Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2013

Chiên tranh




Đây là chuyện riêng của hai người, lúc đầu tôi không có ý định viết lên giấy nhưng rồi cân nhắc kỹ nhiều mặt, cuối cùng, bắt chước nhà văn Pháp Angđrê Môroa trong truyện Cuộc trở về của người tù, tôi viết và cho đăng báo chuyện này, với hy vọng mong manh rằng nếu ngẫu nhiên đọc nó, biết đâu ông Nam sẽ nghĩ lại…
Các bạn thử hình dung một chuyện thế này:
Có đôi trai gái yêu nhau, rất yêu nhau. Cưới xong được ít hôm thì chàng trai lên đường ra trận, để lại người vợ trẻ ở nhà một mình vừa làm lụng vất vả, vừa mỏi mòn chờ đợi. Mà nào chờ đợi một hai năm! Không, đúng mười năm. Và trong suốt mười năm dài ấy, cô gái không hề nhận được tin tức nào về chồng. Vì sao thì khó ai biết được. Thế rồi chiến tranh kết thúc, chàng trai trở về, sung sướng cảm động khi thấy vợ vẫn chung thủy. Nhưng khi hai người lên giường nằm, đặt một tay lên bụng vợ, chàng trai bỗng ngồi bật dậy:
- Em có chửa?
- Vâng.
Im lặng.
- Với ai?

- Với anh, tất nhiên, - cô gái bình thản đáp - Em còn có chửa với ai được nữa, ngoài anh?
Chàng trai không nói gì, lẳng lặng chui ra khỏi màn, mặc quần áo rồi đến ngồi hút thuốc bên bàn - một giờ, hai giờ, cũng có thể lâu hơn. Sau đó, vì cả nhà chỉ có một giường, anh lục ba lô lấy tấm vải nhựa trải xuống sàn.
Mọi chuyện bắt đầu từ đêm ấy, cái đêm chấm dứt mười năm chờ đợi, nhớ thương của một cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt, và cũng là đêm mở đầu những thử thách mới, nơi con người lần nữa phải mặt đối mặt với chiến tranh, loại chiến tranh không súng đạn sau cuộc chiến tranh súng đạn mà họ vừa vượt qua một cách thắng lợi.
Liệu lần này họ lại đứng vững hay sẽ bị đánh gục? Trả lời câu hỏi này thật khó, vì những thử thách mới thời bình đòi hỏi không phải sức chịu đựng ghê gớm về hy sinh và thiếu thốn, mà là cái gì đấy còn lớn hơn, phức tạp, tế nhị hơn: đó là sự tỉnh táo, tình thương và lòng vị tha.


Minh họa: Văn Nguyễn

Bạn đọc thân mến, bức tranh tôi miêu tả trên không phải lấy từ cuốn sách nào đó, cũng không do tôi nghĩ ra mà là chuyện có thật ở làng tôi.
Đôi trai gái ấy là Nam và Xuyến. Suốt đêm đó không ai nói thêm một lời nào, dù cả hai không hề chợp mắt. Sáng hôm sau, Nam đi một vòng quanh làng thăm hỏi mọi người, thực ra là để dò hỏi tin tức vợ những năm anh đi vắng. Anh ngạc nhiên, bối rối khi nghe mọi người nhận xét rất tốt về Xuyến, rằng cô cần cù, nết na và đặc biệt nghiêm túc trong quan hệ.
"Chắc cô ta khéo giấu nên mọi người không biết”.
Về nhà, không kìm được, anh lại hỏi vợ, vẫn câu hỏi cũ:
- Cô chửa với ai?
- Với anh - vẫn cái giọng nhỏ nhẹ, bình tĩnh ấy.

- Với tôi? Sao lại có thể với tôi? Cô coi thường tôi quá! - Nam giận dữ quát to - Cô thử giải thích tôi nghe đi.
Xuyến ngước lên nhìn chồng, hai mắt rơm rớm như muốn khóc, khuôn mặt cô ửng đỏ vì ngượng ngùng.
- Nào, cô nói đi, nói đi!
- Anh Nam - Xuyến nói - Anh đừng mắng em như thế. Oan em... Em yêu anh, bao giờ cũng yêu anh và bao giờ cũng chung thủy với anh. Giá anh biết, dù chỉ một phần thôi, rằng em đã phải vất vả, đau khổ và lo sợ thế nào trong suốt mười năm chờ anh vừa qua. Còn việc vì sao em có chửa thì đơn giản thôi. Vì trong suốt chừng ấy năm, tối nào đi ngủ em cũng kê sẵn một chiếc gối cho anh cạnh gối em. Nhiều hôm sáng dậy, em thầm xấu hổ khi nhớ lại chuyện anh và em tối trước. Cách đây không lâu, anh cũng về với em như thế. Lần này hình như em cảm thấy anh gần hơn, cụ thể hơn. Khi tỉnh dậy, em vẫn một mình như bao lần khác, nhưng em biết chắc là anh vừa ở bên em, thậm chí hơi ấm của anh còn bám vào da thịt em, thậm chí chăn còn nhàu nát...
- Cô phịa ra chuyện ấy để bắt tôi tin và rồi dần dần chính cô cũng tin cái điều nhảm nhí ấy chứ gì?
- Xin anh đừng nói thế, oan em. Em không hề...
Nhưng Nam đã bỏ ra ngoài.
Những lời Xuyến vừa nói, thực ra không phải không làm anh suy nghĩ. Anh hiểu và thông cảm với Xuyến, vì bản thân anh trước đây cũng nhiều đêm nằm mơ có vợ bên cạnh. Nhưng không lẽ vì thế mà vợ anh có chửa? "Không! Không thể như thế được!" - anh nghĩ, tuy rất muốn tin vào điều vợ nói. Anh tìm mọi cách bào chữa cho cô, thậm chí viện cả cái thuyết đồng giao cách cảm mà gần đây người ta hay nhắc tới, nhưng cuối cùng anh vẫn phải đau khổ mà thừa nhận rằng Xuyến đã không chung thủy với anh, đã ăn nằm với một người đàn ông khác. Mà điều ấy thì quá sức anh chịu đựng, một trở ngại quá lớn anh không vượt qua nổi, thậm chí cả khi anh rất yêu thương vợ, trước kia cũng như bây giờ. Biết làm thế nào được, con người anh là thế, anh không thể lại ôm một người đàn bà khi người ấy đã từng trong vòng tay một người đàn ông khác.
Họ, hai vợ chồng và thằng bé mới sinh, vẫn ở chung trong cùng căn nhà chật hẹp. Không ai nghe họ to tiếng với nhau lần nào. Chồng - anh Nam - là người đàn ông khỏe mạnh chí thú. Anh chí thú ruộng vườn, không những đủ ăn mà còn thừa thóc bán cho nhà nước. Trong một thời gian ngắn anh sắm đủ thứ cần thiết cho gia đình. Tính anh hiền, ít nói. Cả với vợ, anh cũng chỉ nói khi thật cần thiết. Ban ngày anh làm luôn tay, làm hùng hục mọi việc. Hết việc, anh ngồi im, thường nhìn trân trân một điểm nào đó trước mặt. Và rất buồn. Tối đến anh vẫn ngủ riêng, tất nhiên không phải giữa sàn nhà, mà trên chiếc giường nhỏ mới mua, đặt sát cửa sổ. Chị vợ sau sinh đẻ, vốn nhỏ bé lại càng nhỏ bé hơn, bao giờ cũng lặng lẽ như cái bóng. Với ý thức của người có lỗi, chị rất muốn chiều chuộng chồng, muốn san sẻ bớt những ý nghĩ nặng nề anh đang chịu đựng, nhưng mọi cố gắng của chị đều vô ích trước vẻ lãnh đạm tàn nhẫn của anh, nên chị cố tránh gặp mặt và thường ngồi im ở một góc nào đấy.
Còn thằng bé thì thật lạ, càng lớn càng giống Nam như đúc. Một sự ngẫu nhiên? Hay lần nữa buộc phải suy nghĩ về lời giải thích vô lý của Xuyến? Điều này quả có làm Nam băn khoăn không ít. Đứa bé thật kháu. Nam không chút ác cảm nào với nó, dù chính nó là trở ngại ngăn cách hai vợ chồng anh, là nguyên nhân mọi bất hạnh trong gia đình. Ngược lại anh thương nó như thương Xuyến, vợ anh, và anh cảm thấy thực sự khổ sở khi phải cố giấu không bộc lộ tình cảm đó. Nhiều lúc cao hứng, hoặc vì vợ bận, anh còn bế con và giặt tã giúp vợ. Tuy nhiên, sau những lần đấu tranh, dằn vặt như vẫn thường xảy ra, cuối cùng cái con người định kiến, cố chấp trong anh vẫn thắng. Anh cương quyết không chịu cho thằng bé mang họ anh, vẫn bắt chữa lại thành "bác" mỗi khi nó quen miệng gọi "bố". Nhiều đêm nghe vợ ôm con khóc ở giường bên, anh những muốn lại gần vợ vuốt ve, an ủi cô, muốn làm điều gì đó thật tốt đẹp cho cô, thế mà anh vẫn nằm yên, trân trân nhìn lên trần nhà hoặc bỏ ra sân hút thuốc cho tới sáng. Những lúc ấy anh rất cáu giận. Anh giận Xuyến, giận đứa bé và nhất là giận bản thân anh. Con người anh, cái tính anh là thế, biết làm thế nào được?
Một hôm, Nam sang nhà tôi chơi.
- Được mấy ngày về thăm quê mà cứ ngồi lì ở nhà mãi thế à? - Vào tới ngõ, anh nói to thay cho lời chào - Lại viết lách?
- Ừ, nghề mà - tôi đáp - Mời anh ngồi chơi.
Lúc này đứa bé đã lớn, biết chạy lon ton khắp làng, nhưng gia đình anh thì vẫn như cũ. Nghe nói bà con, chính quyền nhiều lần khuyên anh làm lành với vợ nhưng anh không chịu. Thế đấy, người dân làng tôi, tôi biết - rất chân thành và cả tin, nhưng một khi có ý nghĩ nào đó chui vào đầu thì không dễ mà giũ ra nổi.
- Thế nào, anh Nam, vẫn "chiến tranh" à? - tôi ướm hỏi.
Nam không đáp, nhưng nét mặt buồn hẳn xuống. Mãi lúc sau anh mới nói:
- Anh xem đấy, tôi còn biết làm thế nào khác được?
- Sao lại không? - tôi cao giọng - Thì "hòa bình" đi! Anh không thấy anh đang làm khổ chị ấy à?
- Thế anh tưởng tôi sung sướng lắm chắc?
- Chính vì vậy mà cần bỏ qua cho nhau và càng sớm càng tốt.
Nam ngồi im, bất chợt nghiêm mặt hỏi tôi:
- Có điều này, tôi hỏi thật anh nhé?
- Vâng, anh cứ hỏi.
- Anh có tin cô Xuyến không? Tin chuyện cô ấy có chửa ấy?
- Tin, tôi tin - tôi đáp.
- Vì sao?
- Vì sao thì không biết, nhưng tôi tin.

