bản tiếng Việt của NQH - Bản dịch tiếng Anh của Roberto Wissai/NKBa Mai tôi đi...chẳng có gì quan trọng, Lẽ thường tình, như lá rụng công viên, Như hoa rơi trước gió ở bên thềm, Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn... Trên giường bệnh, Tử Thần về thấp thoáng, Xin miễn bàn, thăm hỏi hoặc cầu an, Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn, Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt. Khoảnh khắc cuối... Đâu còn gì tha thiết... Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian. Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn, Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi... Sẽ dứt điểm đời phù du ngắn ngủi, Để đi vào ranh giới của âm dương, Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương, Bên trần tục, bên vô hình cõi lạ... Chỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả, Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh, Quên đàng sau những níu kéo giựt dành, Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế... Mắt nhắm rồi... Xin đừng thương rơi lệ, Đừng vòng hoa, phúng điếu hoặc phân ưu, Đừng quay phim, chụp ảnh để dành lưu. Gây phiền toái, nợ thêm người còn sống... Ngoảnh nhìn lại, đời người như giấc mộng, Đến trần truồng và đi vẫn tay không. Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng, Nay rũ sạch...lên bờ, thuyền đến bến... Nếu tưởng nhớ..Xin âm thầm cầu nguyện, Nên xem như giải thoát một kiếp người, Cứ bình tâm, thoải mái với vui tươi, Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp... Tomorrow I'm going It happens all the time, like fallen leaves in the park Like flowers driven by winds onto the sidewalk, These are minor matters in the turbulent waters of life... Death is hovering over my deathbed, Please spare me of comments, visitations, or prayers of peace While my breathing is going to cease And I'm lying, waiting to bid farewell. These last dying moments...I wouldn't care less.. The hot and cold months on this planet. No matter I'm rich or full of glory, At the end I still return to dust and ashes ... My finite existence decisively comes to an end And enters the yin and yang borderlands I won't be bewildered at the frontier's gate Earthly realm is on this side, the other an unimaginable and unknown fate I only wish my soul always at peace, Traveling lightly, I quicken my pace Leaving behind those who push and pull, While I finish my journey on earth's face... My eyes are already closed....please don't shed tears of sympathy Please, no flower wreaths, no offerings, nor condolences, No videotaping, no picture taking for memories. That would only bring stresses and strains to the surviving... A quick look behind and life is just like a dream I arrived naked and I'm leaving with empty hands Many ups and downs, happy and sad moments piled high, Now they're all cleared up...I'm stepping on board, the boat has arrived... If you miss me...Please silently pray, And consider a life has been liberated, Be calm, relaxed, and gay, I go first, you follow behind, we'll meet again... |
TRỜI THƠ ĐẤT MỘNG PHIÊU BỒNG THI CA
Tâm Nhiên
Sương mù bàng bạc ùn lên lãng đãng trộn lẫn với ngàn mây trắng bao la, hòa quyện cùng hương rừng gió núi, chập chùng trên tuyệt đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, chờn vờn ngất tạnh bay quanh pháp hội Linh Sơn vào một thời xa xưa, cách đây mấy nghìn năm rồi mà tưởng chừng như mới hôm nào, vẫn còn nghe văng vẳng những lời thơ bất hủ của Thế Tôn vang vọng trầm hùng :
Hữu vi pháp hiện trùng trùng
Như huyễn như bọt nước tung vỡ rồi
Như ánh chớp như sương rơi
Thường quán như vậy nhẹ vời phiêu nhiên
Tất cả vạn pháp trong vũ trụ như nhật nguyệt, rừng núi, biển sông, con người… đều như huyễn mộng bọt nước, như chớp lóe sương rơi. Hãy quán tưởng thường xuyên như vậy. Một khi thấy rõ tận tường như thế là thể nhập tự tánh Không của vạn hữu để xa lìa mọi cố chấp tham đắm, bám víu dựa nương :
Nương âm thanh sắc tướng
Để cầu thấy Phật Đà
Kẻ ấy hành tà đạo
Chẳng bao giờ thấy ta
Qua sắc tướng, âm thanh để chiêm ngưỡng nhìn ngắm, cầu nguyện tôn thờ Đức Phật thì kẻ đó chẳng bao giờ hiểu Phật, thấy được Phật, vì đã vô tình lạc vào chốn đạo tà ma quỷ sứ mất rồi, rơi xuống nẻo hướng ngoại tầm cầu, vọng tưởng mơ hồ huyễn hoặc đâu đâu. Chính Đức Phật đã nhắc nhở chúng ta một cách khẩn thiết như thế, bằng những lời thơ súc tích tịch lặng mà sấm sét như trời long đất lở, vang dội cực kỳ làm vỡ bùng mê ám cho tâm thức bừng dậy thấy suốt muôn nơi. Rồi trên pháp hội Hoa Nghiêm điệp trùng hùng vĩ núi rừng cao xanh vách đá, vào một sớm tinh sương mùa hạ, Thế Tôn lại mỉm cười đọc mấy lời thơ mở bày sáng tỏ :
Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật khắp ba đời
Hãy quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo thôi
Ơi chao ! Hết thảy mọi cảnh giới Phật ma, thánh phàm, thiện ác, khổ vui… chỉ một bài thơ này là bao gồm đầy đủ toàn diện rồi. Pháp giới trùng trùng vô tận, nhưng tựu trung cũng đều luân lưu trong mười pháp giới : Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, vốn chẳng có tự thể, chẳng có tự tánh. Tất cả đều do một tâm niệm của mình tạo ra mà thôi.
Nói đến cái tâm của chúng ta cũng như hư không chẳng ngằn mé, vốn là thanh tịnh trong sáng, chẳng có hình dạng, chẳng có nơi chốn, vốn là bất sanh bất diệt, bất động bất biến. Tuy bất biến mà cũng tùy duyên, vì tùy duyên mà sinh động, linh hoạt và sáng tạo vô cùng. Thong dong trên cung cách khoan hòa độ lượng, Thế Tôn ôn tồn tiếp tục đọc thơ khai thị vi diệu nghĩa tuyệt trần :
Nếu người muốn biết cảnh giới Phật
Ý căn thanh tịnh như hư không
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ
Thì tâm vô ngại giữa trần hồng
Cảnh giới Phật là gì ? Đó là cảnh giới bất khả tư nghì, không thể lý giải chi được, trừ khi mình chứng ngộ. Tuy nhiên cũng có thể hiểu và thấy ra thật tướng của muôn vạn pháp là tánh Không, vốn không sinh cũng không diệt, chẳng đến cũng chẳng đi, thấy một là tất cả, tất cả là một, thấy vui buồn, sướng khổ, được mất, hơn thua, có không, sống chết… đều vô ngại, tự tại thì đấy chính là cảnh giới Phật vậy. Do đó, cảnh giới Phật luôn luôn hiện hữu ở đây và bây giờ giữa thực tại hiện tiền. Sở dĩ mình chẳng thấy, vì ý căn chưa được thanh tịnh, suốt ngày cứ dấy khởi đủ thứ điên đảo, vọng tưởng mãi thì làm sao thấy được phải không ?
Vậy thì, muốn thấy cảnh giới Phật, chúng ta chỉ cần chuyển hóa các thứ vọng tưởng, điên đảo, vô minh chấp trước ấy, xoay trở về thể tánh tự nhiên, khiến cho mọi ý căn đều thanh tịnh như hư không. Lúc đó tuệ nhãn tự nhiên bừng chiếu, liền thấy vũ trụ là cảnh giới Phật, trời đất là cảnh giới Phật, núi rừng biển cả, sông suối bụi cát, mưa nắng gió mây, cỏ hoa người vật… không nơi nào là chẳng phải cảnh giới Phật. Tất cả sơn hà đại địa, vạn pháp trùng trùng… đều là đạo tràng thanh tịnh, nếu tâm mình thanh tịnh Nhất Như.
Trên tinh thần giải thoát siêu việt đó, kỳ diệu thay, tiếng thơ đại hùng, đại lực, đại từ bi của Thế Tôn đã mở ra những phương trời cao rộng mông mênh hoằng viễn. Kể từ đó, nguôn thơ thiền bắt đầu phát sinh mãnh liệt dữ dội, trôi chảy tuôn trào bất tuyệt, miên man quá cùng bát ngát giữa thiên thu vạn đại rạt rào. Vào đầu thế kỷ thứ I, ở xứ sở u huyền Ấn Độ xuất hiện thiền sư Mã Minh với tập thơ Phật Sở Hành Tán dài hơn 9000 câu thơ ngũ ngôn, tán thán ca ngợi cuộc đời và tư tưởng Đức Phật. Bản trường ca kết thúc bằng mấy vần thơ trong sáng :
Tán thán đức Thế Tôn
Suốt cuộc đời hành đạo
Để chuyển hóa chúng sinh
Được an lành giải thoát
Giải thoát là hương vị tuyệt vời của nguồn thơ thiền, cứ mãi mãi quyện hòa trong không khí, thoảng ngát chan chứa giữa lòng người khắp mọi miền chốn cõi nơi nơi, qua các thiền viện am cốc, đô thành thị tứ, sơn dã làng quê. Hương vị giải thoát ấy thấm sâu vào trái tim nhân loại, làm tan đi xiết bao phiền não khổ đau, xiết bao những đục ngầu, u minh mịt mùng tăm tối.
Nối tiếp mạch nguồn giải thoát đó, đến gần cuối thế kỷ thứ VI ở Trung Hoa, thiền sư Huyền Giác ( 665 - 713 ) từ nơi thảo am hoang vắng tịch liêu, cạnh bên dòng sông xanh quạnh quẽ cô tịch, bỗng cất lên tiếng hát động trời Chứng Đạo Ca hùng tráng, vang ầm, rung chuyển, rền ngân trên cung bậc tối thượng thừa. Thi phẩm Chứng Đạo Ca dài 266 câu thơ thất ngôn, tuy ra đời cách đây hơn 15 thế kỷ nhưng thần lực của thơ vẫn còn tinh khôi mới mẻ, rực ngời ngọn lửa thiêng trong tim hồn rưc rỡ, mở đầu bằng mấy câu thơ nhảy tung vào đốn ngộ bản thể tự thân :
Dứt học vô vi ấy đạo nhân
Không trừ vọng tưởng chẳng cầu chân ?
Tánh thưc vô minh tức Phật tánh
Thân không ảo hóa tức Pháp thân
Pháp thân giác rồi không một vật
Vốn nguồn tự tánh thiên chân Phật
Năm ấm ảo hư mây lại qua
Ba độc huyễn hoặc bọt còn mất*
Tuyệt đối chẳng còn chi phải học nữa, bậc liễu đạt là người hoàn toàn vô sự, nhàn nhã, vượt qua thế giới nhị nguyên, hết còn phân biệt chân vọng, bởi thấu hiểu vọng chân đều huyễn hóa. Chẳng nhọc lòng tiêu diệt vọng tưởng hay truy tìm chân lý, chân tâm gì thêm. Tâm thể vốn hiện hữu sờ sờ, đang tỏa chiếu hào quang sáng rực ngời ra đó từ muôn thuở, muôn nơi rồi. Mê thì không thấy, ngộ thì hoát nhiên thấy ngay trước mắt rõ ràng. Ngộ rồi mới thông suốt lẽ “Tánh thật vô minh tức Phật tánh. Thân không ảo hóa tức Pháp thân.”Thật ra cũng dễ hiểu, bởi vô minh chỉ là một khái niệm không có tánh riêng biệt nào cả mà chỉ do mình bỏ quên, chẳng biết có Phật tánh, nên tạm gọi là vô minh thế thôi.
Khi tuệ giác quán chiếu bùng vỡ, lập tức tánh Phật hiển lộ huy hoàng thì vô minh tan mất. Cũng vậy, thân huyễn hóa và Pháp thân chẳng đối lập gì nhau mà vốn là bất nhị, Pháp thân ở ngay trong thân ảo hóa này, chứ tuyệt nhiên chẳng ở một nơi chốn nào khác tận ngoài xa kia. Thiền sư liễu ngộ Pháp thân Phật tánh, nhìn đâu cũng thấy không có một vật nào chướng ngại, nên thõng tay vào chợ, tùy duyên hóa độ chúng sinh, chỉ rõ cho họ biết năm ấm ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức ) ba độc ( tham, sân, si ) như ảo ảnh, huyễn mộng, như bọt nước mong manh chẳng thật.
Đừng lầm chấp thật mà sinh tâm dính mắc, ham muốn rồi tranh giành, chiếm hữu, đưa đến căm thù, nhẫn tâm tàn sát lẫn nhau, gây bao đổ nát tang thương, sầu hận chất chồng, tạo nghiệp mãi trong vòng sinh tử luân hồi. Rỗng rang buông xả, thư thả hòa chung nhịp bước, viên dung đôi bờ sống chết, có không, mộng thực… giữa chốn miền thanh thản, tự do đó, có biết bao đạo sư, hiền nhân, ẩn sĩ, đại trượng phu lẫm liệt đi về hòa tấu khúc Chứng Đạo Ca.
Làm sao kể hết được những tâm hồn thượng đẳng, hoằng đại ấy, những con người siêu việt đã khơi dậy sự sống nhiệm mầu, thưởng thức niềm hân hoan tối thượng của cuộc sống toàn diện như đại sư kỳ vĩ Milarepa ( 1052 – 1135 ) ca hát vang lừng những bài thơ phát khởi từ một trí tuệ nhìn thấu suốt ba nghìn thế giới. Tiếng hát, lời ngâm trầm hùng như sư tử trên các triền núi cao nguyên bạt ngàn Tây Tạng, tiếp giáp với mây trời vần vũ thiên thu. Những bài thơ xuất thần bay bổng, lồng lộng tràn đầy ánh sáng quang minh rạng chiếu ngời ngời :
Nhất quyết xa lìa ngã tướng là vui
Từ bỏ lòng yêu quê hương, xứ sở là vui
Thoát khỏi luật lệ làng xóm là vui
Chẳng làm kẻ cắp của cải tầm thường là vui
Không có lý do để tham đắm là vui
Có nhiều hiểu biết phong phú tinh thần là vui
Không phải khốn khổ vì kiếm ăn là vui
Cứ an nhiên tự tại, chẳng lo bị mất mát gì cả là vui
Chẳng lo bị suy đồi, trụy lạc là vui
Có tín tâm thâm hậu, sâu xa là vui
Vô ngại đối với tư lợi của kẻ bố thí là vui
Giúp đỡ nhiệt tình, không chán nản là vui
Không sống lừa đảo, giả trá là vui
Thể hiện tín tâm bằng mọi hành vi là vui
Thích du hành chẳng mệt mỏi là vui
Không sợ chết thình lình là vui
Chẳng lo lắng bị cướp giật là vui
Thấy tinh tấn trên đường đạo là vui
Tránh hành động độc ác, xấu xa là vui
Cần mẫn hiếu thảo, thuận hòa là vui
Vắng lặng tánh tham lam, sân hận là vui
Chẳng kiêu ngạo, ganh ghét, tỵ hiềm là vui
Thoát khỏi hy vọng và sợ hãi là vui
Làm chủ điều động tâm thức, ý thức là vui
Và giải thoát sinh tử là niềm vui hân hoan, cực lạc Niết bàn**
Bản hoan ca nhập cuộc siêu thoát, đại hòa điệu chơi với cõi ta bà, hòa âm thấm thía nguồn vui lai láng, tràn ngập trong thi phẩm Gởi Lại Trần Gian của Milarepa vẫn còn mãi đồng vọng giữa lòng nhân thế xưa nay.
Không thể nghĩ bàn là tiếng thơ của một con người sống trên mặt đất. Giữa thiên thanh vĩnh thúy, tiếng thơ ấy tự bao giờ đã bay lên đồng vọng mông mênh trên cung bậc hùng tráng như tiếng hát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, phát xuất từ một tuệ giác siêu phàm nhập thánh khác, cũng của Phật giáo Mật tông Tây Tạng, đại sư Langri Thangpa Dorje Senge qua Tám Đoạn Thi Kệ Chuyển Hóa Tâm Thức. Một bài thơ linh diệu được truyền tụng khắp vùng lục địa Châu Á, được chính đức Đạt Lai Lạt Ma và tất cả mọi thánh triết, hiền nhân trên thế giới đều học thuộc lòng và thường xuyên miên mật áp dụng thực hiện. Nguyên tác tiếng Tây Tạng, nhan đề Blo-Sbyong Tsig-Brgyad-Ma do Phạm Công Thiện chuyển dịch sang Việt ngữ :
I
Quyết tâm thành tựu
Sự hạnh phúc rộng lớn nhất cho tất cả sinh vật
Điều này còn hơn cả viên ngọc như ý
Tôi nguyện sẽ thường xuyên, liên tục thương yêu, quý mến hết thảy mọi chúng sinh
II
Khi chung đụng với người khác
Tôi tự xem mình như là kẻ thấp hèn nhất trong mọi người
Và trong tận đáy lòng sâu thẳm của tôi
Luôn luôn trân trọng, kính quý những kẻ khác, coi họ như tối thượng
III
Quán chiếu, xem xét sự lưu chuyển liên tục của tâm thức tôi trong tất cả mọi cử chỉ, hành động
Nếu một lúc nào đó, có nỗi ưu sầu, đau đớn nào đột nhiên phát khởi dậy
Gây tai hại cho chính tôi và cho những kẻ khác
Tỉnh thức đối mặt, nhìn thẳng vào nỗi phiền não ấy, tôi liền chuyển hóa, làm tan biến nó đi
IV
Khi chạm mặt với một người có tâm địa ác độc
Với người ngu si bị sai khiến, điều động bởi những điều nham hiểm, gian trá và bởi nhiều sự tàn bạo, điên rồ
Tôi vẫn quý thương, ngưỡng mộ người ấy, người thực khó thấy
Giống như mình bắt gặp một kho tàng trân châu vô cùng quý báu
V
Khi những kẻ khác vì ghen ghét, đố kỵ
Đối đãi tôi tệ bạc, sỉ nhục, lăng mạ, chửi rủa tôi đủ điều tàn nhẫn
Tôi cũng hoan hỷ chấp nhận những tiếng lời nặng nề, ghê gớm của họ
Và nhường cho họ hoàn toàn sự đắc thắng
VI
Khi có một người mà tôi giúp đỡ tận tình
Tôi đặt hết niềm hy vọng lớn lao vào người ấy
Nhưng rồi, chính người ấy lại giáng xuống đầu tôi bao nhiêu tai họa khủng khiếp
Tôi cũng xem người ấy như một người bạn tâm linh cao tột, như một bậc thầy, một thiện tri thức đúng nghĩa của tôi
VII
Nói gọn lại, tôi xin hiến dâng, trao tặng lợi ích tốt lành, hạnh phúc trọn vẹn cho hết thảy những người mẹ, mọi mọi mẫu thân
Trong cuộc đời này và trong cả sự luân lưu, tiếp diễn miên trường, vạn đại mai sau
Và một cách kín đáo, tôi xin chịu nhận lãnh cho bản thân
Tất cả những tai nạn, khốn khổ, lao đao của tất cả những người mẹ tôi
VIII
Hơn nữa, vì không nhiễm dính vào tám cơn gió loạn của thế gian như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng xấu
Bởi nhìn thấy rõ ràng, tường tận tất cả những hiện tượng trong vũ trụ, nhân sinh đều là huyễn hóa, huyễn hoặc
Tôi liền thoát khỏi sự chấp trước, bám viu và được giải phóng, giải thoát khỏi mọi sự nô lệ, buộc ràng của thế gian***
Chuyển Hóa Tâm Thức là một bài thơ kỳ vĩ, bất khả tư nghì, do đạo sư Langri Thangpa Dorje Senge ngâm nga vang lừng trên những dãy núi cao nguyên, tuyệt mù tuyết phủ Hy Mã Lạp Sơn, rờn lạnh. Tiếng thơ ngân rền vang dội ầm ầm sấm sét, vọng xuyên qua đèo cao lũng thấp, chập chùng xuống vùng châu thổ, phố thị, làng mạc, bình nguyên…
Tiếng thơ thần diệu, vô tiền khoáng hậu đã âm thầm chuyển hóa tâm hồn tột độ, rốt cùng, toàn diện, thể hiện một tâm đạo Bồ đề tâm tối thượng thừa bao la hoằng viễn, vô lượng vô biên. Huyền đồng cùng tự tánh thanh tịnh, nhất như bình đẳng, độc đáo vô song. Bồ đề tâm thâm hậu như Phạm Công Thiện diễn đạt tuyệt hảo : “Bồ đề tâm trong nghĩa phi thường tuyệt đối là chứng nhập, liễu tri vô tự tính của tất cả mọi sự, tức là Không Tính. Nghĩa là Đại Trí xuyên thấu đại mộng, xuyên vào tất cả những huyễn hóa giả hiện của tất cả những gì xảy ra trong nội tâm, trong vũ trụ và cả ngoài vũ trụ bao la vô hạn.”***
Trăng ngàn mây nước chảy tuôn nguồn mạch suối thiền qua nhiều sa mạc hoang vu, len lỏi quanh co, gập ghềnh khúc khuỷu, chịu đựng tuyết băng thử thách, lách mình qua nhiều trắc trở gai chông… Dòng thiền vi diệu, trong trẻo thanh lương đã vượt qua bao rừng núi mịt mù sương phủ, rồi đổ xuống vùng bờ biển xanh biếc Việt Nam, tựu thành một nhánh Thiền Trúc Lâm Yên Tử từ cuối thế kỷ XII kéo dài mãi tận đến bây giờ. Sơ Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng ( 1258 - 1308 ) trước kia là vua Trần Nhân Tông, năm 40 tuổi ( 1298 ) nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và phát tâm đại nguyện xuất gia, quyết chí lên đỉnh núi rừng thiêng Yên Tử học đạo với các bậc thầy thâm hậu.
Tuyệt diệu làm sao ! Đấng quân vương thượng đẳng, lặng lẽ trút bỏ ngai vàng, điện ngọc lên đường, thực hiện một bước đi phi thường, chọn am mây nhập thất, dụng công quyết liệt, hành trì miên mật và đã trở thành một vị thiền sư uyên áo với khúc hát Cư Trần Lạc Đạo an nhiên :
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn mệt nghỉ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền
Chỉ cần 4 câu thơ thôi, đủ nêu bật yếu chỉ của Thiền tông. Sống giữa đời bằng thái độ vô tư, vô chấp, cứ tùy hỷ, tùy duyên thì mọi việc đều rỗng rang trôi chảy. Tự tri, tự biết trong tâm mình vốn sẵn đủ trí tuệ rồi, nên không còn chạy kiếm tìm chi nữa. Bản tâm này là kho tàng châu báu vô lượng, dùng hoài chẳng bao giờ hết. Vậy hãy quay về mở cửa lòng ra mà tha hồ sử dụng. Cứ ung dung với nụ cười tỉnh thức, trong lòng không nhiễm vướng, trước muôn sự việc xảy ra thì cần chi phải khổ nhọc hỏi thiền, vấn đạo làm gì thêm hao hơi tổn sức ?
