Hiển thị các bài đăng có nhãn Chân dung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chân dung. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2016

Chùm thơ của Lê Văn Hảo





Nhà thơ Lê Văn Hảo.
Bút danh: Trọng Thanh
Sinh năm: 1959 tại Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên.
Cán bộ quân đội, hưu trí.
Giải nhất cuộc thi thơ “ Vì cuộc sống bình yên” lần thứ 2 năm 2010.




BẾN CUỘC ĐỜI

Trên bục giảng
Em viết ngàn trang sách
Chữ học trò thức trắng những đêm hoang…

Lá thu rụng
Khắc lời nguyền trên đá
Tình vỡ tan rách nát lúc xa xôi
Đêm em hiểu xây lâu đài trên cát
trăm ngàn đời còng gió vẫn neo đơn

Chiều chạy trốn
Bóng tà huy còn lại
Trăng vội về viên mãn tuổi năm mươi
Sau trăng khuyết có con đò đứng đợi
Chim sang sông, mai mối chẳng vuông tròn

Tháng giêng này
sao không thể gặp nhau
Hoa tí ngọ sau một giờ lụn tắt
Để ngày sau …
ai đó nghĩ về nhau

Rồi xuân qua
Một mùa xuân lại tới
Ta nợ người lời thú tội trước chiều hôm
Mộng chiêm bao ôm tình trong giấc ngủ
Đưa em về
Cập bến
trước bình minh



GỞI EM THĂM PHỐ MÙ SƯƠNG

Hỡi thành phố ngàn thông
Thành phố tình yêu
Hãy đón em tôi từ thành phố trẻ
Và đừng để em
lạnh buổi chiều vàng

Hỏi con sông con suối
Hỏi đồi Cù , thung lũng tình yêu
Hỏi thác Cam Ly, nước hồ Than Thở
Cho em xin,
Uống ngụm nước rừng

Hỡi các chàng trai
Chil, C’ho, C’hRu, Êđê
Đừng trộm nhìn em
Người đàn bà - mà tôi yêu dấu

Hỡi đấng thần linh
Già làng trưởng bản
Hỡi con beo, con gấu
Canh giữ bình yên giấc ngủ cho nàng

Này Chim Chrao hát bài ca mùa xuân
Hãy địu em tôi lên đồi Mộng mơ
Để đọc bài thơ tôi viết
Chuyện tình yêu tan vỡ bên hồ




Nhà thơ Lê Văn Hảo

NỖI NHỚ

Đốt thời gian, đốt ngày đốt tháng
Đốt tháng giêng, đốt cả mùa xuân
Đốt nỗi nhớ
Thành tro tàn đáy mắt
Đốt người tình vùi dưới bóng cội si

Đốt vàng mã đốt mùa đi
Chợt vấp phải tiếng thở dài đắng cay
Bến sông
Vắng khách
Chiều nay
Xót lòng ngọn gió heo may gọi đò

Đốt tất cả những gì ta có
Xa nhau rồi đừng bỏ lại làm chi
Trăm năm sau
Mộ đất cỏ xanh rì
Xin thục nữ ngâm bài thơ Nỗi Nhớ

Dẫu trời đất kêu người nằm dưới mộ
Quay trở về làm chúa của trần gian
Ta cóc nhận trốn Ngọc Hoàng ở lại
Vì nhớ thương
Anh đã xuống nơi này


NÓI VỚI EM

Ngồi trước biển
Một chiều đông còn lại
Viết câu thơ thắm lạnh giữa bàn tay
Em phương xa có hiểu đất trời này
Lời gió nói tự tình cùng anh đó

Nhìn vạt nắng
Trôi theo ngày đã cũ
Sóng vào bờ muôn thuở giận hờn nhau
Dấu chân xưa đắng đót dội ngày về
Trăng một nữa nghiêng bến đời hư thực

Nghe tiếng gọi
Rũ trăm ngàn cay đắng
Ngày theo ngày nên cứ mãi cô đơn
Nào xuân hỡi! Xuân đi xuân về trong tàn tạ
Chợt giật mình đất mẹ nhớ người xa

Dang bàn tay
Mời em về xứ biển
Muối mặn gừng cay son sắt nghĩa tình
Đời mang nặng một con tim du thực
Tặng lại người, một kẻ chẳng yêu ta

Hai con mắt
Chìm một đời dâu bể
Tuổi về chiều sao bỏng nhớ người dưng
Nhìn sợi tóc chiều nay sao bạc trắng
Chợt hiểu rồi tình mọn đã bay xa


TRỐNG VẮNG

Treo nỗi buồn vào mùa xuân
Cùng lời nguyền năm cũ
Vương vấn lòng
một bóng người xa…

Đêm thắm lạnh dày vò trang ký ức
Trả em về hư thực giấc chiêm bao
Tình em rộng, mà đời anh quá chật
Sợi nắng chiều không lọt kẽ bàn tay

Câu tạ tội anh van nài em mãi
Xin vội đừng cào xướt trái tim nhau
Lỡ đắm say đôi mắt buổi ban đầu
Nay tan vỡ mắt môi này gởi lại

Ngày tháng rộng mà cuộc tình quá mỏng
Quả ớt già xay xát cả lòng anh
Vướng dây tơ tầm chỉ biết hận mình
Bởi hạnh phúc theo lời nguyền đã mất

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2016

Vu vơ…





Tác giả: Kim Dung/ Kỳ Duyên

.

  

Một ngày ta bỗng nhận ra
Báo là nghiệp chính thơ là… nghiệp dư
.
Vu vơ trong cõi vu vơ
Đau buồn ta khóc mộng mơ ta cười
.
Lá diêu bông tận chân trời
Yêu thương ta vẫn đợi người thiết tha
.
Đắng cay cũng đã nở hoa
Tình yêu cơ cực mới là tình yêu (*)
.
Câu thơ cánh hạc phiêu diêu
Câu yêu ta giữ dẫu nhiều phôi pha
.
Một trời hoa lạ dặm xa
Một đời hóa đá thơ và nỗi đau
.
Phím đàn ai bắc nhịp cầu
Ngôn từ ta gói sắc mầu vu vơ
—————————

(*) Câu thơ của nhà thơ Bùi Sỹ Hoa

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2016

Hãy bền bỉ đánh thức sự tử tế




Tác giả: Kim Yến thực hiện, chân dung hội họa Hoàng Tường (Sài Gòn Tiếp Thị).

.

Nếu ai đã từng xem Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế, và mới đây nhất là Mạn đàm về người man di hiện đại, sẽ hiểu Trần Văn Thuỷ quay quắt như thế nào với từng số phận con người, với đời sống thực của những người cùng khổ, với những giá trị thực đang dần mất đi… Trong ánh chiều le lói, trước bàn thờ tổ tiên, anh kể về nỗi gian truân sau mỗi thước phim, nghe ly kỳ như chuyện cổ tích…Điều gì đã ám ảnh anh khi chọn học giả Nguyễn Văn Vĩnh, chủ bút đầu tiên của báo chữ Quốc ngữ ở Bắc kỳ, một dịch giả xuất sắc, một nhà văn hoá mang nặng tinh thần dân tộc là nhân vật chính của Mạn đàm về người man di hiện đại?

Đầu tiên nên nói rõ ràng rằng ý tưởng và khởi xướng việc làm bộ phim này là của gia tộc cụ Nguyễn Văn Vĩnh, mà cụ thể là anh Nguyễn Lân Bình, cháu nội cụ, người lo toan mọi bề, tôi chỉ là một trong những người thực hiện. Thứ nữa là bản thân tôi luôn bị ám ảnh một điều: chúng ta phải nhận thức lại những giá trị đích thực của dân tộc, nếu không sẽ rất có lỗi với tiền nhân. Tôi nghĩ một dân tộc lớn phải có một nền văn hoá xứng đáng với những danh nhân văn hoá lớn.

Các cụ ngày xưa giỏi lắm, chuyện xưa còn biết bao điều chúng ta phải học. Đụng đến Nguyễn Văn Vĩnh và những người cùng thế hệ với cụ ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ấy, là đụng đến một vấn đề lịch sử rất trọng đại, để thấy được tấm lòng của những người yêu nước, nhưng nhiều người trong thế hệ ấy đã bị hiểu sai, bị xuyên tạc và bôi nhọ. Đọc lại những tài liệu xưa cũ trong và ngoài nước, sang Pháp tìm lại hồ sơ lưu trữ các nước thuộc địa Pháp, hồ sơ của các sử gia, nhà nghiên cứu, chúng tôi thật sự choáng váng. Cuộc đời đầy nghịch cảnh của cụ Nguyễn Văn Vĩnh làm tôi bị ám ảnh. Là người rất tâm huyết với sự thịnh suy của đất nước, là một nhân vật thần đồng, kiệt xuất trên mọi phương diện, vậy mà liên tục trong nhiều thập kỷ, ông đã từng bị cho là tay sai, bồi bút, phản động, liên luỵ đến mấy đời con cháu sau này.

Tôi thường tâm niệm đất nước ta có không biết cơ man những người có tấm lòng ái quốc, hãy vì hậu thế mà đối xử tử tế với họ, cho dù họ ái quốc theo cái cách của họ. Giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã nói trong phim: “Đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh mà chỉ dừng lại ở việc cụ là thuỷ tổ của làng báo tiếng Việt, là người có công phát triển chữ Quốc ngữ và là nhà dịch thuật xuất sắc thì chưa đầy đủ và chưa thoả đáng. Điều xứng đáng hơn, phải nói rằng đóng góp lớn nhất của cụ chính là về tư tưởng. Đó là một trong những nhà tư tưởng dân chủ đầu tiên của Việt Nam mang tính khai sáng”.

Gần bốn giờ với bốn tập phim tài liệu, người xem vẫn chăm chú từ đầu tới cuối, và không khỏi bàng hoàng khi hình ảnh cuối cùng chấm dứt. Bí quyết nào giúp anh tạo nên sự hấp dẫn của bộ phim?


Tôi thường tâm sự với các đồng nghiệp trẻ rằng tiêu chí của phim tài liệu không chỉ là đúng và đủ. Đúng và đủ là tiêu chí của nghị quyết, của các công trình nghiên cứu khoa học. Hấp dẫn là tiêu chí đầu tiên của tôi. Phim tài liệu muốn hấp dẫn, phải đánh động vào thần kinh của xã hội đương đại, khiến người xem tự soi lại mình, rằng ta đang sống như thế nào, ta phải làm gì để có thể sống tốt hơn, lương thiện hơn, tử tế hơn. Trong một xã hội tưởng đầy ắp những dạy bảo, những răn đe, con người vẫn khao khát về lẽ sống, về lẽ phải, chuyện trị nước, yên dân, chuyện hoà hợp hoà giải, chuyện tôn trọng sự khác biệt… Toàn là chuyện “nóng” cả, đâu phải tìm kiếm xa xôi gì tận bên Mỹ, bên Tàu? Làm phim tài liệu không phải để nói bằng được những điều mình nghĩ, mà phải nói được những bức xúc của số đông, đụng chạm đến điều gì sâu thẳm của nỗi đau thân phận con người, khiến người ta suy nghĩ. Đó là một giải mã, một chìa khoá mở ra lối đi cho riêng tôi.

Có một nghịch lý đang diễn ra: sự giàu có về vật chất đang huỷ hoại mối quan hệ giữa con người, anh nghĩ gì về điều này?

Năm 1992, khi làm phim Có một làng quê với đài truyền hình NHK, mô tả đời sống tinh thần thanh bạch, ấm cúng, đầy tình làng nghĩa xóm của một làng quê nghèo Việt Nam sống bằng nghề đào đất nặn thành chum vại, tiểu sành, tôi cứ thắc mắc tại sao người Nhật lại bỏ tiền cho tôi thực hiện bộ phim nói về “cái tôi”, về một làng nghèo như thế, lại còn cho tôi thuê cả trực thăng để quay. Khi cùng xem phim ở Tokyo, những người Nhật Bản đã nói rằng: “Đây là chuyện cổ tích đời nay!” Lúc ấy tôi mới hiểu, người Nhật Bản đã từng nghèo như thế, đã từng tốt với nhau như thế và họ biết hơn ai hết sự giàu lên có khi làm quan hệ con người xấu đi, họ muốn cho con cháu họ thấu hiểu điều đó. Đó là điều mà Việt Nam của chúng ta hình như chưa giác ngộ được.