- Còn tôi thì không! - anh bật đứng dậy nói to một cách giận dữ - Không! Không bao giờ!
- Suy cho cùng điều ấy không quan trọng - tôi cũng nổi nóng. - Quan trọng là cô ấy đã chờ anh chừng ấy năm. Quan trọng là cô ấy vẫn yêu anh. Quan trọng là anh không thể và không có quyền đối xử với cô ấy như thế.
- Anh nói dễ lắm, anh nhà văn ạ - Nam nhếch mép cười với vẻ mỉa mai không che giấu - Với các anh, mọi chuyện thật đơn giản.
Rồi không nói thêm một lời nào, anh bỏ đi.
Đấy, các bạn xem: một con người đã mười năm lăn lộn khói lửa chiến trường, có thể đã lập nhiều chiến công phi thường, đã vượt qua trăm nghìn thử thách ghê gớm, thế mà bây giờ con người từng trải được tôi luyện ấy không vượt qua nổi cái trở ngại tưởng như rất bé kia, để chấm dứt đau khổ cho chính bản thân và cho người mình yêu quý nhất. Thật bất công và cũng thật chua xót. Nhưng cả tôi, cả các bạn thử thuyết phục anh ta đi.
Tháng hai năm 1979, khi xảy ra chiến tranh ở biên giới phía Bắc, Nam tình nguyện gia nhập lại quân đội. Vợ anh không giữ, chỉ nói:
- Anh đi, em sẽ chờ. Bao lâu em cũng chờ...
- Và cô sẽ tiếp tục đêm đêm mơ tôi về thăm. Có thể cô sẽ lại có chửa? - anh châm chọc.
- Vâng - vợ anh đáp như không nhận thấy sự châm chọc ấy - Nhưng anh hãy tin bao giờ em cũng yêu anh, và nếu có chửa thì cũng chỉ với anh, một mình anh...
Nam không đáp, chỉ lặng lẽ lên đường. Và không bao giờ trở về nữa.
                                               ***
Từ ấy nhiều năm đã trôi qua. Cô Xuyến nay đã là bà Xuyến. Bà già và yếu hẳn đi một cách nhanh chóng. Bà vẫn mòn mỏi chờ chồng như năm nào. Vẫn như năm nào, bà không hề nhận được một bức thư nhỏ nào của chồng, xưa là anh, bây giờ là ông Nam.
Đây là chuyện riêng của hai người, lúc đầu tôi không có ý định viết lên giấy nhưng rồi cân nhắc kỹ nhiều mặt, cuối cùng, bắt chước nhà văn Pháp Angđrê Môroa trong truyện Cuộc trở về của người tù, tôi viết và cho đăng báo chuyện này, với hy vọng mong manh rằng nếu ngẫu nhiên đọc nó, biết đâu ông Nam sẽ nghĩ lại. Tôi, ông Nam và bà Xuyến dẫu sao cũng là người cùng làng với nhau. Mà đã là người cùng làng thì, tôi nghĩ, không ai có quyền thờ ơ với số phận người khác.
Thái Bá Tân

Một ngày mùa đông



Đinh Công Thủy




Trong bóng đen lờ đờ của chiếc quạt trần
tàu bắp cải cuộn mình răng rắc
bầy nòng nọc hiền lành ngủ yên trong bùn khô
người đã đến và im lặng

Tấm khăn xám choàng kín tán cây bàng
ủ ấm ngọn lửa
một bài ca bay lên từ ống khói
xoa mềm vết nẻ bàn tay không tuổi
căm căm giọng mưa phùn
lời hát hanh khô

Ngày đột nhiên bị đánh thức bởi tiếng kẹt cửa
người đã đi
bài ca rải dọc đường sau những mỏi mệt

Một ngày tháng mười hai dịu dàng bị bỏ quên trong góc tủ ẩm ướtcạnh giấc ngủ của loài gián.








Chuyện ở “chợ Mát”



Suốt thời gian dài vừa qua, từ khi nhà chức trách mạnh tay trong các chiến dịch "Rào chắn 1" (từ ngày 31-7-2013) và "Rào chắn 2" (từ 18 đến 28-11-2013) thực hiện truy quét người nhập cư bất hợp pháp trên toàn lãnh thổ Nga thì không khí của “chợ Mát” (Mátxcơva) có phần trầm lắng hơn.


Bức tranh toàn cảnh

Mặc dù hiện tại các chiến dịch nói trên đã tạm dừng nhưng xem ra tâm trạng bà con người Việt Nam tại đây vẫn còn thắc thỏm, lo âu. Những khu chợ lớn mà nhà chức trách làm mạnh tay như chợ Liu (Trung tâm thương mại Mátxcơva), chợ Chim (Sadovod)… nơi có hàng mấy chục nghìn con người mang các quốc tịch khác nhau đang làm việc. Các đợt truy quét làm ảnh hưởng rất nhiều đến chuyện bán buôn. Hàng hóa nếu kịp đóng quầy còn đỡ, nếu chưa kịp thì chưa biết có chuyện gì xảy ra? Ngoài ra, dù anh (hay chị) có giấy tờ hay không thì cứ mời lên xe về đồn để kiểm tra đã. Hàng trăm, thậm chí là cả nghìn con người bị đưa lên xe chở về các đồn cảnh sát. Những người có giấy tờ chắc chắn "xịn" thì sau mấy tiếng đồng hồ ngồi "đếm kiến" trong đồn sẽ được trở về làm việc bình thường. Còn số người có vấn đề hoặc bất hợp pháp thì xin mời nán lại để kiểm tra tiếp hoặc là nằm ở diện ra tòa án và bị trục xuất khỏi Nga. Cũng có nhiều trường hợp "chạy chọt" để ra khỏi đồn nhanh, nhưng thời gian này nhà chức trách làm nghiêm hơn nên chuyện "may rủi" là khá hiếm.





Một góc chợ Mátxcơva



Nhưng cũng nhờ thông qua hai chiến dịch truy quét ráo riết này mà các lực lượng chức năng Nga đã bắt được khá nhiều tên tội phạm thực sự nguy hiểm đến sự an toàn của xã hội, khám phá ra hàng trăm băng nhóm rửa tiền bất hợp pháp, những ổ nhóm chứa chấp vũ khí, chất nổ trái phép, ma túy, mại dâm, thậm chí là cả bạc giả… Có lẽ, đây là thời điểm mà các cơ quan chức năng Nga làm việc khá hiệu quả.

Nhân dịp đến chơi nhà mấy người quen ở chợ Chim và Liu, khi hỏi chuyện kinh doanh buôn bán, anh Đinh Văn Dần, quê Thái Bình, chuyên bán hàng thể thao kể lại: "Căng lắm anh ạ, có giấy tờ hợp pháp với quyền lao động 3 năm hẳn hoi mà em cũng phải vào ngồi cũi sắt (nơi nhốt tạm người giam giữ tại đồn), mất mấy tiếng đồng hồ mới ra được, chả biết bao giờ thì có giấy tờ hợp pháp mới không bị bắt?". Chú em tên Tuệ ở cùng phòng với Dần cho biết thêm: "Đến như cháu đây có giấy tờ của công dân Nga ở thành phố xa lên mà vẫn còn bị chất vấn hỏi han nữa là…?". Tôi bảo: Chú có dấu tạm trú không? Chú bị họ hỏi là đúng rồi còn gì? Vé lên thăm Mátcơva đâu? Chỉ được phép tạm trú 3 ngày thôi chứ? Chú ở trên này hàng năm trời bán buôn, nên bị gom là không oan đâu! Khối "dân đầu đen" mang quốc tịch Trung Á, thậm chí là có hộ chiếu Nga nhưng không có tạm trú hoặc hết hạn nên vẫn bị thu gom ở ngoài bến xe, ở ga tàu điện ngầm hoặc nhan nhản ở chợ kia kìa… nói gì đến chú. Đó là chưa nói tới chuyện giấy tờ giả bán giấm dúi ở nhiều nơi.

Chị Trân, bán hàng áo da bức xúc hơn: "Anh bảo hàng hóa đã ế ẩm, sáng ra chưa mở hàng, dân tình đã chạy rầm rầm cứ như là cháy nhà đến nơi. Dân ta chạy, dân Tàu chạy, "dân đầu đen" (cách gọi người Trung Á: Tajikistan, Kyrgyzstan…) cũng chạy - mà họ là người chạy sớm nhất và nhanh nhất đấy vì đa phần giấy tờ cư trú hợp pháp của họ không có? Cả chợ cứ chạy nháo nhác cả lên. Có nhiều người trèo tường ngã tóe cả máu, nhưng vẫn tập tễnh chạy... Còn anh Bùi Xuân Ng. một chủ hàng lâu năm từ thời chợ Saliut, chợ Vòm nay về chợ Chim thì nói vẻ hài hước mà xót xa: "Bây giờ mà mở cuộc thi maratông thì dân chạy chợ chắc phải về nhất!" Cũng phải thôi, bởi bà con Việt Nam lâu nay quen sống trong nỗi lo phập phồng như vậy.