Phải chăng, đó là cái thấy thấu thị của Sơ Tổ Trúc Lâm cũng như của Tuệ Trung Thượng Sỹ ? ( 1230 - 1291 ) Một bậc kỳ nhân dị thường làm dậy sóng nguồn thiền ầm vang lên tận đỉnh ngàn cao xanh lồng lộng của tâm linh. Chính vua Trần Nhân Tông lúc còn niên thiếu đã được Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy dỗ giáo dục. Hôm từ giã thầy trở về hoàng cung, ngài hỏi : “Yếu chỉ Thiền tông là gì ?” Tuệ Trung Thượng Sỹ trả lời: “Hãy nhìn trở lại nơi mình là phần sự gốc, chứ không phải từ bên ngoài mà được.”
Đúng vậy, đấy là tự tri tự giác, tự mình trực nhận, đốn ngộ, kiến tánh ngay nơi đương xứ tức chân, chứ tuyệt nhiên không nên hướng ngoại tầm cầu ở đâu đâu bên ngoài, tận chốn nào xa lơ xa lắc. “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.” Đức Phật đã nói như thế. Hãy hùng tâm tráng khí, tự tin, quyết chí thì mới có cơ may nhận diện được cái mặt mũi xưa nay của chính mình, như thiền sư Quảng Nghiêm ( 1122 - 1190 ) từng khích lệ : “Làm trai dốc chí xông trời đất. Chớ dẫm Như Lai bước đã qua.”
Hòa nhịp cung cầm như thế, Tuệ Trung Thượng Sỹ đi về thế giới ta bà, rong chơi nhàn hạ vì đã khám phá ra kho tàng ngọc quý ở ngay trong lòng mình rồi. Cầm cây tuệ kiếm Kim Cang ngoạn du thỏa thích, tung hoành ngang dọc khắp nơi, mọi chốn như chỗ không người. Vung gươm tuệ chém đứt những sự phân biệt của đối đãi như có không, sống chết, đến đi, giàu nghèo, được mất, hơn thua, đúng sai, phải trái, chê khen, ghét thương, sướng khổ, thiện ác, trí ngu… Đưa con người trở về với cái đang là, đưa muôn vật trở về Như. Một khi đã mở được kho báu, đẩy cửa vào thực tại hiện tiền, triệt ngộ tự tánh thanh tịnh vô vi, Tuệ Trung Thượng Sỹ phiêu bồng, thõng tay vào chợ rong chơi, thể hiện cái thần khí đặc thù ấy là bài thơPhóng Cuồng Ca xuất thần bát ngát :
Trời đất liếc trông hề sao thênh thang
Chống gậy chơi rong hề phương ngoài phương
Hoặc cao cao hề mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu hề nước trùng dương
Đói thì ăn hề cơm mười phương góp
Mệt thì ngủ hề nơi chẳng quê hương
Hứng lên hề thổi sáo không lỗ
Lắng xuống hề đốt giải thoát hương
Mỏi nghỉ chút hề đất hoan hỷ
Khát uống no hề tiêu dao thang
Quy Sơn láng giềng hề chăn con trâu đất
Tạ Tam chung thuyền hề trỗi khúc Thương lang
Thăm Tào Khê hề ra mắt Lư Thị
Viếng Thạch Đầu hề sánh vế lão Bàng
Vui ta vui hề Bố Đại vui sướng
Điên ta điên hề Phổ Hóa điên gàn
Chà chà bóng ngày hề qua khe cửa
Ối ối mây nổi hề mộng giàu sang
Chịu sao hề thói đời ấm lạnh
Đi chi hề gai góc đường quan
Sâu thì nhón gót hề cạn thì dấn bước
Dùng thì phô ra hề bỏ thì ẩn tàng
Buông bốn đại hề đừng nắm bắt
Tỉnh một đời hề thôi chạy quàng
Thỏa nguyện ta hề rỗng rang tĩnh lặng
Sống chết bức nhau hề ta vẫn như thường****
Phóng Cuồng Ca đích thực là bản tiêu dao ca quá cùng thâm thúy. Tiếng hát ấy bay lên từ trái tim rực ngời pháp khí, siêu quần bạt tụy, là điệu thở phiêu nhiên thoát tục giữa bình sinh cuộc sống đời thường. Phóng Cuồng Ca là một thái độ tự khiêm hạ mà cũng biểu lộ tính chất tự tại của một tâm hồn thượng đạt, thấu triệt lẽ tử sinh, là khúc hát ngông nghênh xiêu quàng, nghêu ngao chuếnh choáng, thoát khỏi mọi ràng buộc hạn hẹp nhỏ bé của thế gian, bằng điệu cười hào sảng phóng khoáng, đại quang minh.
Tinh thần giải thoát trác việt của Thiền tông là nguồn cảm hứng thâm trầm, bay dậy khắp muôn phương, thấm nhuần toàn thể thế giới hoàn cầu nói chung và đại lục Châu Á nói riêng, thiền như cánh bướm trắng băng qua đại dương đến tận miền viễn đông xứ hoa Anh Đào Nhật Bản, kết tinh thành thơ haiku, thể hiện tài tình một cách hàm súc, độc đáo qua những bài thơ cô đọng của Basho ( 1644 - 1694 ) một thiền sư thi sĩ phiêu bồng suốt trọn một đời phiêu lãng, rong ruổi dưới trời xanh :
Một lữ khách
Tên tôi là như thế
Giữ nhân gian này
Trần gian là quán trọ cho khách lữ ghé qua, là cõi tạm dừng chân cho thi sĩ nghỉ ngơi, thưởng thức những vẻ đẹp phù du như kiệt tác Con Đường Sâu Thẳm của Basho, hướng về uyên nguyên vĩnh cửu, phơi phới trời mây :
Trên con đường này
Giữa chiều thu nọ
Ai về chẳng hay
Phải chăng, đó là trạng thái vô tâm trước những sự kiện hiển bày ? Có một lần vân du qua rặng núi Phú Sĩ đầy tuyết trắng, Basho ghé trọ một lữ quán, bất ngờ gặp các kỹ nữ đang ngủ say giấc nồng, thi nhân chạnh lòng cảm thương :
Quán bên đường
Các kỹ nữ nằm ngủ
Trăng và đinh hương
Ta bà cảnh giới thành Tịnh độ là như thế, mắt biếc thiền sư nhìn thấy mà không nhiễm dính chẳng mắc vướng, vẫn thong dong tự do tự tại. Cõi thơ Basho bàng bạc trăng sương, ngạt ngào hoa cỏ, lãng đãng gió mây và chập chờn chim bướm lượn vờn quanh gót du hành trên cuộc lữ thi ca :
Ôi đóa nazuna
Chú tâm nhìn thật kỹ
Bên giậu rào trổ hoa
Mỏi gót lang thang
Quán trọ nào ghé lại
Gặp hoa tử đằng
Giữa cuộc đăng trình
Chỉ còn mộng tôi phiêu phưỡng
Trên cánh đồng hoang*****
Nhẹ nhàng giản dị, những bài thơ tuy ngắn gọn đơn sơ mà vô cùng chơn mỹ, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm tinh sương hay chiều thu mưa giữa biển đồi xanh lấp loáng, phản ánh nếp sống thiền Nhật Bản. Đối với họ, cuộc sống thường nhật là đạo, bất cứ phương diện nào của cuộc sống như uống trà, cắm hoa, võ thuật, viết chữ, ngao du… đều là đạo là thiền, là thơ là nhạc hết thảy.
Khởi mạch nguồn thơ thiền bắt đầu từ thời Thế Tôn khơi mở trên tuyệt đỉnh Linh Sơn chập chờn phù vân Ấn Độ. Trào tuôn ngút ngàn qua mấy dải sa mac mênh mông vào lục địa Trung Hoa chập chùng sông núi. Trùng trùng điệp điệp chất ngất chợt bừng sáng, dâng lên bềnh bồng sương khói trời mây Tây Tạng xa vời, rồi mênh mang tràn xuống muôn trùng rừng biển Việt Nam đến tuyệt cùng bao la xanh ngần Nhật Bản…Bát ngát mở ra không bờ bến, trên cuộc về vô tận, vô sở trú của các thiền sư thi sĩ dị thường giữa trời thơ đất mộng phiêu bồng thi ca.
Tâm Nhiên
* Huyền Giác. Chứng Đạo Ca. Trúc Thiên dịch. Lá Bối xuất bản, Sài Gòn 1970
** Milarepa. Gởi Lại Trần Gian. Đỗ Đình Đồng dịch. Hiện Đại xuất bản, Sài Gòn 1970
*** Phạm Công Thiện. Nét Đẹp Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo. Thành Phố HCM xuất bản 2002.
**** Tuệ Trung Thượng Sỹ Ngữ Lục. Lý Việt Dũng dịch giải. Mũi Cà Mau xuất bản 2003
***** Nhật Chiêu. Basho Và Thơ Haiku. Văn Học xuất bản 1994
Hữu vi pháp hiện trùng trùng
Như huyễn như bọt nước tung vỡ rồi
Như ánh chớp như sương rơi
Thường quán như vậy nhẹ vời phiêu nhiên
Tất cả vạn pháp trong vũ trụ như nhật nguyệt, rừng núi, biển sông, con người… đều như huyễn mộng bọt nước, như chớp lóe sương rơi. Hãy quán tưởng thường xuyên như vậy. Một khi thấy rõ tận tường như thế là thể nhập tự tánh Không của vạn hữu để xa lìa mọi cố chấp tham đắm, bám víu dựa nương :
Nương âm thanh sắc tướng
Để cầu thấy Phật Đà
Kẻ ấy hành tà đạo
Chẳng bao giờ thấy ta
Qua sắc tướng, âm thanh để chiêm ngưỡng nhìn ngắm, cầu nguyện tôn thờ Đức Phật thì kẻ đó chẳng bao giờ hiểu Phật, thấy được Phật, vì đã vô tình lạc vào chốn đạo tà ma quỷ sứ mất rồi, rơi xuống nẻo hướng ngoại tầm cầu, vọng tưởng mơ hồ huyễn hoặc đâu đâu. Chính Đức Phật đã nhắc nhở chúng ta một cách khẩn thiết như thế, bằng những lời thơ súc tích tịch lặng mà sấm sét như trời long đất lở, vang dội cực kỳ làm vỡ bùng mê ám cho tâm thức bừng dậy thấy suốt muôn nơi. Rồi trên pháp hội Hoa Nghiêm điệp trùng hùng vĩ núi rừng cao xanh vách đá, vào một sớm tinh sương mùa hạ, Thế Tôn lại mỉm cười đọc mấy lời thơ mở bày sáng tỏ :
Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật khắp ba đời
Hãy quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo thôi
Ơi chao ! Hết thảy mọi cảnh giới Phật ma, thánh phàm, thiện ác, khổ vui… chỉ một bài thơ này là bao gồm đầy đủ toàn diện rồi. Pháp giới trùng trùng vô tận, nhưng tựu trung cũng đều luân lưu trong mười pháp giới : Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, vốn chẳng có tự thể, chẳng có tự tánh. Tất cả đều do một tâm niệm của mình tạo ra mà thôi.
Nói đến cái tâm của chúng ta cũng như hư không chẳng ngằn mé, vốn là thanh tịnh trong sáng, chẳng có hình dạng, chẳng có nơi chốn, vốn là bất sanh bất diệt, bất động bất biến. Tuy bất biến mà cũng tùy duyên, vì tùy duyên mà sinh động, linh hoạt và sáng tạo vô cùng. Thong dong trên cung cách khoan hòa độ lượng, Thế Tôn ôn tồn tiếp tục đọc thơ khai thị vi diệu nghĩa tuyệt trần :
Nếu người muốn biết cảnh giới Phật
Ý căn thanh tịnh như hư không
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ
Thì tâm vô ngại giữa trần hồng
Cảnh giới Phật là gì ? Đó là cảnh giới bất khả tư nghì, không thể lý giải chi được, trừ khi mình chứng ngộ. Tuy nhiên cũng có thể hiểu và thấy ra thật tướng của muôn vạn pháp là tánh Không, vốn không sinh cũng không diệt, chẳng đến cũng chẳng đi, thấy một là tất cả, tất cả là một, thấy vui buồn, sướng khổ, được mất, hơn thua, có không, sống chết… đều vô ngại, tự tại thì đấy chính là cảnh giới Phật vậy. Do đó, cảnh giới Phật luôn luôn hiện hữu ở đây và bây giờ giữa thực tại hiện tiền. Sở dĩ mình chẳng thấy, vì ý căn chưa được thanh tịnh, suốt ngày cứ dấy khởi đủ thứ điên đảo, vọng tưởng mãi thì làm sao thấy được phải không ?
Vậy thì, muốn thấy cảnh giới Phật, chúng ta chỉ cần chuyển hóa các thứ vọng tưởng, điên đảo, vô minh chấp trước ấy, xoay trở về thể tánh tự nhiên, khiến cho mọi ý căn đều thanh tịnh như hư không. Lúc đó tuệ nhãn tự nhiên bừng chiếu, liền thấy vũ trụ là cảnh giới Phật, trời đất là cảnh giới Phật, núi rừng biển cả, sông suối bụi cát, mưa nắng gió mây, cỏ hoa người vật… không nơi nào là chẳng phải cảnh giới Phật. Tất cả sơn hà đại địa, vạn pháp trùng trùng… đều là đạo tràng thanh tịnh, nếu tâm mình thanh tịnh Nhất Như.
Trên tinh thần giải thoát siêu việt đó, kỳ diệu thay, tiếng thơ đại hùng, đại lực, đại từ bi của Thế Tôn đã mở ra những phương trời cao rộng mông mênh hoằng viễn. Kể từ đó, nguôn thơ thiền bắt đầu phát sinh mãnh liệt dữ dội, trôi chảy tuôn trào bất tuyệt, miên man quá cùng bát ngát giữa thiên thu vạn đại rạt rào. Vào đầu thế kỷ thứ I, ở xứ sở u huyền Ấn Độ xuất hiện thiền sư Mã Minh với tập thơ Phật Sở Hành Tán dài hơn 9000 câu thơ ngũ ngôn, tán thán ca ngợi cuộc đời và tư tưởng Đức Phật. Bản trường ca kết thúc bằng mấy vần thơ trong sáng :
Tán thán đức Thế Tôn
Suốt cuộc đời hành đạo
Để chuyển hóa chúng sinh
Được an lành giải thoát
Giải thoát là hương vị tuyệt vời của nguồn thơ thiền, cứ mãi mãi quyện hòa trong không khí, thoảng ngát chan chứa giữa lòng người khắp mọi miền chốn cõi nơi nơi, qua các thiền viện am cốc, đô thành thị tứ, sơn dã làng quê. Hương vị giải thoát ấy thấm sâu vào trái tim nhân loại, làm tan đi xiết bao phiền não khổ đau, xiết bao những đục ngầu, u minh mịt mùng tăm tối.
Nối tiếp mạch nguồn giải thoát đó, đến gần cuối thế kỷ thứ VI ở Trung Hoa, thiền sư Huyền Giác ( 665 - 713 ) từ nơi thảo am hoang vắng tịch liêu, cạnh bên dòng sông xanh quạnh quẽ cô tịch, bỗng cất lên tiếng hát động trời Chứng Đạo Ca hùng tráng, vang ầm, rung chuyển, rền ngân trên cung bậc tối thượng thừa. Thi phẩm Chứng Đạo Ca dài 266 câu thơ thất ngôn, tuy ra đời cách đây hơn 15 thế kỷ nhưng thần lực của thơ vẫn còn tinh khôi mới mẻ, rực ngời ngọn lửa thiêng trong tim hồn rưc rỡ, mở đầu bằng mấy câu thơ nhảy tung vào đốn ngộ bản thể tự thân :
Dứt học vô vi ấy đạo nhân
Không trừ vọng tưởng chẳng cầu chân ?
Tánh thưc vô minh tức Phật tánh
Thân không ảo hóa tức Pháp thân
Pháp thân giác rồi không một vật
Vốn nguồn tự tánh thiên chân Phật
Năm ấm ảo hư mây lại qua
Ba độc huyễn hoặc bọt còn mất*
Tuyệt đối chẳng còn chi phải học nữa, bậc liễu đạt là người hoàn toàn vô sự, nhàn nhã, vượt qua thế giới nhị nguyên, hết còn phân biệt chân vọng, bởi thấu hiểu vọng chân đều huyễn hóa. Chẳng nhọc lòng tiêu diệt vọng tưởng hay truy tìm chân lý, chân tâm gì thêm. Tâm thể vốn hiện hữu sờ sờ, đang tỏa chiếu hào quang sáng rực ngời ra đó từ muôn thuở, muôn nơi rồi. Mê thì không thấy, ngộ thì hoát nhiên thấy ngay trước mắt rõ ràng. Ngộ rồi mới thông suốt lẽ “Tánh thật vô minh tức Phật tánh. Thân không ảo hóa tức Pháp thân.”Thật ra cũng dễ hiểu, bởi vô minh chỉ là một khái niệm không có tánh riêng biệt nào cả mà chỉ do mình bỏ quên, chẳng biết có Phật tánh, nên tạm gọi là vô minh thế thôi.
Khi tuệ giác quán chiếu bùng vỡ, lập tức tánh Phật hiển lộ huy hoàng thì vô minh tan mất. Cũng vậy, thân huyễn hóa và Pháp thân chẳng đối lập gì nhau mà vốn là bất nhị, Pháp thân ở ngay trong thân ảo hóa này, chứ tuyệt nhiên chẳng ở một nơi chốn nào khác tận ngoài xa kia. Thiền sư liễu ngộ Pháp thân Phật tánh, nhìn đâu cũng thấy không có một vật nào chướng ngại, nên thõng tay vào chợ, tùy duyên hóa độ chúng sinh, chỉ rõ cho họ biết năm ấm ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức ) ba độc ( tham, sân, si ) như ảo ảnh, huyễn mộng, như bọt nước mong manh chẳng thật.
Đừng lầm chấp thật mà sinh tâm dính mắc, ham muốn rồi tranh giành, chiếm hữu, đưa đến căm thù, nhẫn tâm tàn sát lẫn nhau, gây bao đổ nát tang thương, sầu hận chất chồng, tạo nghiệp mãi trong vòng sinh tử luân hồi. Rỗng rang buông xả, thư thả hòa chung nhịp bước, viên dung đôi bờ sống chết, có không, mộng thực… giữa chốn miền thanh thản, tự do đó, có biết bao đạo sư, hiền nhân, ẩn sĩ, đại trượng phu lẫm liệt đi về hòa tấu khúc Chứng Đạo Ca.
Làm sao kể hết được những tâm hồn thượng đẳng, hoằng đại ấy, những con người siêu việt đã khơi dậy sự sống nhiệm mầu, thưởng thức niềm hân hoan tối thượng của cuộc sống toàn diện như đại sư kỳ vĩ Milarepa ( 1052 – 1135 ) ca hát vang lừng những bài thơ phát khởi từ một trí tuệ nhìn thấu suốt ba nghìn thế giới. Tiếng hát, lời ngâm trầm hùng như sư tử trên các triền núi cao nguyên bạt ngàn Tây Tạng, tiếp giáp với mây trời vần vũ thiên thu. Những bài thơ xuất thần bay bổng, lồng lộng tràn đầy ánh sáng quang minh rạng chiếu ngời ngời :
Nhất quyết xa lìa ngã tướng là vui
Từ bỏ lòng yêu quê hương, xứ sở là vui
Thoát khỏi luật lệ làng xóm là vui
Chẳng làm kẻ cắp của cải tầm thường là vui
Không có lý do để tham đắm là vui
Có nhiều hiểu biết phong phú tinh thần là vui
Không phải khốn khổ vì kiếm ăn là vui
Cứ an nhiên tự tại, chẳng lo bị mất mát gì cả là vui
Chẳng lo bị suy đồi, trụy lạc là vui
Có tín tâm thâm hậu, sâu xa là vui
Vô ngại đối với tư lợi của kẻ bố thí là vui
Giúp đỡ nhiệt tình, không chán nản là vui
Không sống lừa đảo, giả trá là vui
Thể hiện tín tâm bằng mọi hành vi là vui
Thích du hành chẳng mệt mỏi là vui
Không sợ chết thình lình là vui
Chẳng lo lắng bị cướp giật là vui
Thấy tinh tấn trên đường đạo là vui
Tránh hành động độc ác, xấu xa là vui
Cần mẫn hiếu thảo, thuận hòa là vui
Vắng lặng tánh tham lam, sân hận là vui
Chẳng kiêu ngạo, ganh ghét, tỵ hiềm là vui
Thoát khỏi hy vọng và sợ hãi là vui
Làm chủ điều động tâm thức, ý thức là vui
Và giải thoát sinh tử là niềm vui hân hoan, cực lạc Niết bàn**
Bản hoan ca nhập cuộc siêu thoát, đại hòa điệu chơi với cõi ta bà, hòa âm thấm thía nguồn vui lai láng, tràn ngập trong thi phẩm Gởi Lại Trần Gian của Milarepa vẫn còn mãi đồng vọng giữa lòng nhân thế xưa nay.