Chúng ta đang mải chạy theo sự tăng trưởng về kinh tế, sao nhãng quan tâm đến tình người, đến đạo đức, đến sự tử tế. Trong thẳm sâu của mình, khi đặt niềm vui, nỗi buồn vào cái chung, thấy đau đớn lắm. Vào đầu thế kỷ, cụ Phan Châu Trinh đã chủ trương nâng cao dân trí. Điều đó bây giờ vẫn còn rất thời sự. Dân trí hiểu theo nghĩa của riêng tôi là sự hiểu biết rộng lớn, trong đó có sự hiếu hoà, tin cậy, để con người cảm thấy biết sống và đáng sống, chứ không phải ngổn ngang, bê bối như bây giờ. Nguyên nhân sâu xa của sự bê bối là sự xuống cấp về nhân cách. Suy cho cùng thì vấn đề của xã hội Việt Nam bây giờ chính là vấn đề nhân cách. Từ tham nhũng, mua quan chạy chức, băng đảng… đến chuyện nói một đằng, nghĩ một nẻo… Tôi nghĩ loài người từ khi sinh ra đã được dạy rằng hãy nói điều mình nghĩ. Nhưng có lẽ chưa bao giờ nói dối trở thành bình thường như bây giờ. Chống sự suy thoái của đời sống chính là chống sự xói mòn của nhân tính.

Mỗi bộ phim của anh đều gây chấn động dư luận bởi tính phản biện dữ dội về những vấn đề nhân sinh, và cũng gây sóng gió không ít cho chính anh. Điều gì giúp anh giữ được bản lĩnh và sự độc lập một cách bền bỉ như thế?

Tôi chẳng tài cán gì đâu, chỉ có một tấm lòng, cố gắng đi đến tận cùng điều mình cho là có ích. Tôi cũng không can trường, dũng cảm gì cả. Việc nó cần phải thế thì nó thế. Tôi từng là kẻ vô thần, từng nhiều lần, rất nhiều lần chạm mặt với cái chết trong chiến tranh, nhưng bây giờ thì tôi hiểu còn có rất nhiều quyền năng ngoài chúng ta, trên chúng ta mà chúng ta không thể thấy được. Tôi đã từng sống với những giấc mơ khi làm phim về cụ Nguyễn Văn Vĩnh, tỉnh dậy nước mắt giàn giụa… Tôi cũng đã kể câu chuyện giấc mơ này ở cuối phim. Quả thực ở cuối con đường làm nghề này, tôi nghiệm ra sức lực để che chắn, để đứa con tinh thần của mình được đến bờ đến bến còn mệt mỏi hơn nhiều sức lực để làm ra một bộ phim.

Trong cuốn sách mang tên Nếu đi hết biển, bằng những cuộc đối thoại thẳng thắn, chân thành, anh đã đụng chạm đến phần sâu xa nhất của tâm tình người Việt ở Mỹ, những đổ vỡ, ly tán và đau thương của lịch sử dân tộc?

Biên kịch Trịnh Thanh Nhã:



“Cái được nhất, và cũng mang lại cho anh nhiều trắc trở nhất, là anh thẳng quá. Sự thẳng thắn là điều đáng trọng nhất của nhân cách người nghệ sĩ. Bao giờ anh cũng đi thẳng vào tâm điểm rất nóng của thời cuộc, với sự nhạy cảm và trách nhiệm công dân rất đáng trân trọng”


Thực ra tôi chưa có điều kiện làm được việc cần làm như chị nói là “đụng chạm đến phần sâu xa nhất của tâm tình người Việt ở Mỹ”. Tiếp xúc nhiều với cộng đồng người Việt ở Mỹ, tôi không khỏi băn khoăn về cái điều tôi đã nói trong Có một làng quê: “… Nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình…”. Bởi không ít người Việt xa xứ “qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi” mà cuối cùng không thể “trở về quê mình, làng mình” được. Đây gần như là một điều tra xã hội học chân thực và trực tiếp về cộng đồng người Việt tại Mỹ. Tôi may mắn được đi nhiều, với tâm thế của một người nhà quê ra tỉnh, tôi thích quan sát đời sống dân chúng, gần gũi chuyện trò, tìm hiểu những va đập của đời sống bà con hải ngoại ở Pháp, Đức, Anh, Ý, Bỉ, Úc, Nhật, Mỹ… khám phá những xung đột ý thức hệ trong thế kỷ qua, để có thể khôi phục lại một mảng tinh thần hầu như đã vỡ nát vì chiến tranh và những năm tháng khó khăn nối tiếp, giúp cho con người từ nhiều phía hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn.

Nhìn lại đời mình, anh nghiệm ra điều gì?

Nhìn lại những việc mình làm, có những việc lạ lùng, may mắn nhờ thần linh giúp đỡ, phần lớn cũng đến bờ đến bến. Người đời thường nói, ăn ở thế nào đời sẽ trả lại cho mình như thế, nhưng soi chiếu vào những khuất tất trong lịch sử một cách sâu sắc, tôi thấy phần lớn những người có tài, có công với dân, với nước, thì số phận lại hẩm hiu. Tôi có ước mơ không tưởng là làm sao để hậu thế không đi vào những vết xe đổ của chúng ta, làm thế nào hoá giải tất cả những lầm lẫn của chúng ta trong quá vãng, có như thế mới hoá giải hết những kết uất, để mọi con dân nước Việt được yêu thương đất nước này một cách ngang bằng.

Làm thế nào để anh có thể nuôi dưỡng niềm tin trong tâm trạng lúc nào cũng sống trên bờ vực như thế?
Nếu là năm, mười năm trước thì tôi không dám trả lời câu hỏi này. Nhưng bây giờ, tôi có đủ tự tin để nói rằng tất cả những việc tôi làm đều xuất phát từ người xem. Làm phim trong hoàn cảnh thiếu thốn về mọi nỗi, giữa thời kỳ cấm đoán như thế, nhưng tôi chỉ nghĩ đến người xem, chứ không nghĩ đến cấp trên, đến kiểm duyệt. Khi bắt đầu mỗi bộ phim, tôi cũng không bao giờ lo mình có đủ tiền không, có đoạt giải gì không… Người đời thường nói “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

Trong đời thường, anh còn là ân nhân của nhiều học sinh nghèo, những em bé tật nguyền, và đã chắt chiu từng đồng tiền kiếm được để xây bảy cây cầu nhỏ và xây trường học cho làng mình?
Tôi đã làm được nhiều hơn thế, chị ạ. Mười bảy năm nay, tám cây cầu to, rộng, đẹp, bền chắc, xây trường tiểu học, trường mầm non, trường mẫu giáo, nhà trẻ, khu văn hoá, gần một trăm giếng bơm nước sạch, nhiều ngàn mét vuông bêtông đường làng, trợ cấp cho người nghèo và các cháu bị hậu quả chất độc da cam, xây dựng lăng mộ tổ, lập ấp, và nhiều việc khác nữa. Từ một làng quê nghèo khổ, cảnh trí tiêu điều, khó khăn vô cùng mà bây giờ làng tôi đẹp lắm. Tôi không nghĩ đó là việc từ thiện, vì hai chữ từ thiện tôi có cảm giác đó là sự ban ơn. Việc tôi làm chỉ là việc hiếu nghĩa. Làm việc hiếu nghĩa, tôi cũng luôn nghĩ đến thầy tôi (tôi gọi bố bằng “thầy”). Khi sống, ông chỉ lo cưu mang, giúp đỡ những người cơ nhỡ, khó khăn, lo cứu đói cho bà con năm Ất Dậu 1945… Tôi làm như vậy, cũng là một cách để báo hiếu thầy tôi, theo đuổi những việc sinh thời ông từng tâm huyết. Nhưng cũng phải nói thêm rằng, tôi không phải là người giàu có đến mức làm được nhiều việc lớn như vậy. Tôi may mắn có nhiều bạn bè trong và ngoài nước, các tổ chức nhân đạo, từ thiện quốc tế. Họ quý mến tôi, thương tôi và nhiệt tình hỗ trợ những việc tôi muốn làm.

Anh nhắc nhiều đến sự tử tế, dường như đó cũng là điều anh day dứt, đau đáu nhất trong các bộ phim?
Chắc chị cũng còn nhớ mở đầu phim Chuyện tử tế, năm 1985, tôi đã viết: “Tử tế vốn có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức sự tử tế, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia, bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nỗ lực tột bực và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người, người tử tế trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành những người có quyền hành, giỏi giang, hoặc siêu phàm…”. Tết năm nay, tôi được một ông bạn già cho mấy chữ trong bức thư hoạ: “Con người hoà thuận với nhau thì mãi mãi là mùa xuân”. Người xưa nói chí phải.

Cảm ơn anh.

Những giải thưởng đã đạt được

– Những người dân quê tôi, phim đầu tay, quay ở chiến trường khu Năm, đoạt giải Bồ câu bạc tại LHP Quốc tế Leipzig (1970).

– Phản bội, về chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979, giải vàng LHP Việt Nam 1980, giải Đạo diễn xuất sắc.

– Hà Nội trong mắt ai (bị cấm từ 1982 – 1987), giải vàng LHP Việt Nam 1988, giải Biên kịch xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Quay phim xuất sắc nhất.

– Chuyện tử tế (1985), giải Bồ câu bạc LHP quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài gọi là “Quả bom đến từ Việt Nam”, được hơn 10 đài truyền hình lớn trên thế giới mua bản quyền và được chiếu rộng rãi ở châu Âu, Nhật Bản, Úc và Mỹ…

– Chuyện từ góc công viên, Giải vàng LHP hội Điện ảnh năm 1996.

– Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai (1999), giải vàng LHP châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 43, danh hiệu Chứng nhân của thế giới (Witnessing The World) của hội thảo Điện ảnh quốc tế tại New York 2003, Mỹ

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

Đạo diễn Trần Văn Thủy: 'Không hối tiếc khi nói lên sự thật'




Sự thật đó là cảnh ngộ, thân phận con người trong hơn 20 bộ phim tài liệu của ông. Sự thật đó cũng là những lận đận, khó dễ của hành trình đưa các bộ phim tới công chúng, được kể lại trong 'Chuyện nghề của Thủy'.

Tối 18/6, tại Nhà sách Phương Nam, Hà Nội, hai tác giả Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng ra mắt cuốn sách đang gây xôn xao: “Chuyện nghề của Thủy”. Đây là chặng cuối cùng trong hành trình giới thiệu xuyên Việt, qua năm tỉnh thành (TP HCM, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội) của cuốn sách. Như một cái kết trọn vẹn, buổi ra mắt ở Hà Nội giống một cuộc sum họp, đoàn viên của hai tác giả với những người bạn, để họ “gặp mặt, nắm tay nhau, cười vui, ôn chuyện” - như lời tác giả mào đầu sự kiện - hơn là nói về cuốn sách.
Trước đó, tại buổi ra mắt ở Đà Nẵng, Huế, theo đạo diễn Trần Văn Thủy, cả ông và thính giả có mặt đều không cầm được nước mắt, khi những người thật việc thật được nhắc tới trong cuốn sách, trong đó có nhà văn Nguyên Ngọc, xuất hiện. Họ cùng đọc những lá thư cũ, nói những câu chuyện cũ, những cay đắng, vất vả trong hành trình làm nghề của vị đạo diễn hơn 70 tuổi và mừng tủi khóc. Trong buổi ra mắt sách ở Hà Nội, không có nước mắt, ngoài khoảnh khắc xúc động của đạo diễn Trần Văn Thủy khi hồi cố, nhắc tới những ân nhân trong “nghề của Thủy” giờ đã thành thiên cổ. Suốt buổi ra mắt là sự hoan hỷ của người trong cuộc, của người nghe, là những chia sẻ thật lòng, sự đồng cảm, và tiếng cười đến từ cách nói chuyện chân thành có phần tếu táo của vị đạo diễn. Trần Văn Thủy tỏ ra vui khi hành trình ra mắt sách xuyên Việt cuối cùng đã suôn sẻ hơn mong đợi, nhiều bất ngờ, kỷ niệm, mà ông đùa: “Có khi lại phải viết thêm một cuốn sách về chuyến ra mắt này”.

Hai tác giả "Chuyện nghề của Thủy" - Lê Thanh Dũng (trái) và Trần Văn Thủy.