Liệu có thay đổi?

Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi: Tại sao nhà chức trách không để người ta bán buôn một cách đàng hoàng? Ví dụ: Cứ nộp thuế hợp pháp, giấy tờ làm việc tại chợ hợp pháp, giấy tờ tùy thân hợp pháp... như tại những trung tâm thương mại khác của người Nga để khi nhà chức trách đến kiểm tra thì không có tình trạng lộn xộn nói trên. Trong thâm tâm nhiều người Việt Nam làm ăn lâu dài tại Nga cũng rất muốn như vậy. Hóa ra, mọi việc lại không đơn giản như vậy. Đây là vấn đề đang làm đau đầu các nhà chức trách Nga. Bởi lẽ, trên địa bàn thủ đô Mátxcơva, số lượng người nhập cư hợp pháp và bất hợp pháp không nhỏ, rất khó kiểm soát. Số lượng chợ cũng quá nhiều, diện tích mặt bằng lại quá lớn (lên đến hàng mấy chục ha/chợ) mặc dù từ giữa những năm 2000 đến nay đã dẹp đi hàng trăm chợ hoạt động theo kiểu tạm bợ hoặc bán tạm bợ.

Gia nhập loại hình chợ dưới dạng trung tâm thương mại quy củ và hiện đại thì liệu số người ít tiền có dám vào thuê chỗ bán hàng không? Tiền thuê mặt bằng ở đâu ra? Lại còn các khoản chi phí khác cao hơn chợ cũ nữa. Tâm lý chung là họ không thích vào bán buôn trong những nơi mà chi có thể cao hơn thu như vậy. Xem ra, dẹp bỏ đi một thói quen quả là khó khăn. Đó là chưa nói bộ phận dân nghèo Nga từ những năm 90 của thế kỷ trước trở lại đây là quen mua bán ở những loại chợ bình thường và giá cả hàng hóa rẻ có xuất xứ từ Trung Quốc, Việt Nam… Tất cả là do ở mức thu nhập của đa phần người dân Nga vẫn còn thấp, chiếm khoảng 60, 70% dân số. Giới nhà giàu Nga thì họ có thể mua sắm hàng hiệu ở các trung tâm thương mại lớn sang trọng chứ mấy ai bước vào những khu chợ nay đuổi, mai chạy mà có người nhập cư hoạt động ở đó. Hiện nay thành phần "giới nhà giàu" này chiếm khoảng 15 đến 20% dân số Nga.

Về phía các ông chủ chợ hoặc trung tâm thương mại thì sao? Rõ ràng, họ nắm được "lợi thế" đó nên càng có đất dụng võ! Số ông chủ chợ này đa phần là "dân đầu đen" nhưng ở tầng lớp cao như người Do Thái, Azerbaijan, Armenia, Gzudia...). Người Nga ít ông chủ chợ hơn, hay nói đúng ra là người Nga máu kinh doanh chợ búa như "dân đầu đen" không nhiều. Các ông chủ chợ người Trung Quốc hay người Việt Nam thời này "lép vế" hơn trước. Cụ thể là loại chợ ở Mátxcơva do các ông chủ Việt Nam cai quản đã không còn, chỉ còn tồn tại ở dưới dạng làm đại lý ăn tiền chênh lệch cho chủ chợ phía Nga hoặc "dân đầu đen" Trung Á mà thôi. Một chi tiết khác không kém phần nhạy cảm, đó là một vài vị thuộc nhà chức trách địa phương còn hy vọng duy trì tình trạng này để có thể kiếm thêm tí chút. Chính vì thế mà trong các chiến dịch "bàn tay sạch" đã lộ ra vài vị bị truy tố trước pháp luật…

Những nguyên nhân chủ quan và khách quan nói trên đã cho thấy tình trạng để có những khu chợ văn minh thực sự trong giai đoạn hiện nay còn phải vất vả chèo chống một thời gian khá lâu nữa. Và tình trạng truy quét người nhập cư bất hợp pháp sẽ còn diễn ra dài dài. Người dân còn phải chạy, phải tính toán… và cũng mong sao là họ có thể an cư mà lạc nghiệp. Bởi chính quyền Nga cũng đã đề ra rất nhiều biện pháp hữu hiệu nhằm thắt chặt quản lý lượng người nhập cư cũng như tình trạng bán buôn trên địa bàn thủ đô Mátxcơva hiệu quả hơn.


Võ Hoài Nam



“HÔN NHÂN DỊ CHỦNG”


LÊ MINH QUỐC

Ngày nay, có những phụ nữ Việt sẵn sàng “nâng khăn sửa túi” cho chồng là người nước ngoài. Trong mắt mọi người, “hôn nhân dị chủng” đã trở nên bình thường. Chẳng ai rỗi hơi đàm tiếu, bình luận này nọ. Miễn họ sống hạnh phúc, chẳng làm phiền đến ai, vậy can cớ gì mà mình phải ý kiến ý cò xen vào? Nhiều phụ nữ Việt cảm thấy tin cậy, ấm áp khi “nương bóng tùng quân” là ông Tây to đùng, nói năng rổn rảng, đi đứng hiên ngang. “Ngó vậy chứ ổng hiền khô à”- một chị bạn đã không ngần ngại “khoe” chồng trước bạn bè.







Thử đặt câu hỏi, có phải hôn nhân là chuyện của hai người, là sự lựa chọn của riêng đôi bạn trẻ? Chưa chắc, bởi họ còn ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ khác. Đôi lúc sự việc trở nên oái ăm từ bên nhà vợ hoặc nhà chồng, do không phải ai cũng hiểu nếp văn hóa của người phương Tây. Mãi đến bây giờ, anh bạn Tây của tôi vẫn còn rùng mình khi nhớ đến ngày ra mắt gia đình bên vợ.

Lúc ấy, với tâm trạng hào hứng, đôi uyên ương đánh ô tô từ Sài Gòn về Long An. Đến nơi, sau phần lễ đúng nghi thức của người Việt, anh bước ra sân chào hỏi mọi người. Chưa kịp ngồi vào bàn tiệc, lập tức một ly rượu đế “trân trọng kính mời”. Chẳng lẽ từ chối? Vì phép lịch sự, anh nâng ly uống cạn cho phải phép xã giao. Vậy là xong? Không. Lần lượt hết người này đến người nọ luân phiên nhau mời. Anh không rành tiếng Việt. Họ không biết tiếng Anh. Từ chối thế nào cho đúng phép lịch sự? Thôi thì, đành uống. Xã giao một vài ly, chỉ nhấp môi có được không? Ai lại làm thế, phải trăm phần trăm cho đúng điệu. Thấy anh khổ sở, nhăn nhó quá, cô vợ chạy ra can anh em, họ hàng, bạn bè “tha” cho chồng mình. Mọi người cười đùa như bảo rằng, có thương nhau, quý nhau mới mời chứ có ai ép uổng gì đâu (!?). Hơn nữa, hôn nhân là ngày trọng, chú rể phải say tới bến, say quắt cần câu thì mới vui (?!).

Từ đó, trở về sau, mỗi lúc nghe về quê vợ là anh xay xẩm mặt mày, mùi rượu vẫn còn xộc lên óc. Bèn tìm mọi cách thoái thác cho bằng được. Vợ thương chồng nên không nỡ ép. Mà đã xong đâu, không thấy anh theo vợ về, mọi người xì xào, bộ thằng chả ỷ người nước ngoài giàu có chê họ hàng, xóm giềng mình nghèo hèn nên không thèm về chứ gì? Sự hiểu nhầm ấy, cô vợ phải phân trần hết lời, chẳng ai chịu nghe. Bực quá, cô vợ tỉ tê tâm sự với chồng nhưng cả hai không tìm được tiếng nói chung. Thế là đôi bên mặt nặng mặt nhẹ vì cái chuyện lãng xẹt đó.

Mới đây thôi, cậu em trai kết nghĩa từ Hà Nội “nấu cháo” điện thoại gần cả nửa tiếng đồng hồ, hỏi tôi phải nên “xử lý” như thế nào? Chuyện rằng, với phụ nữ mắt xanh, tóc bạch kim thì ngày Tết cổ truyền của ta không hẵn có ý nghĩa quan trọng lắm. Do đó, Tết con ngựa tới đây, cô vợ nằng nặc đòi chồng tranh thủ 9 ngày nghỉ đặt tour du lịch nước ngoài, đặng thư giản suốt một năm cật lực, mệt mỏi với công việc. Khi hay tin, lập tức bố mẹ cằn nhằn ra mặt: “Ơ hay, vợ con là dâu cả, ngày Tết ngày nhất phải ở nhà quán xuyến bếp núc, lễ giỗ ông bà chứ?”. Khổ nổi, em trai tôi là con độc nhất, chẳng biết nhờ cậy ai thay thế giúp. Vậy phải làm sao cho trong ấm ngoài êm?

Lại có trường hợp, dù hai con và đang ở riêng, nhưng thỉnh thoảng bố mẹ từ quê vẫn lên chơi dăm ba ngày, tiện thể trông nom cháu. Sự thể hiện tình cảm ruột rà này là bình thường. Thế nhưng cô vợ Tây chẳng hài lòng chút nào bởi nhà cao cửa rộng, máy lạnh cả ngày nhưng ông bố vẫn hiên ngang với ống điếu thuốc lào phì phò như khói như khói tàu. Chiều đi làm về, mở cửa bước vào nhà là cô muốn dội ngược ra ngoài! Biết vợ không ưng ý với thói quen của bố nhưng khi anh vừa thốt lời “góp ý”, lập tức ông bố tự ái bỏ ra ga đón tàu về quê ngay tấp lự.

