Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư liệu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư liệu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 8 tháng 3, 2022

Chủ nghĩa phát xít vĩnh cửu (Ur-fascism)

 


Lời người dịch: có khi nào bạn đọc Việt Nam thắc mắc, từ “phát xít” bắt nguồn từ đâu? Chắc đa số sẽ nghĩ về Đức, nhưng thực ra phát xít Đức là nazism, không phải fascism– vốn là tên đảng của Mussolini ở Ý. Tại sao chữ fascism lại trở nên phổ biến hơn và được dùng rộng rãi, tại sao, bất chấp những tội ác khủng khiếp mà nó gây ra, đến tận ngày nay ta vẫn thấy nảy sinh và lớn mạnh các phong trào phát xít trên khắp thế giới? Khi nào thì người ta gọi một phong trào hay đảng phái là phát xít, dựa theo những dấu hiệu nào?

Người đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này là triết gia, nhà văn Ý Umberto Eco. Trong bài viết năm 1995 có tự đề “Ur-Fascism” (chủ nghĩa phát xít vĩnh cửu), Eco đã đưa ra phương án giải thích tại sao chữ “phát xít” lại được sử dụng rộng rãi mà không phải nazism hay từ khác, tại sao nó có nhiều biến thể và luôn rình rập để quay trở lại dưới hình hài mới. Eco cũng liệt kê 14 dấu hiệu của chủ nghĩa phát xít, tuy mâu thuẫn với nhau nhưng lại có thể đồng hành. Các dấu hiệu này cũng rất dễ thấy ở các chế độ toàn trị khác.

Các phong trào phát xít (và phong trào dân tộc nói chung) hay trỗi dậy mới khi thế giới gặp khủng hoảng, ta có thể thấy rõ ở thời điểm năm 2020 này. Vì độc giả Việt Nam chưa được làm quen với bài viết của Eco, nên tôi dịch giới thiệu toàn văn, nguồn được dẫn ở cuối bài. Tôi cũng dịch một bài tóm tắt 14 dấu hiệu của Mikhail Sender (Nga) để độc giả đọc thêm. Các hyperlink trong bài là của người dịch (chủ yếu dẫn về wikipedia). Ngoài ra, độc giả cũng rất nên đọc bài viết năm 1900 của Leo Tolstoy “Chủ nghĩa ái quốc và chính phủ” do Phạm Vĩnh Cư dịch, vì có sự liên quan giữa chủ nghĩa ái quốc và chủ nghĩa phát xít (và các chủ nghĩa toàn trị khác).

Umberto Eco. Ur-Fascism

Умберто Эко (1932-2016) - итальянский учёный, философ, специалист по семиотике и средневековой эстетике, теоретик культуры, литературный критик, писатель, публицист.

Umberto Eco (1932-2016). Các tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Tên của hoa hồng, Nghĩa địa Praha, Con lắc Foucault, v.v.

Năm 1942, khi mới mười tuổi, tôi đã được Giải nhất Cuộc thi Thanh thiếu niên (Ludi Juveniles) cấp tỉnh (một cuộc thi đấu tự nguyện bắt buộc cho những thành viên phát xít trẻ Ý – tức là, cho mọi thiếu niên Ý). Tôi đã dụng công với kỹ năng hùng biện của mình về chủ đề “Chúng ta có nên hy sinh vì vinh quang của Mussolini và vận mệnh bất tử của nước Ý? ” Câu trả lời của tôi là có. Tôi thông minh mà.

Tôi đã có hai năm tuổi trẻ ở giữa những SS, Phát xít, Cộng hòa và du kích bắn lẫn nhau, và tôi đã học được cách né đạn. Đó là cách luyện tập tốt.