“Chuyện nghề của Thủy”, đúng như cái tên, kể lại cuộc đời làm phim của đạo diễn phim tài liệu số một Việt Nam Trần Văn Thủy, do ông và người bạn thân - Tiến sĩ Khoa học Lê Thanh Dũng nhớ và viết lại. Cuốn sách khởi nguồn từ việc hai nhà nghiên cứu người Mỹ sang Việt Nam thực hiện công trình về đạo diễn Trần Văn Thủy và bộ phim "Chuyện tử tế”, phỏng vấn ông. Người bạn Lê Thanh Dũng khi đó nói với Trần Văn Thủy, tại sao không kể cho chính người Việt mình nghe những câu chuyện này? Và thế là dự án viết một cuốn sách kể lại hành trình làm nghề của Trần Văn Thủy bắt đầu. Đạo diễn cho biết, ông vốn không mấy hào hứng, khi phải lục lọi trí nhớ về những năm tháng khó khăn, nhọc nhằn, lận đận, nhưng chính người bạn Lê Thanh Dũng đã động viên ông và hạ quyết tâm làm. Một người kể, một người chấp bút tái dựng “chuyện nghề của Thủy”.
Cho rằng, mọi điều cần nói đã nói hết trong tác phẩm, buổi ra mắt “Chuyện nghề của Thủy” không nhắc nhiều đến nội dung cuốn sách mà chủ yếu để những người bạn ôn chuyện, chúc mừng nhau. Cuộc trò chuyện với đạo diễn Trần Văn Thủy vì thế đến bên lề sự kiện, khi mọi sự đã xong xuôi. “Tôi thấy bằng lòng. Không dám dùng từ mãn nguyện. Dở hay hay, không biết, nhưng tôi đã nói ra sự thật. Thực ra vẫn còn nhiều chuyện nhưng trong quá trình viết sách, chúng tôi cũng tự lược bỏ đi, bởi mình chọn nói những điều lớn, những điều thuyết phục thì có ích hơn”. Theo Trần Văn Thủy, những gì ông lược bỏ “cũng phải mấy trăm trang nữa”.
Trước sau, trong câu chuyện của Trần Văn Thủy vẫn là hai từ “Sự thật” và “Con người”. Đạo diễn Trần Văn Thủy chia sẻ: “Đối với khoa học xã hội, có lẽ ngoài tri thức ra thì nhân cách và bản lĩnh phải đặt lên hàng đầu, nó thể hiện trách nhiệm của mình với xã hội. Nếu không lăn xả vào nghề, không chịu trách nhiệm, không có chính kiến về tác phẩm của mình thì rất khó đóng góp một cách tích cực cho sự hoàn thiện, phát triển của xã hội. Chuyện nói thật rất cần thiết, tôi từng nói nhiều lần, một dân tộc toàn những người nói dối là dân tộc chết. Thượng đế cho người ta cái mồm, phải nói những điều mình nghĩ".
Đạo diễn Trần Văn Thủy chia sẻ, nói sự thật là điều quan trọng, nếu một xã hội không được nói thật, đó là xã hội bế tắc, ắt dẫn đến tai họa, nhưng nói bằng cách nào còn quan trọng hơn. “Nếu cứ cậy bản lĩnh và trách nhiệm mà không tìm một cách nói để người nghe có thể nghe được, để những người dù mang tư tưởng nào cũng cảm thấy có lý, thì không nên... Nếu có trách nhiệm, suy nghĩ về niềm vui nỗi buồn của đất nước thì phải tìm cách nói thích hợp, không nên nói để hả lòng mình”, đạo diễn chia sẻ.
Trần Văn Thủy nhắc lại những câu cuối cùng trong cuốn sách của ông và Lê Thanh Dũng: Mỗi người có thể có những cách nhìn khác nhau về những gì đã qua (…) Những điều bộc bạch trong cuốn sách này cũng là một cách nhìn. Một cách nhìn thẳng thắn, thiện tâm và thành thật.
Các bộ phim của Trần Văn Thủy đa phần đều hướng tới con người, không phải ngợi ca, tâng bốc, mà xoáy sâu vào tâm tư, số phận cá nhân của họ. Ông nói: “Những bộ phim đầu tiên tôi làm, rất bản năng, nhưng tình cờ đều xoay quanh thân phận con người. Nếu trong một xã hội mà con người luôn là mục đích tối thượng thì mọi hành xử chúng ta sẽ khác, nhưng khi con người chỉ là phương tiện thì... tội quá”.
Với mấy chục năm làm nghề, Trần Văn Thủy tóm lại những nguyên tắc mà ông thừa nhận là quan niệm cực đoan của chính ông: “Bất kỳ một sản phẩm văn hóa nào không có tư tưởng thì không nên gọi là tác phẩm. Còn một tác phẩm rời xa thân phận con người không bao giờ có thể thành kiệt tác”. Cuộc đời gian nan, chìm nổi, cập bến vinh quang, và đến giờ, bước qua tuổi thấp thập, đạo diễn không hối tiếc điều gì. “Tôi thấy mình may mắn. Rất nhiều đồng nghiệp giỏi hơn tôi, đã dấn thân, hy sinh, mất sớm trong chiến tranh hay vì bệnh tật. Nhìn lại tôi thấy, những bạn bè đồng niên của mình chẳng còn mấy người, trong khi mình vẫn còn làm việc, đi đây đi đó, đóng góp cho xã hội thì đó là một hạnh phúc lớn”.
Những "sự thật" trong “Chuyện nghề của Thủy”
Không ít người lo ngại, cuốn sách "nói sự thật" của Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng sẽ khó khăn mới đến được tay độc giả, như số phận những cuốn phim của ông. Nhưng không, tác phẩm đã có hành trình xuyên Việt trọn vẹn. Trần Văn Thủy cũng hài lòng vì ông đã không nói dối một điều gì trong cuốn sách của mình. Vậy, sự thật ở đây là gì?
Từ chuyện một anh cán bộ văn hóa công tác ở Tây Bắc cuốc bộ về Hà Nội xin dự thi lớp quay phim, dù hết hạn thi nhưng được đặc cách vì “từ miền núi xuống”, tới những năm tháng làm phóng viên chiến trường đói khổ, bệnh tật, chui hầm, ngụp lặn dưới nước giấu phim, trốn đám lính Mỹ đang lùng sục khắp nơi, những ngày tháng sốt rét tưởng nằm chờ chết giữa đường. Đạo diễn không ngại thú nhận, trong chiến trường, khi mà nhiều người khác không ngại xông pha, sẵn sàng hy sinh thì người quay phim như ông phải có trách nhiệm sống, tìm cách sống để có được những thước phim, và nếu chẳng may có chết, thì vẫn phải bảo toàn “tính mạng” những cuốn phim đã quay. Trong cuốn sách có đoạn kể, Trần Văn Thủy nằm giữa đường chờ chết, ôm khư khư hộp phim trên bụng với dòng chữ ghi cẩn thận, tất cả là phim quay ở chiến trường, chưa tráng, ai nhặt được xin bảo quản hết sức và gửi giùm về cơ quan có trách nhiệm của ngành Điện ảnh, không được phép mở.
Tác giả cũng kể lại câu chuyện thật mà như phim, khi anh phóng viên Trần Văn Thủy đói quá đã phải ăn cắp con cua đá của đứa trẻ tên Vinh nướng lên ăn, để sáng mai khi đứa trẻ khóc đòi con cua thì cảm thấy nhục nhã quá. Cuốn sách kể những ngày tháng đói không có cái ăn nhưng không dám ăn một hạt gạo rang được dùng để chống ẩm cho phim. Cuốn sách cũng kể những lúc Trần Văn Thủy đứng ngập mình dưới sông quay cảnh chiếc cầu bị bom dội bốc cháy, khi nước duềnh lên lại phải rướn người, giơ máy lên trời.

Đạo diễn Trần Văn Thủy ký tặng sách độc giả.

Cuộc sống chiến trường khó khăn, ác liệt chưa phải là tột cùng gian khổ. Sau lần suýt chết, anh quay phim Trần Văn Thủy không đủ sức tiếp tục bám chiến trường nên trở về Hà Nội. Về đến nơi, nhập viện vì kiệt sức với thân hình 42 kg, Trần Văn Thủy nằm trên giường bệnh rụng rời khi hay tin toàn bộ phim đã quay ở chiến trường, dù còn nguyên vẹn, không ẩm mốc, nhưng không tráng được. Đồn thổi, lời ra tiếng vào, gã Thủy thì quay cái gì, quay vớ vẩn cho hết phim để thoát khỏi chiến trường thôi. Án B-quay treo trước mắt. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của ân nhân Nguyễn Thế Đoàn, Trần Văn Thủy tránh được vòng lao lý. Thế nhưng những thước phim chỉ được in ra bản đen trắng, lại có những đoạn chớp chớp vì tráng lỗi, chứ không phải phim màu. “Đâu rồi những cảnh chân trời bầm tím sau những hàng rào thép gai của đồn bốt, đâu rồi những cảnh cây lê ki ma bị cháy nửa vàng nửa xanh, đâu rồi những hàng dương xanh mướt, những con sóng bạc đầu…”, Trần Văn Thủy đau xót từng khúc ruột. Thế rồi, ông vẫn dựng, dựng cả những cảnh chớp nháy do tráng hỏng vào đoạn chiến trường ác liệt. Đó là cuốn “Những người dân quê tôi” - tác phẩm quay ở chiến trường - sau đó dự thi tại Liên hoan phim Leipzig năm 1970 và đoạt giải Bồ Câu Bạc.
Cuốn sách cũng dành phần lớn để nói chuyện những tác phẩm phim tài liệu của ông sau này, nổi bật là “Hà Nội trong mắt ai” và “Chuyện tử tế”, với số phận long đong khi ra mắt. “Hà Nội trong mắt ai”, thực hiện năm 1982, là cuốn sách "kê đơn bốc thuốc" những căn bệnh của xã hội đương thời, bày tỏ những lời gan ruột về con người, trích các tuồng lịch sử khiến con người ta phải giật mình ngẫm ngợi chuyện thế sự hiện tại. Tác phẩm điêu đứng, bị cấm chiếu lên cấm chiếu xuống, trong khi tác giả của nó bị gắn cho những cái danh “phản bội”, “có thế lực thù địch đứng sau”. Trần Văn Thủy không giấu sự biết ơn những con người mà nhờ có họ, phim của ông mới sống được. Sách trích lời thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi xem phim: “Đừng bắt anh em nghệ sĩ phải chui qua một lỗ kim, theo một khuôn mẫu có sẵn” hay “Tôi lạy các anh, tôi xin các anh, khi duyệt phim thì cố gắng rộng lượng như tôi”. Trần Văn Thủy cũng ám ảnh câu nói của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thốt lên về "Hà Nội trong mắt ai": “Bộ phim này chỉ có thế thôi à các anh?” – “Vâng, bộ phim nó chỉ có thế thôi ạ”. – “Nếu chỉ có thế này thôi thì tại sao lại cấm? Hay vì trình độ có hạn mà tôi không hiểu được?”.
“Chuyện tử tế”, được xem là phần hai của “Hà Nội trong mắt ai”, cũng không thoát khỏi số phận lao đao. Bộ phim xoay quanh việc đi tìm khái niệm thế nào là sự tử tế, bằng cách đi vào tâm tư, thân phận của từng con người trong xã hội khi đó, để nói rằng: “Chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, mà chăm lo riêng cho bộ da của mình” như lời Karl Mark, hay “Ở trên đời này, không có một nghề nghiệp nào, không có một công việc gì và cũng không có một con người nào trở nên tử tế nếu không bắt đầu từ tình yêu thương con người, sự trân trọng con người và đi từ nỗi đau của con người” (lời bình trong phim). Chuyện kể về người bạn Đồng Xuân Thuyết của đạo diễn trong những ngày tháng cuối đời khi lâm bệnh ung thư, một người bình thường nhưng sống có tình nghĩa, chân thành khiến bạn bè thương, tin - một đại diện của lòng tử tế. Chuyện về những người mắc phong bị rẻ rúng, miệt thị, những ông bơm xe là thượng tá, trung tá đã tham gia chiến tranh và có công lao, những người làm gạch ở thôn quê… và mọi số phận trong xã hội. Sau mọi gian nan, trắc trở, “Hà Nội trong mắt ai” sau này đoạt Giải vàng Liên hoan phim Việt Nam 1988. “Chuyện tử tế” thực hiện năm 1985 cũng giành giải Bồ Câu Bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig.

Nhiều người bạn vong niên tới dự lễ ra mắt sách của Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng.