Đời sống của một gia đình “vận hành” như thế nào là do quy ước của hai người. Thế nhưng, nhiều bà mẹ cảm thấy “nóng mặt” khi con trai mình bị “hành hạ” quá thể. Chà, nó ở tận đẩu tận đâu, tiếng Việt không rành mà nó tưởng giàu có, xinh đẹp là có quyền “ăn hiếp”, “bắt nạt” con trai cưng của bà à? Đừng hòng. Ai đời, đàn ông đàn ang gì sau khi cơm nước xong lại xộc tay vào rửa chén bát, chưa hết, có lúc nó còn phải lau nhà nữa đấy! Nếu biết tiếng Tây thì bà cũng rổn rảng vài câu cho nhẹ người, khổ nổi phải giữ ấm ức mà không thể thốt nên lời. Với quan niệm Á Đông những chuyện “hèn mọn” này là nhiệm vụ của người vợ, đàn bà trong nhà. Nói thì nói thế, bà đâu biết, con dâu của bà phải làm những việc gì trong nhà mà mắt bà không thấy. Hơn nữa, sự phân công ấy do cả hai tự nguyện thỏa thuận, mình can thiệp làm gì?

Để mọi việc “dễ chịu” hơn, thiết nghĩ cả hai cần trao đổi, giải thích về phong tục, tập quán, văn hóa của nhau để tự ý thức và có cách ứng xử phù hợp. Có như thế, 2 người trong cuộc “hôn nhân dị chủng” mới dễ dàng thích ứng và có khả năng đối phó với các tác động từ bên ngoài.

Kim Ngưu chơi vơi

Nguyễn Thị Uyển Di







Có những ngày tôi thấy mình thật cô đơn
Giữa dòng người lướt qua hối hả
Những cánh chim chiều đã mỏi
Tôi với khung trời lãng đãng mây trôi

Tôi hỏi đời tôi có phải của tôi
Hay của ai, của người cõi tạm
Trả hết cho xong một đời vay mượn
Tôi có được về với vui tươi?

Tôi đếm những âm ba trong tôi
Nơi sâu kín tôi muốn gì nhiều nhất
Muốn được yêu thương trân trọng?
Muốn được ôm ấp vỗ về?

Hay muốn nhiệt tình với đam mê?
Với Kim Ngưu cuồng nhiệt vô đối?
Với ái ân ngọt ngào tắm gội?
Với thiên thai nồng ấm môi cười?

Bao nhiêu giằng xé cao vời
Có bao giờ tôi ổn thỏa
Để sống cho kỳ hết
Kỳ hết
Những đam mê cháy bỏng tuyệt vời

Mải miết tôi hỏi trời
Cái mơ ước chính tôi cũng chưa định hình được
Có lúc nó thu lại thật bé nhỏ
Nơi vòng tay nhỏ nhắn ấp ủ khuôn mặt tôi
Có lúc phình to ra
Như bầu trời tháng ba bừng lên rạng rỡ
Có lúc mong manh như tơ lụa
Tôi liêu trai khoác mặc giữa đêm
Có lúc nồng rực môi mềm
Tôi thấy được dắt theo muôn ngàn tiếng gọi
Có lúc huyền ảo biến mất
Như chưa bao giờ được sinh ra

Nên tôi xin được thứ tha
Hỡi những người đã dành cho tôi cảm tình tuyệt đối
Những người đã làm cho tôi ít nhiều bối rối
Giữa lúc ngắt từng chiếc lá nhỏ xíu
Yêu-Không?
Yêu người khi trái tim tôi đi rong
Giữa dòng nước tôi lắc lư giữ nhịp
Đến khi lá rong trôi xuôi ra biển
Tôi chết đi không một tiếng đáp lời
Vị mặn chát của cuộc đời
Đã dìm tôi ngất ngư trong hoảng loạn
Tôi đã quên dòng sông mát lạnh
Thuở lắc lư quên hết sự đời

Và tôi lại tiếp tục quãng đường chơi vơi...

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013

VỚI ANH QUA EMAIL


Bùi Thị Thu Hằng


Email anh nhé!
Gửi giùm em bản thảo
Cho một cuộc chơi
Thời gian khỏi đi lùi
Sao con bò bị trói gối ở đầu hẻm
Cứ tru lên, uốt… buột… ruột mà không gặm tạm cơn gió?
Gió, những mầm cỏ nguyên cớ đè lên nhau
Cỏ cũng tôn vinh nhau
Ban mai còn căng cái dạ dày
Mặc kệ hoàng hôn ốm mệt
Anh trả lời giùm em
Tại sao Sơn Ca mẹ vỡ ối ở giờ P
Lại líu ríu líu lô ở giờ Q
Loài người muốn ủ tiếng hót thành rượu
Để chôn nhau quên rằng mai sẽ chết
Hình như anh ơi hoa cau đang rơi
Cuối mùa hè rồi nên hoa cau buồn
Người đừng đùa em kiểu ngày xưa chuồn chuồn cắn rốn
Em vẫn tin vào cơn dông
Dẫu cơn dông làm xước ba phần tư thế giới
Người ta lấy cái lưỡi làm mặt bằng
Cái lưỡi có hình con cá sấu
Thế mới xoa dịu nỗi đau kiếp trước và cộng hưởng niềm vui kiếp này
Phố xá ùn tắc
Mặc phố đông ùn tắc
Ta thẫn thờ góc cạnh cuộc đời.

Hành Tinh Hạnh Phúc









Trần Nam Phương



Khắp địa cầu những chu trình bí ẩn
Dưới mỗi dáng hình
Đều có tình yêu
Hạnh phúc viên tròn
Hạnh phúc thuộc về nỗi đau
Trượt vào nhau vừa vặn



Phương trình
Hạnh phúc của mình- hạnh phúc của người = tham vọng
Ham muốn độc chiếm mình
Ham muốn có điều không thể biết những bến bờ
Bỏ hết nghe anh
Ngã mình xuống cỏ mềm
Xuống em
Anh sẽ thấy
Thiên đường và mặt đất gần như đôi môi anh đặt lên đôi môi em
Rung chuyển một tình yêu chạm khẽ và bùng nổ
Nhỏ bé một tình yêu
Nhỏ bé hai sinh linh
Đã tìm ra nửa thiếu của mình
Trái đất chỉ tồn tại vì những cuộc tình như thế
Khi chan hoà vào nhau thành một khối hồn
Hành tinh nhân xanh màu hạnh phúc

Báu vật của đời "của Mạc Ngôn - lên bờ xuống ruộng trước khi được giải Nobel


 Trần Đình Sử




Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa có lời kêu gọi nhà văn sáng tạo các tác phẩm văn học nghệ thuật lớn xứng đáng với dân tộc và thời đại. Đó là một ý kiến rất hay. Nhưng làm thế nào để có được tác phẩm hay? Số phận nó sẽ như thế nào? Tôi xin kể số phận lên bờ xuống ruộng của kiệt tác Báu vật của đời của nhà văn Mác Ngôn để cùng suy ngẫm.

Mạc Ngôn kể, khi bắt đầu sáng tâc, động cơ của ông cũng rất tầm thường. Ông muốn có một chiếc đồng hồ đeo tay. Các bạn bè của ông đều có, mà ông thì không sao kiếm được vì trong túi không có tiền. Ông nghĩ, sáng tác tác phẩm văn học đăng báo, nếu được đăng thì có nhuận bút và đồng hồ cũng có. Nhưng các bài tập ban đầu đều không thành công. Bố mẹ ông đã phải bán một con bò để mua cho ông chiếc đồng hồ.

Nhưng tìm tòi học hỏi khi sang tác đã nhen nhóm trong ông tình yếu văn học. Đúng lúc đó mở cửa khai phóng, sách văn học nước ngoài được dịch rất nhiều. Ông vô cùng biết ơn văn học dịch, nhờ nó mà ông tiếp nhận được nhiều loại sáng tác đa dạng của thế giới, đặc biệt là tiểu thuyết của các nhà văn châu mĩ La tinh, nhất là Marquez. Ông đọc đủ loại từ Faulkner, Kafka, Tolstoi, Solokhov, Grass, các tác phẩm của Kawabata, Kenzaburo. Họ mở ra cho ông những con đường mới lạ. Và càng thúc đẩy ông sáng tác. Ông trở thành nhà văn tiền phong chủ nghĩa của Trung Quốc.

Tất nhiên để có tác phẩm Báu vật của đời, ông đã trải qua 20 năm sáng tác, tích lũy đầy mình tri thức, kinh nghiệm và bản lĩnh.

Cấu tứ của tiểu thuyết Báu vật của đời bắt đầu từ một hôm, khi ông rời tàu điện ngầm ở Bắc Kinh đi lên đường. Ông cứ bước theo bậc tam cấp đi lên, cho tới khi sắp ra khỏi bậc thang thì trước mắt ông là một người mẹ gầy đen, đang ngồi, ôm hai con nhỏ, mỗi đứa ngậm một đầu vú day day, tay kia thì sờ ngực mẹ. Ông đứng lặng người, nhìn trân trân, bất giác nước mắt ứa ra, mặc cho mọi người đi qua ngạc nhiên nhìn ông như quái vật. Cho đến khi có người đến vỗ vai, là một người bạn, hỏi vì sao lại khóc. Ông cho biết ông nhớ lại thời ấu thơ và thương mẹ mình. Ông là con út, mẹ thương cho bú đến năm tuổi. Ông nhớ tới những năm sáu mươi, làng xóm đói to, không có gì ăn, phải hái rau dại ngoài đồng mà ăn. Có gì ngon mẹ đều cho con, có lần đói quá mẹ ông đã ăn sống rau dại giữa cánh đồng. Thế là ông quyết tâm sẽ viết một tiểu thuyết để kính tặng mẹ. Ông nghĩ đến mẹ , đến người phụ nữ, đến đất mẹ nuôi dưỡng con người. Cái ông nghĩ ra đầu tiên là cái tên tiểu thuyết. Phong nhũ phì đồn. Phong nhũ nghĩa là vú to, phì đồn là mông nần nẫn, ông nghĩ đó là biểu tượng của phụ nữ, của sinh thực mà ai ai cũng thích, nếu không thì là có vấn đề. Nhân vật chủ chốt là người mẹ giàu sức sinh nở và giàu khả năng thương khó. Nội dung tiểu thuyết phải là số phận của những con người, đặc biệt là phụ nữ. Ông dự định viết trong mười năm, nhưng rút cuộc chỉ viết trong chín mươi ngày là xong. Khi thức thì ngồi dậy viết, khi ngủ thì viết trong mơ. Ông viết rất vui, đến nỗi khi viết xong ông lên 10 kg.