Vào tháng 4 năm 1945, du kích tiếp quản Milan. Hai ngày sau họ đến thị trấn nhỏ nơi tôi sống lúc đó. Đó là thời khắc của niềm vui. Quảng trường chính đầy người hát và vẫy cờ, kêu to tên Mimo, thủ lĩnh du kích của khu vực đó. Vốn là cựu sỹ quan (maresciallo) của Carabinieri, Mimo đã tham gia những người ủng hộ tướng Badoglio, người lên thay Mussolini, và bị mất một chân trong một trong những cuộc đụng độ đầu tiên với lực lượng còn lại của Mussolini. Mimo xuất hiện trên ban công của Tòa thị chính, nhợt nhạt, dựa vào đôi nạng, và một tay cố gắng trấn tĩnh đám đông. Tôi đã chờ đợi bài phát biểu của ông, vì cả thời thơ ấu của tôi là dấu ấn của những phát biểu lịch sử của Mussolini, mà những đoạn quan trọng nhất chúng tôi học thuộc lòng ở trường. Tĩnh lặng. Mimo nói bằng giọng khàn khàn, hầu như không thể nghe thấy. Ông nói: “Thưa các công dân, bạn bè. Sau rất nhiều hy sinh đau đớn… cuối cùng chúng ta đã ở đây. Vinh quang cho những người đã ngã xuống vì tự do”. Và đó là tất cả. Ông ta đi vào trong. Đám đông la hét, du kích giơ súng và bắn lên trời. Bọn trẻ chúng tôi vội vã nhặt vỏ đạn, vật phẩm quý giá, nhưng tôi cũng đã học được rằng tự do ngôn luận có nghĩa là tự do khỏi hùng biện.

Vài ngày sau tôi thấy những lính Mỹ đầu tiên. Họ là người Mỹ gốc Phi. Tay yankee đầu tiên tôi gặp là một người da đen, Joseph, người đã giới thiệu cho tôi truyện tranh Dick Tracy và Li’l Abner. Những cuốn truyện tranh có màu rực rỡ và có mùi thơm.

Một trong những sĩ quan (Thiếu tá hoặc Đại úy Muddy) là khách trong biệt thự của một gia đình có hai con gái là bạn học của tôi. Tôi đã gặp ông ta trong khu vườn của họ, nơi một số phụ nữ, vây quanh thuyền trưởng Muddy, nói chuyện bằng tiếng Pháp gần đúng. Đại úy Muddy cũng biết chút tiếng Pháp. Hình ảnh đầu tiên của tôi về những người Mỹ giải phóng là vậy – sau rất nhiều khuôn mặt nhợt nhạt trong bộ áo đen – hình ảnh một người đàn ông da đen ham học trong bộ đồng phục màu cỏ úa: “Oui, merci beaucoup, Madame, moi aussi j’aime le champagne…” (vâng, cám ơn quý bà, tôi cũng thích sâm panh). Tiếc là đã không có sâm banh, nhưng đại úy Muddy cho tôi viên kẹo cao su Wrigley’s Spearmint đầu tiên, và tôi bắt đầu nhai cả ngày. Vào ban đêm, tôi bỏ viên kẹo vào cốc nước, để nó tươi ngon cho ngày tiếp theo.

Vào tháng Năm, chúng tôi nghe rằng chiến tranh đã kết thúc. Hòa bình cho tôi một cảm giác tò mò. Tôi đã được dạy rằng chiến tranh vĩnh viễn là cuộc sống bình thường đối với một thanh niên Ý. Trong những tháng tiếp theo, tôi phát hiện ra rằng Kháng chiến không chỉ là một hiện tượng địa phương mà còn là của cả châu Âu. Tôi đã học những từ mới thú vị như réseau, maquis, armée secrète, Rote Kapelle, trại tập trung Warsaw. Tôi đã nhìn thấy những bức ảnh đầu tiên của Holocaust, do đó hiểu được ý nghĩa trước khi biết thuật ngữ này. Tôi nhận ra, mình đã được giải phóng khỏi cái gì.

Ở Italia nước tôi ngày nay có người đặt câu hỏi, liệu Kháng chiến có tác động gì về mặt quân sự vào tiến trình của cuộc chiến. Với thế hệ tôi, câu hỏi này không tồn tại: chúng tôi hiểu ngay ý nghĩa đạo đức và tâm lý của Kháng chiến. Với chúng tôi, là niềm tự hào khi biết rằng người châu Âu đã không chờ đợi một cách thụ động để được giải phóng. Và cả đối với những người Mỹ trẻ tuổi đã trả bằng máu cho tự do của chúng tôi, nó cũng có ý nghĩa khi họ biết rằng phía sau mặt trận cũng có những người châu Âu hy sinh xương máu giống họ.