Cũng có ý kiến cho rằng, dường như "Chuyện nghề của Thủy" dành nhiều trang giải trình những khó khăn, lận đận trong nghề, nhất là số phận những bộ phim của ông, hơn là mang đến cho thế hệ sau - những người kỳ vọng ở đạo diễn phim tài liệu hàng đầu Việt Nam một chỉ dẫn về nghề, Trần Văn Thủy cho rằng, nếu là kiến thức làm phim, ông sẽ truyền dạy trong những bài giảng. "Còn viết sách thì nên viết về những khó dễ trong nghề, điều mà chắc chắn người ta sẽ trông đợi để được đọc hơn".
Nhà văn Võ Thị Hảo có mặt tại buổi ra mắt sách của Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng, chia sẻ niềm vui khi chứng kiến sự quan tâm của độc giả. "Chuyện nghề của Thủy kể lại hành trình làm phim cũng như cuộc đời Trần Văn Thủy, được tác giả Lê Thanh Dũng viết lại bằng giọng văn chân thực, giản dị. Tác phẩm có sức hút lớn, chứng tỏ độc giả vẫn khao khát sự thật, và rõ ràng, sự tử tế vẫn đánh thức được lương tri. Tôi nghĩ những người làm nghề, làm phim, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo… có thể nhìn vào để thấy, tại sao người ta thờ ơ với tác phẩm của mình, trong khi có những tác phẩm lại được quan tâm như vậy. Như đạo diễn Trần Văn Thủy nói, phải đánh vào sợi dây lương tâm của con người, cái gì làm cho người ta đau đớn, khát khao, phải đồng hành với sự thật và công chúng. Cảm ơn Trần Văn Thủy, khi anh đã không chọn con đường bằng phẳng, dễ dàng, con đường nhiều lợi lộc hay làm nô lệ mà đã bằng “sự thật” để đồng hành với nhân dân Việt Nam".
“Cảm ơn Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế… cho đến Chuyện nghề của Thủy hôm nay. Nó khiến nhiều người phải nghĩ về điều tử tế. Điều này vừa vui, vừa buồn. Lẽ ra chuyện về sự tử tế chỉ là chuyện của một thời, khi mà người ta phải kêu lên vì thiếu nó, nhưng đến nay điều đó vẫn còn thời sự, thậm chí thời sự hơn”, Võ Thị Hảo chia sẻ.
Có lẽ, không riêng nhà văn Võ Thị Hảo, hẳn trong số nhiều người tham dự buổi ra mắt sách "Chuyện nghề của Thủy", khi ra về, cũng mang trong mình những thắc thỏm về ba chữ: "Sự tử tế".
Kỳ Thư
Ảnh: Mi Ly

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

thơ Gió Phương Nam


thơ Gió Phương Nam






Hà Nội Thu Và Em

chậm về mùa cốm khéo thơm
heo may len mắt hồ…chơm chớm buồn
em cầm ngọt mát hơi sương
tay anh nghiêng cả con đường qua vai
liễu che ngực gió trăng cài
sóng Sông Hồng khẽ liêu trai vỗ bờ
em và thu sẽ bơ vơ
nếu như môi cốm quên chờ lá sen.

Lục Bát Cộng Trừ

một cộng với một bằng hai
em bây giờ cộng với ai bằng tình
mỗi ngày cộng một bình minh
mỗi đêm cộng một bóng hình thành đôi

buồn đầy thì khóc cho vơi
niềm vui cộng với nụ cười thành hoa
cộng anh, trừ hết người ta
trừ người ta, để anh là riêng em.

Gửi Huế

chạm vào mắt Huế mơ say
gió rêu phong dỗ đền đài ngủ yên
nón che nghiêng vạt Tràng Tiền
câu thơ xanh với nỗi niềm Sông Hương

mưa qua Thượng Tứ mưa buồn
nắng ngang tà áo nắng thường tương tư
giọt trăng Đỉnh Ngự ngọt lừ
tiếng chuông Thiên Mụ vọng từ trong sương.

Tình Yêu

lúc em biết gọi tên anh
là khi biển chẳng còn xanh một mình
cỏ hoa cũng đắm ân tình
núi sông cũng biết tượng hình trong nhau

vui buồn hạnh phúc khổ đau
núi cao ngồi dỗ sông sâu yếu mềm
như ngày bồi đắp cho đêm
tình yêu bồi đắp cho em trọn đầy.


.Con Gái Bạc Liêu

con gái Bạc Liêu lúc yêu
cũng dào dạt tựa sóng triều ấy thôi
nghiêng ghe lật úp cả trời
gióng câu vọng cổ sông ngồi ngẩn ngơ

con gái Bạc Liêu làm thơ
cũng đa cảm giữa đôi bờ nhớ mong
dịu dàng câu lục sang sông
díu dan câu bát phải lòng nông sâu.

Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2015

Người đàn bà lấy cắp cơn mưa



Tôi đi Lisbon (1) công tác khá đều. Tôi đáp máy bay đến đó, nếu không phải là hàng tháng, thì ít nhất là tháng rưỡi hay khoảng đó một lần. Nhờ đã có thời gian hồi còn là thiếu niên và thanh niên ở Brazil, nơi mà cha mẹ tôi sống một số năm vì lý do nghề nghiệp, nên tôi biết tiếng Bồ khá đủ để không cần đến thông dịch viên.

Tôi cũng khá rành về thành phố này. Nhiều nơi mà chúng tôi thường đến sau cùng đã bắt đầu trở nên quen thuộc, ít ra là bề ngoài, cho dù ở một mức độ sâu hơn hầu như mọi chuyện về chúng còn cho chúng tôi cảm giác xa lạ.

Cũng là tự nhiên thôi, khi mà nhiều chuyện khác thường xảy ra ở Lisbon không còn làm tôi ngạc nhiên, như thể tôi đã chuẩn bị chờ đón chúng. Vì thế tôi đã không bực bội lắm (hay ít ra là tôi đã không biểu lộ sự bực bội) khi tôi biết khách sạn (năm sao) của tôi đã được đăng ký chỗ hết sạch, và căn phòng của tôi được công ty tôi trả tiền đã có người đến trước tôi ở.

Tuy nhiên, ông quản lý khách sạn thì rất hào phóng trong việc xin lỗi về nhầm lẫn này – việc mà ông không chịu trách nhiệm – và cách ông giải quyết vấn đề rất hoàn hảo, là cho tôi tùy ý sử dụng mà không tính thêm một khoản tiền nào, cả một dãy phòng mà tôi nghe ông gọi là “dành cho tổng thống”, và đó là dãy phòng trên cùng của khách sạn.
Tôi mỉm cười khi nhìn thấy nơi tôi lên đến, thầm cám ơn sự thiếu sót của khách sạn, một sự thiếu sót mà ông quản lý có vẻ đổ thừa cho vận số. Tôi bây giờ là người cư trú độc nhất của dãy phòng xa hoa lộng lẫy có thể ở cả một đoàn tùy tùng, và rõ ràng đó là nơi ở của tổng thống nhiều quốc gia khác nhau và của những người cho mình là VIP chỉ vì tầm cỡ tài khoản của họ ở ngân hàng. Đối với tất cả những người từ nhiều lĩnh vực khác nhau đó (từ bóng đá hay điện ảnh, từ ngân hàng, từ chính trị hay đại doanh nghiệp), mọi thứ trong dãy phòng đó đã lên tiếng với họ, như đã lên tiếng với tôi, qua sự xa hoa, tiện nghi, và những bao lơn mở ra một khung cảnh thành phố rực rỡ.

Không tệ, tôi thầm nhủ, và không nghĩ thêm về chuyện này nữa (mà thật sự đâu cần phải nghĩ gì thêm) để chuyển sang nghĩ những vấn đề khác. Như thường lệ, hai ngày trọ của tôi trôi qua nhanh chóng, mỗi ngày trải qua theo một tiến trình những cuộc hội họp kinh doanh, và kết thúc là dự tiệc chiêu đãi, điều đó có nghĩa là tôi trở về khách sạn trễ hơn tôi muốn. Tôi gần như không có thời gian để lưu tâm đến dãy phòng, vì tôi ít khi ở trong phòng.

Chỉ buổi sáng cuối cùng tôi mới có thể hưởng thụ đôi chút sự sung sướng của gian phòng xa hoa mà tôi cư trú. Tôi đã ngâm mình thật lâu trong cái bồn tắm mà miêu tả cho chính xác hơn thì phải nói là cái hồ tắm, hưởng thụ một trận mát-xa thủy lực theo cách Jacuzzi (2) rất đặc biệt, cạo râu trước một bức tường lắp toàn kính, và yêu cầu dùng bữa điểm tâm ngoài bao lơn. Sau đó tôi mặc quần áo và thong thả sắp xếp đồ đạc, lúc ấy chỉ mới 9 giờ 5, thời gian đăng ký lên máy bay đến 10 giờ 20 mới bắt đầu, và tôi biết taxi bình thường không mất hơn 15 phút từ khách sạn đến phi trường.

Được một lúc chợt tôi nhận ra với một chút ngạc nhiên là không phải chỉ có một mình tôi trong dãy phòng. Có hai người phụ nữ – hai người dọn phòng da đen – mà tôi chợt thấy khi nhìn qua khung cửa mở một nửa – họ đang làm vệ sinh gian phòng khách đại sảnh kế phòng ngủ của tôi. Có lẽ họ đã vào phòng từ cửa hông, có một cửa khác ở đó, có lẽ sau khi đã dọn nhiều phòng ngủ, phòng tắm, phòng trang điểm và 2 hoặc 3 phòng khách trước khi đến gian phòng mà họ đang có mặt. Họ không biết đến sự hiện diện của tôi, vì bận làm việc với mấy cái máy hút bụi, bận đẩy mấy chiếc xe chất đầy bột giặt, đồ dùng phòng tắm, khăn lông sạch, chính tôi cũng không thấy và không nghe tiếng họ vào phòng cho tới lúc ấy.

Trong một thoáng, tôi muốn bảo họ ra khỏi phòng rồi trở lại sau khi tôi đi rồi, nhưng sau đó tôi quyết định ngược lại. Dù sao thì tôi cũng sẽ rời phòng trong chốc lát nữa thôi. Tôi muốn đi tản bộ một chút trên con đường dưới tán những cây lan dạ hương, rồi quay trở lại khách sạn để lấy hành lý và gọi một chiếc taxi. Tôi quay lưng về phía họ và bước tới tủ quần áo, dọn mấy bộ đồ tôi đã mang theo.

Đó là lúc tôi nghe họ nói chuyện. Một trong hai người nói là chính, người kia thỉnh thoảng đệm một câu hỏi hay thốt ra một tiếng tán thán. Giọng của hai người khác nhau.

Cơn mưa, tôi nghe một trong hai người nói. Chính là vì cơn mưa.

Tôi sắp cái áo cộc tay vào va ly, bộ đồ vét và đồ lót, rồi bắt đầu gấp chiếc áo sơ mi. Tôi nghe được tiếng người đàn bà khá rõ.

Chính là vì cơn mưa, chị ta lặp lại.

Trời đã không mưa một thời gian dài, mọi vật đã bắt đầu chết. Cả cây và chim cũng chết. Người ta vấp xác chim chết khắp nơi.

Tôi gấp chiếc sơ mi thứ hai và sắp cả hai vào va ly. Tôi đóng va ly và cài khóa mã bằng một dãy số mới.

Mọi thứ khô cằn, đất nứt nẻ. Tôi nghe người đàn bà nói. Vì thiếu nước. Mặt đất rạn ra. Thú vật hấp hối. Lá khô rúm trên cây, rồi thì cây cũng khô.

Tôi nhìn qua khung cửa. Người đàn bà đang nói đã thôi dọn phòng. Người kia cũng thôi và đang nhìn người nói. Vào lúc đó, có vẻ như tấm trải sàn, bột giặt và xe chất đồ linh tinh không tồn tại đối với họ.

Rồi dân làng bắt đầu bàn tán, người phụ nữ tiếp tục nói, lần này lớn tiếng hơn. Hay có thể là tiếng chị lớn hơn vì tôi hướng về phía chị.

Có người sẽ bị kết tội vì trời hạn hán. Dân làng bắt đầu nói rằng người đàn bà đó sẽ bị kết tội.

Nhiều người khác nói không. Không ai chắc chắn điều gì. Nhưng cơn hạn cứ tiếp tục và mọi thứ đang chết.
Rồi họ mời một pháp sư. Họ đốt một đống lửa và đốt thảo mộc, pháp sư uống bất cứ thứ gì ông phải uống và thức suốt đêm lầm bầm những lời không ai hiểu được. Đến sáng, những Già làng đến, pháp sư bảo họ rằng đó là tội lỗi của người đàn bà. Đó là những gì ông ấy nói và mọi người nghe được. Người đàn bà đó đã lấy cắp cơn mưa.