Khi tiểu thuyết đem đến nhà xuất bản, vấn đề dầu tiên là ban biên tập không chịu cái nhan đề kia, nó có tính khêu gợi tình dục quá. Nhưng nhà văn kiên quyết không thay đổi, cuối cùng ban biên tập phải nhượng bộ. Khi in ra rồi, búa rìu mới bắt đầu đổ xuống đầu ông. Tại sao quân quốc dân đảng lại được miêu tả tốt, tại sao người cộng sản lại tả xấu, tại sao công kích đảng cộng sản. Người ta thành lập một tiểu ban đến làm việc với ông suốt ngày đêm. Họ chia nhau mỗi người một chương, đọc kĩ và phê phán những chỗ sai trái của ông về quan điểm, lập trường. Ban đầu ông không chấp nhận, nhưng trong số những người làm việc có một người phụ nữ bụng chửa đã vượt mặt, khi trao đổi, ông như nhìn thấy cả đứa bé trong bụng kia đang dẫy đạp. Ông nghĩ đứa bé kia tội tình chi mà cả hai mẹ con đều khổ. Thế là ông chấp nhận. Bao nhiêu bài mà thành viên tổ nghiên cứu viết ra để phê phán ông, ông đều kí tên nhận lỗi hết. Tưởng thế là xong, song cấp trên không muốn thế, họ muốn phải có cái gì xử lí chứ. Thế là lại tiểu tổ ấy đến vận động ông viết thư đến nhà xuát bản, đề nghị ngưng xuất bản, còn sách đã in thì phong lại đem tiêu hủy. Ban đầu Mạc Ngôn kiên quyết không chịu. Việc cấm đoán là của các ông, còn tôi, tôi không rút lui tác phẩm. Tiểu tổ lại làm việc với ông cả đêm lẫn ngày. Cái cô bụng chữa kia lại đến thuyết phục nhiều lần. Ông thấy thương cô ấy, nghĩ, cuốn sách là cái quái gì, nó quý bàng cái sinh mệnh trong bụng người đàn bà kia không. Thế là ông viết đúng như họ yêu cầu. Nhưng nhà xuất bản vừa tuyên bố sách cấm, phải thu hồi thì trên thị trường sách in lậu phát hành tràn lan khắp cả nước, không ai ngăn được. Trong lúc đó thì trên các báo chí quan phương nhan nhản các bài phê phán ông với những quy chụp, tội danh, lời dạy đời y như thời kì đại cách mạng văn hóa mấy chục năm trước. Ông bảo tôi hết sức khinh bỉ các bài đó, không chỉ đạo đức tầm thường, trình độ văn hóa thấp kém, hiểu biết nông cạn, mà thái độ lại thô bỉ. Đặc biệt là các nhà văn lão thành, sức sáng tác đã cạn thì lòng đố kị càng hăng, lời lẽ càng ác độc, ông càng coi thường. Một số nhà văn trẻ thì lại do nhu cầu riêng luôn miệng nhân danh nhân dân, tổ quốc, tự coi mình là đại diện cho nhân dân, thiếu một nỗi là khi ra đường thì dán hai chữ nhân dân lên mặt nhằm đánh dấu thân phận mình cho xã hội biết.

Chính trong lúc phong trào phê phán tiểu thuyết đang lên cao thì có một nhóm nghiên cứu sinh văn học của trường Đại học Cát Lâm tổ chức một cuộc tọa đàm về tiểu thuyết Báu vật của đời. Sự phân tích sâu sắc, thấu tình đạt lí và đánh giá cao tác phẩm của Mạc Ngôn, coi đó là thành tựu của văn học Trung Quốc đương đại. Kế đó có một tờ báo nhỏ dũng cảm đem đăng các bài đó lên. Dư luận loang ra, cuộc phê phán đã có chiều thay đổi. Giá trị văn học nằm ở trong tim người, không nằm ở những lời đánh giá có định hướng. Tác phẩm tuy bị cấm nhưng vẫn cứ lưu hành. Nó được dịch ra nhiều thứ tiếng và cuối cùng được nhận giải Nobel.

Nhà văn Việt Nam muốn có tác phẩm lớn, hãy suy nghĩ và biết tự tin, tự trọng, sẽ có ngày thành công.

Một chút Liêu trai

 Nguyễn Thế Duyên




Nguyễn là người đất Hà thành, tính tình phóng khoáng ưa chuyện phong tình nhưng cũng chưa thấy một ai nói gã là con người hư hỏng. Nguyễn đọc nhiều biết rộng, những khi đàm luận văn chương thường đưa ra đuợc những ý khác hẳn với những nhận định thông thường làm cho mọi người phải bội phục.
Bình sinh gã thích đọc thơ Đường. Nói đến Đường thi mọi người ai cũng xúm vào ca ngợi Hoàng Hạc lâu hay Đằng Vương các. Riêng gã, gã thích Đỗ Mục mà lại chỉ thích mỗi một bài của thi nhân này đó là bài “Khiển hoài”.
Lạc phách giang hồ tải tửu hành
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng
Dinh đắc thanh lâu bạc hạnh danh
Gã vẫn thường bảo “ Riêng cái tên của bài thơ đã thấy Đỗ Mục khác đời. Cái mà đời muốn dấu kín đi thì ông lại muốn đuợc nói ra mới cảm thấy nhẹ lòng. Lời thơ cao ngạo. Tứ thơ phóng túng. Mười năm mà chỉ như một giấc mộng thì chỉ có ái tình mới làm đuợc. Chao ơi! Giá như ta cũng có một giấc mộng như thế!”