Ở Italia ngày nay có người nói rằng Kháng chiến là sự bịa đặt của cộng sản. Đúng là cộng sản đã khai thác Kháng chiến như thể đó là tài sản của họ, tận dụng việc họ đóng vai trò chính; nhưng tôi nhớ du kích với những chiếc khăn màu sắc khác nhau. Cả đêm tôi dính chặt vào radio – cửa sổ đóng, điện tắt, chỉ một quầng sáng nhỏ đơn độc xung quanh cái radio – để nghe những tin nhắn do Đài Tiếng nói Luân Đôn gửi cho du kích. Các thông điệp vừa tù mù lại vừa thơ mộng (Mặt trời cũng mọc, Hoa hồng sẽ nở), ​​và hầu hết là “messaggi per la Franchi” (thông tin cho Franchi). Có người rỉ tai tôi rằng Franchi là người lãnh đạo mạng lưới bí mật mạnh nhất ở tây bắc nước Ý, một người đàn ông can đảm đến mức huyền thoại. Franchi trở thành anh hùng của tôi. Franchi (tên thật là Edgardo Sogno) là một người bảo hoàng, chống cộng mạnh đến mức sau chiến tranh ông gia nhập cánh hữu cực đoan, và bị buộc tội tham gia một âm mưu đảo chính. Nhưng ai quan tâm chứ? Sogno vẫn là người hùng trong mơ của tuổi thơ tôi. Giải phóng là việc chung của những người có màu sắc khác nhau.

Ở Italia ngày nay có người nói rằng chiến tranh giải phóng là một bi kịch của thời kỳ chia rẽ, và những gì ta cần là hòa giải dân tộc. Ký ức của những năm khủng khiếp đó nên được kìm nén. Nhưng sự kìm nén gây ra bệnh tâm thần. Nếu hòa giải nghĩa là từ bi và tôn trọng tất cả những người đã chiến đấu vì thứ mà họ tin chân thành, thì tha thứ không có nghĩa là quên. Tôi thậm chí có thể ghi nhận rằng Eichmann đã chân thành tin vào nhiệm vụ của mình, nhưng tôi không thể nói, “OK, hãy quay lại và làm lại lần nữa.” Chúng ta ở đây để nhớ những gì đã xảy ra và long trọng nói rằng “Họ” không được lặp lại.

Nhưng, “Họ” là ai?

Nếu chúng ta vẫn hình dung họ là các chính phủ toàn trị cai trị châu Âu trước Thế chiến 2, thì có thể nói rằng rất khó để chúng tái xuất hiện trong hình hài cũ ở hoàn cảnh lịch sử mới. Nếu chủ nghĩa phát xít của Mussolini dựa trên ý tưởng của một nhà cai trị lôi cuốn, về chủ nghĩa tập đoàn (corporatism), về Sứ mệnh Đế quốc La mã không tưởng, ý chí đế quốc xâm chiếm các lãnh thổ mới, một chủ nghĩa dân tộc cường điệu hóa, về việc kêu gọi cả một quốc gia mặc áo đen xếp hàng hai, về sự khước từ quốc hội dân chủ, về chủ nghĩa bài Do Thái, thì tôi không gặp khó khăn gì trong việc thừa nhận rằng ngày nay Liên minh Dân tộc Ý sinh ra từ  Đảng Phát xít sau chiến tranh, MSI, và chắc chắn là một đảng cánh hữu, bây giờ rất ít liên quan đến chủ nghĩa phát xít cũ. Cũng vì nguyên nhân đó, mặc dù rất lo lắng về các phong trào giống Đức quốc xã đang phát sinh đây đó ở Châu Âu, kể cả Nga, tôi không nghĩ rằng chủ nghĩa phát xít, ở dạng nguyên thủy, sắp xuất hiện trở lại như một phong trào lôi kéo được toàn dân.

Tuy nhiên, mặc dù chế độ chính trị có thể bị lật đổ, ý thức hệ có thể bị chỉ trích và bị khước từ, đằng sau một chế độ và ý thức hệ của nó luôn có một thế giới quan và cảm xúc, một tập hợp các thói quen văn hóa, của bản năng mơ hồ và động cơ phi ý thức. Liệu vẫn còn một con ma nào đó đang rình rập châu Âu (không kể những phần khác của thế giới)?