Khi ấy các Già làng hiểu những gì sẽ xảy ra và họ cúi nhìn xuống đất vì cảm thương cho người đàn bà sống một mình ở ngoài rìa làng. Chồng của chị đã bỏ chị từ lâu, kế đến là con trai chị chết và chị đã khóc đến mức cơ thể quắt queo, mắt chị cạn khô, chị đã trở thành một con người héo hon, lưng còng xuống đất. Chị bỗng giống như thú hoang, không còn nói nữa, chỉ rên rỉ và thỉnh thoảng vào ban đêm, chị rú.

Người đàn bà đó, pháp sư nói trong khi nhìn xuống đất. Ông đốt một tẩu thuốc và chầm chậm nhả khói. Chị ta lấy cắp cơn mưa.

Nhưng không ai muốn giết chị. Ngay cả pháp sư cũng nói đó là điều ông không muốn.

Những Già làng và pháp sư tụ tập ở đó, như chờ đợi điều gì. Tất cả dân làng ngồi dưới một thân cây chờ đợi. Thời gian cũng dừng trôi.

Người phụ nữ đang kể chuyện dừng lại một lúc, như thể chị cũng đang đợi. Người phụ nữ kia không hỏi gì, vẫn lặng thinh, chờ nghe câu chuyện ra sao.

Thế rồi có một người thanh niên tình nguyện. Tôi sẽ đi, anh ta nói. Cứ như thể giết người đàn bà và bị giết thì cũng như nhau.

Người phụ nữ lại dừng lời. Họ như ở đâu đó, ở một chỗ nào khác, ở chỗ câu chuyện thu hút họ. Tôi mở cửa rộng hơn và tò mò nhìn ra họ. Bây giờ tôi chắc chắn họ sẽ không chú ý đến tôi.

Người phụ nữ đang nói mập mạp, khuôn mặt phị. Chị có giọng nói khỏe, ngân nga và thể hiện cử chỉ bằng tay và thân mình. Thỉnh thoảng chị thay đổi nét mặt và giọng nói, như thể chị đang nhập những vai khác. Người phụ nữ kia cột một cái khăn trùm đầu, gầy và trẻ hơn, có vẻ ít bình tĩnh hơn người phụ nữ kể chuyện.

Anh ta đi tới lều của chị ấy và sống đêm đó với chị ta. Anh ta ngủ và làm tình với chị ta. Anh ta đè chị xuống đó, vuốt ve vú và tóc chị ấy, dịu dàng ấp ủ chị ấy và rồi siết chị ấy trong vòng tay anh, như thể anh ta lại làm tình với chị ấy nữa, anh siết cổ chị càng lúc càng chặt cho tới khi chị ngạt thở. Rồi anh bế xác người đàn bà ra khỏi lều, đặt chị nằm trên đất, và mọi người lặng lẽ đi quanh xác chị.

Người phụ nữ dừng kể một lúc và lau mồ hôi trán bằng cánh tay.

Và rồi trời bỗng bắt đầu mưa, người phụ nữ nói. Rồi trời bỗng bắt đầu mưa.

Hai người phụ nữ nhìn nhau không nói. Rồi họ lắc lắc đầu, thở dài và tiếp tục công việc dọn phòng.

Tôi nhìn đồng hồ tay vì không biết đã trải qua bao lâu. Tôi nhận ra chỉ mất mấy phút. 7 phút. Tôi nghĩ mình chẳng cần đến 7 phút ấy. Tôi vẫn còn thừa thời gian. Nhưng tôi cảm thấy không thoải mái.

Tôi xách va ly, mở tung cửa, cố tình gây ra một tiếng động lớn và oai nghi bước qua mặt hai người phụ nữ đang trố mắt nhìn tôi kinh ngạc, phát ra một tiếng “Á” hoảng sợ, như thể họ thấy một con ma.

Tôi ném cho họ một câu gọn lỏn: “Chào buổi sáng”, và đi tới thang máy.

Đăng ký lên máy bay lúc 10 giờ 20, tôi nghĩ thầm trong khi ấn nút và cảm thấy thang máy bắt đầu chạy xuống. Có một cái gì đó trong toàn bộ câu chuyện làm tôi hơi mất ổn định, một cái gì đó trong toàn bộ cuộc trò chuyện kinh khủng của phụ nữ, mà tôi đã vì lý do phi lý nào đó, lại lắng nghe. Tôi chưa bao giờ nghe lén những cuộc trò chuyện, nhất là những cuộc trò chuyện của phụ nữ. Tôi lại nhìn đồng hồ tay và tính xem tôi cách bao nhiêu thời gian với thành phố tôi sống, ở một nơi khác thuộc châu Âu.

Chỉ khi phi cơ cất cánh tôi mới bắt đầu nhìn thấy nhiều việc theo cách khác. Tôi đã trải qua hai ngày ở Lisbon và, với cái giá của phòng tiêu chuẩn, tôi nhủ thầm, tôi đã chiếm cả một dãy phòng lớn, chắc phải đến 15 phòng, đã chiếm những bao lơn lớn và một phòng tắm kích cỡ bằng một hồ tắm. Và rồi đột nhiên, tôi đã mở một cánh cửa và thấy ở phòng kế cận, một mảnh đời châu Phi, hoàn toàn nguyên sơ, như một vùng rừng trinh nguyên. Trong 7 phút, chính xác là 7 phút, tôi đã lạc giữa rừng già.

Tôi mỉm cười, nghĩ rằng chuyện này mà kể với ai khác, ví dụ như kể cho người khách bên cạnh tôi hay cho cô tiếp viên vừa đem lại cho tôi ly uýt-ky. Họ sẽ nghĩ là tôi say hay là khùng điên.

Nhưng tôi không say hay khùng điên, tôi nghĩ, tôi lại mỉm cười và ngả mình vào ghế. Tôi không có sai lầm gì cả. Chỉ có thể là Lisbon lạ lùng.

(Từ The Woman Who Stole the Rain)
Teolinda Gersão (Bồ Đào Nha)
Võ Hoàng Minh (dịch)








Teolinda Gersão sinh tại Coimbra, Bồ Đào Nha. Bà học ngôn ngữ Đức, Anh và Rôman (Romance) tại các trường đại học Coimbra, Tuebingen, và Berlin. Rồi làm giảng viên Bồ Đào Nha tại Đại học Technical Berlin, và là giáo sư tại New University of Lisbon, tại đây bà dạy Văn học Đức và Văn học So sánh cho đến năm 1995. Sau đó, bà dành toàn bộ thời gian cho việc sáng tác. Bà là tác giả của 12 tập tiểu thuyết và tập truyện ngắn. Tiểu thuyết đầu tiên của bà, O Silencio (Sự im lặng), in năm 1981, được giải thưởng PEN Club, và được vinh danh là “Sách của năm”, sau này được xếp vào danh sách “100 tác phẩm Bồ Đào Nha hay nhất” của thế kỷ XX. Bà được một giải thưởng PEN nữa về sáng tác năm 1989 và được giải Grand Prix của Hội Nhà văn Bồ Đào Nha, giải thưởng Critic Award của Hội Phê bình Văn chương Quốc tế (ICLA), và giải thưởng về Truyện ngắn Grand Prix Camilo Castello Branco. Tác phẩm của bà cũng vào chung khảo giải thưởng về Tiểu thuyết European Prize Aristeion. Bà đã sống 2 năm ở São Paulo và một thời gian ở Mozambique, nơi là bối cảnh tiểu thuyết A Árvore das Palavras (Cây Chữ) năm 1997 của bà. Cây Chữ – The Tree of Words – là tiểu thuyết đầu tiên của bà được in bằng tiếng Anh.

Những tác phẩm của bà đã được dịch sang nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan, Ý, Rôman, Ả Rập, Bulgaria, Czech và Croatia.
Truyện ngắn dưới đây được Margaret Jull Costa dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản Việt dịch theo Margaret Jull Costa.


(1) Lisbon: thủ đô Bồ Đào Nha.
(2) Jacuzzi: bể tắm, mát-xa bằng thủy lực.

Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Võ Nguyên Giáp (1911 – 2013)



Lê Dọn Bàn




Võ Nguyên Giáp



(25/08/1911 – 04/10/2013)

1.

Ông đứng hùng vĩ cùng những khổng lồ của tài lãnh đạo quân sự trong lịch sử 2.000 năm qua. Ông cao lớn ngang tầm Alexander Đại đế. Ông vượt qua Napoleon. Ông vượt qua tất cả những tướng lĩnh của chúng ta. Ông là con người vĩ đại của tất cả mọi thời.

Một người lính trận, và một người yêu nước, cho đến cuối.[1]

Tướng Giáp là hiện thân đặc tính người Việt, dùng trí tuệ của họ để đưa ra những chiến thuật và chiến lược, nhờ đó kẻ xem dường yếu có thể đánh bại kẻ mạnh. [2]

2.

“Thù nước lấy máu đào đem báo”. Tướng quân và những người cùng ông đã thực hiện được ý muốn đó của lịch sử dân tộc. Họ không định làm anh hùng, không mong thành danh tướng, Họ chỉ đơn giản khát vọng làm người – người Việt.

Mỗi khi bị thử thách, đe dọa, tước đoạt, khát vọng này lên tiếng, một lần mới đây, trước ăn cướp phương Tây, đã nói chân thực trước giờ hành động – “không thành công thì thành nhân”. Đó cũng chỉ là lập lại lần khác, bảy trăm năm trước, đã hào hùng với cường địch phương Bắc – làm người Việt dù chết còn hơn sống – “làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.

Trước thảm họa xâm lăng mới, đám “bạch quỉ” tàn nhẫn, bọn “Pha lang sa” dơ dáy, những con thú thực dân mê muội nhất của phương Tây, hậu duệ của Alexander lẫn Napoleon, vừa cuồng bạo với “tàu đồng súng sắt”, vừa đặc biệt đóng vai “trưởng nữ của hội nhà thờ La mã”, trước sau vẫn cuồng tín với “chính nghĩa” thập giá [3]. Tướng quân và những người cùng ông, theo bản năng sống còn của dân tộc, không có và cũng không cần chọn lựa nào khác, họ chỉ đơn giản làm theo, như lời uất ức của một nhà vua mất nước: “Nước bẩn thì lấy máu mà rửa”.

3.



Đừng như Thomas Carlyle xem lịch sử là một tổng hợp tiểu sử những anh hùng, chỉ gồm những chân dung vĩ đại của quá khứ chọn lọc. Carlyle bảo rằng những anh hùng, với tài năng xuất chúng của họ đã định hình dạng cho lịch sử, họ đã “viết” lịch sử. Nhưng như đồng ý với câu nói “một con én đâu làm nổi mùa xuân” đã có của chúng ta; Herbert Spencer, có phần hữu lý, khi ông thu hẹp vai trò của cá nhân, và trong một ý hướng – cho rằng “thời thế tạo anh hùng nhiều phần hơn anh hùng tạo thời thế”. Những nhà lãnh tụ là sự thể hiện qua cá nhân những điều kiện tổng quát của xã hội, và tích lũy của dân tộc qua thời đại. Những cá nhân lỗi lạc đơn lẻ không là “tác giả” của những biến cố lịch sử, dù họ đóng những vai trò quan trọng, nhưng chính xã hội và thời đại đã cho phép họ đóng; trước sau họ vẫn là sản phẩm của xã hội. Spencer khằng đinh rõ hơn – “dân tộc, xã hội đã phải có đó, trước khi có người xoay chuyển chúng”, dân tộc sản xuất, xã hội gầy dựng người anh hùng, hay như chúng ta vẫn nói – anh hùng là người con yêu của dân tộc, đó cũng là cách nói thêm, của một thời đại – nghĩa là trong xã hội lịch sử – nào đó.

Trong những giờ phút “quyết định của lịch sử”, dĩ nhiên tài lãnh đạo của họ có thể xoay chiều, làm nên khác biệt, rõ ràng nhất trong vận động cách mạng, khi xã hội đang sôi sục phá cũ tìm mới. Nhưng sinh mệnh dân tộc đã tuôn chảy đến và chờ đợi sẵn ở thời điểm đó; lúc ấy quyết định nào gây được tác động, dù chỉ từ một người – nhưng tiếp theo phải có đa số dân tộc, xã hội cùng làm, mới thành công, mới nên quyết định lịch sử. Ngay cả tài lãnh đạo của họ, cũng không hẳn phải là duy nhất hay cao nhất, nhưng chỉ đơn giản là đã thuận với hướng chảy của xã hội hay dân tộc, nên cho họ cơ hội thi thố. Nói như thế để đừng lẫn lộn với quan điểm “lấy thành bại luận anh hùng” – vì lịch sử, đã có thể có những tài năng cá nhân khác, nhưng do nhiều lý do phức tạp của quá khứ, nay chúng ta không biết tới.