Không thể nghĩ bàn là tiếng thơ của một con người sống trên mặt đất. Giữa thiên thanh vĩnh thúy, tiếng thơ ấy tự bao giờ đã bay lên đồng vọng mông mênh trên cung bậc hùng tráng như tiếng hát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, phát xuất từ một tuệ giác siêu phàm nhập thánh khác, cũng của Phật giáo Mật tông Tây Tạng, đại sư Langri Thangpa Dorje Senge qua Tám Đoạn Thi Kệ Chuyển Hóa Tâm Thức. Một bài thơ linh diệu được truyền tụng khắp vùng lục địa Châu Á, được chính đức Đạt Lai Lạt Ma và tất cả mọi thánh triết, hiền nhân trên thế giới đều học thuộc lòng và thường xuyên miên mật áp dụng thực hiện. Nguyên tác tiếng Tây Tạng, nhan đề Blo-Sbyong Tsig-Brgyad-Ma do Phạm Công Thiện chuyển dịch sang Việt ngữ :
I
Quyết tâm thành tựu
Sự hạnh phúc rộng lớn nhất cho tất cả sinh vật
Điều này còn hơn cả viên ngọc như ý
Tôi nguyện sẽ thường xuyên, liên tục thương yêu, quý mến hết thảy mọi chúng sinh
II
Khi chung đụng với người khác
Tôi tự xem mình như là kẻ thấp hèn nhất trong mọi người
Và trong tận đáy lòng sâu thẳm của tôi
Luôn luôn trân trọng, kính quý những kẻ khác, coi họ như tối thượng
III
Quán chiếu, xem xét sự lưu chuyển liên tục của tâm thức tôi trong tất cả mọi cử chỉ, hành động
Nếu một lúc nào đó, có nỗi ưu sầu, đau đớn nào đột nhiên phát khởi dậy
Gây tai hại cho chính tôi và cho những kẻ khác
Tỉnh thức đối mặt, nhìn thẳng vào nỗi phiền não ấy, tôi liền chuyển hóa, làm tan biến nó đi
IV
Khi chạm mặt với một người có tâm địa ác độc
Với người ngu si bị sai khiến, điều động bởi những điều nham hiểm, gian trá và bởi nhiều sự tàn bạo, điên rồ
Tôi vẫn quý thương, ngưỡng mộ người ấy, người thực khó thấy
Giống như mình bắt gặp một kho tàng trân châu vô cùng quý báu
V
Khi những kẻ khác vì ghen ghét, đố kỵ
Đối đãi tôi tệ bạc, sỉ nhục, lăng mạ, chửi rủa tôi đủ điều tàn nhẫn
Tôi cũng hoan hỷ chấp nhận những tiếng lời nặng nề, ghê gớm của họ
Và nhường cho họ hoàn toàn sự đắc thắng
VI
Khi có một người mà tôi giúp đỡ tận tình
Tôi đặt hết niềm hy vọng lớn lao vào người ấy
Nhưng rồi, chính người ấy lại giáng xuống đầu tôi bao nhiêu tai họa khủng khiếp
Tôi cũng xem người ấy như một người bạn tâm linh cao tột, như một bậc thầy, một thiện tri thức đúng nghĩa của tôi
VII
Nói gọn lại, tôi xin hiến dâng, trao tặng lợi ích tốt lành, hạnh phúc trọn vẹn cho hết thảy những người mẹ, mọi mọi mẫu thân
Trong cuộc đời này và trong cả sự luân lưu, tiếp diễn miên trường, vạn đại mai sau
Và một cách kín đáo, tôi xin chịu nhận lãnh cho bản thân
Tất cả những tai nạn, khốn khổ, lao đao của tất cả những người mẹ tôi
VIII
Hơn nữa, vì không nhiễm dính vào tám cơn gió loạn của thế gian như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng xấu
Bởi nhìn thấy rõ ràng, tường tận tất cả những hiện tượng trong vũ trụ, nhân sinh đều là huyễn hóa, huyễn hoặc
Tôi liền thoát khỏi sự chấp trước, bám viu và được giải phóng, giải thoát khỏi mọi sự nô lệ, buộc ràng của thế gian***
Chuyển Hóa Tâm Thức là một bài thơ kỳ vĩ, bất khả tư nghì, do đạo sư Langri Thangpa Dorje Senge ngâm nga vang lừng trên những dãy núi cao nguyên, tuyệt mù tuyết phủ Hy Mã Lạp Sơn, rờn lạnh. Tiếng thơ ngân rền vang dội ầm ầm sấm sét, vọng xuyên qua đèo cao lũng thấp, chập chùng xuống vùng châu thổ, phố thị, làng mạc, bình nguyên…
Tiếng thơ thần diệu, vô tiền khoáng hậu đã âm thầm chuyển hóa tâm hồn tột độ, rốt cùng, toàn diện, thể hiện một tâm đạo Bồ đề tâm tối thượng thừa bao la hoằng viễn, vô lượng vô biên. Huyền đồng cùng tự tánh thanh tịnh, nhất như bình đẳng, độc đáo vô song. Bồ đề tâm thâm hậu như Phạm Công Thiện diễn đạt tuyệt hảo : “Bồ đề tâm trong nghĩa phi thường tuyệt đối là chứng nhập, liễu tri vô tự tính của tất cả mọi sự, tức là Không Tính. Nghĩa là Đại Trí xuyên thấu đại mộng, xuyên vào tất cả những huyễn hóa giả hiện của tất cả những gì xảy ra trong nội tâm, trong vũ trụ và cả ngoài vũ trụ bao la vô hạn.”***
Trăng ngàn mây nước chảy tuôn nguồn mạch suối thiền qua nhiều sa mạc hoang vu, len lỏi quanh co, gập ghềnh khúc khuỷu, chịu đựng tuyết băng thử thách, lách mình qua nhiều trắc trở gai chông… Dòng thiền vi diệu, trong trẻo thanh lương đã vượt qua bao rừng núi mịt mù sương phủ, rồi đổ xuống vùng bờ biển xanh biếc Việt Nam, tựu thành một nhánh Thiền Trúc Lâm Yên Tử từ cuối thế kỷ XII kéo dài mãi tận đến bây giờ. Sơ Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng ( 1258 - 1308 ) trước kia là vua Trần Nhân Tông, năm 40 tuổi ( 1298 ) nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và phát tâm đại nguyện xuất gia, quyết chí lên đỉnh núi rừng thiêng Yên Tử học đạo với các bậc thầy thâm hậu.
Tuyệt diệu làm sao ! Đấng quân vương thượng đẳng, lặng lẽ trút bỏ ngai vàng, điện ngọc lên đường, thực hiện một bước đi phi thường, chọn am mây nhập thất, dụng công quyết liệt, hành trì miên mật và đã trở thành một vị thiền sư uyên áo với khúc hát Cư Trần Lạc Đạo an nhiên :
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn mệt nghỉ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền
Chỉ cần 4 câu thơ thôi, đủ nêu bật yếu chỉ của Thiền tông. Sống giữa đời bằng thái độ vô tư, vô chấp, cứ tùy hỷ, tùy duyên thì mọi việc đều rỗng rang trôi chảy. Tự tri, tự biết trong tâm mình vốn sẵn đủ trí tuệ rồi, nên không còn chạy kiếm tìm chi nữa. Bản tâm này là kho tàng châu báu vô lượng, dùng hoài chẳng bao giờ hết. Vậy hãy quay về mở cửa lòng ra mà tha hồ sử dụng. Cứ ung dung với nụ cười tỉnh thức, trong lòng không nhiễm vướng, trước muôn sự việc xảy ra thì cần chi phải khổ nhọc hỏi thiền, vấn đạo làm gì thêm hao hơi tổn sức ?
Phải chăng, đó là cái thấy thấu thị của Sơ Tổ Trúc Lâm cũng như của Tuệ Trung Thượng Sỹ ? ( 1230 - 1291 ) Một bậc kỳ nhân dị thường làm dậy sóng nguồn thiền ầm vang lên tận đỉnh ngàn cao xanh lồng lộng của tâm linh. Chính vua Trần Nhân Tông lúc còn niên thiếu đã được Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy dỗ giáo dục. Hôm từ giã thầy trở về hoàng cung, ngài hỏi : “Yếu chỉ Thiền tông là gì ?” Tuệ Trung Thượng Sỹ trả lời: “Hãy nhìn trở lại nơi mình là phần sự gốc, chứ không phải từ bên ngoài mà được.”
Đúng vậy, đấy là tự tri tự giác, tự mình trực nhận, đốn ngộ, kiến tánh ngay nơi đương xứ tức chân, chứ tuyệt nhiên không nên hướng ngoại tầm cầu ở đâu đâu bên ngoài, tận chốn nào xa lơ xa lắc. “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.” Đức Phật đã nói như thế. Hãy hùng tâm tráng khí, tự tin, quyết chí thì mới có cơ may nhận diện được cái mặt mũi xưa nay của chính mình, như thiền sư Quảng Nghiêm ( 1122 - 1190 ) từng khích lệ : “Làm trai dốc chí xông trời đất. Chớ dẫm Như Lai bước đã qua.”
Hòa nhịp cung cầm như thế, Tuệ Trung Thượng Sỹ đi về thế giới ta bà, rong chơi nhàn hạ vì đã khám phá ra kho tàng ngọc quý ở ngay trong lòng mình rồi. Cầm cây tuệ kiếm Kim Cang ngoạn du thỏa thích, tung hoành ngang dọc khắp nơi, mọi chốn như chỗ không người. Vung gươm tuệ chém đứt những sự phân biệt của đối đãi như có không, sống chết, đến đi, giàu nghèo, được mất, hơn thua, đúng sai, phải trái, chê khen, ghét thương, sướng khổ, thiện ác, trí ngu… Đưa con người trở về với cái đang là, đưa muôn vật trở về Như. Một khi đã mở được kho báu, đẩy cửa vào thực tại hiện tiền, triệt ngộ tự tánh thanh tịnh vô vi, Tuệ Trung Thượng Sỹ phiêu bồng, thõng tay vào chợ rong chơi, thể hiện cái thần khí đặc thù ấy là bài thơPhóng Cuồng Ca xuất thần bát ngát :
Trời đất liếc trông hề sao thênh thang
Chống gậy chơi rong hề phương ngoài phương
Hoặc cao cao hề mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu hề nước trùng dương
Đói thì ăn hề cơm mười phương góp
Mệt thì ngủ hề nơi chẳng quê hương
Hứng lên hề thổi sáo không lỗ
Lắng xuống hề đốt giải thoát hương
Mỏi nghỉ chút hề đất hoan hỷ
Khát uống no hề tiêu dao thang
Quy Sơn láng giềng hề chăn con trâu đất
Tạ Tam chung thuyền hề trỗi khúc Thương lang
Thăm Tào Khê hề ra mắt Lư Thị
Viếng Thạch Đầu hề sánh vế lão Bàng
Vui ta vui hề Bố Đại vui sướng
Điên ta điên hề Phổ Hóa điên gàn
Chà chà bóng ngày hề qua khe cửa
Ối ối mây nổi hề mộng giàu sang
Chịu sao hề thói đời ấm lạnh
Đi chi hề gai góc đường quan
Sâu thì nhón gót hề cạn thì dấn bước
Dùng thì phô ra hề bỏ thì ẩn tàng
Buông bốn đại hề đừng nắm bắt
Tỉnh một đời hề thôi chạy quàng
Thỏa nguyện ta hề rỗng rang tĩnh lặng
Sống chết bức nhau hề ta vẫn như thường****
Phóng Cuồng Ca đích thực là bản tiêu dao ca quá cùng thâm thúy. Tiếng hát ấy bay lên từ trái tim rực ngời pháp khí, siêu quần bạt tụy, là điệu thở phiêu nhiên thoát tục giữa bình sinh cuộc sống đời thường. Phóng Cuồng Ca là một thái độ tự khiêm hạ mà cũng biểu lộ tính chất tự tại của một tâm hồn thượng đạt, thấu triệt lẽ tử sinh, là khúc hát ngông nghênh xiêu quàng, nghêu ngao chuếnh choáng, thoát khỏi mọi ràng buộc hạn hẹp nhỏ bé của thế gian, bằng điệu cười hào sảng phóng khoáng, đại quang minh.
Tinh thần giải thoát trác việt của Thiền tông là nguồn cảm hứng thâm trầm, bay dậy khắp muôn phương, thấm nhuần toàn thể thế giới hoàn cầu nói chung và đại lục Châu Á nói riêng, thiền như cánh bướm trắng băng qua đại dương đến tận miền viễn đông xứ hoa Anh Đào Nhật Bản, kết tinh thành thơ haiku, thể hiện tài tình một cách hàm súc, độc đáo qua những bài thơ cô đọng của Basho ( 1644 - 1694 ) một thiền sư thi sĩ phiêu bồng suốt trọn một đời phiêu lãng, rong ruổi dưới trời xanh :
Một lữ khách
Tên tôi là như thế
Giữ nhân gian này
Trần gian là quán trọ cho khách lữ ghé qua, là cõi tạm dừng chân cho thi sĩ nghỉ ngơi, thưởng thức những vẻ đẹp phù du như kiệt tác Con Đường Sâu Thẳm của Basho, hướng về uyên nguyên vĩnh cửu, phơi phới trời mây :
Trên con đường này
Giữa chiều thu nọ
Ai về chẳng hay
Phải chăng, đó là trạng thái vô tâm trước những sự kiện hiển bày ? Có một lần vân du qua rặng núi Phú Sĩ đầy tuyết trắng, Basho ghé trọ một lữ quán, bất ngờ gặp các kỹ nữ đang ngủ say giấc nồng, thi nhân chạnh lòng cảm thương :
Quán bên đường
Các kỹ nữ nằm ngủ
Trăng và đinh hương
Ta bà cảnh giới thành Tịnh độ là như thế, mắt biếc thiền sư nhìn thấy mà không nhiễm dính chẳng mắc vướng, vẫn thong dong tự do tự tại. Cõi thơ Basho bàng bạc trăng sương, ngạt ngào hoa cỏ, lãng đãng gió mây và chập chờn chim bướm lượn vờn quanh gót du hành trên cuộc lữ thi ca :
Ôi đóa nazuna
Chú tâm nhìn thật kỹ
Bên giậu rào trổ hoa
Mỏi gót lang thang
Quán trọ nào ghé lại
Gặp hoa tử đằng
Giữa cuộc đăng trình
Chỉ còn mộng tôi phiêu phưỡng
Trên cánh đồng hoang*****
Nhẹ nhàng giản dị, những bài thơ tuy ngắn gọn đơn sơ mà vô cùng chơn mỹ, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm tinh sương hay chiều thu mưa giữa biển đồi xanh lấp loáng, phản ánh nếp sống thiền Nhật Bản. Đối với họ, cuộc sống thường nhật là đạo, bất cứ phương diện nào của cuộc sống như uống trà, cắm hoa, võ thuật, viết chữ, ngao du… đều là đạo là thiền, là thơ là nhạc hết thảy.
Khởi mạch nguồn thơ thiền bắt đầu từ thời Thế Tôn khơi mở trên tuyệt đỉnh Linh Sơn chập chờn phù vân Ấn Độ. Trào tuôn ngút ngàn qua mấy dải sa mac mênh mông vào lục địa Trung Hoa chập chùng sông núi. Trùng trùng điệp điệp chất ngất chợt bừng sáng, dâng lên bềnh bồng sương khói trời mây Tây Tạng xa vời, rồi mênh mang tràn xuống muôn trùng rừng biển Việt Nam đến tuyệt cùng bao la xanh ngần Nhật Bản…Bát ngát mở ra không bờ bến, trên cuộc về vô tận, vô sở trú của các thiền sư thi sĩ dị thường giữa trời thơ đất mộng phiêu bồng thi ca.
Tâm Nhiên
* Huyền Giác. Chứng Đạo Ca. Trúc Thiên dịch. Lá Bối xuất bản, Sài Gòn 1970
** Milarepa. Gởi Lại Trần Gian. Đỗ Đình Đồng dịch. Hiện Đại xuất bản, Sài Gòn 1970
*** Phạm Công Thiện. Nét Đẹp Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo. Thành Phố HCM xuất bản 2002.
**** Tuệ Trung Thượng Sỹ Ngữ Lục. Lý Việt Dũng dịch giải. Mũi Cà Mau xuất bản 2003
***** Nhật Chiêu. Basho Và Thơ Haiku. Văn Học xuất bản 1994
Giải Pháp Cho Việt Nam ở Đâu?
Từ khi có những cuộc nổi dậy của quần chúng Trung đông và Bắc phi, với phương tiện và lực thông tin ngày nay, khắp nơi từ những xã hội đang sinh hoạt trong mô thức dân sự cho đến những xã hội còn bán khai nô lệ quyền lực nhà nước, chủ nghĩa quốc gia v.v đều ngỡ ngàng … và tìm mọi ngôn từ để lý giải , qui kết và dự đoán những biến chuyển nối tiếp. Những lý giải nhận định qui kết và dự đoán có nhiều khác nhau, tuy nhiên một sự kiện không thể phủ nhận, đó chính là sự THAM DỰ TRỰC TIẾP TỰ NGUYỆN của mọi tầng lấp khuynh hướng trong quần chúng. Đặc điểm cần ghi nhận là qua những nỗ lực và cường độ đàn áp bằng vũ lực của các nhà nước bị chống đối, chúng ta thấy rất rõ sự THAM GIA này của quần chúng RẤT KIÊN CƯỜNG, họ bất chấp hình thức và cường độ đàn áp, từ việc bắn sẻ, bắt bớ đánh đập, và tấn công bằng cả phương tiện quân sự an ninh … Vì vậy chính điều này đã khẳng định việc HÀNH ĐỘNG có NHẬN THỨC của những người tham gia: Họ đã biết họ MUỐN GÌ và chấp nhận cái GIÁ PHẢI TRẢ cho ƯỚC MUỐN đó.
Từ Tunisia , xã hội có lợi tức bình quân 9,500 Mỹ kim , qua Yemen, 2,600 Mỹ kim, rồi Ai Cập, 6,400 Mỹ kim, Jordan, 5,600 Mỹ kim, Syria ,5200 Mỹ kim và Libya 14,900 Mỹ kim với chế độ bao cấp kinh tế vật chất thật đầy đủ cho người dân; và cả đến hai chế độ vương quyền hồi giáo vững chắc nhất có đời sống kinh tế vật chất tương đối rất cao trong khu vực như Arab Seoud, (Per Capita 24,000 Mỹ Kim) Bahrain (38,400 Mỹ Kim), người dân mọi tầng lấp cũng đang thức tỉnh. Bởi vì việc đòi hỏi của quần chúng không đi từ khát khao đòi hỏi vật chất kinh tế như chúng ta thấy rõ qua sự chênh lệch và khác biệt mức phát triển kinh tế của các xã hội này, mà chính là khát vọng được TỰ DO BÌNH ĐẲNG, đòi hỏi giá trị tinh thần, giá trị Con Người, nói ngắn gọn là DÂN CHỦ. Đây mói chính là điểm “thức tỉnh” mẫu số chung của người dân trong các CAO TRÀO ĐẤU TRANH BẮC PHI.
Mẫu số chung của các chế độ chính trị đang bị phản kháng chống đối là ĐỘC TÀI, và mẫu số chung của quần chúng mọi tầng lớp của các xã hội đang vùng dậy là DÀNH LẠI TỰ DO BÌNH ĐẲNG, , đi từ nhận thức rõ về QUYỀN CON NGƯỜI và QUYỀN DÂN CHỦ của chính họ.
Ngoài những xã hội đang biến chuyển này, chúng ta cũng thấy nổi lên những ƯỚC MONG NÔN NÓNG của những xã hội khác ở những cấp độ khác nhau,như Qatar, Lào, Miên, Trung, Quốc, Viêt Nam v.v Nhưng “ước mong” cũng chỉ đi từ sự “nôn nóng” ngó ra ngó vào từ một thiểu số “bắng nhắng” lạc lõng yếu ớt nằm bẹp dí lạc lõng trong nỗ lực tuyên truyền ào ạt từ guồng máy cầm quyền cai trị trong mục tiêu đánh lạc hướng nhận thức của quần chúng.
Riêng ở Viêt Nam, từ trước và sau, từ những biến chuyển Đông Âu, cho đến những biến chuyển đấu tranh dân chủ của người dân Trung đông, tình hình quần chúng cũng vẫn không thay đổi. Trong xã hội, người dân vẫn không quan tâm ngoài cơm áo gạo tiền, và những kẻ lao xao, vẫn chỉ là những “van xin dân chủ” rồi “chờ đợi ban phát dân chủ”, rồi “kiến nghị xin cho dân chủ”? Mà cũng chỉ có từ một hai dúm người được tâng bốc và thổi phồng thành những “nhà dân chủ, nhà đối kháng, nhà tranh đấu” v.v từ các báo đài của Việt Kiều Chống Cộng, chứ không phải nổi lên từ hậu thuẫn ủng hộ của quần chúng bản xứ.
Tại sao lại có thể lạ lùng như vậy? Tại sao sự trỗi dậy của quần chúng lại xẩy ra ở những xã hội mà người dân đã từng lạc hậu thuần phục quyền lực chính trị và giáo quyền đến hàng thế kỷ, và lại xảy ra ở mức độ phát triển kinh tế khác biệt nhau như vậy? Và tại sao ở những xã hội như Viêt Nam lại lặng lẽ, và chỉ đẻ ra được những màn kịch ấm ớ như vậy? Và cũng chỉ có ở Việt nam mới có những “phong trào dân chủ xin cho và nhờ cậy ” (hiện nay còn có thêm phong trào dân chủ CHỜ THỜI, Dân Chủ Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hoà" nữa!!!) quái đản như vậy?
Ở đây, Vấn đề không phải là biện pháp và thủ đoạn của bọn nhà nước chính phủ cầm quyền. Bởi có bọn nhà nước nào không thường xuyên tuyên truyền để đánh lạc hướng nhận thức quần chúng và xử dụng bạo lực quân đội và an ninh, nhân danh an ninh tổ quốc khi cần đến giải pháp đàn áp?
Vậy chỉ còn một nhân tố CẦN CÓ THAY ĐỔI, cần có KHÁC BIỆT đó là người dân VIỆT NAM. Quần chúng Viêt Nam không có, hay chưa có cái MẨU SỐ CHUNG của quần chúng ở những xã hội đang trỗi dậy.
Cái MẪU SỐ CHUNG đó chính là NHẬN THỨC GIÁ TRỊ TỰ THÂN, tức là nhận thức ra được giá trị quyền làm người, quyền làm công dân của chính mình. Những cái quyền này nó đẻ ra, dựng lên PHƯƠNG TIỆN chính phủ nhà nước. Chứ không phải là nhà nước chính phủ là chủ thể có năng lực tạo ra hạnh phúc ấm no cho xã hội quần chúng như người Việt Nam bị nhồi nhét và tin tưởng hàng bao ngàn năm nay. Và hôm nay, cái MẪU SỐ CHUNG của QUẦN CHÚNG trong các xã hội Tunisia, Ai cập, Syria, Yemen, Bahrian v,v là NGƯỜI DÂN KHÔNG THỪA NHẬN TÍNH CHÍNH ĐÁNG trong vai trò CAI TRỊ của BỌN NHÀ NƯỚC CHÍNH PHỦ NỮA!
Nhưng nhận thức giá trị tự thân này không phải bỗng nhiên “đột biến’ trong quần chúng mà có. Nó lại càng không thể có được chỉ đơn giản từ sự hiều biết rồi ngóng cổ mong đợi và trông chờ từ NGƯỜI KHÁC thực hiện. Nếu ai cũng biết, cũng hiểu, rồi thò thụp vén cửa sổ nhìn ra chung quanh xem có ai “lội nước” đi trước để mình “theo sau” với những lý do, lý cớ rất “chính đáng”, thì một cách hợp lý và thuận lý là CHẲNG BAO GIỜ CÓ CAO TRÀO ĐẤU TRANH nào cả…Bởi cả xã hội, kẻ trong người ngoài, ai cũng thể hiện cái quyền chổng mông ngồi ước mong và NGỒI CHỜ (thời cơ Thiên Địa Nhân) của mình. Nhưng chắc chắn luôn luôn có một cao trào “thường trực” trong xã hội…đó là cao trào “mong chờ người khác” và cao trào “hô hoán người khác đấu tranh.”
Một cao trào đấu tranh dân chủ thật sự nó không bao giờ có thể xảy ra ở một xã hội mà trong đó người dân không có tí hiều biết gì về chính cái quyền , cái giá trị nhân phẩm của chính họ ngoài miếng cơm manh áo; và nó càng không thể xảy ra khi mà ngay cả giới khoa bảng, giới hiểu biết của họ sống trong một nền “triết học dân tộc”- “nhân sinh quan dân tộc”.
Bởi suy luận thật khoa học biện chứng và đối chiếu ngay với thực tại, thì rõ ràng xã hội Việt nam hôm nay người ta đang chạy đua dành giật chen lấn nhau để “ăn cỗ đi trước”; và dĩ nhiên cũng rõ ràng những lãnh vực đòi hỏi phải “lội nước” thì CHẲNG THẤY AI ĐI TRƯỚC CẢ.. tất cả đều chờ “theo sau”.. . Đó là lý do chúng ta chưa thể có, và sẽ KHÔNG THỂ CÓ CAO TRÀO ĐẤU TRANH DÂN CHỦ ĐÚNG ĐẮN và ĐÍCH THẬT. Và thế là mọi người sống trong tâm tưởng của nhà thơ vừa bệ rạc vừa hạ cấp của đất Vị Xuyên trong bài “Chợt Giấc” tức là “chợt tỉnh giấc ngủ”:
Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả
Việc gì mà thức một mình ta ?. ...