Có người nghe gã nói vậy thì bảo.
- Tưởng bác mộng cái gì chứ mộng thành nghèo đói đến cái mức bụng thì lép kẹp, tay nhẹ bẫng không tiền thì mộng mà làm gì!
Đấy là người ấy lấy một câu của một học giả có tiếng dịch câu “Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh” là nói cảnh Đỗ Mục vì lêu lổng ở Dương Châu mà thành tiền không (chưởng trung khinh) người đói (Sở yêu tiêm tế). Nghe người ấy nói vậy gã cười hỏi lại.
- Đã nghèo đói không tiền thì liệu có thể thành danh chốn thanh lâu đuợc không?
Người ấy chịu không sao trả lời đuợc. Lúc ấy gã mới từ từ bảo.
- Dương Châu nằm ở phía nam Trung Quốc. Gái phương nam nổi tiếng xinh đẹp, dáng người thanh mảnh. Câu thơ ghép hai tích, một tích nói về Sở tương vương vì thích những người eo nhỏ nên có những cung nữ nhịn đói đến chết để giữ cho eo của mình thon thả để đuợc vua yêu, còn một tích về Triệu Phi Yến người thon nhỏ tưởng như có thể múa đuợc trên bàn tay mà thành. Tôi thì tôi cho rằng câu thơ này nói về những cô gái đẹp chốn thanh lâu đất Dương Châu thì hợp lý hơn. Vì chỉ có những cô gái đẹp như thế mới có thể thu ngắn thời gian mười năm thành một giấc mộng. Người kia phải chịu là gã nói đúng.
Đấy là về thơ. Còn văn thì gã thích mỗi Bồ Tùng Linh. Gã bảo “Chuyện hay thì có nhiều nhưng chuyện mà đọc xong khiến người ta cứ mơ màng như lạc vào cõi mộng thì chỉ có mỗi Bồ Tùng Linh là làm đuợc”. Chả thế mà thỉnh thoảng, người ta lại thấy hắn như người mộng du lang thang một mình trong đêm miệng lúc thì cười cười, lúc thì lẩm bẩm một mình như đang nói chuyện với một ai đó.
Mùa thu năm ấy gã dành dụm đuợc một ít tiền nên quyết định đi Hàng Châu du ngoạn. Gã đến Hàng Châu đã và cuối thu, hàng phong ven hồ đã ngả sang mầu đỏ rực. Gió thu hiu hắt sóng nước mênh mông gieo vào trong gã một nỗi buồn tàn thu cũng mênh mang như trời đất. Bất giác gã buột mồm ngâm “Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.”Tiếng ngâm vừa dứt, đột nhiên có một trận gió nổi lên bứt những chiếc lá phong bay lả tả xuống mặt hồ. Những chiếc lá phong đỏ nổi lềnh bềnh trên mặt nước được gió thu thổi cứ từ từ trôi xa dần chỗ gã đứng làm cho gã chợt liên tưởng đến Vu Hựu bèn ngâm tiếp.
Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn tố hòa
Kim nhật khước thành loan phượng hữu
Phương tri hồng điệp thị lương môi
Ngâm xong, trong đầu gã lại mơ màng như mình đang đuợc sống trong chốn “Liêu trai”. Gã thuê một chiếc thuyền bơi ra ngoài đảo, một mình lững thứng đi dưới hàng dương đang xõa mái tóc xanh mượt của mình xuống mặt hồ trong xanh.
Đi một lúc đã thấy mệt nhoài gã bèn ngồi xuống dưới một gốc liễu tựa vào gốc cây thiu thiu ngủ. Thốt nhiên thấy một bà lão đi đến bên gã quỳ xuống van xin:
- Xin công tử cứu tiểu thư của già
Gã vội vàng đứng lên đỡ bà cụ đứng dậy
- Xin cụ đừng làm thế khiến vãn sinh tổn thọ. Chẳng hay cụ là ai và tiểu thư của cụ làm sao mà cần phải cứu?
Bà cụ liền bảo.
- Già là Giả Di nhũ mẫu của Tô tiểu thư.
Nghe nói, gã thất kinh hỏi lại.
- Phải chăng người bà nói là Tô Tiểu Tiểu tiểu thư? – Bà lão gật đầu. Gã sững sờ mất một lúc mới có thể hỏi tiếp – Chẳng phải là Tô tiểu thư đã chết từ hàng ngàn năm nay rồi sao?
Bà lão thở dài, gật đầu bảo.
- Đúng vậy! Tiểu thư của già mất đã hàng nghìn năm rồi nhưng nỗi hận đàn ông trong tiểu thư của già không tan nên linh hồn của nàng không thể siêu thoát. Lúc nãy già nghe công tử ngâm thơ biết công tử là người trọng tình nên mạo muội đến đây cầu xin công tử cứu tiểu thư của già.
Gã nhìn bà lão nghi hoặc:
- Sao Tô tiểu thư lại có thể hận đàn ông đuợc? Tuy vãn sinh là kẻ hậu bối nhưng cũng đuợc biết hai người đến với Tô tiểu thư đều là những bậc chính nhân quân tử. Trọng tình trọng nghĩa. Một người chỉ vì cha mẹ ngăn cấm còn một người đuổi theo đám ma ôm quan tài mà khóc. Đời một người đàn bà có đuợc hai mối tình như vậy còn hận nỗi gì?
Bà lão thở dài nói:
- Người đời ai cũng nghĩ như vậy. Họ đâu có biết rằng trong chuyện tình cảm có cha mẹ nào ngăn cấm đuợc con cái đâu. Ngay đến Trác Văn Quân phận nữ lưu ngoài cha mẹ ngăn cấm còn bị người đời chê cười là bỏ nhà theo giai mà còn không ngăn cản đuợc huống gì đến Nguyễn Uất đường đường là một trang nam tử. Vả lại, nếu cha mẹ có ngăn cản thì cũng chỉ ngăn cản khi cưới chính thất còn thêm thê, nạp thiếp có ai nghĩ đến môn đăng hậu đối nữa đâu. Còn người đàn bà khi đã vì tình thì đâu có nghĩ gì đến chuyện chính danh. Là vợ, là thê hay là thiếp với họ đâu có gì là quan trọng. Với họ chỉ cần có một chữ “Tình” mà thôi. Vậy nên nói Nguyễn Uất vì bị cha mẹ ngăn cấm chỉ là một cách nói để tự bào chữa cho mình. Tiểu thư của già làm sao mà không hận cho được?
- Thế còn với Bào Nhân?
Gã hỏi. Bà lão nhìn xa xăm ra ngoài hồ với ánh mắt u buồn, chậm rãi trả lời.
- Chẳng lẽ công tử chưa bao giờ nghe đuợc câu “Nhi nữ tình trường”? Với Bào Nhân, thực sự tiểu thư của già không có tình cảm gì. Chẳng qua hình dạng bên ngoài của Bào Nhân giống với kẻ bạc tình nên tình xưa trỗi dậy mà ra tay cứu giúp. Còn chuyện Bào Nhân đuổi theo xe tang ôm quan tài mà khóc đấy không phải là vì một chữ “Tình” mà chỉ vì một chữ “Ơn”, chữ “Nghĩa” mà thôi.
Nghe bà lão kể, Nguyễn trong lòng đầy cảm thán. Chao ôi! Tài sắc nức tiếng một thời chỉ vì một chữ “Tình” mà ôm hận ngàn đời không siêu thoát.
- Vậy vãn sinh phải làm sao mới có thể giúp cho Tô tiểu thư siêu thoát đây?
Nghe Nguyễn hỏi bà lão buồn bã lắc đầu:
- Già cũng không biết. Từ khi mất đi, tiểu thư của già mối hận khôn nguôi nên cứ đến đêm rằm tháng mười hàng năm nàng lại hiện nguyên hình cưỡi một con thuyền nhỏ đi trong hồ này để quyến rũ những tao nhân mặc khách thưởng trăng. Đêm nay là đêm rằm, canh ba đêm nay tiểu thư của già sẽ đến nơi đây. Lúc nãy nghe công tử ngâm thơ không hiểu sao già linh cảm thấy chỉ có công tử mới là người có thể cứu nổi tiểu thư của già. Chỉ cần công tử bằng cách nào đó làm tan đi mối hận đàn ông của tiểu thư là công tử có thể cứu được nàng.
Gã gật đầu đồng ý.
- Thôi được để vãn sinh thử xem sao.
Nghe gã nói vậy bà cụ vui mừng chắp tay vái tạ rồi vội vã bỏ đi. Bà cụ đã đi xa, Nguyễn mới chợt nhớ ra chưa hỏi xem thuyền hoa sẽ đậu nơi đâu nên vội vàng chạy theo để hỏi thì vấp vào một hòn đã ngã lăn xuống đất. Sực tỉnh, thấy mình đang nằm dưới gốc liễu. Thì ra đấy là một giấc mơ. Nguyễn bán tín, bán nghi nên không đi dạo nữa mà trở về nhà trọ đợi trời tối.
Canh ba đêm đó, Nguyễn tắm gội sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề rồi gọi chủ nhà dậy để họ mở cửa cho mình. Người chủ nhà trọ hỏi
- Giờ này rồi mà cậu còn định đi đâu?
Nguyễn bảo:
- Trăng đêm nay đẹp quá. Tôi định đi ra bờ hồ ngắm trăng.
Người chủ nhà mặt thất sắc:
- Cậu không biết gì sao mà lại định ra hồ đêm nay?
Nguyễn ngạc nhiên hỏi lại:
- Biết gì?
Người chủ nhà trọ trả lời:
- Đêm rằm tháng mười năm nào cũng có một người chết đuối ở hồ này.
Nguyễn cười bảo:
- Chuyện ma quỷ chỉ là những chuyện tào lao mà sao ai cũng tin là có thực.
Nói rồi mở cửa bước ra ngoài đường. Nguyễn đi ra ngoài hồ, tìm đến chỗ mấy chiếc thuyền chài đang đậu ở ven hồ đánh thức chủ thuyền dậy.
- Tôi muốn ra ngoài đảo ngắm trăng. Xin ông chở tôi ra ngoài đó.
Vừa nói Nguyễn vừa móc túi lấy ra mấy tờ giấy bạc đưa cho ông lão. Ông lão lắc đầu nguây nguẩy từ chối:
- Chịu thôi! Tôi chẳng dám chở khách ra đảo đêm nay đâu.
Nguyễn tưởng ông lão chê ít bèn móc ra thêm mấy tờ bạc nữa đưa cho ông lão ngư phủ. Ông lão vẫn từ chối.
- Không phải là tôi chê tiền ít đâu cậu mà là chẳng ai dám bơi thuyền ra hồ đêm nay. Cậu nhìn xem. – Vừa nói ông lão vừa chỉ tay ra ngoài hồ. – Đêm nào thuyền đưa khách đi du ngoạn cũng tấp nập suốt đêm. Chỉ có đêm nay là không.
Nguyễn nhìn theo tay ông lão chỉ. Quả thật hồ vắng ngắt không một bóng thuyền. Lúc này thì Nguyễn mới tin là ông chủ nhà trọ của mình nói thật. Thế nhưng Nguyễn vẫn không hề nao núng.
- Nếu thế cụ cho cháu thuê chiếc thuyền nan nhỏ này. Cháu sẽ tự chèo ra ngoài đảo.
Ông cụ thuyền chài gàn Nguyễn.
- Nguy hiểm lắm cậu ạ. Không biết đã có bao nhiêu người chết đuối ở hồ này vào đêm rằm tháng mười rồi. Nếu cậu muốn ngắm trăng thì hãy để đến đêm mai, tôi sẽ đưa cậu đi.
Nguyễn lắc đầu kiên quyết.
- Không! Cháu nhất định phải ra đảo đêm nay.
Biết là không thể ngăn đuợc, ông lão đưa cho Nguyễn một chiếc mái chèo.
- Tôi đã nói rồi. Cậu đừng trách là tôi biết mà không bảo đấy.
Nguyễn cầm lấy cái mái chèo leo sang chiếc thuyền nan nhỏ chèo ra ngoài đảo.
Đêm rằm, trăng sáng vằng vặc, gió thu hiu hắt. Một làn sương mỏng mờ mờ giăng kín mặt hồ. Đột nhiên Nguyễn nghe thấy tiếng đàn tỳ bà xuyên qua làn sương mỏng ai oán như than như khóc. Tiếng đàn nhỏ từng giọt thê lương xuống mặt hồ làm mặt hồ đen thẫm lại, giá buốt, thăm thẳm sâu như nỗi đau của người đàn. Mặt hồ run rẩy gợn từng con sóng nhỏ. Không gian như ngưng đọng lại, lặng đi rồi đột nhiên òa vỡ trong tiếng đàn gấp gáp, giận dữ như một trận cuồng phong chợt cuộn lên mang theo một nỗi hận đến khôn cùng. Từ trong làn sương trắng một chiếc hoa thuyền đèn đuốc sáng choang từ từ hiện ra như một ảo ảnh. Đầu thuyền, một người đang cầm một chiếc mái chèo nhẹ nhàng khuấy nước, gã nhận ra ngay đấy chính là bà lão mà gã đã gặp buổi trưa nay. Qua chiếc rèm thưa, bóng một giai nhân xõa tóc ôm đàn mắt dõi về rặng núi phía xa bàn tay nhỏ nhắn lướt trên cần đàn.