Hãy nói về nước Nga cho khách quan hơn. Những mảnh đời vỡ vụn, những lạc đường bị lịch sử đất nước họ nghiến nát, những “Bạch Nga” lưu vong, những“Bạch vệ” tháo chạy, họ vẫn đổ tất cả những thất bại chung, hay thảm kịch riêng, vì giản dị và tiện lợi, vào dăm ba khuôn mặt lịch sử, điển hình như lối nói – Không có Lenin, đã không có cách mạng Nga! – Dù có thiện cảm đến đâu với những đau thương của họ (cách mạng nào không có những nạn nhân đau thương, vì bản chất của cách mạng theo phương thức phương Tây là bạo động), nhưng vẫn không thể nào đồng ý, vì đó không là lý luận, chỉ là lối nói của tâm lý yếu nhược, phản những gì chúng ta vừa suy nghĩ, là lịch sử không bao giờ viết bởi những chân dung, dù vĩ đại đến đâu, và cũng không chỉ cho một quá khứ tập thể chọn lọc nào, lại càng không với bất kỳ một cá nhân hạn hẹp chất chồng đau khổ nào, chưa kể lịch sử bao giờ cũng là tác động nhiều chiều, tìm lý do cho một biến cố nhỏ nhất cũng có thể đi đến vô tận những liệt kê dài dòng nhất, nhưng một liệt kê nào đáng bõ công đọc, cũng sẽ phải có ít nhất đủ cả hai chiều.

– Hiển nhiên Lenin đóng một vai trò, và cả những Mensheviks lẫn Bolsheviks cũng đóng những vai trò cách mạng; nhưng khi cách mạng 1917 bùng nố, Lenin ngay cả vẫn còn ở ngoài nước Nga, và Bolsheviks chỉ là một đảng nhỏ, yếu. Tuy nhiên, chỉ ba năm sau, cuộc cách mạng họ khởi xướng, bùng lên thành giông bão, cuốn họ đến trước Hoàng cung Mùa Đông ở kinh đô Petrograd, vì họ là đám đông, là sức mạnh của dòng sống thời đại Nga cuộn chảy, theo những gì dân chúng Nga đang khi ấy hằng mong đợi.

4.



Điều này càng rõ ràng hơn trong trường hợp chúng ta: sinh mệnh dân tộc như một giòng sông, khi bình an quanh co êm ả giữa những ruộng đồng ngăn nắp, xanh màu mạ tươi hay thơm mùi lúa chín, mọi giọt nước đều nhu thuận theo giòng chảy. Nhưng khi phải vượt qua những ngăn chắn, kềm giữ, nó là sóng gào, nước tung; giòng sông khi ấy thành thác đổ, những giọt nước dù nhỏ bé nhất, cũng hợp sức nhau cùng tràn bờ, phá ghềnh, đi tới, để thoát, giòng sông thành giòng sống.

Những khuôn mặt vĩ đại là tiêu biểu của những thế hệ hào hùng trong chuỗi dài những vận động lịch sử của dân tộc, người anh hùng như Tướng quân là một trong những đứa con đã “giữ được nhà, bảo vệ được nước”, trước sau, ông làm chuyện dời non lấp biển đó với đông đảo, với đồng thuận của cả hai ba thế hệ yêu nước của dân tộc. Họ đã cùng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” – đã “sắt thép trong ý chí, để đánh trả, để săn tìm, và không thể nhịn” được nữa.[4]

Võ Nguyên Giáp, đúng hơn, Tướng quân là khuôn mặt của tất cả thế hệ đích thực đó của dân tộc, họ đã sống như thế, hành động như thế, thể hiện sự sống của họ như thế, họ không có và cũng không thể, và cũng không cần chọn lựa nào khác cả. “Nên thế này, đã thế kia, hay phải chi đừng thế nọ, ...”. Ngay cả sự khen ngợi cũng đã hàm ý đề cao tự ngã và bất kính, còn những ai vẫn phê bình lịch sử sống còn của dân tộc, hết sức ấu trĩ và đầy ngu xuẩn như thế – họ đứng ở đâu?

Lịch sử của dân tộc, viết bằng đa số của cả dân tộc, và quan trọng với tất cả chúng ta, vì nó giúp chúng ta hiểu hiện tại, định hướng tương lai. Lịch sử chỉ có một, những gì đã xảy ra, một nơi, khi ấy, là thật, duy nhất, nên không thể so sánh với gì khác được, không có gì khác để so sánh, và như thế cũng không là đúng, hay sai, bởi yếu tính của lịch sử là sự việc của quá khứ và chỉ có-một quá khứ. Nhưng lịch sử cũng còn dạy chúng ta những bài học, cả đúng lẫn không đúng, tùy sự nhấn mạnh trên những sự kiện, thực hay chỉ phần nào là thực, đều được lựa chọn, mọi sử gia dù đáng tin đến đâu, bao giờ cũng chỉ đưa ra được những một nửa-sự-thật, họ chỉ chiếu “ánh sáng lịch sử” vào những chỗ họ thấy được, hay muốn chúng ta xem cùng, và cũng hoàn toàn tùy chỗ đứng của họ. Columbus là anh hùng tìm ra Tân thế giới, hay kẻ tội đồ nhân loại đã mở đường cho sự diệt chủng các dân tộc bản địa Trung và Nam châu Mỹ? Charles de Gaulle, anh hùng, giải phóng nước Pháp, hay chỉ là một tên thực dân ngạo mạn, ngay cả cuộc đổ bộ lên Normandy cũng không tham dự, trước sau đều nhờ quân đội Anh và Mỹ?

Trong trường hợp Võ Nguyên Giáp – chỗ đứng đó là lòng yêu nước dành độc lập, bài học đó là lòng yêu nước phá xâm lăng, trọn sự thật toàn vẹn đó là lòng yêu nước, và chỉ có yêu nước chân thực mới thực sự cứu được đất nước, cho mình và cho mọi người.

Bài học đó thực với tất cả thù địch, nhưng đúng với chúng ta – phải là đúng với chúng ta; với những người Việt tự hào, những người Việt thấy đất nước mình đã được cứu sống, khi hiên ngang đứng dậy từ những chiến hào ngổn ngang xác lính Pha lang sa lẫn lộn xác Việt mặc quần áo lính Pha lang sa. Kẻ trước (Pha lang sa) tuyệt không có lý do nào đến nằm chết ở đất này, và những kẻ sau (Việt mặc áo lính Pha lang sa) tuyệt không có lý do nào nằm chết cùng kẻ trước.

Ở Điện Biên Phủ, 5 giờ, 30 phút, chiều ngày 7, tháng 5, năm 1954.


http://chuyendaudau.wordpress.com



________________________________________

[1] Michael Sullivan, NPR News. (Hệ thống truyền thanh tin tức trên toàn nước Mỹ)

DAVID GREENE, (HOST): This is MORNING EDITION, from NPR News. I'm David Greene. RENEE MONTAGNE, (HOST): And I'm Renee Montagne. Let's remember, now, a legendary Vietnamese general. Vo Nguyen Giap has died at 102. It was Giap who defeated the French at the battle of Dien Bien Phu, which effectively ended a hundred years of French colonial rule in Southeast Asia.

For many Americans, Giap is best known as the architect of the campaign that was a turning point in the Vietnam War. The 1968 Tet Offensive caught U.S. commanders completely by surprise; striking across South Vietnam, and leading to the conclusion that an American victory was not possible. Michael Sullivan has more.

MICHAEL SULLIVAN, BYLINE: Pham Thach Tam is a former artillery man and political commisar who would have followed Gen. Giap anywhere, and pretty much did. He was with the young Giap early on as he fought against the French in the mountainous north of the country, in the Red River Delta, and later against the Americans in the South.

PHAM THACH TAM: (Through translator) He ordered, we followed. No matter how great the obstacle or the hardship, we were willing to do what he said, even if it meant death. Gen. Giap had no training in military matters, yet he fought and won against the French and the Americans. For me, he was a genius.

SULLIVAN: Cecil Currey is a retired professor of military history whose biography of Giap is called "Victory at Any Cost."

CECIL CURREY: He stands with the great giants of military leadership back 2,000 years. He measures up to Alexander the Great. He surpasses Napoleon. He surpasses all of our generals. He's a great man for all time.

SULLIVAN: Giap's biggest victory was against the French at Dien Bien Phu in 1954. The French general, Henri Navar Navarre, confident that Giap would never be able to drag artillery up the steep mountains that surrounded the isolated French base near the border with Laos. Navarre was wrong. By the time the battle actually began, Giap had far more guns and men than the French, many of the guns U.S. weapons captured by the Chinese during the Korean War.

TED MORGAN: He planned it very carefully, and he relied on the lag in French intelligence so that by the time that Navarre realized that Dien Bien Phu was surrounded and that Giap's army had artillery, it was too late. The artillery was there.

SULLIVAN: Ted Morgan is the author of a new book, "Valley of Death: The Story of Dien Bien Phu." [POST-BROADCAST CORRECTION: Morgan's book was published in 2010.]

MORGAN: He followed a very simple Clausewitz formula: superior forces, superior armament, and the will to win. So you had an entrenched camp with 10,000 men in it, and Giap had 50,000 and many, many more coolies doing all the heavy lifting.

SULLIVAN: The French defeat at Dien Bien Phu spelled the end of French colonialism in Southeast Asia - a bittersweet moment for Gen. Giap, who during the years of French occupation lost his father, wife and sister, all of whom died in French prisons. But Giap was not known for being sentimental. Some critics say he sacrificed his troops indiscriminately, to achieve victory. Others say he was more concerned about his soldiers than he let on.

CURREY: I think both are true.

SULLIVAN: Biographer Cecil Currey.

CURREY: He said: At some point, everyone has to die; and it's better for people to die for our cause than to die willy-nilly. And so he was utterly willing to use large numbers of troops, and suffer their casualties. At the same time, he did as best he could. Even during the battle of Dien Bien Phu, he had an R&R team out in the field, giving the men a respite against that 55 days of horror.

SULLIVAN: There would be no respite for the French, nor for the Americans more than a decade after Dien Bien Phu - Gen. Giap, the architect of the 1968 Tet Offensive, which shocked U.S. military commanders and eroded American support for the Vietnam War back home. After the communist victory in 1975, Gen. Giap remained active in government but fell out of favor in the late '80s, and spent several decades in the political wilderness. In the past few years, however, he began speaking out - forcefully, as always - against what he saw as new threats to his country.

CARL THAYER: Well, Gen. Vo Nguyen Giap will be remembered throughout the world, by people who follow Vietnam - particularly the Vietnamese community - for his recent advocacy on the bauxite mining, raising environmental issues, relations with China.

SULLIVAN: Carl Thayer, a Vietnam watcher at the Australian Defence Forces Academy, says bauxite mines now under construction in Vietnam - built by China - have angered both environmentalists and nationalists who view China with suspicion - among them, retired Gen. Giap. [POST-BROADCAST CORRECTION: Thayer's affiliation is with the Australian Defense Force - not Forces - Academy.]

THAYER: And he'll also be known for his lesser-known interventions in letters to the senior leadership, bitterly criticizing the role of military intelligence in providing information that could be used to suppress domestic dissent; and also, really arguing that the party needed to open up, and its procedures should be more democratic. So he'll be seen as a kind of retired Mandarin who is able to offer advice without anything to gain by it because mortality faced him when he made these statements. And this will be seen as acting in a highly moral and ethical fashion, in Vietnamese culture.

SULLIVAN: A warrior, and a patriot, to the end.

[Michael Sullivan, NPR News. Copyright © 2013 NPR. For personal, noncommercial use only. See Terms of Use. For other uses, prior permission required. (POST-BROADCAST CORRECTION: The obituary of Gen. Vo Nguyen Giap was prepared three years ago and includes observations by Giap biographer Cecil Currey, who died in March.)]