Đấy! Cái não trạng và tâm trạng vừa mới có cơ hội tỉnh ra, nhận thức ra… nhưng chợt nghĩ đi nghĩ lại.. dáo dác xem có ai “thức” để “chia gánh nặng” với mình hay không? Dù vậy cũng đành, nhưng cũng không chịu khó cất bước xuống giường, sắn gấu quần xỏ dép để đi quanh xem có ai thật sự đang thức như mình hay không, mà chỉ kịp suy bụng ta ra bụng người , hoặc trong trường hợp này là suy bụng NGƯỜI ra bụng TA rằng “thiên hạ dễ thường đang ngủ cả” để cho mình cái lý cớ chính đáng lăn đùng ra ngủ tiếp một cách êm ái…
Não trạng của quần chúng Viêt Nam và tâm trạng của những người có cơ hội BIẾT và HIỂU trước xã hội của chúng ta hiện nay đúng là như thế đấy! Chúng ta thức tỉnh rồi, nhưng không đi đánh thức người khác, mà khi chỉ cho rằng (hoặc thấy rằng) người khác đang ngủ vùi, rồi bỗng nghĩ lại thấy THỨC TỈNH TRƯỚC thế này, chả biết có ai cùng với ta “chia sẻ bớt gian khồ khó khăn” trong đêm đen gần như tuyệt vọng này hay không, thế thì thiệt thòi quá, …Tội gì mà thức tỉnh, gánh vác một mình… và quyết định NẰM VÙI NGỦ NƯỚNG…hoặc không ngủ lại được… thì lẩn quẩn trong nhà lâu lâu vạch cửa sổ ngó qua khe cửa nhìn ra ngoài NÔN NÓNG, MONG MỎI xem có ai đã thức và đã ra ngoài chưa? Nếu có người ra ngoài rồi ,mà còn ít, thì "chưa phải là thời cơ, chưa chín mùi", cứ chờ ngóng thêm xem có thêm ai ra trước nữa không?
Chúng ta, những người có cơ hội “đột biến” biết được hiểu được, nhưng CHƯA HIỂU hay chưa NHẬN THỨC được rằng bản thân CÁ NHÂN mỗi chúng ta nhận thức, nó mới chỉ là bước đầu của một biến chuyển xã hội, chưa đủ để tiến trình thay đổi có chuyển động lực tác động. Chúng ta còn phải có trách nhiệm liên đới ĐI VẬN ĐỘNG, đánh thức người khác cùng thức tỉnh với mình. Nó tương tự như một khu xóm có trộm hoặc cháy nhà, để bắt trộm hoặc chữa cháy, người nhận ra đầu tiên phải khẩn cấp thét dục đánh thức mọi người cùng bắt trộm hoặc chữa cháy mới có kết quả.
Bởi bất cứ giá trị gì của XÃ HỘI CON NGƯỜI đều phải đặt thành một NỀN, nền Nhân Bản, Nền Tự Do, Nền Công Lý, Nền Dân Chủ , Nền Hạnh Phúc v.v tức có nghĩa GIÁ TRỊ đó là sự cộng hưởng hay sự tổng hợp của đại đa số mà hình thành. Cá nhân mỗi chúng ta KHÔNG THỂ CÓ hạnh phúc, công lý, tự do, dân chủ, công bằng v,v khi những người chung quanh chúng ta KHÔNG CÓ hoặc chưa có. Đó chính là TÍNH LIÊN LẬP của xã hội. Nếu không có tính liên lập xã hội, thì tất cả những cái gì thuộc CON NGƯỜI (chứ không phải thuộc động vật hai chân chỉ có bản năng sinh tồn căn bản,) tức thuộc Ý NIỆM, TINH THẦN như tình yêu, tự hào, tự ái, tự do bình đảng công lý, chân thiện mỹ v.v không cần được đặt ra nữa.
Cho nên lịch sử của nhân loại, và chúng ta hôm nay, đã và đang chứng kiến cái MẪU SỐ CHUNG của QUẦN CHÚNG này, nó luôn luôn được xây dựng từ những hành động vận động đơn lẻ từ NHỮNG CÁ NHÂN TIÊN PHONG, những cá nhân nhận thức trước , nhưng không chỉ đơn giản là giá trị tự thân, mà nhận thức được cả nguyên lý liên lập xã hội, trong đó TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI của mỗi CÁ NHÂN phải thực hiện với xã hội. Nhờ nhận ra nguyên lý LIÊN LẬP của CÁ NHÂN trong XÃ HỘI mà tất cả các CAO TRÀO đều có được tính CAN ĐẢM KIÊN TRÌ không chỉ của cá nhân một mình người vận động, mà còn là của cả một lớp người như một đam mê chân lý; nghĩa là những cá nhân có nhận thức đặt ra được MỤC ĐÍCH cụ thề, để từ đó tiến đến HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ có PHƯƠNG PHÁP và có XẾP ĐẶT TỔ CHỨC .. Những hành động cụ thể với niềm đam mê, tính trách nhiệm liên đới này sẽ lôi kéo hấp thụ thu hút lẫn nhau, tích tụ thành khối quần chúng và trở thành CAO TRÀO như chúng ta đang chứng kiến trước mắt.
Hãy xét thực tế hiện trạng Việt Nam mà xem. . Người dân Viêt nam, nghèo đói, thiếu thốn vật chất hàng thế kỷ, từng thèm thuống từng cái quần cái áo, them thuồng ước mơ những gia dụng tầm thường vớ vẩn như bàn chải cái đồng hồ, điện thoại v.v nay bỗng nhiên trong vài mươi năm, do phong trào kinh tế toàn cầu, sau thời kỷ chiến tranh lạnh, với nhu cầu mở rộng thị trường của các tập đoàn đại bản, những mặt hàng tiêu thụ từng là mơ ước khó đạt, nay ào ạt đẩy vào tràn ngập mặt hàng tiêu thụ, ở mức gần như ngang bằng bất cứ nơi nào trên thế giới, không còn quá cách biệt. Chỉ còn cách biệt là lợi tức khả năng mua sắm mà thôi. Xã hội Viêt Nam là một xã hội tư bản đúng nghĩa nhất của nó với những đặc tính mà Karl Max lên án.
Lại thêm những trò dối trá khoa trương của bọn chống cộng tàn dư của chế độ Ngụy VNCH còn tồn đọng, đặc biệt là tại Mỹ. Bọn này là chuyên gia sản xuất tin đồn vặt vãnh và những bức tranh hoang tưởng không thật về nước Mỹ, một nước Mỹ “vì dân chủ toàn cầu” trong trí tưởng tượng của họ. Cho nên, cả hai thế lực Phỉ -Ngụy này nó đẻ ra hàng loạt những thông tin đã không chuẩn xác lại phi dân chủ, phi dân trí… Nội dung, một bên chỉ đầy đặc những xúi dục và tố Cộng vớ vẩn, và bi quan hóa Viêt Nam, như mỉa mai bóng gió những chuyện vụn vặt trẻ con v.v Bên kia, đối nghịch lại là những tán tụng ngợi ca Đảng, thành quả nhà nước, thi thoảng pha lẫn những nhận định phê phán cực kỳ xu nịnh với những diễn giải vừa lố bịch trơ trẽn, vừa không có tính xác thật của kiến thức căn bản nhất, dù là kinh tế, xã hội hay chính trị. (cứ xét đơn kiện và những đòi hỏi của nhà "đại khoa bảng" Cù Vũ là biết.)
Cả hai chiều thông tin tuyên truyền này, đều xoay vần chung quanh chủ nghĩa Ái quốc, quốc gia dân tộc để tấn công nhau và tâng bốc phe mình. Nó đẻ ra những màn kịch cực kỳ nguy hại như những nhóm “dân chủ xin cho” “dân chủ mong chờ” v.v gồm đủ thành phần đứng đầu bảng xã hội như đám mệnh danh Lão Thành, Giáo Sư Tiến Sĩ, Tăng Lữ, Tu sĩ , Linh Mục, Hòa Thượng v.v với những phát biểu cực kỳ lạc hậu, ấm ớ và ngây ngô phi dân trí, không có một tí kiến thức căn bản về chính trị, về dân chủ, pháp luật v.v.. Tất cả những thứ rác rưởi này, nó tràn ngập từ mặt đất cho đến trên thế giới ảo trang mạng chính qui, những trang tạp bút cá nhân. Thế nhưng những bài viết phản biện, lý giải nhận định vạch ra những bịp bợp phi kiến thức của hai thế lực này lại cực kỳ hiếm hoi. Hiếm hoi không chỉ so với số lượng của cả hai thế lực Phỉ và Ngụy, mà hiếm hoi so ngay với số người đã có nhận thức. Bởi số người nhận thức có được nếu là MƯỜI, thì hành động trách nhiệm dấn thân thực tiễn cũng chỉ mới có MỘT.
Người dân Viêt Nam, những ai có thiện chí muốn đi tìm sự hiều biết đúng đắn cũng không biết xoay vào đâu? Và hệ quả là LÀM SAO MÀ CÓ ĐƯỢC MỘT CAO TRÀO QUẦN CHÚNG khi mà quần chúng không chỉ ngủ vùi mà còn bị xông thuốc mê từ mọi phía, không gian dày đặc độc tố hủy hại dân trí, và KHÔNG AI NỖ LỰC MỞ TOANG CỬA RA và ĐÁNH THỨC HỌ?
Vấn đề hôm nay không còn đơn giản chỉ là dân trí người dân Viêt Nam chưa có, hoặc thấp kém nữa, mà chính là ở chỗ những người biết trước hiểu được chưa NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN để biến sự nhận thức hiểu biết tiên phong của mình thành hành động cụ thể trong tinh thần và nguyên lý trách nhiệm liên đới của mỗi cá nhân trong một xã hội, nhất là trong vị trí TIÊN PHONG không chọn lựa của mình trong hoàn cảnh xã hội đương thời.
Giải pháp nằm trong ý chí quyết định dấn thân hành động thể hiện nhận thức của mỗi cá nhân con người trong xã hội. Không có hành động cụ thể của một cá nhân, từ một cá nhân thì chẳng bao giờ có cao trào trong xã hội. Bởi vì quốc gia, xã hội, hay cao trào v.v chỉ là cái tên để gọi sự tổng hợp của nhiều cá nhân chung sức lại mà thôi. Con số một, mười, một trăm, một triệu v.v chỉ là cái tên để chỉ NHỮNG CON SỐ MỘT GOM CHUNG LẠI.. Không có MỘT, và nhiều cái MỘT HỢP LẠI để khởi đầu làm sao có được MỘT TRIỆU???
================
NKPTC
Cái MẪU SỐ CHUNG đó chính là NHẬN THỨC GIÁ TRỊ TỰ THÂN, tức là nhận thức ra được giá trị quyền làm người, quyền làm công dân của chính mình. Những cái quyền này nó đẻ ra, dựng lên PHƯƠNG TIỆN chính phủ nhà nước. Chứ không phải là nhà nước chính phủ là chủ thể có năng lực tạo ra hạnh phúc ấm no cho xã hội quần chúng như người Việt Nam bị nhồi nhét và tin tưởng hàng bao ngàn năm nay. Và hôm nay, cái MẪU SỐ CHUNG của QUẦN CHÚNG trong các xã hội Tunisia, Ai cập, Syria, Yemen, Bahrian v,v là NGƯỜI DÂN KHÔNG THỪA NHẬN TÍNH CHÍNH ĐÁNG trong vai trò CAI TRỊ của BỌN NHÀ NƯỚC CHÍNH PHỦ NỮA!
Nhưng nhận thức giá trị tự thân này không phải bỗng nhiên “đột biến’ trong quần chúng mà có. Nó lại càng không thể có được chỉ đơn giản từ sự hiều biết rồi ngóng cổ mong đợi và trông chờ từ NGƯỜI KHÁC thực hiện. Nếu ai cũng biết, cũng hiểu, rồi thò thụp vén cửa sổ nhìn ra chung quanh xem có ai “lội nước” đi trước để mình “theo sau” với những lý do, lý cớ rất “chính đáng”, thì một cách hợp lý và thuận lý là CHẲNG BAO GIỜ CÓ CAO TRÀO ĐẤU TRANH nào cả…Bởi cả xã hội, kẻ trong người ngoài, ai cũng thể hiện cái quyền chổng mông ngồi ước mong và NGỒI CHỜ (thời cơ Thiên Địa Nhân) của mình. Nhưng chắc chắn luôn luôn có một cao trào “thường trực” trong xã hội…đó là cao trào “mong chờ người khác” và cao trào “hô hoán người khác đấu tranh.”
Một cao trào đấu tranh dân chủ thật sự nó không bao giờ có thể xảy ra ở một xã hội mà trong đó người dân không có tí hiều biết gì về chính cái quyền , cái giá trị nhân phẩm của chính họ ngoài miếng cơm manh áo; và nó càng không thể xảy ra khi mà ngay cả giới khoa bảng, giới hiểu biết của họ sống trong một nền “triết học dân tộc”- “nhân sinh quan dân tộc”.
Bởi suy luận thật khoa học biện chứng và đối chiếu ngay với thực tại, thì rõ ràng xã hội Việt nam hôm nay người ta đang chạy đua dành giật chen lấn nhau để “ăn cỗ đi trước”; và dĩ nhiên cũng rõ ràng những lãnh vực đòi hỏi phải “lội nước” thì CHẲNG THẤY AI ĐI TRƯỚC CẢ.. tất cả đều chờ “theo sau”.. . Đó là lý do chúng ta chưa thể có, và sẽ KHÔNG THỂ CÓ CAO TRÀO ĐẤU TRANH DÂN CHỦ ĐÚNG ĐẮN và ĐÍCH THẬT. Và thế là mọi người sống trong tâm tưởng của nhà thơ vừa bệ rạc vừa hạ cấp của đất Vị Xuyên trong bài “Chợt Giấc” tức là “chợt tỉnh giấc ngủ”:
Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả
Việc gì mà thức một mình ta ?. ...
Đấy! Cái não trạng và tâm trạng vừa mới có cơ hội tỉnh ra, nhận thức ra… nhưng chợt nghĩ đi nghĩ lại.. dáo dác xem có ai “thức” để “chia gánh nặng” với mình hay không? Dù vậy cũng đành, nhưng cũng không chịu khó cất bước xuống giường, sắn gấu quần xỏ dép để đi quanh xem có ai thật sự đang thức như mình hay không, mà chỉ kịp suy bụng ta ra bụng người , hoặc trong trường hợp này là suy bụng NGƯỜI ra bụng TA rằng “thiên hạ dễ thường đang ngủ cả” để cho mình cái lý cớ chính đáng lăn đùng ra ngủ tiếp một cách êm ái…
Não trạng của quần chúng Viêt Nam và tâm trạng của những người có cơ hội BIẾT và HIỂU trước xã hội của chúng ta hiện nay đúng là như thế đấy! Chúng ta thức tỉnh rồi, nhưng không đi đánh thức người khác, mà khi chỉ cho rằng (hoặc thấy rằng) người khác đang ngủ vùi, rồi bỗng nghĩ lại thấy THỨC TỈNH TRƯỚC thế này, chả biết có ai cùng với ta “chia sẻ bớt gian khồ khó khăn” trong đêm đen gần như tuyệt vọng này hay không, thế thì thiệt thòi quá, …Tội gì mà thức tỉnh, gánh vác một mình… và quyết định NẰM VÙI NGỦ NƯỚNG…hoặc không ngủ lại được… thì lẩn quẩn trong nhà lâu lâu vạch cửa sổ ngó qua khe cửa nhìn ra ngoài NÔN NÓNG, MONG MỎI xem có ai đã thức và đã ra ngoài chưa? Nếu có người ra ngoài rồi ,mà còn ít, thì "chưa phải là thời cơ, chưa chín mùi", cứ chờ ngóng thêm xem có thêm ai ra trước nữa không?
Chúng ta, những người có cơ hội “đột biến” biết được hiểu được, nhưng CHƯA HIỂU hay chưa NHẬN THỨC được rằng bản thân CÁ NHÂN mỗi chúng ta nhận thức, nó mới chỉ là bước đầu của một biến chuyển xã hội, chưa đủ để tiến trình thay đổi có chuyển động lực tác động. Chúng ta còn phải có trách nhiệm liên đới ĐI VẬN ĐỘNG, đánh thức người khác cùng thức tỉnh với mình. Nó tương tự như một khu xóm có trộm hoặc cháy nhà, để bắt trộm hoặc chữa cháy, người nhận ra đầu tiên phải khẩn cấp thét dục đánh thức mọi người cùng bắt trộm hoặc chữa cháy mới có kết quả.
Bởi bất cứ giá trị gì của XÃ HỘI CON NGƯỜI đều phải đặt thành một NỀN, nền Nhân Bản, Nền Tự Do, Nền Công Lý, Nền Dân Chủ , Nền Hạnh Phúc v.v tức có nghĩa GIÁ TRỊ đó là sự cộng hưởng hay sự tổng hợp của đại đa số mà hình thành. Cá nhân mỗi chúng ta KHÔNG THỂ CÓ hạnh phúc, công lý, tự do, dân chủ, công bằng v,v khi những người chung quanh chúng ta KHÔNG CÓ hoặc chưa có. Đó chính là TÍNH LIÊN LẬP của xã hội. Nếu không có tính liên lập xã hội, thì tất cả những cái gì thuộc CON NGƯỜI (chứ không phải thuộc động vật hai chân chỉ có bản năng sinh tồn căn bản,) tức thuộc Ý NIỆM, TINH THẦN như tình yêu, tự hào, tự ái, tự do bình đảng công lý, chân thiện mỹ v.v không cần được đặt ra nữa.
Cho nên lịch sử của nhân loại, và chúng ta hôm nay, đã và đang chứng kiến cái MẪU SỐ CHUNG của QUẦN CHÚNG này, nó luôn luôn được xây dựng từ những hành động vận động đơn lẻ từ NHỮNG CÁ NHÂN TIÊN PHONG, những cá nhân nhận thức trước , nhưng không chỉ đơn giản là giá trị tự thân, mà nhận thức được cả nguyên lý liên lập xã hội, trong đó TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI của mỗi CÁ NHÂN phải thực hiện với xã hội. Nhờ nhận ra nguyên lý LIÊN LẬP của CÁ NHÂN trong XÃ HỘI mà tất cả các CAO TRÀO đều có được tính CAN ĐẢM KIÊN TRÌ không chỉ của cá nhân một mình người vận động, mà còn là của cả một lớp người như một đam mê chân lý; nghĩa là những cá nhân có nhận thức đặt ra được MỤC ĐÍCH cụ thề, để từ đó tiến đến HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ có PHƯƠNG PHÁP và có XẾP ĐẶT TỔ CHỨC .. Những hành động cụ thể với niềm đam mê, tính trách nhiệm liên đới này sẽ lôi kéo hấp thụ thu hút lẫn nhau, tích tụ thành khối quần chúng và trở thành CAO TRÀO như chúng ta đang chứng kiến trước mắt.
Hãy xét thực tế hiện trạng Việt Nam mà xem. . Người dân Viêt nam, nghèo đói, thiếu thốn vật chất hàng thế kỷ, từng thèm thuống từng cái quần cái áo, them thuồng ước mơ những gia dụng tầm thường vớ vẩn như bàn chải cái đồng hồ, điện thoại v.v nay bỗng nhiên trong vài mươi năm, do phong trào kinh tế toàn cầu, sau thời kỷ chiến tranh lạnh, với nhu cầu mở rộng thị trường của các tập đoàn đại bản, những mặt hàng tiêu thụ từng là mơ ước khó đạt, nay ào ạt đẩy vào tràn ngập mặt hàng tiêu thụ, ở mức gần như ngang bằng bất cứ nơi nào trên thế giới, không còn quá cách biệt. Chỉ còn cách biệt là lợi tức khả năng mua sắm mà thôi. Xã hội Viêt Nam là một xã hội tư bản đúng nghĩa nhất của nó với những đặc tính mà Karl Max lên án.
Lại thêm những trò dối trá khoa trương của bọn chống cộng tàn dư của chế độ Ngụy VNCH còn tồn đọng, đặc biệt là tại Mỹ. Bọn này là chuyên gia sản xuất tin đồn vặt vãnh và những bức tranh hoang tưởng không thật về nước Mỹ, một nước Mỹ “vì dân chủ toàn cầu” trong trí tưởng tượng của họ. Cho nên, cả hai thế lực Phỉ -Ngụy này nó đẻ ra hàng loạt những thông tin đã không chuẩn xác lại phi dân chủ, phi dân trí… Nội dung, một bên chỉ đầy đặc những xúi dục và tố Cộng vớ vẩn, và bi quan hóa Viêt Nam, như mỉa mai bóng gió những chuyện vụn vặt trẻ con v.v Bên kia, đối nghịch lại là những tán tụng ngợi ca Đảng, thành quả nhà nước, thi thoảng pha lẫn những nhận định phê phán cực kỳ xu nịnh với những diễn giải vừa lố bịch trơ trẽn, vừa không có tính xác thật của kiến thức căn bản nhất, dù là kinh tế, xã hội hay chính trị. (cứ xét đơn kiện và những đòi hỏi của nhà "đại khoa bảng" Cù Vũ là biết.)
Cả hai chiều thông tin tuyên truyền này, đều xoay vần chung quanh chủ nghĩa Ái quốc, quốc gia dân tộc để tấn công nhau và tâng bốc phe mình. Nó đẻ ra những màn kịch cực kỳ nguy hại như những nhóm “dân chủ xin cho” “dân chủ mong chờ” v.v gồm đủ thành phần đứng đầu bảng xã hội như đám mệnh danh Lão Thành, Giáo Sư Tiến Sĩ, Tăng Lữ, Tu sĩ , Linh Mục, Hòa Thượng v.v với những phát biểu cực kỳ lạc hậu, ấm ớ và ngây ngô phi dân trí, không có một tí kiến thức căn bản về chính trị, về dân chủ, pháp luật v.v.. Tất cả những thứ rác rưởi này, nó tràn ngập từ mặt đất cho đến trên thế giới ảo trang mạng chính qui, những trang tạp bút cá nhân. Thế nhưng những bài viết phản biện, lý giải nhận định vạch ra những bịp bợp phi kiến thức của hai thế lực này lại cực kỳ hiếm hoi. Hiếm hoi không chỉ so với số lượng của cả hai thế lực Phỉ và Ngụy, mà hiếm hoi so ngay với số người đã có nhận thức. Bởi số người nhận thức có được nếu là MƯỜI, thì hành động trách nhiệm dấn thân thực tiễn cũng chỉ mới có MỘT.
Người dân Viêt Nam, những ai có thiện chí muốn đi tìm sự hiều biết đúng đắn cũng không biết xoay vào đâu? Và hệ quả là LÀM SAO MÀ CÓ ĐƯỢC MỘT CAO TRÀO QUẦN CHÚNG khi mà quần chúng không chỉ ngủ vùi mà còn bị xông thuốc mê từ mọi phía, không gian dày đặc độc tố hủy hại dân trí, và KHÔNG AI NỖ LỰC MỞ TOANG CỬA RA và ĐÁNH THỨC HỌ?
Vấn đề hôm nay không còn đơn giản chỉ là dân trí người dân Viêt Nam chưa có, hoặc thấp kém nữa, mà chính là ở chỗ những người biết trước hiểu được chưa NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN để biến sự nhận thức hiểu biết tiên phong của mình thành hành động cụ thể trong tinh thần và nguyên lý trách nhiệm liên đới của mỗi cá nhân trong một xã hội, nhất là trong vị trí TIÊN PHONG không chọn lựa của mình trong hoàn cảnh xã hội đương thời.