“Phừng!” Gã còn kịp nhìn thấy năm ngón tay gảy đàn của nàng như muốn bấu đứt dây đàn để tạo ra một tiếng “Phừng” đầy giận dữ. Lòng đầy cảm khái, Nguyễn cầm một thanh trúc nhỏ gõ lên mạn thuyền mình mà hát rằng:
Trăng mộng hề!
Thuyền hoa mộng hề.
Mộng bất thành hề giai nhân hận.
Thiên thu hề! thiên tình hận.
Tan hề trong tình thiên thu.
Tiếng hát của gã dứt, tiếng đàn cũng ngưng bặt. Một khoảng lặng kéo dài rồi gã chợt nghe thấy một tiếng cười nhạt phát ra sau tấm rèm thưa của chiếc hoa thuyền.
- Xin mời công tử lên thuyền.
Một tiếng oanh thánh thót vang lên. Gã điềm nhiên bước lên hoa thuyền vén rèm cửa bước vào. Cô gái đứng dậy cúi mình thi lễ. Đẹp! Sắc đẹp của cô gái làm cho gã ngơ ngẩn. Một nét đẹp buồn toát ra từ cô gái và có lẽ chính cái nét buồn ấy làm cho cô gái càng trở nên quyến rũ hơn. Gã cũng chắp tay xá một xá.
- Tô tiểu thư! Danh nghe đã lâu bây giờ mới gặp thật là vạn hạnh.
Mặt cô gái thoáng biến sắc xong rất nhanh, cô gái lấy lại ngay vẻ mặt bình thường.
- Hóa ra công tử đã biết tiểu nữ là ai. Vậy công tử không sợ chết hay sao?
Nguyễn mỉm cười nhìn thẳng vào cô gái ánh mắt không hề dấu diếm vẻ ngưỡng mộ.
- Chết trong lòng mĩ nhân là cái chết nặng tựa thái sơn còn chết trong tình mĩ nhân là cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tại hạ có việc gì mà phải sợ?
- Có vẻ công tử tự tin là sẽ chiếm đuợc chữ “Tình” của thiếp chăng?
Nghe cô gái hỏi gã điềm nhiên gật đầu.
- Tiểu thư vì một chữ “Tình” mà chết chứng tỏ tiểu thư là một người trọng tình còn ta vì một chữ “Nghĩa” mà không sợ chết lẽ nào một người như thế lại không thể chiếm đuợc chữ “Tình” trong lòng tiểu thư ?
Cô gái cười nhạt hỏi lại gã.
- Tiểu nữ không hiểu :Vì một chữ “Nghĩa” mà công tử vừa nói
- Có gì mà không hiểu. – gã đáp. – Tiểu thư vì một chữ “Hận” mà không thể siêu thoát còn ta lại muốn làm tan đi chữ hận ấy để tiểu thư có thể siêu thoát chẳng phải là một việc nghĩa hay sao?
Cô gái nhìn gã, ánh mắt lộ vẻ ngạc nhiên. Môi nàng mấp máy định nói nhưng lúc ấy người vú nuôi Giả Di bưng khay trà vén rèm bước vào nên nàng không nói nữa. Giả Di đặt khay trà xuống bàn, rót nước ra chén. Cô gái nâng chén trà lên mời gã:
- Mời công tử dùng trà.
Gã giơ tay đỡ lấy chén trà mà cô gái đưa. Hình như cô gái cố ý để cho bàn tay của mình chạm vào tay gã. Gã rùng mình. Một xúc cảm trỗi dậy khiến cho bàn tay cầm chén trà của gã run run làm nước trà nóng sánh xuống tay cô gái. Gã vội vàng đặt chén trà xuống bàn, một tay cầm lấy tay cô gái còn tay kia rút chiếc khăn tay định lau những giọt nước trên bàn tay ấy. Một nụ cười nhạt rất mờ nhạt hiện ra trên đôi môi hồng tươi của cô gái. Gã nhận ra ngay điều đó nên vội vàng buông tay cô gái ra lúng túng nói:
- Xin lỗi tiểu thư
- Không sao! – Cô gái lạnh nhạt. – Nhưng công tử định dùng cách này để làm tan chữ “Hận” trong lòng tiểu nữ sao?
Gã vội vàng dịch chiếc ghế đang ngồi ra xa một chút rồi nghiêm nghị nhìn cô gái hỏi:
- Vậy theo tiểu thư phải dùng cách nào mới có thể làm tan đi mối hận ấy?
Cô gái cười.
- Dễ lắm! Chỉ cần đêm nay tâm công tử không động là mối hận trong lòng tiểu nữ sẽ tan ngay.
- Tiểu thư sai rồi! – Gã điềm tĩnh nói. – Trời sinh ra âm dương là để cho âm dương giao hòa. Âm dương gần nhau thì hút nhau. Đấy là Đạo trời. Trong Kinh dịch có câu “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong (Thuận theo Đạo trời thì sống, trái với Đạo trời thì chết). Tiểu thư hoa nhường nguyệt thẹn. Ta sao có thể trái với Đạo trời để tâm không động đây?
Cô gái cười gằn, nét mặt bỗng đanh lại:
- Những kẻ hạ lưu kẻ nào cũng nói như công tử để biện minh cho hành động khốn nạn của mình. Công tử nói “Âm dương giao hòa” vậy thế nào là giao hòa? Có phải là trong âm có dương, trong dương có âm không? Còn như trong âm có dương còn trong dương không có một chút âm nào thì gọi là gì đây? Và công tử nói thế nào về Liễu Hạ Huệ?
- Tiểu thư lại sai nữa rồi. – Gã lắc đầu. – Người ta khen Liễu Hạ Huệ là chính nhân quân tử, còn với ta, Liễu Hạ Huệ cũng chỉ là một ngụy quân tử mà thôi. Người quân tử yêu thì nói là yêu, ghét thì nói là ghét. Còn như trong bụng thì thích ngoài miệng lại nói không thì những kẻ như thế không đáng để cho ta bàn đến.
Trong ánh mắt của cô gái lộ rõ vẻ hoang mang pha lẫn với một chút thích thú. Nàng cười nhẹ hỏi.
- Sao công tử lại nói như vậy?
- Liễu Hạ Huệ ôm cô gái trong lòng mà mắt không dám nhìn xuống cơ thể tuyệt mĩ của nàng là cái tâm của ông ta đã động. Ông ta không dám nhìn là vì sợ sẽ đến một lúc mình không thể kiềm chế được cái tâm đang động của mình mà đi đến động thân. Trời sinh ra ngũ giác để mà cảm nhận cái hay, cái đẹp của cuộc đời. Cái đẹp bày ra trước mắt mà không dám cảm nhận, chẳng phải là ngụy quân tử sao? Chỉ có thế nói Liễu Hạ Huệ không động thân thôi chứ quyết không thể nói ông ta không động tâm được. Còn điều tiểu thư hỏi về “Trong âm có dương nhưng trong dương không có một chút âm nào” thì... – Nói đến đây gã phải dừng lại suy nghĩ một lúc rồi nhìn thẳng vào mắt cô gái thẳng thắn thừa nhận. – Đấy không phải là giao hòa mà đấy là một sự chiếm đoạt. Một hành động đê tiện.
- Chắc công tử cho là mình cũng có thể làm đuợc như Liễu Hạ Huệ chăng?
Cô gái hỏi gã với một giọng đầy châm biếm. Gã gật đầu.
- Ta hơn hẳn Liễu Hạ Huệ một bậc. Vừa gặp nàng tâm của ta đã động nhưng ta vẫn có thể gối đầu vào lòng nàng, ngắm nhìn cơ thể tuyệt mĩ của nàng mà chẳng hề động thân.
- Ta sẽ thử xem.
Cô gái đứng dậy đi vào phòng trong, chỉ một thoáng cô gái quay trở ra. Gã nhìn lên. Toàn thân gã nổi gai, người gã cứng đơ. Mắt gã dán chặt lên người cô gái. Cô gái đã cởi bỏ toàn bộ nội y chỉ khoác hờ lên trên mình một tấm xoa trắng mỏng. Cô gái đi lại bên bàn, ngồi xuống duỗi đôi chân thon, mịn, trắng ngần dùng tay vỗ vỗ vào đùi mình bảo gã.
- Công tử có thể gối đầu lên đây nghe tiểu nữ gảy đàn được không? Vừa nói, cô gái vừa vươn tay với lấy cây đàn làm cho tấm xoa hơi trễ xuống. Một bên vú lộ hẳn ra tròn đầy, săn chắc như chưa hề bị một bàn tay nào động vào.
Gã cắn môi đi lại bên cô gái, nằm dài trên tấm thảm gối đầu lên chiếc đùi thon. Một mùi hương từ cơ thể cô gái thoát ra làm cho gã ngây ngất. Từ trong lòng cô gái ngước nhìn lên gã thấy nét mắt cô gái đoan chính một cách khác thường không hề có lấy một chút tà dâm trái ngược hẳn với tấm thân như ngọc, như ngà mờ mờ hiện dưới làn xoa mỏng. Chính cái nét mặt đoan chính ấy càng làm cho nỗi khát thèm trong gã trỗi dậy một cách mạnh mẽ. Răng hắn lún sâu thêm vào môi chút nữa. Tiếng đàn bắt đầu dìu dặt cất lên. Tiếng đàn như một bàn tay thiếu nữ nhẹ mơn man lên khắp cơ thể gã. Tiếng đàn thầm thì nói về nỗi khát khao thiếu nữ. Tiếng đàn không hề có khúc nào mạnh mẽ, cuồng nhiệt làm cho con người có thể bùng lên đột ngột như một ngọn núi lửa chợt phun trào mà tiếng đàn chậm rãi, nhẹ nhàng, miên man như một ngọn lửa cứ liu riu thiêu đốt lòng người khiến cho đôi bàn tay như muốn cựa quậy. Tiếng đàn thầm thì, trách móc, gợi cảm. Mùi hương con gái tràn ngập khắp phòng. Mầu hồng của da thịt mờ mờ dưới làn xoa. Dịch xuống, áp sát ngay vào mặt gã, một vệt đen mượt như nhung cũng mờ mờ dưới tấm xoa như khêu gợi như mời gọi. Toàn thân gã rạo rực trong tiếng đàn ma mị. Trong tấm thân ma mị. Trong làn hương ma mị của đời.
- Tiểu thư! Đừng đàn nữa. – Người vú già bỗng hoảng hốt kêu lên - Nhìn công tử kìa!
Trong suốt cả quá trình đàn, cô gái không hề cúi nhìn xuống gã dù chỉ một lần. Nghe người vú kêu. Tiếng đàn dừng lại. Cô gái cúi nhìn xuống. Từ làn môi rách nát của gã một dòng máu kéo dài qua mép nhỏ đúng xuống chỗ vệt đen đang mờ ảo hiện dưới làn xoa mỏng ngang thân cô gái tạo thành một vết đỏ tươi trên nền trắng của xoa
Cô gái bỏ cây đàn xuống quay sang bảo người vú già.
- Vú ra ngoài đi và khép cửa lại!
Người vú già đi ra ngoài khe khẽ khép cánh cửa hoa phòng. Đợi người vú đi ra rồi, cô gái mới nhẹ nhàng gỡ bàn tay đang bấu chặt cứng lấy chân bàn của gã từ từ đặt nó vào chỗ bầu vú đang để trần của mình.
- Thả lỏng người thư giãn đi chàng! Trong thiếp đã có chàng rồi.
Nến phụt tắt. Bầu trời và mặt đất gặp nhau.
*
* *
Sáng sớm hôm sau, tỉnh dậy, gã thấy mình đang nằm ôm một nấm mộ. Nhìn vào tấm bia đá thấy đề “Tiền Đường Tô Tiểu Tiểu chi mộ”. Một trận gió nổi lên, những chiếc lá phong đỏ rực rơi xao xác. Gã ngước nhìn lên bầu trời. Một làn mây trắng đang từ từ dâng lên cao và tiếng đàn tì bà đang dạo khúc Phượng cầu hoàng thánh thót từ đám mây trắng vọng xuống như một lời tiễn biệt.
Tây Hồ Hàng Châu 17-10-2012
Tây Hồ Hà Nội 27-10-2012