[2] Vietnam’s Vo Nguyen Giap: The Last Centurion - Carlyle A. Thayer. Oct, 2013:

Vo Nguyen Giap’s career effectively spans sixty-four years from 1927, when he was expelled from Lycee Quoc Hoc for political activism, to 1991 when he formally retired from all party and state positions. His career can be broken into five phases:

(1) 1927-1944 when he was a student activist, journalist, political agitator, prisoner, teacher and post-graduate student;

(2) 1944-73 when he held several posts including commander of the People’s Army of Vietnam, Minister of National Defence and member of the Politburo;

(3) 1974-80 when he gave up operational control of the military and held the posts of Vice Premier, Minister of National Defence, and member of the Politburo;

(4) 1980-1991 when he ceased to be Minister of National Defence and member of the Politburo; in this period he took responsibility for science and technology, demography and family planning, and then education; and

(5) 1991-2013 Giap relinquished his last government post as Deputy Premier and went into permanent retirement.

General Giap’s main legacy derives from his role as commander of the People’s Army of Vietnam in phase two (1944-73). He began as leader of a 34-man platoon and developed it into a people’s army of several hundred thousand in less than ten years. At the same time he integrated the military writings of Napoleon, Clausewitz and Mao with Vietnam’s ancient military tradition.

General Giap mastered the art of people’s war by mobilizing the population to fight and to become porters in his vast logistic network. Giap combined political and military struggle. He aim was to drive the French out of Vietnam in a protracted war. His masterstroke was his execution of the campaign that led to the defeat of the French at Dien Bien Phu. Giap feinted by sending his forces into Laos and then rapidly changed direction to invest the valley of Dien Bien Phu. General Giap quickly discarded the advice of Chinese advisors to launch human wave assaults on the French garrison. Giap employed siege tactics fed by a logistics train that brought him food, supplies, weapons and ammunition.

The importance of the battle of Dien Bien Phu is that it marked not only the defeat of French colonialism in Indochina but colonialism as a worldwide system. Within eight years the French would suffer defeat in Algeria.

Giap’s Biography – The Official and the Unauthorised Versions:

There are two versions of the life and career of General Vo Nguyen Giap. The first is the authorized official hagiography that credits General Giap with all of Vietnam’s military successes since 1944 and portrays him as the brilliant flawless general.

The second version of General Giap’s career is unofficial and it reveals that he was a strong-willed – some would say intellectually arrogant - individual who bristled at interference in his role as commander of the armed forces. He was once described as the “snow capped volcano” because of his rumoured hot temper.

Giap had many supporters but many detractors as well. His active career was dogged by constant friction with his detractors and rivals who never hesitated to criticize him. His critics were motivated both by ideological dogmatism and jealousy that Giap’s popularity would undermine their power. This was the era of the faceless collective leadership.

During his career Giap faced criticism for seeking a scholarship from French colonial authorities, some even intimated - if not accused him - of being an agent of the French Surete. He was also lambasted for his French education by earning the baccalaureate, studying at the prestigious Lycee Albert Sarraut where he ranked first in philosophy, and University of Hanoi Law School where he graduated with a first in political economy. Giap’s academic achievements were turned against him by his rivals. Giap, after all, was the only member of the party’s inner leadership to have received a western education.

The unauthorized account of Giap’s career reveals a divided collective leadership and sharp rivalries between individuals. Giap’s clash with ideologue Truong Chinh is legendary, as were his later clashes with General Nguyen Chi Thanh and Le Duan, first secretary of the party.

In 1946 Truong Chinh, second in rank after Ho Chi Minh, unsuccessfully opposed Giap’s elevation to the rank of full general and commander of the People’s Army. Truong Chinh and Giap disagreed over the scope and extent to which Chinese military advisers should influence Vietnam’s battlefield strategy and over Giap’s authority to unilaterally appoint key aides. In 1951 General Giap prematurely went on the offensive and ordered his troops to attack fortified French positions in the Red River Delta. The offensive failed and the People’s Army suffered heavy casualties. Giap was forced to undergo self-criticism, dismiss several key aides, permit the establishment of a political commissar system within the military, and accept Chinese military advisers at various levels in the People’s Army. After the end of the first Indochina War (1946-54) Vietnam was partitioned. Although Giap had enormous prestige his critics continued to challenge his authority and question his conduct of the war in South Vietnam. Party first secretary Le Duan pushed for the overthrow of the southern regime, Giap was more cautious and they locked horns.

Giap’s detractors succeed in promoting Nguyen Chi Thanh (1959) and later Van Tien Dung (1974) to the rank of full general. Up until their promotions Giap was the only full general. Both generals took operational control of the war in the south out of Giap’s hands.

In 1960, Giap was dropped from fourth to sixth in Politburo rankings at the third national party congress. Nikita Khrushchev’s advocacy of peaceful coexistence in the 1960s was anathema to many in the Vietnamese leadership. Giap, who leant towards the Soviet Union for its military support and who was critical of China, was out of step with his colleagues. Once again he came under criticism by his peers.

In 1965, when the United States introduced combat troops into Vietnam, Le Duan and Nguyen Chi Thanh ordered northern People’s Army units into the fray. Thanh engineered the 1968 Tet Offensive but died of a heart attack before it was executed. The southern communist underground suffered enormous casualties. Giap was vindicated and his fortunes rose. Following Ho Chi Minh’s death in 1969 a new leadership triumvirate emerged: Le Duan, Pham Van Dong and Vo Nguyen Giap. Giap at that time held three important posts: member of the Politburo, secretary of the Central Military Party Committee and Minister of National Defence. But he never regained operational control of the armed forces. Giap opposed both the Tet Offensive and 1972 Nguyen Hue Offensive (Spring or Easter Offensive) and was overruled on both occasions.

In April 1972 General Van Tien Dung led the Nguyen Hue Offensive and in October 1973 was named commander of the final offensive of the war, the Ho Chi Minh Campaign. Tellingly, it was a senior civilian member of the Politburo, Le Duc Tho, not Giap, that directed the People’s Army to begin their final offensive by attacking Ban Me Thuot in the highlands. After the reunification of Vietnam, General Giap remained as Minster of National Defence until 1980. But it was General Van Tien Dung who commanded the Vietnamese forces that invaded Cambodia in late 1978 and defended northern Vietnam in February-March 1979 when China invaded in retaliation.

Clearly Giap’s star was fading fast. In 1976 General Van Tien Dung delivered the military report to the fourth national party congress. Giap was given the task of delivering the party’s policy on science and technology. Giap unsuccessfully opposed the post-war assignment of the military to domestic construction tasks; nonetheless he bowed to the party’s principles of “democratic centralism” and defended party policy in public. In February 1980 Giap relinquished the defence portfolio but retained his position as Deputy Premier. In 1981,Giap was demoted from first to third Deputy Premier. In March 1982 Giap was dropped from the Politburo at the fifth national party congress but retained his seat on the Central Committee.

Giap had enormous popularity and had strong support in the party. In the-mid 1980s his supporters pushed unsuccessfully for Giap to replace Pham Van Dong as Premier. It was also strongly rumoured that Giap’s supporters also campaigned for him to become party leader. Giap then shuttled between various posts first with responsibility for demography and family planning and then education. His government service ended in 1991 when he retired as Deputy Premier. It is difficult to make an evaluation of Giap’s contributions during this period. Vietnam was led by a collective leadership that until 1986 continued to follow the failed Soviet model of central planning. What is remarkable is that Giap continued in government service until aged eighty.

The China Factor: General Giap’s long career clearly indicates that he was willing to accept Chinese aid and even advice but struggled to retain Vietnam’s autonomy and independence of action. Giap leaned more towards Moscow than Beijing during the war because of the “big ticket” military hardware the Soviet Union provided including anti-aircraft missiles. Although the Soviets reportedly advised Giap “to do an Afghanistan” by invading Cambodia and overthrow the Chinese-backed Khmer Rouge, Giap opposed large-scale military intervention. Giap was fully retired when China and Vietnam normalized relations in 1991.

During his retirement years Giap is best known for two famous interventions. In 2004 he penned an open letter to the Politburo complaining about the intervention of military intelligence (Tong Cuc II) in internal party affairs. In 2009 he attracted much public attention when he wrote three open letters to party and state leaders warning of the environmental impact of Chinese-financed bauxite mining in the Central Highlands. He took the matter further by arguing that it was a threat to national security. This struck a resonant cord among the general population who were growing increasingly restive about Chinese assertiveness in Vietnam’s Eastern Sea.

Military Strategist Par Excellence: General Vo Nguyen Giap was a world-class military strategist. Who could have imagined in 1944, when he took command of a 34-man platoon, that in ten years he would raise an army of several hundred thousand and defeat the French, one of the most powerful military forces at that time. Giap gained enormous prestige and credibility for his victory at Dien Bien Phu which lasted throughout his lifetime.

His popularity rests on several foundations. First, millions of Vietnamese served in the People’s Army when Giap was their commander and Minister of National Defence. He inspired them. These war veterans and their families constitute a very large constituency in Vietnam. Secondly, after Ho Chi Minh and perhaps Pham Van Dong, General Giap was the only national leader to stand out from the colourless collective leadership. He was charismatic and articulate and inspired the general populace. He was the national hero Vietnam needed when it was faced with foreign aggression from 1946 until 1973 and again in the 2000s when China threatened Vietnam’s sovereignty in the East Sea. Giap’s post-military career took him into important areas related to development: science and technology, demography and family planning, and education. This was a third foundation for his popularity. General Giap’s popularity rests on successful career spanning sixty-four years of active service to the Vietnam Communist Party, the People’s Army of Vietnam and the Vietnamese nation. He will be forever remembered for creating the People’s Army of Vietnam and masterminding the defeat of two major foreign powers.

General Giap has clearly captured the emotions of both the younger and older generations in Vietnam. This is witnessed by the spontaneous outpouring of grief by citizens of all ages who flocked to his home to light candles and incense. General Giap embodied the Vietnamese character of using their intellect to devise tactics and strategies by which the seemingly weak could defeat the strong.]

[3] “Chủ nghĩa thực dân là một hình thức của chủ nghĩa đế quốc (tự cho là mình có) sứ mệnh thiêng liêng và được Gót thiết kế để mang lại sự giải phóng - tâm linh, văn hóa, kinh tế và chính trị - hiểu là bằng cách chia sẻ các phước lành của văn minh đã khởi hứng từ Kitô của phương Tây, với một dân tộc dã man còn đang đau khổ dưới sự áp bức của quỉ Satan, ngu muội và bệnh tật. Chủ nghĩa thực dân được thực hiện bởi sự kết hợp của các lực lượng chính trị, kinh tế và tôn giáo, tất cả hợp tác dưới một chế độ (tự cho là) tìm kiếm lợi ích cho cả hai: kẻ thống trị và kẻ bị trị”. Đó là ý nghĩa nền tảng của giọng điệu tự cao là “mang ánh sáng văn minh đi khai hóa” đám dân “An-mam-mít bẩn thỉu”.

(“Colonialism is a form of imperialism based on a divine mandate and designed to bring liberation - spiritual, cultural, economic and political - by sharing the blessings of the Christ-inspired civilization of the West with a people suffering under satanic oppression, ignorance and disease, effected by a combination of political, economic and religious forces that cooperate under a regime seeking the benefit of both ruler and ruled”)

J.H. Boer, Christianity and Islam Under Colonialism in Northern Nigeria (Jos: Institute of Church and Society, 1988) p. 7.

[4] Những câu cuối bài thơ “Ulysses”, của Alfred Tennyson.
[… We are not now that strength which in old days
Moved earth and heaven, that which we are, we are;
One equal temper of heroic hearts,
Made weak by time and fate, but strong in will
To strive, to seek, to find, and not to yield.]

Posted by Lê Dọn Bàn at 9:52 AM


Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

Thơ Khaly Chàm – Cách nhìn dị biệt



Phùng Phương Quý





Lời đầu tiên có thể nói rất thật là tôi yêu thơ Khaly Chàm (KLC). Đọc xong tập thơ Tình khúc tặng bạn bè, bỗng nhận ra một Con người thật KLC trong vẻ bụi bặm, khinh mạn bất cần đời. Đó chính là Cách nhìn dị biệt vào cuộc đời bằng đôi mắt dữ dội như tựa đề một bài thơ trong tập. Thơ KLC hầu như không có những tình cảm lãng mạn, hay yêu thương say đắm, bi luỵ tình ái. Cái cách làm thơ tình thông thường của bất kì thi sĩ nào được anh gắn vào nhân sinh quan bản thể đầy ấn tượng.

Khàn hơi thét gọi thinh không
Cõng tình nhảy múa theo dòng biến thiên

(Ru đời thắp lửa)

Nếu kỉ niệm mối tình đầu bao giờ cũng đẹp, thì với KLC lại là vết xước đau nhói đến tận bây giờ, dù đối tượng tình yêu đó là một thiếu nữ hay một vật vô tri hữu tình. Những kỉ niệm loại này rất dễ bị thương tổn, chỉ cần xây xước nhẹ là nhói đau.