Ionesco từng nói “chỉ có lời nói là quan trọng, còn lại là nhảm nhí”. Thói quen ngôn ngữ luôn là triệu chứng quan trọng đầu tiên của cảm giác được che giấu. Vì vậy, đáng để ta đặt câu hỏi, tại sao không chỉ phong trào kháng chiến, mà cả Chiến tranh thế giới thứ hai thường được hiểu nhất quán trên toàn thế giới như một cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Nếu đọc “Chuông nguyện hồn ai” của Hemingway, bạn sẽ khám phá ra rằng Robert Jordan xác định kẻ thù của mình là phát xít, trong khi thật ra chúng là nhóm Falangist Tây Ban Nha. Và đối với F.D. Roosevelt thì, “chiến thắng của nhân dân Mỹ và các đồng minh của họ sẽ là chiến thắng chống lại chủ nghĩa phát xít và tàn dư của chủ nghĩa chuyên quyền mà nó đại diện.”

Trong Thế chiến II, người Mỹ tham chiến ở Tây Ban Nha được gọi là “chống phát xít non” – nghĩa là, chiến đấu chống Hitler ở những năm 40 là một nghĩa vụ đạo đức cho mọi người Mỹ tốt, nhưng chiến đấu chống lại Franco quá sớm, trong thập niên 30, thì không ổn vì nó chủ yếu được thực hiện bởi những người Cộng sản và những người cánh tả khác… Tại sao câu chửi “đồ lợn phát xít” được dân Mỹ sử dụng tận 30 năm sau để chỉ một cảnh sát phản đối thói quen hút thuốc của họ? Tại sao họ không nói: đồ lợn Cagoulard,
Lợn Falangist, lợn Ustashe, lợn Quisling, lợn Nazi?

Mein Kampf là tuyên ngôn của một chương trình chính trị hoàn chỉnh. Chủ nghĩa phát xít Đức (nazism) chứa đựng lý thuyết về phân biệt chủng tộc và người Aryan thượng đẳng, một quan niệm rõ ràng về nghệ thuật thoái hóa (Entartete Kunst), triết lý về ý chí quyền lực và siêu nhân (Ubermensch). Chủ nghĩa nazism rõ ràng là phản Kitô giáo và tân đa thần giáo (neo-pagan), trong khi chủ nghĩa duy vật biện chứng của Stalin (phiên bản chính thức của chủ nghĩa Mác kiểu Liên xô) thì duy vật và vô thần. Nếu định nghĩa chế độ toàn trị là chế độ bắt mọi hành động của cá nhân phải tuân phục nhà nước và hệ tư tưởng của nó, thì cả chủ nghĩa phát xít Đức (Nazism) và chủ nghĩa Stalin đều là chế độ toàn trị thực sự.

Chủ nghĩa phát xít Ý chắc chắn là một chế độ độc tài, nhưng nó không hoàn toàn toàn trị, không phải vì nó nhẹ nhàng hơn, mà là vì hệ tư tưởng của nó yếu kém về mặt triết lý. Trái ngược quan điểm ​​chung, chủ nghĩa phát xít Ý không có triết lý đặc biệt. Bài báo về chủ nghĩa phát xít có chữ ký của Mussolini trong Bách khoa toàn thư Treccani được viết bởi hoặc lấy cảm hứng chủ yếu từ Giovanni Gentile, nhưng nó phản ánh một quan niệm thời kỳ hậu Hegel về Nhà nước Tuyệt đối và Đạo đức – điều chưa bao giờ được Mussolini thực thi đầy đủ. Mussolini không có triết lý nào, chỉ có hùng biện. Lúc đầu ông ta là một kẻ vô thần hiếu chiến, sau đó đã ký hòa ước với Giáo hội và hoan nghênh những giám mục đã ban phước cho những người phát xít. Trong những năm đầu khi còn chống Giáo hội, theo truyền thuyết, ông ta đã từng thách Chúa giáng sét đánh chết mình, để chứng minh sự tồn tại của Chúa trời. Về sau, Mussolini lại luôn nhắc tên Thiên Chúa trong các bài phát biểu của mình, và không ngại ngần khi được gọi là cánh tay của Thượng đế.