Giải pháp nằm trong ý chí quyết định dấn thân hành động thể hiện nhận thức của mỗi cá nhân con người trong xã hội. Không có hành động cụ thể của một cá nhân, từ một cá nhân thì chẳng bao giờ có cao trào trong xã hội. Bởi vì quốc gia, xã hội, hay cao trào v.v chỉ là cái tên để gọi sự tổng hợp của nhiều cá nhân chung sức lại mà thôi. Con số một, mười, một trăm, một triệu v.v chỉ là cái tên để chỉ NHỮNG CON SỐ MỘT GOM CHUNG LẠI.. Không có MỘT, và nhiều cái MỘT HỢP LẠI để khởi đầu làm sao có được MỘT TRIỆU???
================
NKPTC
Hãy tự mình nương tựa chính mình
Minh Trí
Khác với quan điểm của các tín ngưỡng thần quyền nhìn con người bằng con mắt yếu kém với số phận hoàn toàn tùy thuộc vào uy quyền phán xét của Thượng đế hay ân sủng của các thần linh, Đức Phật khẳng định con người là chủ nhân của số phận mình; rằng con người có khả năng hoàn thiện chính mình, rằng hạnh phúc hay khổ đau của con người không do ai ban cho mà do người ấy tự quyết định bằng chính lối sống của mình. Theo kinh nghiệm giác ngộ của Phật1 thì mỗi cá nhân đều có sẵn những tiềm năng vô tận, đáng được vận dụng để tạo lập hạnh phúc cho chính mình hay khiến cho mình trở nên hoàn thiện. Phật gọi các tiềm năng như vậy là tài sản tự nội (ajjhattabhoga) hay năng lực giác ngộ (bodhibala) và khuyên mọi người nỗ lực phát huy. Ngài nêu rõ:
“Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của bậc Hữu học. Thế nào là năm? Tín lực, tàm lực, quý lực, tinh tấn lực, tuệ lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai: ‘Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tín lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tàm lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng hổ thẹn đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, hổ thẹn đối với các pháp ác, bất thiện được thực hiện. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tàm lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là quý lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng sợ hãi đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, sợ hãi đối với các pháp ác, bất thiện được thực hiện. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là quý lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tinh tấn lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tinh tấn lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ lực.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm sức mạnh của bậc Hữu học. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: ‘Ta sẽ thành tựu tín lực, được gọi là hữu học lực… tàm lực… quý lực… tinh tấn lực… ta sẽ thành tựu tuệ lực, được gọi là hữu học lực’. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập”2.
Đề cập về kết quả của việc vận dụng năm sức mạnh này, Đức Phật xác nhận:
“Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là cõi lành. Thế nào là năm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có lòng hổ thẹn, có lòng sợ hãi, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là cõi lành”3.
Phật nói về con người và hạnh phúc của con người thật rõ ràng và thực tế. Con người là chủ nhân ông của chính mình, có đầy đủ tiềm năng hay năng lực để tự kiến tạo hạnh phúc an lạc cho chính mình. Con người không cần chờ mong ân huệ cứu rỗi của Thượng đế hay cầu khẩn bất cứ năng lực siêu nhiên nào ở bên ngoài để giúp cho mình được hạnh phúc an lạc. Thay vào đó, con người cần nhận rõ các tiềm năng vốn có của mình – tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực – và nỗ lực phát triển chúng thì an lạc sẽ đến và ở bên ta.
Tín lực (Saddhà-bala) hay sức mạnh của lòng tin là yếu tố thứ nhất mà con người cần phát huy để thiết lập hạnh phúc an lạc. Đó chính là lòng tin tưởng mạnh mẽ vào sự giác ngộ của Phật, một con người giống như bao người khác đã nỗ lực hoàn thiện chính mình bằng cách phát huy các tiềm năng giác ngộ – giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoát và giải thoát tri kiến đức – trong chính mình và đã tận tâm trao truyền kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người khác vì tin tưởng ở đức năng giác ngộ của mọi người. Tin tưởng ở sự giác ngộ của Phật cũng có nghĩa là tin tưởng ở khả năng giác ngộ của chính mình, vì Phật cũng chỉ là một con người đã đạt đến giác ngộ bằng nghị lực của bản thân. Một niềm tin như vậy là chính đáng, cần được phát huy, vì nó có công năng đánh thức thiện tâm, nuôi dưỡng ý chí giác ngộ, thúc đẩy năng lực tinh cần trong tiến trình thực hành lý tưởng giác ngộ.
Tàm lực (Hiri-bala) hay sức mạnh của lòng hổ thẹn là yếu tố tiếp theo cần được phát huy để thiết lập đời sống hạnh phúc an lạc. Tàm có nghĩa là tâm lý thấy xấu hổ hay cảm thức hổ thẹn về các hành vi xấu ác, bất thiện thuộc thân, khẩu, ý, hoặc đã biểu lộ ra bên ngoài hoặc đang tiềm tàng ở trong tâm thức. Đây là một hình thái tâm thức hiền thiện vốn có sẵn và trôi chảy khá tự nhiên trong mỗi con người. Nó có công năng bảo vệ và duy trì sự an ổn thanh thản trong cơ cấu nhân sinh, vì nó có khả năng làm trong sạch nguồn lực tâm linh của con người nhờ tính năng phản kháng đối với mọi cái xấu ác. Do tính năng của nó, tàm có chức năng giúp con người ngăn tránh mọi động cơ xấu ác, mọi hành vi bất thiện; vì vậy một khi nó được nuôi dưỡng và phát huy mạnh mẽ thì các động cơ xấu ác sẽ được đẩy lùi, được khắc phục, không còn cơ hội để biến thành hành động. Nói cách khác, khi nào tàm có mặt thì khi ấy mọi hành vi của con người sẽ là đạo đức, hiền thiện, không rơi vào xấu ác, bất thiện.
Yếu tố thứ ba là quý lực (Ottappa-bala) hay sức mạnh của lòng sợ hãi về việc vi phạm các điều ác, bất thiện thuộc thân hành, khẩu hành và ý hành. Tương tự như tàm, quý cũng là một dạng tâm lý hiền thiện hiện hữu và vận hành khá tự nhiên trong tâm thức con người. Đây cũng là một hình thái tâm thức có công năng giúp điều chỉnh và hoàn thiện tư cách đạo đức của nhân sinh, vì nó là tâm lý biết lo sợ về hậu quả nguy hại của các động cơ xấu ác, của mọi hành vi bất thiện, có chức năng phản kháng và ngăn tránh mọi điều ác, bất thiện. Vì thế một khi quý được nuôi dưỡng và phát huy thì mọi hành vi của con người sẽ hiền thiện, không xấu ác, đạo đức con người sẽ tăng trưởng và lớn mạnh.
Trong giáo lý đạo Phật, cùng với tàm, quý (tàm quý) được xem là nền tảng của giới hạnh hay nhân trực tiếp của đời sống đạo đức.
Tinh tấn lực (Viriya-bala) hay sức mạnh của sự nỗ lực tinh cần trong lối sống tu học Phật pháp được xem là yếu tố quan trọng thứ tư trong tiến trình thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Theo quan niệm của Phật thì hạnh phúc an lạc là sự vắng mặt các yếu tố gây phiền muộn khổ đau như tham-sân-si hay các hành vi ác, bất thiện thuộc thân, miệng, ý (sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận, tà kiến). Vì vậy, để có được hạnh phúc an lạc thì trước hết con người cần phải nhận diện cho thật rõ về lẽ thiện ác và cần phải quyết tâm dứt bỏ điều ác, nỗ lực làm các việc lành. Đây chính là ý nghĩa căn bản của Chánh tinh tấn(Sammà- vàyàma) được nói đến trong đạo Phật. Ngoài ra, Chánh tinh tấn cũng có nghĩa là nỗ lực vượt qua chính mình trên bước đường tu tập để lần lượt đạt đến mục đích cứu cánh. Theo nghĩa này thì Chánh tinh tấn chính là sự vượt qua mọi tiến bộ đạo đức và tâm linh mà mình đã thực nghiệm được để tiếp tục hướng đến mục đích giải thoát tối hậu. Nhìn chung, người học tu theo pháp của Phật được xem là người luôn luôn tinh cần tinh tấn, tinh tấn nuôi dưỡng đạo đức (giới), tinh tấn phát triển tâm thức (định) và tinh tấn phát huy trí tuệ (tuệ). Do chức năng của nó, tinh tấn được xem như một yếu tố quan trọng được vận dụng xuyên suốt trong tiến trình tu học đạo lý giải thoát của người con Phật. Phật khuyên các học trò mình phát huy Chánh tinh tấn, vì nó là nguồn lực giúp cho con người tiến bộ về đạo đức, tâm linh và trí tuệ, tuần tự đạt đến mục tiêu cứu cánh giải thoát, giác ngộ.
Yếu tố thứ năm và cũng là yếu tố hết sức quan trọng để giúp cho con người tìm thấy hạnh phúc thực sự chính là tuệ lực (Panãnà-bala) hay sức mạnh của sự thấy rõ các pháp đúng như thật (yathàbhùtam pajànàti). Theo quan niệm của đạo Phật thì sở dĩ con người cứ bị khổ đau chi phối, không đạt được hạnh phúc thực sự ấy là bởi thiếu hiểu biết đúng đắn về bản chất của sự sống hay thiếu trí tuệ. Do thiếu trí tuệ hay do mê mờ về bản chất của sự kiện hiện hữu nên con người bị giam hãm mãi trong vòng trầm luân khổ đau bởi những việc làm sai lầm, những hành vi chứa đầy tham-sân-si. Hết thảy mọi thứ trên cuộc đời là vô thường, khổ đau, ta không làm chủ được, nhưng do dục vọng và vô minh, con người không có đủ tỉnh táo và sáng suốt để tiếp nhận và hành xử mọi việc đúng như bản chất của chúng. Do thiếu trí tuệ, con người cứ bị ám ảnh và đẩy đưa qua lại giữa các đối cực có không, hơn thua, được mất giữa cuộc đời; không ngừng rơi vào tham đắm hoặc giận dữ bực phiền đối với mọi thứ thuận duyên hay nghịch ý. Đây chính là lý do khiến con người bị trói chặt trong vòng luẩn quẩn khổ đau, không tìm thấy tự do, hạnh phúc, an lạc. Đức Phật thấy rõ thực trạng yếu kém này của chúng sinh nên khuyên dạy chúng ta phải biết nuôi dưỡng và phát huy trí tuệ.
Trí tuệ được nói đến trong đạo Phật là một loại năng lực tâm thức có khả năng phá vỡ và loại trừ các tập khí tham-sân-si, gốc rễ của mọi mê lầm khổ đau. Nó là hệ quả của lối sống thực hành giới đức và thiền định sâu sắc, có khả năng chặt đứt mọi gốc rễ của khổ đau bởi nó thấy rõ bản chất vô thường, khổ, vô ngã của hết thảy mọi sự kiện hiện hữu, không còn mê lầm, không rơi vào các hành động sai lầm do tham và sân kích động. Nói cách khác, trí tuệ là một kinh nghiệm tâm linh sâu sắc, thấy rõ bản chất bất toại của mọi sự vật và hiện tượng nên không còn thích thú ôm ấp hoặc đeo bám vào những gì hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nó là năng lực tâm linh có khả năng buông bỏ mạnh mẽ, hướng tâm thức vượt ra ngoài mọi đối cực, đạt đến tự do, giải thoát mà thuật ngữ đạo Phật gọi là “có khả năng đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”.
Nhìn chung, Đức Phật khuyên chúng ta phải biết nuôi dưỡng và phát huy tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực, vì chúng là các yếu tố có khả năng giúp cho chúng ta đạt đến hoàn thiện, đạt đến tự do, giải thoát, không còn bị khổ đau chi phối. Chúng là các sức mạnh tự nội, có khả năng điều chỉnh và hoàn thiện nhân tính, hướng con người đạt đến hạnh phúc tối hậu, hoàn thành mục tiêu cứu cánh của nhân sinh. Theo lời dạy của Phật thì con người không cần phải tìm kiếm ở đâu xa các nguồn lực để hoàn thiện chính mình hay để thiết lập hạnh phúc an lạc. Con người chỉ cần nhìn vào chính mình thì thấy ngay các tiềm năng trọng yếu đang chờ mình khai sáng và vận dụng. Đó chính là tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực, có khả năng giúp cho mỗi người hoàn thiện giới đức, tâm đức, tuệ đức, thành tựu mục đích giải thoát và giải thoát tri kiến. Một trong những lời nhắn nhủ gần như cuối cùng của Ngài trước lúc nhập Niết-bàn, Đức Phật khuyên các đệ tử: “Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một cái gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác”4. Lời nhắn nhủ quan trọng ấy của bậc Đạo sư chính là lời khuyên nhắc mọi người phát huy năng lực giác ngộ vốn có trong chính mình, vì đó chính là chỗ nương tựa vững chắc nhất cho mục tiêu giác ngộ của mỗi người, và vì đó chính là Chánh pháp mà chư Phật muốn chỉ bày cho hết thảy chúng sinh.
Chú thích:
Kinh Chưa được nghe, Tăng Chi Bộ.
Kinh Rộng rãi, Tăng Chi Bộ.
Kinh Khổ, Tăng Chi Bộ.
Kinh Đại bát Niết-bàn, Trường Bộ.
“Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của bậc Hữu học. Thế nào là năm? Tín lực, tàm lực, quý lực, tinh tấn lực, tuệ lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai: ‘Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tín lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tàm lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng hổ thẹn đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, hổ thẹn đối với các pháp ác, bất thiện được thực hiện. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tàm lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là quý lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng sợ hãi đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, sợ hãi đối với các pháp ác, bất thiện được thực hiện. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là quý lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tinh tấn lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tinh tấn lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ lực.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm sức mạnh của bậc Hữu học. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: ‘Ta sẽ thành tựu tín lực, được gọi là hữu học lực… tàm lực… quý lực… tinh tấn lực… ta sẽ thành tựu tuệ lực, được gọi là hữu học lực’. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập”2.
Đề cập về kết quả của việc vận dụng năm sức mạnh này, Đức Phật xác nhận:
“Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là cõi lành. Thế nào là năm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có lòng hổ thẹn, có lòng sợ hãi, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là cõi lành”3.
Phật nói về con người và hạnh phúc của con người thật rõ ràng và thực tế. Con người là chủ nhân ông của chính mình, có đầy đủ tiềm năng hay năng lực để tự kiến tạo hạnh phúc an lạc cho chính mình. Con người không cần chờ mong ân huệ cứu rỗi của Thượng đế hay cầu khẩn bất cứ năng lực siêu nhiên nào ở bên ngoài để giúp cho mình được hạnh phúc an lạc. Thay vào đó, con người cần nhận rõ các tiềm năng vốn có của mình – tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực – và nỗ lực phát triển chúng thì an lạc sẽ đến và ở bên ta.
Tín lực (Saddhà-bala) hay sức mạnh của lòng tin là yếu tố thứ nhất mà con người cần phát huy để thiết lập hạnh phúc an lạc. Đó chính là lòng tin tưởng mạnh mẽ vào sự giác ngộ của Phật, một con người giống như bao người khác đã nỗ lực hoàn thiện chính mình bằng cách phát huy các tiềm năng giác ngộ – giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoát và giải thoát tri kiến đức – trong chính mình và đã tận tâm trao truyền kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người khác vì tin tưởng ở đức năng giác ngộ của mọi người. Tin tưởng ở sự giác ngộ của Phật cũng có nghĩa là tin tưởng ở khả năng giác ngộ của chính mình, vì Phật cũng chỉ là một con người đã đạt đến giác ngộ bằng nghị lực của bản thân. Một niềm tin như vậy là chính đáng, cần được phát huy, vì nó có công năng đánh thức thiện tâm, nuôi dưỡng ý chí giác ngộ, thúc đẩy năng lực tinh cần trong tiến trình thực hành lý tưởng giác ngộ.
Tàm lực (Hiri-bala) hay sức mạnh của lòng hổ thẹn là yếu tố tiếp theo cần được phát huy để thiết lập đời sống hạnh phúc an lạc. Tàm có nghĩa là tâm lý thấy xấu hổ hay cảm thức hổ thẹn về các hành vi xấu ác, bất thiện thuộc thân, khẩu, ý, hoặc đã biểu lộ ra bên ngoài hoặc đang tiềm tàng ở trong tâm thức. Đây là một hình thái tâm thức hiền thiện vốn có sẵn và trôi chảy khá tự nhiên trong mỗi con người. Nó có công năng bảo vệ và duy trì sự an ổn thanh thản trong cơ cấu nhân sinh, vì nó có khả năng làm trong sạch nguồn lực tâm linh của con người nhờ tính năng phản kháng đối với mọi cái xấu ác. Do tính năng của nó, tàm có chức năng giúp con người ngăn tránh mọi động cơ xấu ác, mọi hành vi bất thiện; vì vậy một khi nó được nuôi dưỡng và phát huy mạnh mẽ thì các động cơ xấu ác sẽ được đẩy lùi, được khắc phục, không còn cơ hội để biến thành hành động. Nói cách khác, khi nào tàm có mặt thì khi ấy mọi hành vi của con người sẽ là đạo đức, hiền thiện, không rơi vào xấu ác, bất thiện.
Yếu tố thứ ba là quý lực (Ottappa-bala) hay sức mạnh của lòng sợ hãi về việc vi phạm các điều ác, bất thiện thuộc thân hành, khẩu hành và ý hành. Tương tự như tàm, quý cũng là một dạng tâm lý hiền thiện hiện hữu và vận hành khá tự nhiên trong tâm thức con người. Đây cũng là một hình thái tâm thức có công năng giúp điều chỉnh và hoàn thiện tư cách đạo đức của nhân sinh, vì nó là tâm lý biết lo sợ về hậu quả nguy hại của các động cơ xấu ác, của mọi hành vi bất thiện, có chức năng phản kháng và ngăn tránh mọi điều ác, bất thiện. Vì thế một khi quý được nuôi dưỡng và phát huy thì mọi hành vi của con người sẽ hiền thiện, không xấu ác, đạo đức con người sẽ tăng trưởng và lớn mạnh.
Trong giáo lý đạo Phật, cùng với tàm, quý (tàm quý) được xem là nền tảng của giới hạnh hay nhân trực tiếp của đời sống đạo đức.
Tinh tấn lực (Viriya-bala) hay sức mạnh của sự nỗ lực tinh cần trong lối sống tu học Phật pháp được xem là yếu tố quan trọng thứ tư trong tiến trình thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Theo quan niệm của Phật thì hạnh phúc an lạc là sự vắng mặt các yếu tố gây phiền muộn khổ đau như tham-sân-si hay các hành vi ác, bất thiện thuộc thân, miệng, ý (sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận, tà kiến). Vì vậy, để có được hạnh phúc an lạc thì trước hết con người cần phải nhận diện cho thật rõ về lẽ thiện ác và cần phải quyết tâm dứt bỏ điều ác, nỗ lực làm các việc lành. Đây chính là ý nghĩa căn bản của Chánh tinh tấn(Sammà- vàyàma) được nói đến trong đạo Phật. Ngoài ra, Chánh tinh tấn cũng có nghĩa là nỗ lực vượt qua chính mình trên bước đường tu tập để lần lượt đạt đến mục đích cứu cánh. Theo nghĩa này thì Chánh tinh tấn chính là sự vượt qua mọi tiến bộ đạo đức và tâm linh mà mình đã thực nghiệm được để tiếp tục hướng đến mục đích giải thoát tối hậu. Nhìn chung, người học tu theo pháp của Phật được xem là người luôn luôn tinh cần tinh tấn, tinh tấn nuôi dưỡng đạo đức (giới), tinh tấn phát triển tâm thức (định) và tinh tấn phát huy trí tuệ (tuệ). Do chức năng của nó, tinh tấn được xem như một yếu tố quan trọng được vận dụng xuyên suốt trong tiến trình tu học đạo lý giải thoát của người con Phật. Phật khuyên các học trò mình phát huy Chánh tinh tấn, vì nó là nguồn lực giúp cho con người tiến bộ về đạo đức, tâm linh và trí tuệ, tuần tự đạt đến mục tiêu cứu cánh giải thoát, giác ngộ.
Yếu tố thứ năm và cũng là yếu tố hết sức quan trọng để giúp cho con người tìm thấy hạnh phúc thực sự chính là tuệ lực (Panãnà-bala) hay sức mạnh của sự thấy rõ các pháp đúng như thật (yathàbhùtam pajànàti). Theo quan niệm của đạo Phật thì sở dĩ con người cứ bị khổ đau chi phối, không đạt được hạnh phúc thực sự ấy là bởi thiếu hiểu biết đúng đắn về bản chất của sự sống hay thiếu trí tuệ. Do thiếu trí tuệ hay do mê mờ về bản chất của sự kiện hiện hữu nên con người bị giam hãm mãi trong vòng trầm luân khổ đau bởi những việc làm sai lầm, những hành vi chứa đầy tham-sân-si. Hết thảy mọi thứ trên cuộc đời là vô thường, khổ đau, ta không làm chủ được, nhưng do dục vọng và vô minh, con người không có đủ tỉnh táo và sáng suốt để tiếp nhận và hành xử mọi việc đúng như bản chất của chúng. Do thiếu trí tuệ, con người cứ bị ám ảnh và đẩy đưa qua lại giữa các đối cực có không, hơn thua, được mất giữa cuộc đời; không ngừng rơi vào tham đắm hoặc giận dữ bực phiền đối với mọi thứ thuận duyên hay nghịch ý. Đây chính là lý do khiến con người bị trói chặt trong vòng luẩn quẩn khổ đau, không tìm thấy tự do, hạnh phúc, an lạc. Đức Phật thấy rõ thực trạng yếu kém này của chúng sinh nên khuyên dạy chúng ta phải biết nuôi dưỡng và phát huy trí tuệ.
Trí tuệ được nói đến trong đạo Phật là một loại năng lực tâm thức có khả năng phá vỡ và loại trừ các tập khí tham-sân-si, gốc rễ của mọi mê lầm khổ đau. Nó là hệ quả của lối sống thực hành giới đức và thiền định sâu sắc, có khả năng chặt đứt mọi gốc rễ của khổ đau bởi nó thấy rõ bản chất vô thường, khổ, vô ngã của hết thảy mọi sự kiện hiện hữu, không còn mê lầm, không rơi vào các hành động sai lầm do tham và sân kích động. Nói cách khác, trí tuệ là một kinh nghiệm tâm linh sâu sắc, thấy rõ bản chất bất toại của mọi sự vật và hiện tượng nên không còn thích thú ôm ấp hoặc đeo bám vào những gì hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nó là năng lực tâm linh có khả năng buông bỏ mạnh mẽ, hướng tâm thức vượt ra ngoài mọi đối cực, đạt đến tự do, giải thoát mà thuật ngữ đạo Phật gọi là “có khả năng đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”.