Xước lòng một vết tình đau
Gió lay lắt rụng trái sầu ngày xưa

(Một vết tình đau)

Tim cuồng nhịp đập thơ ngây
Dấu hôn một thủa làm trầy trật ta

(Dấu hôn một thủa)

Dù có tỏ ra hoặc mê muội không nhìn rõ hiện thực tình yêu, hoài nghi có thể chưa phải bản chất của KLC.

Bên nào địa ngục – trần gian
Lòng không tưởng vọng ngỡ ngàng chăng em?

(Hỏi giữa cõi người)

Thì cuối cùng kẻ giang hồ bất cần đời vẫn phải tìm điểm tựa của tình yêu cho đời mình.

Xin em nhã tụng lời vàng
Một đời lang bạt quy hàng từ đây.

(Một đời lang bạt)

Tôi đã từng tiếp xúc với nhà thơ, biết anh ăn chay trường mà nhậu “tới bến”, trong lúc “kỳ đa phong” (cờ nhiều gió) thấy anh ngồi đọc thơ tặng bạn nhậu, hoặc lặng im tròn mắt hiền lành nhìn mọi người. Ánh mắt hiền lành của KLC ẩn giấu một “cách nhìn dị biệt”, nó hoài nghi, khinh mạn cuộc thế nhưng lại bi luỵ tình người. Đúng là mâu thuẫn của các nhà thơ. Nó là vòng luẩn quẩn kiếp nhân sinh khi con người chưa thể tìm thấy niềm tin cho mình. Nhà thơ Tagor (Ấn Độ) viết:

“Ngọn cây tìm sự cô đơn ở trên trời
Đám cỏ tìm bạn bè dưới mặt đất”.

Hình như KLC cũng muốn tìm cho mình một không gian riêng, nhưng chưa được.

Đài cao gặp phật Di đà
Thưa ngài: Con đã tụng ca nhục hình
Thà làm hạt bụi nhân sinh
Nếu may rơi xuống bên tình yêu em.

(Thà làm hạt bụi)

Hình như KLC có rất nhiều tâm sự. Anh là người hoài cổ, điều đó dễ nhận ra trong những bài thơ ăm ắp tâm sự, trăn trở thế thái nhân tình. Những xót đau một thời khói lửa chiến chinh chưa thể phai nhoà trong hay hay bất kỳ người lính nào (trong đó có tôi). Chiến tranh để lại hệ quả vô cùng khắc nghiệt cho những tâm hồn nhạy cảm, nhất là những người làm thơ. Sau 40 năm hậu chiến, KLC đã về thăm lại vùng đất Quảng Trị với nhiều tâm trạng khác nhau. Những bài thơ “nói hộ nỗi lòng” anh đầy xúc động như Khúc vô thường; Trên cao Dốc Miếu; Bên dải Trường Sơn; Trên đường quê Cam lộ…đã tạo ấn tượng cho người đọc.

Với tay vịn níu linh hồn
Về như cát bụi theo nguồn nước trôi.


Từ con mắt nhìn đời của tâm hồn say, tạo nên những tứ lạ cho thơ.

Trần truồng sỏi đá lô nhô
Nhập nhằng ảo vọng điên rồ môi hôn

(Giọt buồn hoá sinh)

Cũng có lúc nhà thơ trở lại với bản chất th ật của mình, một KLC hiền lành đáng yêu.

Xoài chua trộn với khô đường
Rượu đế bình dị nỗi buồn cười khinh
Cầu Ngang hoa tím lục bình
Thơ ta đọng lại trên cành bằng lăng.

(Trưa ghé Bình Nhâm)

Với một tài thơ và con mắt xanh nhìn đời ở nhiều góc độ, KLC mang đến cho người đọc những khám phá thú vị về một NGƯỜI THƠ nhiều suy nghĩ, so sánh những được mất của chính mình. Nhưng giá như anh tuyển chọn kĩ lại tập thơ để đừng có những bài trùng lặp về ý tưởng, nội dung thì Tình khúc tặng bạn bè sẽ đẹp hơn nhiều. Tuy vậy cũng xin cám ơn KLC đã tặng thơ và cho tôi được thưởng thức bữa tiệc thơ có nhiều món lạ, hấp dẫn. Vài lời mạo muội chia sẻ, mong được thông cảm. Nhân đây xin giới thiệu bài thơ đầy ấn tượng mà tôi tâm đắc.

CÁCH NHÌN DỊ BIỆT

Đất mưng mủ dưới mặt trời
Cây khô mọc nhánh đá dời chân đi
Tân hôn với gái trụ trì
Ma cô khất thực mâu ni lên rừng
Cầm đàn gảy ngược sau lưng
Hát ru chó dữ nhai từng cọng rơm
Thầy tu tóc dựng bờm sờm
từng bước lộn ngược đụng vòm thinh không
xe chạy trên sóng biển đông
Ma quàng vai quỷ vẽ vòng từ tâm.

(KHLY CHÀM)

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

CHÙM THƠ NHỚ MẸ NHÂN LỄ VU LAN - Đông La





KHI CON XA MẸ
Tưởng nhớ MẸ
Và cô Anh Thơ, người mở cánh cửa văn chương





Tuột quai dép dẫm hòn sỏi nhỏ
Xót xa nhớ về bóng mẹ đường dài
Nắng đốt mặt đường đất bốc hơi
Chân đất vai gầy oằn gánh nặng


Sáng tinh sương ánh bình minh ló rạng
Nhớ trưa hè rơi giọt mồ hôi
Bụi tro phủ dầy vành khăn gọn
Lửa ôm tròn nồi cám đang sôi


Đêm thoáng lạnh trùm chiếc chăn nhẹ
Nhớ gió Bấc khô thổi rụng lá xoan vàng
Mẹ ơi nếp da dầy chân mẹ!
Đã bao nhiêu rồi vết nứt nẻ dọc ngang?


Đã bao năm rồi, con xa mẹ, mẹ ơi!
Ác liệt chiến trường, khó khăn nơi phố thị…
Con mãi là đứa con nhỏ bé
Phút yếu lòng, mẹ lại đỡ con đi./.


9-1982

MẸ ĐẾN THÀNH PHỐ






Cực nhọc vượt qua sáu lăm con dốc cuộc đời mình
Lần đầu mẹ đến một thành phố
Thành phố còn bình thường
Sao mẹ quá bỡ ngỡ
Bàn chân quen lội bùn run rẩy trên mặt
nhựa phẳng gương


Nhà của con đây xin mẹ bước vô
Căn phòng nhỏ tuềnh toàng của người kỹ sư
còn nghèo khó
Mười bốn mét vuông gạch hoa vẫn làm mẹ ngơ ngác
Con hiểu nền đất nhà mình vẫn lầm bụi quanh năm


Chẳng phải để dạo chơi mẹ lặn lội đến đây
Đứa cháu nội đầu tiên vừa tròn hai tháng tuổi
Con ân hận biết bao dù đã sáu lăm năm gian khổ
Năm tháng cuối đời mẹ chẳng được nghỉ ngơi


Ôm đứa cháu xinh mắt mẹ rạng ngời
Mẹ hãy để nàng dâu miền Nam trổ tài nấu ăn đón mẹ
Suốt một đời
chỉ rau muống chấm tương
lác đác bữa cua đồng, cá nhỏ
Món cà-ri lạ lùng mẹ lại chẳng quen ăn


Ôi mẹ của con!
Người mẹ bình thường như bao bà mẹ nông dân!
Tưởng dấu chân gánh thóc của mẹ phủ kín
cả mặt đất này cực nhọc
Vạn triệu hạt mồ hôi mặn mòi như những giọt nước mắt
Chưa hết nỗi khổ này lại chồng tiếp nỗi đau kia


Nhìn mái đầu bạc phơ thương biết bao nhiêu!
Con bỗng thấy những nắng, những mưa,
những bão giông cuồn cuộn trong từng sợi tóc
Bao chờ mong, bao lo toan hằn trong từng
nếp nhăn khóe mắt
Cặm cụi một đời chỉ biết hy sinh


Ôi mẹ ngàn lần, ngàn lần yêu kính của con!
Sáu lăm tuổi lần đầu đến một thành phố
Hạt gạo ở đây người ta coi bé nhỏ
Nhưng quen như ở nhà mẹ cứ mang thùng gạo ra đong./.


1985

NỖI NHỚ MÙA ĐÔNG



Khi những ngọn gió chui qua chỗ kính vỡ
ùa vào giường con
Mang theo cái lạnh đêm Sài Gòn khuya khoắt
Tự dưng con không sao chợp mắt
Gió Bấc về rồi mẹ ơi lạnh lắm không?


Ôi nhớ quá quê hương ơi mùa Đông!
Nước lạnh cóng con cá rô không bơi được
Thương mẹ cấy lâu dầm trong bùn nước
Máu tụ bầm đầu những ngón tay!


Mẹ ơi con biết làm gì đêm nay?
Khi gió Bấc sắc thổi luồn qua liếp cửa
Đêm thì dài mà chăn thì mỏng
Chỗ ấm mẹ nhường thằng út bé con!


Ôi mùa Đông rét trụi cành xoan
Rét quăn mép chiếc lá chè thưa thớt
Rét làm đọng hơi mặt giếng khơi ngùn ngụt
Rét làm dài con đường ngắn ngủi trên quê


Con bỗng muốn trở về những năm tháng ấu thơ
Sáng sáng mùa Đông bên chảo cơm rang thơm ngát
Mẹ chia cho chúng con mỗi đứa một bát
Rồi mẹ kiểm tra cúc ngực trước lúc đến trường


Ôi nhớ quá quê hương ơi quê hương!
Trong lạnh cóng rễ cây lúa của mẹ vẫn
cần cù chắt chiu trong lòng đất
Như ngọn lửa trong tim mẹ mãi mãi không tắt
Sưởi ấm sự sống mùa Đông trên quê hương./.


9-1982

Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2015

NHẠC DƯƠNG PHƯƠNG LINH







Dương Phương Linh - chân dung tự họa

MỘT LẦN

Thơ & Nhạc : Dương phương Linh
Trình bày : Mộng Trang
Hòa âm : Eric Miller
Vidéo & Photos : P.Linh



LẠC MẤT NỤ CƯỜI

Nhạc & lời: Dương Phương Linh
Trình bày : Mộng Trang
Hòa âm : Eric Miller


Thứ Hai, 17 tháng 8, 2015

THƠ NGUYỄN VĂN ĐÔN






Nguyễn Văn Đôn -
Sinh năm 1982, Nguyễn Văn Đôn  hiện sống ở Tây Ninh, là công nhân cạo mủ cao su. Thơ của Đôn thật đến lạ lùng như những dòng viết về mình và những ghi nhận về thi ca của chính tác giả. 




Mặc định


Con gà xé vỏ quả trứng chui ra
mặc định cái nhìn đầu tiên nhận mẹ
Con chó chẳng phân biệt được màu xanh với màu đỏ
nên mặc định cái mũi, đôi tai nhận chủ

Và tôi mặc định cái nhìn đầu tiên về một bài thơ
nó có vần, nhịp như những đứa trẻ vỗ tay hát
và chẳng bao giờ thắc mắc
thế nào là một bài thơ tự do ?




Bốn rưỡi chiều



Nơi quán cà phê ngã tư đường quen thuộc
những câu chuyện không đầu không đuôi
về mủ cao su, mía, mì rớt giá
về buôn bán ế ẩm
những tiếng thở dài
chợt ngưng

Những ánh mắt, đôi tai hướng lên cái màn hình ti vi treo ở góc tường
rồi lại nhìn xuống tay mình dò dẫm
những dãy số được đọc đi đọc lại

Có tiếng ồ lên tiếng nuối
xen lẫn tiếng chửi thề rồi
tất cả bị vo tròn trên tay
bị ném ra vệ đường
lăn lóc

Nhà thơ nhấp một ngụm cà phê
rít một hơi thuốc
ngã lưng
nhìn khói thuốc vẽ vòng
lơ đãng

“ Dù sao nó cũng sống trọn một ngày
hơn những bài thơ…”





69



Hắn lẳng lặng viết lên tờ giấy trắng con số 69
To
Đậm
Màu đỏ và
Xoay từ từ ngược chiều kim đồng hồ
và quan sát
Xoay từ từ thuận chiều kim đồng hồ
và quan sát

Bất giác hắn cười khằng khặc
“ Ra vậy ! “
Tháng chín
người ta vẫn ra rả tung hô về con số 69.





NGUYỄN VĂN ĐÔN