Chủ nghĩa phát xít Ý là chế độ độc tài cánh hữu đầu tiên tiếp quản một quốc gia châu Âu, và tất cả các phong trào tương tự sau này có chung một nguyên mẫu từ chế độ Mussolini. Chủ nghĩa phát xít Ý là người đầu tiên thiết lập phụng vụ quân sự, văn hóa dân gian, thậm chí là cách ăn mặc – những chiếc áo đen, có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với những Armani, Benetton hay Versace. Chỉ đến những 30, sau Ý, các phong trào phát xít mới xuất hiện, ở Anh (Mosley), Latvia, Estonia, Litva, Ba Lan, Hungary, Romania, Bulgaria, Hy Lạp, Nam Tư, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Na Uy và thậm chí Nam Mỹ. Chính là chủ nghĩa phát xít Ý đã thuyết phục nhiều nhà lãnh đạo tự do châu Âu rằng chế độ mới này đang thực thi cải cách xã hội thú vị, và nó là một cuộc cách mạng khác, nhẹ nhàng nếu so với mối đe dọa cộng sản.

Tuy nhiên, với tôi sự ưu tiên về lịch sử này không đủ để giải thích tại sao từ “phát xít” đã trở thành một từ cải dung (synecdoche), nghĩa là một từ được dùng chung cho các phong trào toàn trị. Đây không phải là vì chủ nghĩa phát xít chứa đựng trong nó các yếu tố của tất cả các hình thức toàn trị sau này, kiểu như những gì tinh túy. Ngược lại, chủ nghĩa phát xít không có tinh túy, nó là một chủ nghĩa toàn trị mờ (fuzzy), một bức tranh ghép của các ý tưởng triết học và chính trị khác nhau, một tổ ong của mâu thuẫn. Liệu có thể hình dung một phong trào toàn trị thực sự kết hợp chế độ quân chủ với cách mạng, Quân đội Hoàng gia với lực lượng dân quân của Mussolini, trao đặc quyền cho Giáo hội trong khi giáo dục thì thuộc nhà nước và tuyên truyền bạo lực, nhà nước kiểm soát tuyệt đối song hành với thị trường tự do? Đảng phát xít ra đời, tự hào rằng nó mang lại một trật tự mới mang tính cách mạng; nhưng nó được tài trợ bởi những người bảo thủ nhất trong các địa chủ, những người mong đợi từ nó một cuộc phản cách mạng. Lúc bắt đầu, chủ nghĩa phát xít là cộng hòa. Tuy nhiên, trong 20 năm nó đã tuyên bố lòng trung thành với hoàng gia, trong khi Duce (Lãnh tụ tối cao) đã sát cánh với Nhà vua, người mà ông ta đề cử danh xưng Hoàng đế. Nhưng khi vua sa thải Mussolini năm 1943, đảng đã xuất hiện trở lại sau hai tháng, với sự hỗ trợ của Đức, theo tiêu chuẩn của một nước cộng hòa “xã hội”, tái chế văn bản cách mạng cũ của nó, chỉ có giờ đây chứa nhiều hơn các âm hưởng Jacobin (cách mạng kiểu khủng bố).

Chỉ có một kiến ​​trúc Nazi và một nghệ thuật Nazi duy nhất. Nếu kiến ​​trúc sư Nazi là Albert Speer, sẽ không có chỗ cho Mies van der Rohe. Tương tự, dưới thời Stalin, nếu Lamarck đúng thì không có chỗ cho Darwin. Ở Ý, chắc chắn đã có các kiến ​​trúc sư phát xít, nhưng bên cạnh việc xây các Coliseums giả, họ còn xây nhiều tòa nhà mới lấy cảm hứng bởi chủ nghĩa duy lý hiện đại Gropius.

Chủ nghĩa phát xít Ý không có một Zhdanov để thiết lập một dòng văn hóa nghiêm ngặt. Ở Ý có hai giải thưởng nghệ thuật quan trọng. Giải thưởng Cremona được quản lý bởi một kẻ cuồng tín và phát xít vô văn hóa, Roberto Farinacci, người khuyến khích nghệ thuật tuyên truyền. (tôi nhớ các bức tranh có tiêu đề như “Nghe bài phát biểu của Duce qua radio” hoặc “Trạng thái của tâm trí tạo bởi chủ nghĩa phát xít. “) Còn giải thưởng Bergamo được bảo trợ bởi một người có học và phát xít vừa phải Giuseppe Bottai, người bảo vệ cả khái niệm nghệ thuật vị nghệ thuật và nhiều loại nghệ thuật tiên phong đã bị cấm ở Đức vì được cho là thoái hóa và cộng sản ngầm.