Nhìn chung, Đức Phật khuyên chúng ta phải biết nuôi dưỡng và phát huy tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực, vì chúng là các yếu tố có khả năng giúp cho chúng ta đạt đến hoàn thiện, đạt đến tự do, giải thoát, không còn bị khổ đau chi phối. Chúng là các sức mạnh tự nội, có khả năng điều chỉnh và hoàn thiện nhân tính, hướng con người đạt đến hạnh phúc tối hậu, hoàn thành mục tiêu cứu cánh của nhân sinh. Theo lời dạy của Phật thì con người không cần phải tìm kiếm ở đâu xa các nguồn lực để hoàn thiện chính mình hay để thiết lập hạnh phúc an lạc. Con người chỉ cần nhìn vào chính mình thì thấy ngay các tiềm năng trọng yếu đang chờ mình khai sáng và vận dụng. Đó chính là tín lực, tàm lực, quý lực, tấn lực, tuệ lực, có khả năng giúp cho mỗi người hoàn thiện giới đức, tâm đức, tuệ đức, thành tựu mục đích giải thoát và giải thoát tri kiến. Một trong những lời nhắn nhủ gần như cuối cùng của Ngài trước lúc nhập Niết-bàn, Đức Phật khuyên các đệ tử: “Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một cái gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác”4. Lời nhắn nhủ quan trọng ấy của bậc Đạo sư chính là lời khuyên nhắc mọi người phát huy năng lực giác ngộ vốn có trong chính mình, vì đó chính là chỗ nương tựa vững chắc nhất cho mục tiêu giác ngộ của mỗi người, và vì đó chính là Chánh pháp mà chư Phật muốn chỉ bày cho hết thảy chúng sinh.
Chú thích:
Kinh Chưa được nghe, Tăng Chi Bộ.
Kinh Rộng rãi, Tăng Chi Bộ.
Kinh Khổ, Tăng Chi Bộ.
Kinh Đại bát Niết-bàn, Trường Bộ.
Luân xa qua quan niệm Cảm xạ
Để thực hành tốt phép luyện Năng lượng Cảm xạ, cần có sự hiểu biết chu đáo về nguyên lý năng lượng của con người. Sự hiểu biết chung này không những cho phép bạn biết được nhiều điều mà người thường không hiểu được, mà còn giúp bạn thực hành được hoàn hảo. Trong các lớp học về nghiên cứu và ứng dụng Năng lượng Cảm xạ học chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các khu vực màu sắc trong đó mỗi khu vực có liên quan mật thiết đến các luân xa. Chúng tôi cố gắng đưa đến cho bạn ý niệm về “các cơ quan năng lượng” kỳ diệu này.
Người ta nói : các luân xa là những cánh cửa của cơ thể con người mở ra vũ trụ.
Qua các cửa đó, chúng ta nhận một cách có ý thức, cái năng lượng sống cần thiết cho chúng ta.
Chakra, một từ tiếng Phạn, là bánh xe, bao hàm ý nghĩa chúng hơi tròn, tùy lúc chúng có khả năng quay, do vậy chúng liên quan đến hệ tuần hoàn.
Các chakra được trình bày như những luồng xoáy rất nhanh. Chúng có hình thu như những chiếc đĩa nhỏ mà “miệng” đĩa ở trên bề mặt của da.
Những “luồng xoáy năng lượng sống” đó có rất nhiều trên các cơ quan chủ yếu của cơ thể và các điểm hội tụ nhiều dây thần kinh. Chúng tương ứng với các điểm châm cứu.
Trong chữa bệnh bằng Năng lượng Cảm xạ, việc hiểu rõ bảy luân xa chính là điều quan trọng (vẫn là con số bảy).
Cơ thể con người có bảy luân xa chính nằm trên một cột trung tâm mà năng lượng bao quanh nó chứa ở phía dưới của cột sống. Cái đường thẳng đó, cái kênh đó, nhận năng lượng Ida, năng lượng âm, vàPingala, năng lượng dương, tương ứng với hai lực trái ngược nhau nhưng thống nhất trong Suchuma : đó là nước và lửa, mặt trăng và mặt trời, bóng tối và ánh sáng v…v…
Cái năng lượng trú ngụ ở phía dưới của cột sống là Kundalini. Nó đi lên theo các kênh dẫn giống như những cành của Cây đời Hormes và cho phép các luân xa khác nhau nảy nở và hoàn thành các chức năng vật chất, tâm thần và phi giác quan của chúng.
Kundalini đi lên từ phía dưới luân xa Mulashara đến luân xa Brahmaranda, tương ứng với ngọn lửa thần hiện hữu trong con người, với hòn đá thử vàng và Ngôi sao Compost.
Để Kundalini – đột ngột bị chìm đắm trong ngọn lửa – ánh sáng chết người và phải gánh chịu một sự chiếu sáng có sức mạnh khủng khiếp.
Việc khai mở đi lên của Kundalini phải đúng lúc, thông qua sự luyện tập thận trọng và tuần tự.
Trên bình diện thể chất, một nhà thể thao chỉ có tham gia các cuộc thi ở trình độ cao để đạt tới các đỉnh điểm và phá các kỷ lục sau sự luyện tập lâu dài và nghiêm túc. Một sự luyện tập quá tải, một sự vội vã thiếu kiên nhẫn sẽ dẫn đến tai nạn có thể làm tê liệt lâu dài cơ thể.
Kinh tuyến giữa chạy dọc theo mặt trước cơ thể gọi là Mạch Nhâm hay còn gọi là Mạch Cảm nhận. Mạch này mang tính Âm, tính Nữ, chạy từ một điểm nằm giữa hậu môn và xương mu. Nó chạy dọc mặt trước của cơ thể từ bụng qua lồng ngực và kết thúc ở một điểm nằm giữa cằm và môi dưới.
Mặt sau của cơ thể có một kinh tuyến nằm giữa cơ thể gọi là Mạch Đốc, hay Mạch Chỉ huy. Mạch này mang tính Dương, tính Nam, xuất phát từ phía sau hậu môn, ở đỉnh xương cùng, theo cột sống đi lên vùng gáy và não bộ rồi kết thúc giữa hai răng cửa. Sự việc như là con người chúng ta có một vòng tròn bao quanh cơ thể đi từ mặt trước đến mặt sau; mặt Âm (bụng) chuyển sang mặt Dương (lưng) trong khoảng một ngày đêm (độ dài 24 giờ) ngày chuyển thành đêm và đêm chuyển thành ngày. Hai đường kinh tuyến ấy, mà người ta còn gọi là hai mạch Huyền Diệu, vừa mang tính tuần hoàn, vừa là cái cột trung tâm của năng lượng, trên đó có bảy luân xa chính.
Bảy luân xa này có vô số chức năng và thiên hướng rất tinh tế. Vì thế mô tả và giải thích chúng cũng không khác gì muốn nhét con gà vào trong quả trứng gà ! Tuy nhiên ta có thể tiếp cận chúng với sự thận trọng và khiêm tốn. Điều cần phải biết là các luân xa vừa là những nguồn năng lượng nhưng cũng vừa là các trạm chuyển tiếp giữa năng lượng bản thân con người và năng lượng của toàn vũ trụ. Khả năng tiếp nhận năng lượng của chúng vươn đến tận các thiên thể xa xôi nhất, khả năng tác động của chúng mở rộng đến từ cơ quan con người chúng ta. Chúng có tầm quan trọng đến chừng nào đối với con người ! Tuy gắn liền với thể vật chất và thể năng lượng của mỗi sự việc và mọi sinh vật, các luân xa cũng là biểu hiện của tâm linh. Chúng là hình ảnh của thiên nhiên cùng liên kết mọi bình diện, chúng là nơi linh thiêng tại đó các hiện tượng của thế giới vật chất và tinh thần đan xen nhau. Có thể nói, trong cơ thể con người, những gì thuộc về vật chất mà gắn được với thể tinh thần là đều qua các luân xa. Và cũng nhờ các luân xa mà các bình diện cao cấp của tâm linh được thể hiện trong thực tiễn sinh học của con người.
Khi thực hành Năng lượng Cảm xạ, tất nhiên chúng ta có thể sử dụng các luân xa đó, dù đó là luân xa của bản thân ta hay luân xa của người bệnh. Trong các lớp học của chúng tôi, thời điểm cảm động nhất chắc chắn là lúc các học viên luyện rung động sóng từng khu vực. Mỗi khu vực rung động có từng tính chất và sóng hoàn toàn khác nhau do đó sự thể hiện của mỗi người có đặc thù riêng.
Thí dụ : Có người khi rung động sóng ở khu vực màu vàng, nếu bản thân tích cực người đó có cảm giác lạc quan yêu đời ngược lại có người tiêu cực buồn phiền bi quan thậm chí bật khóc một cách vô cớ hoặc khi rung động sóng vô thức ở khu vực màu xanh lục (vùng ngực), trong trạng thái yên lặng, tĩnh tâm, bình tĩnh, thư giãn, tâm trí càng rỗng càng tốt, ở đa số các trường hợp, người ta quan sát được nét mặt họ nhanh chóng biểu hiện vẻ thanh thản, nhưng không ngăn nổi các giọt lệ. Đừng tưởng đó là các giọt lệ sầu bi ! Ngược lại, đó là một tình cảm dịu dàng tiềm ẩn nay có dịp bộc phát mà từ trước đến nay họ chưa hề cảm nhận bao giờ, một tình thương bao trùm lấy họ trong bầu ánh sáng ấm áp và thanh bình. Lúc đó họ không phải là một mà là hai, họ có thể phân biệt được bản thể vật chất và sự tồn tại của bản thể ý thức, và đồng thời cảm nhận được họ cả hai đều ở trong khuôn khổ của tình yêu vũ trụ. Ở cấp độ có thể hòa đồng (liên thông) như vậy, người thầy chữa bệnh bằng NLCX hiển nhiên đã tạo được cho mình những khả năng và phương cách đáng kể để tác động đến người bệnh.
Người ta nói : các luân xa là những cánh cửa của cơ thể con người mở ra vũ trụ.
Qua các cửa đó, chúng ta nhận một cách có ý thức, cái năng lượng sống cần thiết cho chúng ta.
Chakra, một từ tiếng Phạn, là bánh xe, bao hàm ý nghĩa chúng hơi tròn, tùy lúc chúng có khả năng quay, do vậy chúng liên quan đến hệ tuần hoàn.
Các chakra được trình bày như những luồng xoáy rất nhanh. Chúng có hình thu như những chiếc đĩa nhỏ mà “miệng” đĩa ở trên bề mặt của da.
Những “luồng xoáy năng lượng sống” đó có rất nhiều trên các cơ quan chủ yếu của cơ thể và các điểm hội tụ nhiều dây thần kinh. Chúng tương ứng với các điểm châm cứu.
Trong chữa bệnh bằng Năng lượng Cảm xạ, việc hiểu rõ bảy luân xa chính là điều quan trọng (vẫn là con số bảy).
Cơ thể con người có bảy luân xa chính nằm trên một cột trung tâm mà năng lượng bao quanh nó chứa ở phía dưới của cột sống. Cái đường thẳng đó, cái kênh đó, nhận năng lượng Ida, năng lượng âm, vàPingala, năng lượng dương, tương ứng với hai lực trái ngược nhau nhưng thống nhất trong Suchuma : đó là nước và lửa, mặt trăng và mặt trời, bóng tối và ánh sáng v…v…
Cái năng lượng trú ngụ ở phía dưới của cột sống là Kundalini. Nó đi lên theo các kênh dẫn giống như những cành của Cây đời Hormes và cho phép các luân xa khác nhau nảy nở và hoàn thành các chức năng vật chất, tâm thần và phi giác quan của chúng.
Kundalini đi lên từ phía dưới luân xa Mulashara đến luân xa Brahmaranda, tương ứng với ngọn lửa thần hiện hữu trong con người, với hòn đá thử vàng và Ngôi sao Compost.
Để Kundalini – đột ngột bị chìm đắm trong ngọn lửa – ánh sáng chết người và phải gánh chịu một sự chiếu sáng có sức mạnh khủng khiếp.
Việc khai mở đi lên của Kundalini phải đúng lúc, thông qua sự luyện tập thận trọng và tuần tự.
Trên bình diện thể chất, một nhà thể thao chỉ có tham gia các cuộc thi ở trình độ cao để đạt tới các đỉnh điểm và phá các kỷ lục sau sự luyện tập lâu dài và nghiêm túc. Một sự luyện tập quá tải, một sự vội vã thiếu kiên nhẫn sẽ dẫn đến tai nạn có thể làm tê liệt lâu dài cơ thể.
Kinh tuyến giữa chạy dọc theo mặt trước cơ thể gọi là Mạch Nhâm hay còn gọi là Mạch Cảm nhận. Mạch này mang tính Âm, tính Nữ, chạy từ một điểm nằm giữa hậu môn và xương mu. Nó chạy dọc mặt trước của cơ thể từ bụng qua lồng ngực và kết thúc ở một điểm nằm giữa cằm và môi dưới.
Mặt sau của cơ thể có một kinh tuyến nằm giữa cơ thể gọi là Mạch Đốc, hay Mạch Chỉ huy. Mạch này mang tính Dương, tính Nam, xuất phát từ phía sau hậu môn, ở đỉnh xương cùng, theo cột sống đi lên vùng gáy và não bộ rồi kết thúc giữa hai răng cửa. Sự việc như là con người chúng ta có một vòng tròn bao quanh cơ thể đi từ mặt trước đến mặt sau; mặt Âm (bụng) chuyển sang mặt Dương (lưng) trong khoảng một ngày đêm (độ dài 24 giờ) ngày chuyển thành đêm và đêm chuyển thành ngày. Hai đường kinh tuyến ấy, mà người ta còn gọi là hai mạch Huyền Diệu, vừa mang tính tuần hoàn, vừa là cái cột trung tâm của năng lượng, trên đó có bảy luân xa chính.
Bảy luân xa này có vô số chức năng và thiên hướng rất tinh tế. Vì thế mô tả và giải thích chúng cũng không khác gì muốn nhét con gà vào trong quả trứng gà ! Tuy nhiên ta có thể tiếp cận chúng với sự thận trọng và khiêm tốn. Điều cần phải biết là các luân xa vừa là những nguồn năng lượng nhưng cũng vừa là các trạm chuyển tiếp giữa năng lượng bản thân con người và năng lượng của toàn vũ trụ. Khả năng tiếp nhận năng lượng của chúng vươn đến tận các thiên thể xa xôi nhất, khả năng tác động của chúng mở rộng đến từ cơ quan con người chúng ta. Chúng có tầm quan trọng đến chừng nào đối với con người ! Tuy gắn liền với thể vật chất và thể năng lượng của mỗi sự việc và mọi sinh vật, các luân xa cũng là biểu hiện của tâm linh. Chúng là hình ảnh của thiên nhiên cùng liên kết mọi bình diện, chúng là nơi linh thiêng tại đó các hiện tượng của thế giới vật chất và tinh thần đan xen nhau. Có thể nói, trong cơ thể con người, những gì thuộc về vật chất mà gắn được với thể tinh thần là đều qua các luân xa. Và cũng nhờ các luân xa mà các bình diện cao cấp của tâm linh được thể hiện trong thực tiễn sinh học của con người.
Khi thực hành Năng lượng Cảm xạ, tất nhiên chúng ta có thể sử dụng các luân xa đó, dù đó là luân xa của bản thân ta hay luân xa của người bệnh. Trong các lớp học của chúng tôi, thời điểm cảm động nhất chắc chắn là lúc các học viên luyện rung động sóng từng khu vực. Mỗi khu vực rung động có từng tính chất và sóng hoàn toàn khác nhau do đó sự thể hiện của mỗi người có đặc thù riêng.
Thí dụ : Có người khi rung động sóng ở khu vực màu vàng, nếu bản thân tích cực người đó có cảm giác lạc quan yêu đời ngược lại có người tiêu cực buồn phiền bi quan thậm chí bật khóc một cách vô cớ hoặc khi rung động sóng vô thức ở khu vực màu xanh lục (vùng ngực), trong trạng thái yên lặng, tĩnh tâm, bình tĩnh, thư giãn, tâm trí càng rỗng càng tốt, ở đa số các trường hợp, người ta quan sát được nét mặt họ nhanh chóng biểu hiện vẻ thanh thản, nhưng không ngăn nổi các giọt lệ. Đừng tưởng đó là các giọt lệ sầu bi ! Ngược lại, đó là một tình cảm dịu dàng tiềm ẩn nay có dịp bộc phát mà từ trước đến nay họ chưa hề cảm nhận bao giờ, một tình thương bao trùm lấy họ trong bầu ánh sáng ấm áp và thanh bình. Lúc đó họ không phải là một mà là hai, họ có thể phân biệt được bản thể vật chất và sự tồn tại của bản thể ý thức, và đồng thời cảm nhận được họ cả hai đều ở trong khuôn khổ của tình yêu vũ trụ. Ở cấp độ có thể hòa đồng (liên thông) như vậy, người thầy chữa bệnh bằng NLCX hiển nhiên đã tạo được cho mình những khả năng và phương cách đáng kể để tác động đến người bệnh.
Cần nói rõ thêm là các luân xa có sự liên hệ chặt chẽ với các hình dạng , màu sắc và cả nốt nhạc. Về phương diện này cần hết sức thận trọng khi khẳng định một điều gì. Thật vậy, truyền thống Ấn Độ có mô tả về các luân xa của những người có trình độ tâm linh cao. Muốn rằng các luân xa của chúng ta bằng bất cứ giá nào cũng phải được vậy thì quả là một sự xúc phạm đến lương tri. Tại sao luân xa này hay luân xa nọ lại có màu vàng hay màu đỏ. Cũng như màu sắc của hào quang, màu sắc của các luân xa rất phong phú và thường biến đổi. Chúng ta biết rằng có mối quan hệ giữa các luân xa và màu sắc, cũng như có một quan hệ giữa các cơ quan của cơ thể con người với màu sắc, nhưng điều này cũng không nói lên được điều gì, trừ mối quan hệ sau : muốn có quyền năng lớn phải có trình độ cảm nhận cao. Thí dụ : như chúng ta đã biết Tim có mối quan hệ với màu xanh lục. Nhưng một người nào đó có vấn đề về Tim vẫn có thể mặc quần áo màu xanh lục, sơn tường nhà mình bằng màu xanh lục và đồng thời thích tất cả những gì là màu xanh, và cảm thấy dễ chịu khi nhìn thấy cỏ xanh hay một cây xanh !
Trong lĩnh vực này không nên có kết luận vội vàng và giữ những nguyên tắc cố định. Thay vì hướng dẫn các học viên cảm xạ rằng một luân xa nào đó chỉ hoạt động tốt khi thấy màu xanh lục, xanh da trời hay màu vàng, với phương pháp rung động sóng chúng tôi tin tưởng rằng sẽ vô cùng có ích và hiệu quả khi hướng dẫn cho các học viên cảm xạ luyện tập để tự họ nâng cao được trình độ cảm nhận của các luân xa của họ – và kinh nghiệm cho chúng tôi thấy điều này là đúng. Nhận thức trên cũng đúng khi xem xét vấn đề hình dạng và vấn đề cộng hưởng với âm thanh của các luân xa. Những người da đỏ thường đọc các câu thần chú một loại câu khấn thiêng liêng, trong đó phổ biến nhất là câu tụng Ạ-ÔM là từ đầu của câu chú có liên hệ đến luân xa số 7. Khi ta “hát” âm Ạ-ÔM, không có nốt nhạc nào tương ứng với âm đó. Mỗi người lại đều có một tần số, một rung động riêng được thể hiện khi phát âm từ ÔM. Đối với người này, chẳng hạn đó là nốt MI, với người kia là nốt ĐÔ và người thứ ba là nốt FA thăng, ai mà biết được ? Điều luôn cần phải nhớ là vũ trụ thường xuyên tiến hóa. Không có gì là cứng ngắc, mọi thứ đều thay đổi, đều chuyển hóa không ngừng, do vậy mọi sự đều chỉ là tương đối. Ở đây chúng tôi trang bị cho các bạn một số kiến thức cơ bản để nắm được các luân xa trong đúng khuôn khổ của chúng, nắm được khuôn khổ của vũ trụ tinh tế chứ không phải để cho khuôn khổ ảo của các hình ảnh mà “những người am hiểu” áp đặt lên chúng ta. Phải nói nhờ có cảm xạ, nhờ vào những công cụ của cảm xạ nhất là cây đũa Michel mà bạn có thể dễ dàng tìm thấy những qui luật của sự rung động sóng, qua đó bạn rút ngắn được thời gian tìm kiếm những bí ẩn của cơ thể chính chúng mình.
Để kết thúc, cần nói thêm rằng rằng kích thước và sóng rung động của mỗi luân xa là rất biến động và thay đổi thường xuyên, tùy theo trình độ thăng tiến của tâm linh chúng ta, tùy theo sức khỏe, trạng thái cảm xúc của chúng ta và cũng tuỳ theo mối quan hệ của chúng ta với các sinh vật và địa điểm, và sau cùng với dụng cụ của cảm xạ sẽ giúp cho chúng ta nắm được về ý thức vũ trụ và khả năng cảm thụ các rung động trong mỗi chúng ta.
Dư Quang Châu
Trong lĩnh vực này không nên có kết luận vội vàng và giữ những nguyên tắc cố định. Thay vì hướng dẫn các học viên cảm xạ rằng một luân xa nào đó chỉ hoạt động tốt khi thấy màu xanh lục, xanh da trời hay màu vàng, với phương pháp rung động sóng chúng tôi tin tưởng rằng sẽ vô cùng có ích và hiệu quả khi hướng dẫn cho các học viên cảm xạ luyện tập để tự họ nâng cao được trình độ cảm nhận của các luân xa của họ – và kinh nghiệm cho chúng tôi thấy điều này là đúng. Nhận thức trên cũng đúng khi xem xét vấn đề hình dạng và vấn đề cộng hưởng với âm thanh của các luân xa. Những người da đỏ thường đọc các câu thần chú một loại câu khấn thiêng liêng, trong đó phổ biến nhất là câu tụng Ạ-ÔM là từ đầu của câu chú có liên hệ đến luân xa số 7. Khi ta “hát” âm Ạ-ÔM, không có nốt nhạc nào tương ứng với âm đó. Mỗi người lại đều có một tần số, một rung động riêng được thể hiện khi phát âm từ ÔM. Đối với người này, chẳng hạn đó là nốt MI, với người kia là nốt ĐÔ và người thứ ba là nốt FA thăng, ai mà biết được ? Điều luôn cần phải nhớ là vũ trụ thường xuyên tiến hóa. Không có gì là cứng ngắc, mọi thứ đều thay đổi, đều chuyển hóa không ngừng, do vậy mọi sự đều chỉ là tương đối. Ở đây chúng tôi trang bị cho các bạn một số kiến thức cơ bản để nắm được các luân xa trong đúng khuôn khổ của chúng, nắm được khuôn khổ của vũ trụ tinh tế chứ không phải để cho khuôn khổ ảo của các hình ảnh mà “những người am hiểu” áp đặt lên chúng ta. Phải nói nhờ có cảm xạ, nhờ vào những công cụ của cảm xạ nhất là cây đũa Michel mà bạn có thể dễ dàng tìm thấy những qui luật của sự rung động sóng, qua đó bạn rút ngắn được thời gian tìm kiếm những bí ẩn của cơ thể chính chúng mình.
Để kết thúc, cần nói thêm rằng rằng kích thước và sóng rung động của mỗi luân xa là rất biến động và thay đổi thường xuyên, tùy theo trình độ thăng tiến của tâm linh chúng ta, tùy theo sức khỏe, trạng thái cảm xúc của chúng ta và cũng tuỳ theo mối quan hệ của chúng ta với các sinh vật và địa điểm, và sau cùng với dụng cụ của cảm xạ sẽ giúp cho chúng ta nắm được về ý thức vũ trụ và khả năng cảm thụ các rung động trong mỗi chúng ta.