Nếu Tô tiểu thư có thật trên cuộc đời này xin nàng đại xá!

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

Ngụy quân tử



Nguyễn Việt Hà
 Ai cũng có thể phân biệt chính/ tà nếu hai việc xuất hiện cùng lúc. Tuy vậy, việc phân biệt kẻ tiểu nhân trá hình quân tử và người chính nhân quân tử không phải lúc nào cũng dễ. Có một bức tranh hoạt họa vẽ hai chân dung giống nhau và ghi chú khác nhau, một bên là tội phạm và một bên là thánh nữ, và câu hỏi ở giữa: Có gì khác nhau? Những bộ phim bình dân thường cho khán giả biết ngay người ngay kẻ gian qua cách ăn mặc, hay nét mặt, thái độ, cách ăn nói, hoặc dáng vẻ. Nhưng ở mức độ khá hơn, đạo diễn sẽ đi gần với thực tế hơn, khán giả không dễ dàng nhận ra kẻ tội phạm cho đến hồi kết cuộc. 



Ở tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung, ngoài những tình tiết phiêu lưu ly kỳ những chiêu thức đánh nhau ngoạn mục, thì có một điều làm văn ông hồi hộp khác hẳn những cây bút viết “chưởng” khác, đó là việc tiên sinh dần dần từng tí kiên nhẫn vạch trần những đàn ông mang vẻ cao đạo. Độc giả thót tim nhẹ nhõm thở phào khi thấy lần lượt các mặt nạ Nhân, Nghĩa, Lẽ, trí, Tín của mấy tay đạo đức giả từ từ tụt xuống, đặc biệt có kẻ còn lộ nguyên hình là thằng mặt người dạ thú. Để có được bút lực gai sắc thâm hậu ấy, người đọc lương thiện đồ rằng, cuộc đời của tiên sinh chắc phải thăng trầm đa đoan lắm. Bởi từ xưa đến nay, để nhìn cho thấu chân diện của một ngụy quân tử là việc thiên nan vạn nan kinh khủng khó.

Đàn ông đạo đức thật vốn dĩ đã không hề đơn giản, do trót có tài năng có phẩm hạnh, họ thường bị đùn đẩy kẹt giữa những đỉnh cao ngóc ngách của các mối quan hệ xã hội. Hành trình hướng Chân Thiện Mỹ của họ liên tục đứt đoạn lổn nhổn đúng sai đa tầng đa nghĩa, và thật nông nổi hời hợt khi vội vàng xét đoán thành kiến đánh giá. Thế nhưng độ phức tạp ở họ vẫn chưa là gì nếu phải so với những đàn ông đang tha hóa trở thành đạo đức giả. Và mọi sự càng chồng chất phức tạp hơn khi đám đạo đức giả ấy tiếp tục dùng trí thông minh tự xây cho mình những giá trị nhang nhác giống hệt như đạo đức. Nôm na có thể nói, ngụy quân tử chính là những kẻ có đạo đức giả hai lần.



Chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần là điển hình lối lạc cho đám ngụ quân tử. Cái tham vọng mụ mị điên cuồng muốn làm thiên hạ đệ nhất cao thủ được tỉnh táo khôn khéo che giấu dưới cái vỏ bọc chí công vô tư không thèm danh lợi. Giống như nhan nhản đàn ông cao đạo thời nay, mồm thì nói không cần nhưng đít âm thầm phấn đấu.

Những đàn ông đó thích ra vẻ dè bỉu đám đông nhưng trong sâu luôn bị ám ảnh dằn vặt bởi cái hư danh do vẫn cái đám đông ấy lẫn lộn phong tặng. “Bất quần” theo nghĩa đen là chẳng thiết số nhiều, vì thế khi đám ngụy quân tử xuất hiện trên các phương tiện truyền thông, tất thảy trông đều rưng rưng cô đơn đẫm đầy cô độc. Bọn họ phẫn nộ nói về các hiện tượng đang tự đánh bóng tên tuổi rồi chua chát thở dài là phong khí học thuật bây giờ nhố nhăng quá. Sau một hồi nhiệt huyết diễn thuyết, bọn họ rút môbai gọi về cho vợ hiền con ngoan là tối nay vẫn bận họp rồi ủ dột đi theo vài ba Mạnh thường quân dung tục thẳng tiến ra bãi biển Đồ Sơn. Trong bữa nhậu ê hề hải sản, họ bật khóc khi ti vi đang chiếu cảnh bão lũ miền Trung và họ thành thật tự thú rằng miếng tôm hùm hôm nay đắng ngắt như miếng nhút. Lúc vào phòng karaoke hoặc mát xa, họ trân trọng gọi các nữ tiếp viên là con gái, giở ví cho xem đứa út cũng ngang tuổi các “con” đang du học ở Mỹ. Tối muộn quay về phòng riêng, họ cau mặt khi thấy trong phòng xuất hiện một thiếu nữ trẻ. Sau một hồi cân nhắc lương tâm, họ tặc lưỡi là đêm nay sẽ mất kiềm chế vì buổi chiều trót uống nhiều quá. Tất nhiên, do có đạo đức dày gấp hai lần người bình thường, họ cẩn thận đòi xem chứng minh thư. Bất hạnh thay, cô bé vẫn đang ở tuổi vị thành niên, họ đau đớn lên án bọn tú ông tú bà buôn người, vật vã nuốt lệ cho phép gái trẻ ngồi lên lòng mình rồi không làm gì sang sảng kể cho thiếu nữ nghe về tấm gương của ông Liễu Hạ Huệ ở bên Tàu. Bình minh lên, dưới ánh mặt trời rạng rỡ, họ thanh thản tự hào, không hiểu sao mà mình lại vĩ đại nhân văn đến thế.

Ở từ vựng của Nho giáo, khái niệm quân tử, là một khái niệm “quân tử” là một khái niệm “quân tử” thanh sạch cốt để chỉ một đàn ông có phẩm hạnh trong trắng, có nhân cách thành thực hoàn thiện. Thuở ban sơ thời Thương - Chu (khoảng một nghìn năm tr. CN) khái niệm quân tử mặc định chỉ người có vị thế tôn quý, đối lập với tiểu nhân là đám thảo dân không có địa vị gì. Phải đến thời Khổng Tử khái niệm này mới vượt thoát khỏi thông tục. Khổng Tử cho rằng, dẫu bần cùng khổ sở, quân tử vẫn là cao thượng quân tử còn tiểu nhân tuy có quyền chức sang trọng vẫn là hèn hạ tiểu nhân.

Người quân tử đại loại là “Tâm tính thanh minh, biết điều gì thì càng ngày càng tinh thâm thuần thục. Họ dốc lòng làm việc nghĩa không để ý đến nhỏ nhen danh lợi. Cái bụng người người quân tử tự nhiên thành thực, hòa với mọi người nhưng không về hùa với người. Lúc khốn cùng thì cứ lấy nghĩa mệnh mà tự yên chứ không như tiểu nhân, thế nào cũng là điều bậy bạ. Với trời đất họ thận trọng kính cẩn, với người họ nhân hậu từ ái.” (Nho giáo Trần Trọng Kim). Đương nhiên những người như thế thì thiên hạ (tất nhiên có phụ nữ) yêu thương kính trọng lắm. Chính vì vậy mà vô số đàn ông cứ mở mồm là nói đạo đức đều ra sức phấn đấu để mong được người đời coi mình là quân tử. Và khi phải cố đạt điều gì, người ta thường giả dối với chính mình. Ngụy quân tử ra đời.

Thành ngữ chuyện “chưởng” cay đắng cảm thán “chân tiểu nhân còn hơn ngụy quân tử”. Ở xã hội đương đại đang tươi đẹp của chúng ta, nhỡ có đông đông tiểu nhân một tí thì cũng đừng nên bi quan đấy là tai họa.