Trong thi ca, niềm tự hào của quốc gia là D’Annunzio, một kẻ bảnh bao mà nếu sống ở Đức hay Nga thì đã bị bắn bỏ. Ông ta được coi là thi nhân của chế độ vì chủ nghĩa dân tộc và sự sùng bái chủ nghĩa anh hùng của mình – mà thực tế đã bị trộn lẫn với ảnh hưởng của phong trào suy đồi Pháp fin de siècle.

Hãy lấy chủ nghĩa vị lai (futurism). Người ta có thể nghĩ rằng nó là một ví dụ của entartete Kunst (nghệ thuật thoái hóa), cùng với Chủ nghĩa biểu hiện, Chủ nghĩa lập thể và Chủ nghĩa siêu thực. Nhưng, những người Ý đầu tiên theo chủ nghĩa vị lai là người theo chủ nghĩa dân tộc; họ ủng hộ sự tham gia của Ý trong chiến tranh thế giới thứ nhất vì lý do thẩm mỹ; họ ca ngợi tốc độ, bạo lực và mạo hiểm – những thứ dường như có liên kết với tâm lý sùng bái phát xít của giới trẻ. Trong khi chủ nghĩa phát xít tự đồng nhất mình với đế quốc La Mã và nguồn gốc dân tộc mới phát hiện, Marinetti (người tuyên bố rằng xe hơi đẹp hơn nhiều so với tượng thần chiến thắng Samothrace, và thậm chí muốn giết cả ánh trăng), tuy nhiên lại được bổ nhiệm là thành viên của Viện hàn lâm Ý, nơi rất coi trọng ánh trăng.

Nhiều du kích tương lai và trí thức tương lai của Đảng Cộng sản đã được giáo dục bởi GUF (Gioventie Universitaria Fascista) – hiệp hội sinh viên phát xít, được cho là cái nôi của văn hóa phát xít mới. Những câu lạc bộ này đã trở thành một loại nồi đúc (melting pot) của trí tuệ, nơi những ý tưởng mới được lưu hành mà không bị kiểm soát bởi ý thức hệ. Không phải vì các lãnh đạo đảng khoan dung với suy nghĩ cấp tiến, mà vì rất ít trong số họ có đủ trình độ trí tuệ để kiểm soát nó.

Trong hai mươi năm đó, thơ của Montale và các nhà văn khác liên quan đến nhóm có tên Mật ngôn (hermetic) là một phản ứng đối với phong cách thơ khoa trương của chế độ, và những nhà thơ này được phép phát triển sự phản kháng văn học từ bên trong cái được coi là tháp ngà của họ. Tinh thần của thơ Mật ngôn chính là sự đảo ngược của văn hóa sùng bái phát xít lạc quan và anh hùng chủ nghĩa. Chế độ chấp nhận sự mâu thuẫn rõ ràng tuy khó nắm bắt về mặt xã hội này, vì những kẻ phát xít chỉ đơn giản là không để ý đến thứ ngôn ngữ phức tạp như vậy.

Tất cả điều này không có nghĩa rằng chủ nghĩa phát xít Ý là khoan dung. Gramsci bị tống vào tù cho đến chết; lãnh đạo phe đối lập Giacomo Matteotti và anh em Rosselli bị ám sát; báo chí tự do bị cấm, các công đoàn lao động bị dỡ bỏ, và những người chống đối bị giam trên những hòn đảo xa xôi. Cơ quan lập pháp chỉ còn là hình thức, và chính quyền hành pháp (kiểm soát tư pháp cũng như các phương tiện thông tin đại chúng) trực tiếp ban hành luật mới, trong số đó có luật kêu gọi bảo tồn chủng tộc (cử chỉ chính thức của Ý ủng hộ những gì sau này trở thành diệt chủng Do thái Holocaust).

Bức tranh mâu thuẫn mà tôi mô tả không phải là kết quả của sự khoan dung, mà là sự rối loạn chính trị và ý thức hệ. Nhưng đó là một sự rối loạn có trật tự, một sự lộn xộn có cấu trúc. Chủ nghĩa phát xít rời rạc về mặt triết lý, nhưng về mặt cảm xúc, nó gắn rất chặt với một số nền tảng nguyên mẫu.