Dư Quang Châu
HÌNH NHƯ
Hình như anh vẫn bước trên con đường ấy
Chờ đợi em và muốn thấy dáng em
Hình như anh vẫn nhớ kỉ niệm ngày hôm ấy
Anh nắm tay em bên thềm và nói lời yêu thương
Hình như không gian còn phảng phất
Hơi ấm nồng nàn của những nụ hôn say
Hình như nỗi nhớ đang dày vò hai đứa
Hình như lệ ướt mi cho mắt em cay.
Tây Nguyên Xanh
Sự tha hóa của lời nói
Theo các nhà nghiên cứu hội họa, trong các bức tranh của người Việt thời trung đại, mỗi yếu tố chỉ có quan hệ với yếu tố liền kề bên cạnh, chứ không có quan hệ với toàn bộ bức tranh. Con người ở đây trong các mối quan hệ xã hội cũng vậy, hành động và lời nói thường được tổ chức để đối phó với các đối tác có quan hệ gần gũi mà không chú ý tới toàn bộ cộng đồng.
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Câu ca dao đó thuộc loại những câu “vỡ lòng” mà mỗi gia đình thường dạy con cái mình. Thành ngữ còn ghi “Nói ngọt như mía lùi“, “Nói con kiến trong lỗ cũng phải bò ra“… ý khuyên khi giao thiệp cần chọn những lời lẽ tốt đẹp. Nhưng trong các cuốn từ điển, người ta thường gặp nhiều hơn bội phần những thành ngữ có liên quan những lối nói không có gì là tốt đẹp.
Hoặc là : Nói bóng nói gió, nói càn, nói cạnh nói khoé, nói chọc, nói chơi, nói chua, nói cứng, nói dựa, nói dóc, nói dối, nói điêu, nói gạt, nói gần nói xa, nói gở, nói hành nói tỏi…
Cũng như : Nói hớt, nói khoác, nói lảng, nói láo, nói phách, nói leo, nói lửng, nói mát, nói mép, nói móc, nói mỉa, nói ngoa, nói ngang, nói nhăng nói cuội, nói như thánh phán, nói như vẹt…
Rồi còn : Nói phét, nói quanh, nói quấy nói quá, nói ra nói vào, nói suông, nói thách, nói thánh nói tướng, nói trạng, nói trống không, nói vơ, nói vụng, nói vuốt đuôi, nói xỏ…
Thái độ vô trách nhiệm của con người đối với tiếng nói của mình làm nên bộ mặt tinh thần chủ yếu của các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, từ “Tôi xin hết lòng” tới “Thằng điên“, từ “Một tin buồn” tới “Hé ! Hé ! Hé !“. “Thế là mợ nó đi Tây” cũng như “Tôi yêu quý nương“, hai truyện ngắn này đều gồm nhiều bức thư, loạt đầu giọng tử tế và thậm chí văn hoa, đến thư cuối thay bằng mấy lời bạc bẽo, càn rỡ. Mà đó chỉ là của một con người viết cho một người khác trong thời gian ngắn.
Trong nhật ký của mình, Pièrre Poivre (1719 – 1786), một người Pháp từng đến buôn bán ở Đàng Ngoài thế kỷ XVIII, than thở : “Điều làm tôi bối rối khi phải thương lượng với người ở đây là chẳng bao giờ họ nói một lời chân thật. Hôm nay đồng ý, mai đã chối từ. Họ hứa rồi lại rũ bỏ lời hứa, chẳng chút e ngại“.
Sau đây là một mẩu chuyện trong giai thoại “Ba Giai – Tú Xuất” :
Ngày xuân, cụ lý Sộp rủ cụ tổng Muỗm ra Hà Nội, vào một cửa hàng, nhờ kiếm mấy điếu thuốc phiện. Chủ quán nhận giúp, sai người đi liền. Tiếp đó khi cái người được sai đi ấy mãi chưa về, chủ quán lại đích thân đi tìm, trước khi đi không quên mượn của các cụ cái khăn nhiễu.
Ăn tàn miếng trầu không thấy họ về.
Các cụ cáu kỉnh trách móc, bọn này không tính làm ăn buôn bán hay sao ? Thì một người từ nãy đến giờ ngồi yên trong góc quán thủng thẳng cho biết mình mới là chủ quán, hai người trước đó chỉ là bọn đi lừa.
Khi các cụ thắc mắc, ông chủ thật ấy cười khẩy giải thích :
- Các cụ nói thật “cổ nhập” quá. Phàm cách bạn hàng gẫu chuyện với nhau thì muốn nói nhăng nói quậy gì chẳng được. Dù hắn nói là chủ hàng chủ quán hay là chủ cả một tỉnh một xứ này cũng được nữa là. Một câu nói phiếm, phỏng có tổn hại gì, ai hơi đâu lại đi can thiệp.
Đoạn dẫn trên đây khá điển hình trong việc phác lại một tình trạng thông thường của lời nói trong xã hội Việt Nam.
Một mặt, chúng ta bảo nhau “lời nói đọi máu”. Mặt khác, chúng ta thường quá dễ dãi khi xử lý nó. Ta không dùng nó để suy nghĩ, mà trong công việc giao tiếp thì ta dùng nó để đùa chơi, bỡn cợt, ràng buộc, thách thức ; tóm lại là một thứ tài nguyên rẻ, tha hồ phung phí.
Bảo rằng, lời nói bị tha hóa là với nghĩa đó. Nó không còn là chất kết dính của xã hội.
Nói lời thì giữ lấy lời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
Kho tàng tục ngữ ca dao còn ghi lại bao lời than phiền vì những sự con người làm khổ đồng loại bằng lời nói. Người ta ghê sợ nhau chán chường nhau mà vẫn phải sống với nhau.
Nguyễn Trường Tộ (阮長祚, 1830 – 1871) sớm ghi nhận tình trạng “không luận đàn bà trẻ con, đến người có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ“. Nguyễn Văn Vĩnh lưu ý về cái sự ham thích những câu chuyện tầm thường và từ chối những chuyện nghiêm chỉnh. Phạm Quỳnh dị ứng nhất với những đám đông hỗn hào lộn xộn. Xuân Diệu thì bảo, ta hay nói hão.
Tình trạng tha hóa kéo dài trong ngôn ngữ con người đương đại cũng được Nguyễn Huy Thiệp ghi lại khá tự nhiên. Trong truyện “Tướng về hưu“, các nhân vật thường nói với nhau một cách trắng trợn, pha phách cả ảo tưởng lẫn tinh thần hoài nghi, tới mức một nhân vật phải kêu lên : “Nhà mình nói năng như người điên khùng cả“.
Tôi nghĩ, nhận xét đó khái quát khá đúng tình trạng sử dụng ngôn ngữ trong một xã hội đã bị chiến tranh xé nát và hầu như mọi con người không ai còn sống bình thường như thuở trước 1945.
Vương Trí Nhàn
Thế Chân Vạc Mới Tại Á Châu
Sau hơn 24 thế kỷ, chưa bao giờ sân khấu chính trị thế giới được chứng kiến những học thuyết có tầm vóc “kinh bang tế thế” của thời Xuân Thu Chiến Quốc, tưởng chừng như chỉ còn nằm trong thư viện, nay được đem ra ứng dụng một cách ngoạn mục và sâu sắc- đó là học thuyết Hợp Tung và Liên Hoành.
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (Thế Kỷ thứ 3 trước Tây Lịch), lúc bấy giờ nước Tần quá mạnh có khả năng thôn tính sáu quốc gia còn lại. Tô Tần nhìn thấy nguy cơ đó cho nên đã đem “miệng lưỡi” đi du thuyết. Kết quả sáu nước Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở, Yên đã nghe theo và đoàn kết lại, lập liên minh để chống Tần theo kế hoạch gọi là Hợp Tung. Thế nhưng “vỏ quýt dày, móng tay nhọn”, Trương Nghi nhìn thấy nhược điểm của thế Hợp Tung cho nên đã hiến kế Liên Hoành cho vua Tần. Vua Tần nghe theo, kết quả kế Hợp Tung tan vỡ, nhà Tần “gồm thâu lục quốc”. Vậy có thể nói Liên Hoành là “khắc tinh” của Hợp Tung.
Tại sao Liên Hoành lại là “khắc tinh” của Hợp Tung? Mới nhìn bề ngoài, các nước nhỏ tìm cách liên kết với nhau để đối đầu với nước lớn là “diệu kế” nhưng nhược điểm chí tử của liên minh (Hợp Tung) là các quốc gia thường đặt quyền lợi của mình lên trên và ngại khó, ngại khổ – tức không chịu hy sinh, chấp nhận thiệt thòi trong liên minh. Do đó, khi có một chút lợi lạc hoặc “cảm thấy” khó khăn là thoái chí. Ngoài ra, tâm lý thông thường của bất kỳ liên minh nào là người ta thường nghi kỵ lẫn nhau. Quốc gia nào cũng sợ quốc gia kia “xé lẻ” hoặc “đi đêm” với kẻ thù. Do đó, nếu không khôn khéo, hành động không minh bạch, không thường xuyên thông báo cho nhau mọi động tác…thì rất dễ gây hiểu lầm. Nắm được nhược điểm và tâm lý này, nhà Tần đã dùng kế Liên Hoành để xé lẻ liên minh sáu nước bằng cách ve vãn từng quốc gia và như đã nói ở trên, kế Hợp Tung tan vỡ.
Ngày nay, do sự tái diễn của lịch sử, việc ứng dụng Hợp Tung và Liên Hoành đã và đang diễn ra một các ngoạn mục tại Đông Nam Á. Nói về sức mạnh kinh tế, Hoa Lục có khả năng khuynh đảo toàn thế giới -bằng cớ siêu cường Hoa Kỳ hiện là “con nợ” của Hoa Lục. Nói về sức mạnh quân sự, Hoa Lục coi như bá chủ ở vùng này. Tổng cộng Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản và thêm chín nước Đông Nam Á cũng không thể đối đầu với sức mạnh quân sự của Hoa Lục. Do những hành động xâm chiếm lãnh thổ của các quốc gia trong vùng liên tục trong 37 năm qua: Từ xâm chiếm Hoàng Sa năm 1974, đánh chiếm một phần của Quần Đảo Trường Sa năm 1988 rồi xây dựng căn cứ quân sự và sân bay tại đây, rồi công bố sát nhập Trường Sa vào lãnh thổ Trung Hoa bằng địa danh Tam Sa, xây dựng căn cứ quân sự khổng lồ tại Đảo Hải Nam, cho tàu Ngư Chính phá phách các dàn thăm dò dầu khí của Việt Nam, áp lực để các quốc gia như Anh Quốc (PB), Hoa Kỳ (Exxon) phải từ bỏ các hợp đồng khai thác dầu khí trong vùng quyền lợi kinh tế của Việt Nam, bắt bớ, giết hại ngư dân Việt Nam với lý do rất mơ hồ “xâm phạm lãnh hải”, công bố Đường Lưỡi Bò xác định chủ quyền trên biển coi như toàn bộ Biển Đông. Mới đây nhất, việc hạ thủy Hàng Không Mẫu Hạm Thi Lang…khiến không riêng gì Đông Nam Á mà cả thế giới lo sợ.
Trước viễn ảnh đen tối đó, các nước Đông Nam Á – giống như một đàn trâu rừng- vội vã co cụm lại để đối đầu với con sư tử đang lừng lững tiến tới và một liên minh theo kế Hợp Tung thời Chiến Quốc hình thành. Trong liên minh này, hai quốc gia trụ cột là Phi Luật Tân và Việt Nam, sau đó là Nam Dương và Tân Gia Ba. Phi Luật Tân lớn tiếng nhất và công khai chống lại Hoa Lục – lý do thật dễ hiểu vì Phi Luật Tân ở xa và không có biên giới đất liền với Hoa Lục. Ngoài ra Phi Luật Tân còn có “bửu bối” Hiệp Ước Phòng Thủ Chung ký kết với Hoa Kỳ năm 1951.
Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asia Nations) viết tắt là ASEAN thành lập năm 1967 bao gồm 4 quốc gia Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân và Tân Gia Ba, sau thêm Brunei, Miến Điện, Kampuchia, Lào và Việt Nam…tổng cộng chín nước. Mới thoạt đầu ASEAN không phải là một liên minh quân sự mà mục tiêu chỉ là “thúc đẩy phát triển kinh tế và thăng tiến xã hội” nhưng do thời thế đẩy đưa, do có cùng một hiểm họa – dù chưa ký kết thỏa hiệp chính thức- trên thực tế ASEAN đã và đang biến thành một “liên minh quân sự” tại Đông Nam Á. Chúng ta có thể khẳng định điều này qua các cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng đã diễn ra vào Tháng 10, 2010 tại Hà Nội, Tháng 12 cùng năm tại Đà Lạt và năm nay (2011) tại Nam Dương. Đấy là không kể hai cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng Asean- Nhật Bản do Nhật tổ chức ở Tokyo. Xen kẽ, chúng ta thấy những cuộc thăm viếng và làm việc liên tục của các tổng tham mưu trưởng quân đội, cùng các tàu chiến của các nước trong khối SEAN.
Hơn ai hết, Hoa Lục nhìn thấy thế Hợp Tung của chín nước ASEAN nên đã quyết tâm phá vỡ bằng kế Liên Hoành. Để thi hành, từ trước đến nay Hoa Lục khăng khăng lập trường chỉ thương thảo song phương chứ không chấp nhận thương thảo đa phương. Khi theo đuổi lập trường đó Hoa Lục nhắm tới:
- Không cho, cũng như không chấp nhận sự can thiệp của quốc tế hay một số cường quốc khác vào khu vực.
- Không chấp nhận tiếng nói thống nhất ngay cả của ASEAN.
- Thỏa hiệp riêng lẻ với từng quốc gia, nếu đạt được sẽ làm tan rã liên minh ASEAN.
Chiến thuật mà Hoa Lục xử dụng là vừa đe dọa vừa ve vãn. Đe dọa là phô diễn sức mạnh quân sự, đóng thêm hàng không mẫu hạm, trên đất liền tập trung quân ở biên giới, trên biển cho tầu Ngư Chính phá phách các dàn khoan hoặc thăm dò dầu khí, bắt giữ hoặc giết hại ngư dân các nước trong vùng, đặc biệt là Việt Nam, đồng thời áp lực về kinh tế. Thậm chí còn đe dọa cả các quốc gia có thiện cảm hoặc liên kết với các quốc gia trong vùng như cảnh cáo tàu chiến của Ấn Độ khi tàu này đang di chuyển trong vùng biển Việt Nam, sau khi thăm viếng Nha Trang, cảnh cáo cả Hoa Kỳ là không nên can thiệp vào Biển Đông. Ve vãn là hứa hẹn một vài tương nhượng nào đó, viện trợ thương mại, hoặc đầu tư v.v…
Xin đừng đánh giá thấp Hoa Lục. Họ có thể sẽ thành công với kế Liên Hoành. Xét trong chín nước của ASEAN chúng ta thấy Kampuchia, Lào hoàn toàn đứng trung lập vì họ không mất gì, được gì trong biến động này. Miến Điện dù Tổng Thống Thein Sein và 13 bộ trưởng đã tới thăm Ấn Độ vào ngày 14/10/2011 nhưng vẫn còn trong vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh. Brunei thì quá nhỏ. Mã Lai và Nam Dương không có tranh chấp về biển. Tân Gia Ba tuy cương quyết nhưng ở quá xa. Tóm lại chỉ còn hai quốc gia đứng mũi chịu sào là Việt Nam và Phi Luật Tân. Hoa Lục có thể “xé lẻ” Phi Luật Tân bằng cách ký kết hiệp ước bất tương xâm, nhượng bộ chú ít về lãnh hải mà thực ra những vùng biển này không phải của Hoa Lục mà là của Việt Nam. Nói khác đi Hoa Lục theo sách lược “mượn hoa cúng Phật” hay “của người phúc ta”, đồng thời hứa hẹn viện trợ kinh tế, tài chánh, mở rộng thị trường cho Phi Luật Tân. Một khi đã “xé lẻ” được Phi Luật Tân thì Việt Nam chơ vơ một mình và liên minh ASEAN sứt mẻ rồi tan vỡ hoặc trở thành tổ chức “bù nhìn”.
Thế giới không phải không biết tới điều này cho nên đã phải nhảy vào. Tại sao phải nhảy vào? Không cần giải thích dông dài, chúng ta có thể nói ngay: Nếu Hoa Lục khống chế được Biển Đông thì ba nước lâm nguy trước tiên là Nhật Bản, Đài Loan và Nam Hàn rồi sau đó tới Đông Nam Á rồi Hoa Kỳ, Úc Châu. Còn Ấn Độ thì từ từ chết sau. Nhìn vào bản đồ hàng hải chúng ta có thể khẳng định tuyến đường từ Eo Biển Đài Loan rồi dọc theo Biển Đông tới Eo Biển Malacca là sinh lộ của toàn thế giới. Năm xưa liên minh sáu nước tan vỡ và bị Tần tiêu diệt là vì liên minh này không có điểm tựa. Giả dụ, lúc bấy giờ có một cường quốc sức mạnh tương đương với Tần hỗ trợ thì Liên Minh Lục Quốc vững như bàn thạch. Ngày nay cũng thế, dù liên minh ASEAN có đoàn kết và quyết tâm như thế nào đi nữa, nếu đứng một mình, sớm muộn gì cũng tan như bọt nước dưới áp lực của Hoa Lục. Muốn sống còn, Liên minh ASEAN cần một điểm tựa, nói khác đi liên minh ASEAN phải được đặt vào thế chân vạc.
Do tình cờ của lịch sử, do những biến cố chính trị đẩy đưa, một thế chân vạc mới vừa hình thành mà cả thế giới đều nhận rõ đó là Trục Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ. Từ khi giành được độc lập từ tay Thực dân Anh năm 1947, Ấn Độ đã thí nghiệm thành công bom nguyên tử nổ ngầm dưới đất. Với dân số gần 1.2 tỷ (thống kê 2006) có hỏa tiễn tầm trung mang đầu đạn hạt nhân, hải quân đứng hàng thứ tư thế giới, có hàng không mẫu hạm và phát triển nhanh chóng về kỹ nghệ, nhưng Ấn Độ luôn luôn nghị kỵ Hoa Kỳ và không bao giờ tập trung vào khu vực Á Châu, đặc biệt Đông Nam Á. Ấn Độ coi như sống bên lề Á Châu mà chỉ chú tâm tới Nam Mỹ, Phi Châu v.v…Thế nhưng cục diện đó đã thay đổi khi Thủ Tướng Singh của Ấn Độ thăm Hoa Kỳ vào Tháng 10, 2009 rồi TT. Obama – vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ công du Ấn Độ vào Tháng 11, 2010. Đặc biệt chuyến thăm Ấn Độ của Ngoại Trưởng Hillary Clinton vào Tháng 7, 2011 trong đó bà nói rõ Ấn Độ không phải chỉ “Nhìn Về Hướng Đông” mà cần phải hành động. Đó là thông điệp mạnh mẽ cho biết Hoa Kỳ chấp nhận và cần sự hiện diện quân sự của Ấn Độ tại Biển Đông. Trước đó vào ngày 24 Tháng 11, 2008 Nữ Tổng Thống Ấn Độ cũng đã thăm Việt Nam. Rồi vào ngày 12 Tháng 5, 2001 hai tàu chiến Ấn Độ cập bến Nha Trang và Trục Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ ra đời. Chúng ta có thể tiên liệu những ngày tháng sắp tới đây, các viên chức cao cấp của Ấn Độ sẽ lần lượt thăm viếng các quốc gia Đông Nam A, tàu chiến Ấn Độ sẽ tiếp tục hiện diện tại Biển Đông để bảo vệ các giàn thăm dò dầu khí và thao diễn chung với các nước trong vùng, song song với Hải Quân Hoa Kỳ. Tại sao Thế Chân Vạc này lại hình thành mau chóng như vậy? Có hai lý do:
Thứ nhất: Theo BBC, do mối quan hệ bền vững với Việt Nam trong suốt 40 năm qua, Ấn Độ đã ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO và ghế ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An LHQ năm 2007, Việt Nam cũng ủng hộ Ấn Độ trở thành thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An. Theo chuyên gia về an ninh Iskander Rehman, “Ấn Độ đã và đang hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực hải quân nhằm phá bỏ thế độc tôn của Trung Quốc tại Biển Đông. Một điều thú vị là không quân và hải quân Việt Nam và Ấn Độ xử dụng nhiều trang bị của Nga nên dễ dàng trao đổi cho nhau. Delhi đã giúp sửa chữa và nâng cấp 125 chiến đấu cơ Mig 21. Bên cạnh việc huấn luyện thủy thủ và phi công cho Việt Nam, năm 2005 Hải Quân Ấn Độ đã cung cấp cho Việt Nam 150 tấn phụ tùng cho các tàu chiến hạng Petya và OSA-11. Ấn Độ cũng sẽ giúp huấn luyện thủy thủ đoàn cho các tàu ngầm mà Việt Nam đang đặt mua từ Nga…Hai nước có thể cùng thiết lập hệ thống báo động dọc bờ biển Việt Nam và Ấn Độ có thể điều chiến đấu cơ tuần tra tới Việt Nam, không chỉ theo dõi các tuyến hàng hải quan trọng ở Biển Đông và Eo Biển Malacca, mà còn để phát hiện các hoạt động tàng hình ở phía dưới.” (BBC)
Thứ hai: Ấn Độ không thể nào quên cuộc chiến tranh với Hoa Lục năm năm 1962. Những năm gần đây Hoa Lục đã cho tàu chiến lảng vảng vào Ấn Độ Dương để “hỏi thăm sức khỏe” Ấn Độ. Hoa Lục luôn luôn dùng gọng kìm Pakistan để làm khó dễ Ấn Độ. Đặc biệt khi mối liên hệ giữa Pakistan-Hoa Kỳ trở nên chua chát, Pakistan đã cho mời ngay Bộ Trưởng Công An Hoa Lục tới thăm và tuyên bố thẳng thừng nếu Hoa Kỳ thù nghịch với Pakistan thì Pakistan sẽ liên kết ngay với Hoa Lục. Ấy là chưa kể gọng kìm Miến Điện ngay cạnh sườn phía Đông cũng làm cho Ấn Độ vô cùng khó chịu. Ấn Độ chính là con “cọp ngủ” và ngày nay đã “biết thức dậy” và mạnh dạn tiến về Đông Nam Á. Đây là cơ hội bằng vàng cho Ấn Độ triển khai kế hoạch phòng thủ và xây dựng vị trí cường quốc của mình tại Á Châu.
Câu hỏi đặt ra ở đây: Tại sao lại là thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ mà không phải là Asean – Hoa Kỳ – Nhật Bản hoặc Asean – Hoa Kỳ – Úc Châu? Xin thưa:
1) Nhật Bản bị ràng buộc bởi Hiến Pháp ngăn cấm không cho đem binh sĩ ra nước ngoài. Hơn thế nữa hình ảnh xâm lược Á Châu của quân phiệt Nhật năm 1945 vẫn còn đó. Việc tăng cường binh bị của Nhật khiến các quốc gia Đông Nam Á nhớ lại cơn ác mộng năm xưa. Nhật nên đóng vai trò hỗ trợ cho Thế Chân Vạc và tạo thế gọng kìm vào cạnh sườn Hoa Lục hơn là đem tàu chiến vào Biển Đông.
2) Còn Úc Châu thì nhân lực và tài lực yếu kém chỉ có khả năng hỗ trợ cho Thế Chân Vạc, chia xẻ trách nhiệm với Hoa Kỳ và Ấn Độ, đồng thời chặn con đường tiến quân hoặc rút lui khi các hạm đội của Hoa Lục tiến vào Eo Biển Malacca hoặc từ Ấn Độ Dương kéo về. Ngoài ra do yếu tố địa lý, cho dù Nhật Bản hay Úc Châu có đứng vào Thế Chân Vạc cũng không thể có ưu thế hơn Ấn Độ. Giả sử nếu tàu chiến của Ấn Độ bị làm khó dễ ở Biển Đông, Ấn Độ chỉ cần cho dàn khoảng 500,000 quân ở biên giới thì Hoa Lục cũng phải điều động khoảng nửa triệu quân tới đó. Chắc chắn lúc đó sức mạnh quân sự của Hoa Lục ở Biển Đông sẽ bị phân tán rất nhiều. Do đó có thế nói cho tới bây giờ, liên minh Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ là liên minh hoàn hảo nhất. 3) Theo lịch sử, vì Ấn Độ không phải kẻ thù của Tây Phương cho nên Thế Chân Vạc này còn được hỗ trợ từ xa – trước mắt chúng ta nhận thấy có Đức và Hòa Lan. Anh, Pháp còn đang đứng nhìn vì vướng mắc kinh tế, tài chính với Hoa Lục. Nhưng ở vào thời điểm chín muồi nào đó, chắc chắn cũng sẽ ngả theo Liên Minh Chân Vạc này.
Tạm kết luận:
Khi một liên minh quân sự hình thành chắc chắn không phải để chơi. Lịch sử thế giới đã chứng tỏ rằng liên minh quân sự ra đời là để ngăn chặn hay phát khởi một cuộc chiến tranh. Liên minh càng lớn thì cuộc chiến tranh càng khốc liệt. Liên Minh Áo-Hung-Phổ-Ottaman và Liên Minh Đức-Ý-Nhật trong Đệ I và Đệ II Thế Chiến đã minh chứng điều này. Trong hơn thập niên qua, thế giới cũng đã chứng kiến một vài liên minh quân sự hình thành rồi phát khởi vài cuộc chiến tranh mà số tử vong cũng đã lên tới vài triệu người đó là Liên Minh Mỹ-Anh trong chiến tranh Iraq, Liên Minh Đơn Phương Mỹ một mình đánh trước rồi lôi kéo đồng minh sau trong chiến tranh Aghanistan, Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) và một số quốc gia Hồi Giáo trong chiến tranh Libya.
Với thời gian qua đi, theo dòng ký ức mờ phai của nhân loại, dù mau quên thế nào đi nữa, chắc chắn lịch sử thế giới cũng không thể nào không nhớ tới Liên Minh Chân Vạc mới đang hình hành tại Á Châu. Tại sao vậy? Bởi vì:
Nếu thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ bền vững và thành công thì Đông Nam Á nói riêng và thế giới nói chung sẽ hưởng một nền hòa bình lâu dài. Lành thay!Nếu thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ yếu đi và thất bại, thế giới sẽ phải đương đầu với Đệ III Thế Chiến khốc liệt hơn cả Đệ I và Đệ II Thế Chiến. Bất hạnh thay!
Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asia Nations) viết tắt là ASEAN thành lập năm 1967 bao gồm 4 quốc gia Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân và Tân Gia Ba, sau thêm Brunei, Miến Điện, Kampuchia, Lào và Việt Nam…tổng cộng chín nước. Mới thoạt đầu ASEAN không phải là một liên minh quân sự mà mục tiêu chỉ là “thúc đẩy phát triển kinh tế và thăng tiến xã hội” nhưng do thời thế đẩy đưa, do có cùng một hiểm họa – dù chưa ký kết thỏa hiệp chính thức- trên thực tế ASEAN đã và đang biến thành một “liên minh quân sự” tại Đông Nam Á. Chúng ta có thể khẳng định điều này qua các cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng đã diễn ra vào Tháng 10, 2010 tại Hà Nội, Tháng 12 cùng năm tại Đà Lạt và năm nay (2011) tại Nam Dương. Đấy là không kể hai cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng Asean- Nhật Bản do Nhật tổ chức ở Tokyo. Xen kẽ, chúng ta thấy những cuộc thăm viếng và làm việc liên tục của các tổng tham mưu trưởng quân đội, cùng các tàu chiến của các nước trong khối SEAN.
Hơn ai hết, Hoa Lục nhìn thấy thế Hợp Tung của chín nước ASEAN nên đã quyết tâm phá vỡ bằng kế Liên Hoành. Để thi hành, từ trước đến nay Hoa Lục khăng khăng lập trường chỉ thương thảo song phương chứ không chấp nhận thương thảo đa phương. Khi theo đuổi lập trường đó Hoa Lục nhắm tới:
- Không cho, cũng như không chấp nhận sự can thiệp của quốc tế hay một số cường quốc khác vào khu vực.
- Không chấp nhận tiếng nói thống nhất ngay cả của ASEAN.
- Thỏa hiệp riêng lẻ với từng quốc gia, nếu đạt được sẽ làm tan rã liên minh ASEAN.
Chiến thuật mà Hoa Lục xử dụng là vừa đe dọa vừa ve vãn. Đe dọa là phô diễn sức mạnh quân sự, đóng thêm hàng không mẫu hạm, trên đất liền tập trung quân ở biên giới, trên biển cho tầu Ngư Chính phá phách các dàn khoan hoặc thăm dò dầu khí, bắt giữ hoặc giết hại ngư dân các nước trong vùng, đặc biệt là Việt Nam, đồng thời áp lực về kinh tế. Thậm chí còn đe dọa cả các quốc gia có thiện cảm hoặc liên kết với các quốc gia trong vùng như cảnh cáo tàu chiến của Ấn Độ khi tàu này đang di chuyển trong vùng biển Việt Nam, sau khi thăm viếng Nha Trang, cảnh cáo cả Hoa Kỳ là không nên can thiệp vào Biển Đông. Ve vãn là hứa hẹn một vài tương nhượng nào đó, viện trợ thương mại, hoặc đầu tư v.v…
Xin đừng đánh giá thấp Hoa Lục. Họ có thể sẽ thành công với kế Liên Hoành. Xét trong chín nước của ASEAN chúng ta thấy Kampuchia, Lào hoàn toàn đứng trung lập vì họ không mất gì, được gì trong biến động này. Miến Điện dù Tổng Thống Thein Sein và 13 bộ trưởng đã tới thăm Ấn Độ vào ngày 14/10/2011 nhưng vẫn còn trong vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh. Brunei thì quá nhỏ. Mã Lai và Nam Dương không có tranh chấp về biển. Tân Gia Ba tuy cương quyết nhưng ở quá xa. Tóm lại chỉ còn hai quốc gia đứng mũi chịu sào là Việt Nam và Phi Luật Tân. Hoa Lục có thể “xé lẻ” Phi Luật Tân bằng cách ký kết hiệp ước bất tương xâm, nhượng bộ chú ít về lãnh hải mà thực ra những vùng biển này không phải của Hoa Lục mà là của Việt Nam. Nói khác đi Hoa Lục theo sách lược “mượn hoa cúng Phật” hay “của người phúc ta”, đồng thời hứa hẹn viện trợ kinh tế, tài chánh, mở rộng thị trường cho Phi Luật Tân. Một khi đã “xé lẻ” được Phi Luật Tân thì Việt Nam chơ vơ một mình và liên minh ASEAN sứt mẻ rồi tan vỡ hoặc trở thành tổ chức “bù nhìn”.
Thế giới không phải không biết tới điều này cho nên đã phải nhảy vào. Tại sao phải nhảy vào? Không cần giải thích dông dài, chúng ta có thể nói ngay: Nếu Hoa Lục khống chế được Biển Đông thì ba nước lâm nguy trước tiên là Nhật Bản, Đài Loan và Nam Hàn rồi sau đó tới Đông Nam Á rồi Hoa Kỳ, Úc Châu. Còn Ấn Độ thì từ từ chết sau. Nhìn vào bản đồ hàng hải chúng ta có thể khẳng định tuyến đường từ Eo Biển Đài Loan rồi dọc theo Biển Đông tới Eo Biển Malacca là sinh lộ của toàn thế giới. Năm xưa liên minh sáu nước tan vỡ và bị Tần tiêu diệt là vì liên minh này không có điểm tựa. Giả dụ, lúc bấy giờ có một cường quốc sức mạnh tương đương với Tần hỗ trợ thì Liên Minh Lục Quốc vững như bàn thạch. Ngày nay cũng thế, dù liên minh ASEAN có đoàn kết và quyết tâm như thế nào đi nữa, nếu đứng một mình, sớm muộn gì cũng tan như bọt nước dưới áp lực của Hoa Lục. Muốn sống còn, Liên minh ASEAN cần một điểm tựa, nói khác đi liên minh ASEAN phải được đặt vào thế chân vạc.
Do tình cờ của lịch sử, do những biến cố chính trị đẩy đưa, một thế chân vạc mới vừa hình thành mà cả thế giới đều nhận rõ đó là Trục Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ. Từ khi giành được độc lập từ tay Thực dân Anh năm 1947, Ấn Độ đã thí nghiệm thành công bom nguyên tử nổ ngầm dưới đất. Với dân số gần 1.2 tỷ (thống kê 2006) có hỏa tiễn tầm trung mang đầu đạn hạt nhân, hải quân đứng hàng thứ tư thế giới, có hàng không mẫu hạm và phát triển nhanh chóng về kỹ nghệ, nhưng Ấn Độ luôn luôn nghị kỵ Hoa Kỳ và không bao giờ tập trung vào khu vực Á Châu, đặc biệt Đông Nam Á. Ấn Độ coi như sống bên lề Á Châu mà chỉ chú tâm tới Nam Mỹ, Phi Châu v.v…Thế nhưng cục diện đó đã thay đổi khi Thủ Tướng Singh của Ấn Độ thăm Hoa Kỳ vào Tháng 10, 2009 rồi TT. Obama – vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ công du Ấn Độ vào Tháng 11, 2010. Đặc biệt chuyến thăm Ấn Độ của Ngoại Trưởng Hillary Clinton vào Tháng 7, 2011 trong đó bà nói rõ Ấn Độ không phải chỉ “Nhìn Về Hướng Đông” mà cần phải hành động. Đó là thông điệp mạnh mẽ cho biết Hoa Kỳ chấp nhận và cần sự hiện diện quân sự của Ấn Độ tại Biển Đông. Trước đó vào ngày 24 Tháng 11, 2008 Nữ Tổng Thống Ấn Độ cũng đã thăm Việt Nam. Rồi vào ngày 12 Tháng 5, 2001 hai tàu chiến Ấn Độ cập bến Nha Trang và Trục Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ ra đời. Chúng ta có thể tiên liệu những ngày tháng sắp tới đây, các viên chức cao cấp của Ấn Độ sẽ lần lượt thăm viếng các quốc gia Đông Nam A, tàu chiến Ấn Độ sẽ tiếp tục hiện diện tại Biển Đông để bảo vệ các giàn thăm dò dầu khí và thao diễn chung với các nước trong vùng, song song với Hải Quân Hoa Kỳ. Tại sao Thế Chân Vạc này lại hình thành mau chóng như vậy? Có hai lý do:
Thứ nhất: Theo BBC, do mối quan hệ bền vững với Việt Nam trong suốt 40 năm qua, Ấn Độ đã ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO và ghế ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An LHQ năm 2007, Việt Nam cũng ủng hộ Ấn Độ trở thành thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An. Theo chuyên gia về an ninh Iskander Rehman, “Ấn Độ đã và đang hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực hải quân nhằm phá bỏ thế độc tôn của Trung Quốc tại Biển Đông. Một điều thú vị là không quân và hải quân Việt Nam và Ấn Độ xử dụng nhiều trang bị của Nga nên dễ dàng trao đổi cho nhau. Delhi đã giúp sửa chữa và nâng cấp 125 chiến đấu cơ Mig 21. Bên cạnh việc huấn luyện thủy thủ và phi công cho Việt Nam, năm 2005 Hải Quân Ấn Độ đã cung cấp cho Việt Nam 150 tấn phụ tùng cho các tàu chiến hạng Petya và OSA-11. Ấn Độ cũng sẽ giúp huấn luyện thủy thủ đoàn cho các tàu ngầm mà Việt Nam đang đặt mua từ Nga…Hai nước có thể cùng thiết lập hệ thống báo động dọc bờ biển Việt Nam và Ấn Độ có thể điều chiến đấu cơ tuần tra tới Việt Nam, không chỉ theo dõi các tuyến hàng hải quan trọng ở Biển Đông và Eo Biển Malacca, mà còn để phát hiện các hoạt động tàng hình ở phía dưới.” (BBC)
Thứ hai: Ấn Độ không thể nào quên cuộc chiến tranh với Hoa Lục năm năm 1962. Những năm gần đây Hoa Lục đã cho tàu chiến lảng vảng vào Ấn Độ Dương để “hỏi thăm sức khỏe” Ấn Độ. Hoa Lục luôn luôn dùng gọng kìm Pakistan để làm khó dễ Ấn Độ. Đặc biệt khi mối liên hệ giữa Pakistan-Hoa Kỳ trở nên chua chát, Pakistan đã cho mời ngay Bộ Trưởng Công An Hoa Lục tới thăm và tuyên bố thẳng thừng nếu Hoa Kỳ thù nghịch với Pakistan thì Pakistan sẽ liên kết ngay với Hoa Lục. Ấy là chưa kể gọng kìm Miến Điện ngay cạnh sườn phía Đông cũng làm cho Ấn Độ vô cùng khó chịu. Ấn Độ chính là con “cọp ngủ” và ngày nay đã “biết thức dậy” và mạnh dạn tiến về Đông Nam Á. Đây là cơ hội bằng vàng cho Ấn Độ triển khai kế hoạch phòng thủ và xây dựng vị trí cường quốc của mình tại Á Châu.
Câu hỏi đặt ra ở đây: Tại sao lại là thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ mà không phải là Asean – Hoa Kỳ – Nhật Bản hoặc Asean – Hoa Kỳ – Úc Châu? Xin thưa:
1) Nhật Bản bị ràng buộc bởi Hiến Pháp ngăn cấm không cho đem binh sĩ ra nước ngoài. Hơn thế nữa hình ảnh xâm lược Á Châu của quân phiệt Nhật năm 1945 vẫn còn đó. Việc tăng cường binh bị của Nhật khiến các quốc gia Đông Nam Á nhớ lại cơn ác mộng năm xưa. Nhật nên đóng vai trò hỗ trợ cho Thế Chân Vạc và tạo thế gọng kìm vào cạnh sườn Hoa Lục hơn là đem tàu chiến vào Biển Đông.
2) Còn Úc Châu thì nhân lực và tài lực yếu kém chỉ có khả năng hỗ trợ cho Thế Chân Vạc, chia xẻ trách nhiệm với Hoa Kỳ và Ấn Độ, đồng thời chặn con đường tiến quân hoặc rút lui khi các hạm đội của Hoa Lục tiến vào Eo Biển Malacca hoặc từ Ấn Độ Dương kéo về. Ngoài ra do yếu tố địa lý, cho dù Nhật Bản hay Úc Châu có đứng vào Thế Chân Vạc cũng không thể có ưu thế hơn Ấn Độ. Giả sử nếu tàu chiến của Ấn Độ bị làm khó dễ ở Biển Đông, Ấn Độ chỉ cần cho dàn khoảng 500,000 quân ở biên giới thì Hoa Lục cũng phải điều động khoảng nửa triệu quân tới đó. Chắc chắn lúc đó sức mạnh quân sự của Hoa Lục ở Biển Đông sẽ bị phân tán rất nhiều. Do đó có thế nói cho tới bây giờ, liên minh Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ là liên minh hoàn hảo nhất. 3) Theo lịch sử, vì Ấn Độ không phải kẻ thù của Tây Phương cho nên Thế Chân Vạc này còn được hỗ trợ từ xa – trước mắt chúng ta nhận thấy có Đức và Hòa Lan. Anh, Pháp còn đang đứng nhìn vì vướng mắc kinh tế, tài chính với Hoa Lục. Nhưng ở vào thời điểm chín muồi nào đó, chắc chắn cũng sẽ ngả theo Liên Minh Chân Vạc này.
Tạm kết luận:
Khi một liên minh quân sự hình thành chắc chắn không phải để chơi. Lịch sử thế giới đã chứng tỏ rằng liên minh quân sự ra đời là để ngăn chặn hay phát khởi một cuộc chiến tranh. Liên minh càng lớn thì cuộc chiến tranh càng khốc liệt. Liên Minh Áo-Hung-Phổ-Ottaman và Liên Minh Đức-Ý-Nhật trong Đệ I và Đệ II Thế Chiến đã minh chứng điều này. Trong hơn thập niên qua, thế giới cũng đã chứng kiến một vài liên minh quân sự hình thành rồi phát khởi vài cuộc chiến tranh mà số tử vong cũng đã lên tới vài triệu người đó là Liên Minh Mỹ-Anh trong chiến tranh Iraq, Liên Minh Đơn Phương Mỹ một mình đánh trước rồi lôi kéo đồng minh sau trong chiến tranh Aghanistan, Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) và một số quốc gia Hồi Giáo trong chiến tranh Libya.
Với thời gian qua đi, theo dòng ký ức mờ phai của nhân loại, dù mau quên thế nào đi nữa, chắc chắn lịch sử thế giới cũng không thể nào không nhớ tới Liên Minh Chân Vạc mới đang hình hành tại Á Châu. Tại sao vậy? Bởi vì:
Nếu thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ bền vững và thành công thì Đông Nam Á nói riêng và thế giới nói chung sẽ hưởng một nền hòa bình lâu dài. Lành thay!Nếu thế chân vạc Asean – Hoa Kỳ – Ấn Độ yếu đi và thất bại, thế giới sẽ phải đương đầu với Đệ III Thế Chiến khốc liệt hơn cả Đệ I và Đệ II Thế Chiến. Bất hạnh thay!
Đào văn Bình
TÂM SỰ CỜ VÀNG
Lại hết một năm sống tha hương.
Băm mấy xuân qua vẫn đọan trường.
Cộng sản vẫn còn, ta chưa chết.
Nhưng biết bao giờ thấy cố hương?
Quốc hận hằng năm vẫn nhớ ngày
Ôm niềm uất hận lết sang đây,
Ngày xưa nhớ cái năm năm bốn
Cũng tại cộng nô phải chạy dài.
Số kiếp di cư đến hai lần
Hai lần nhưng vạn nỗi gian truân.
Lần sau còn nhục hơn lần trước,
Vứt cả ba lô cởi cả quần.
Cũng tại ta xui mới thế này
Thầy ta đừng chạy chúng biết tay
Phải chi thầy thí vài trăm triệu
Đâu phải chạy te vứt cả giày.
Dù bỏ chạy te vứt cả giày.
Nhưng ta nào có sợ chúng bay.
Chẳng qua cũng chỉ vì thời vận
Tại số nên ta mới như vầy.
Ta quyết không quên mối hận này.
Con không làm được cháu ta thay
Cờ vàng ta phất không ngừng nghỉ.
Rồi sẽ có ngày chúng biết tay
Ta vẫn cờ vàng vẫn duyệt binh
Vẫn hát vang lên khúc quân hành
Để cháu con ta luôn ghi nhớ
Hình ảnh hào hùng lớp cha anh.
Dù là quần áo chợ si đa
Dù chẳng súng gươm cũng gọi là
Quân đội cộng hòa thời oanh liệt,
Để ta ôn lại quãng đời ta.
Ta phất cờ vàng giữa cờ hoa
Cờ hoa cứu giúp chở che ta
(Không có cờ hoa ta lạnh gáy
Cộng sản rập rình rét bỏ cha.)
Nhớ về hòn ngọc viễn đông xưa
Nơi ta hoan lạc suốt bốn mùa
Tên em ngày ấy không còn nữa
Còn lại nơi này cái little.
Thế mà chúng cũng chẳng buông tha.
Theo đến nơi này xứ cờ hoa.
Cái little kia nào có tội
Chúng cũng vặt luôn tức bỏ bà.
Mấy chục năm ròng giữa chốn đây.
Eo phe (welfare) vẫn lãnh vẫn ăn mày.
Phút tem (food stamp) không có đời ta tận
Bởi thế cho nên phải lụy thầy.
Ta chạy sang đây đã cùng đường
Thế nên ta vẫn phải khói hương
Tâm nguyện khấn cầu ông thánh Mỹ
Phù hộ ta tròn mộng hồi hương.
Thầy ta ta dựng tượng phụng thờ
Cũng vì ơn nghĩa những năm xưa
Thế mà chúng bảo “quân chơi đĩ ”
Năm mươi tám vạn hồn có biết chưa
Hỡi chúa hỡi thần hỡi Ala
Hỡi Mô ha mét hỡi Di đà,
Cộng nô láo xược không vặn cổ
Lại cứ vặn nhầm cổ chúng ta.
Thà ta nô lệ xứ cờ hoa
Quyết không về lại chốn quê nhà
Làm mướn, cu li, hay rửa chén,
Rửa đít cho thầy cũng sướng cha.
Rửa đã bao năm rửa mòn tay,
Nhưng vẫn không quên rửa hận này.
Đời ta không được, đời con cháu,
Quyết diệt cho tiêu bọn chúng mày.
Trung cộng âm mưu chiếm Trường Sa.
Đã lâu mới có dịp hò la.
Cầu trời nó chiếm luôn Hà nội.
Cho đáng bọn mày hả dạ ta.
Trung cộng to đầu thế mà ngu.
Đất liền không lấy lấy san hô.
Sao bay không chiếm luôn cả nước,
Chẳng lẽ bọn mày sợ chúng ư.
Bay cứ đánh đi có chúng tao
Tuy tao chẳng có tí quân nào
Nhưng tao có cái mồm to khỏe.
Chống cộng nhưng tao khoái ba tàu.
Ta có cờ vàng có ống loa
Có kèn có trống có cờ hoa.
Tuy hô đả đảo thằng trung cộng
Nhưng chống chỉ là Cộng xứ ta.
Chẳng lẽ xuống đường chống tụi bay
Mà không đả đảo thật hăng say.
Thì ai mà biết ta yêu nước.
Nhưng tấm lòng ta khoái chúng mày.
Hàng hóa Việt Nam bán dẫy đầy
Nhưng ta cương quyết phải tẩy chay
Thà ta ủng hộ hàng tàu chệt
Cho lũ cộng mày chết trắng tay.
Nhớ nước ta càng thêm uất ức,
Thương nhà tiếc mãi cái vila.
Sang đây cam phận thằng ở đợ
Cũng tại bọn mày lũ cộng nô
Lạy thánh A la lạy chúa tôi
Con chống bao năm quá đuối rồi
Sức kiệt lực tàn đành chống gậy.
Nay còn chỉ mỗi cái mồm thôi.
Xin chúa hộ phù lũ chúng con
Vặt cho chết hết lũ tham tàn
Mai này phục quốc con xây tượng
Xây nhà thờ mới đẹp to hơn.
***
Mấy chục năm ròng giữa chốn đây.
Bưng bê rửa bát đã bao ngày.
Vẫn chưa rửa được niềm căm hận
Ôi biết sao vơi mối thù này.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)