Ta đã đi đến điểm thứ hai của tôi. Nazism thì chỉ có một. Ta không thể gọi chủ nghĩa Falangism siêu Công giáo của Franco là nazism, vì nazism về cơ bản là ngoại giáo, đa thần giáo, và chống Kitô giáo. Còn trò chơi phát xít (Ý) có thể được chơi dưới nhiều hình thức, vẫn dưới cái tên đó. Khái niệm chủ nghĩa phát xít giống với khái niệm trò chơi của Wittgenstein. Một trò chơi có thể đối đầu hoặc không, có thể yêu cầu một số kỹ năng đặc biệt hoặc không, và có thể liên quan hoặc không liên quan đến tiền. Các trò chơi là các hoạt động khác nhau chỉ chung một số điểm giống nhau họ hàng, như Wittgenstein nói. Hãy xét các chuỗi sau:
1       2       3       4
abc  bcd  cde  def
Giả sử có một loạt các nhóm chính trị, trong đó nhóm 1 được đặc trưng bởi tính năng abc, nhóm 2 bởi các tính năng bcd, v.v. Nhóm 2 tương tự như nhóm 1 vì chúng có hai đặc điểm chung; vì những lý do tương tự, 3 tương tự như 2 và 4 tương tự như 3. Lưu ý rằng 3 cũng tương tự như 1 (chúng có điểm chung là tính năng c). Trường hợp thú vị nhất là 4, rõ ràng nó tương tự 3 và 2, nhưng không có tính năng chung với 1. Tuy nhiên, do chuỗi tương đồng giảm dần từ 1 đến 4, tồn tại một ảo tưởng của sự giống nhau họ hàng giữa 4 và 1.

Chủ nghĩa phát xít trở thành một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi, là bởi có thể loại bỏ khỏi nó một hoặc nhiều tính năng mà nó vẫn sẽ được công nhận là phát xít. Lấy đi chủ nghĩa đế quốc từ chủ nghĩa phát xít và bạn vẫn có Franco và Salazar. Lấy đi chủ nghĩa thực dân và bạn vẫn còn chủ nghĩa phát xít Balkan Ustash. Thêm vào nó chủ nghĩa chống tư bản triệt để (điều Mussolini chưa bao giờ thích) và bạn có Ezra Pound. Thêm vào hỗn hợp của tôn giáo Celtic thần thoại và huyền bí Chén Thánh (hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa phát xít chính thức), và bạn có một trong những bậc thầy phát xít được kính trọng nhất, Julius Evola.

Nhưng bất chấp sự mờ nhạt này, tôi nghĩ có thể phác thảo một danh sách các đặc điểm điển hình cho những gì tôi muốn gọi là Ur-Fascism, hay là Chủ nghĩa phát xít vĩnh cửu. Những đặc điểm này không thể được tổ chức thành một hệ thống; nhiều trong số chúng mâu thuẫn với nhau, và cũng là điển hình cho các hình thái khác của chuyên quyền hay cuồng tín. Nhưng, chỉ cần một trong số chúng có mặt là đủ để cho chủ nghĩa phát xít bắt đầu đông đặc lại xung quanh.

1/ Đặc điểm đầu tiên của Ur-Fascism là sùng bái truyền thống. Chủ nghĩa truyền thống tất nhiên là lâu đời hơn nhiều so với chủ nghĩa phát xít. Nó không chỉ là điển hình của tư tưởng Công giáo phản cách mạng sau cách mạng Pháp, mà còn được sinh ra trong thời kỳ cuối Hy Lạp, như một phản ứng đối với chủ nghĩa duy lý Hy Lạp cổ điển. Trong lưu vực Địa Trung Hải, những người thuộc các tôn giáo khác nhau (hầu hết được chấp nhận vào đền Pantheon La Mã) bắt đầu mơ về một sự mặc khải nhận được vào buổi bình minh của lịch sử loài người. Sự mặc khải này, theo thần bí truyền thống, đã tồn tại trong một thời gian dài và được che giấu dưới bức màn của những ngôn ngữ bị lãng quên – trong chữ tượng hình Ai Cập, trong chữ rune của người Celtic, trong các cuộn giấy của các tôn giáo ít được biết đến ở châu Á.

Văn hóa mới này là một loại thuyết hổ lốn (syncretistic). Hổ lốn không chỉ, như từ điển nói, là “sự kết hợp của các hình thức tín ngưỡng hoặc thực hành khác nhau”. Mấu chốt ở đây là, sự kết hợp này khinh thường các mâu thuẫn. Mỗi thông điệp ban đầu đều chứa một chút chân lý, và bất cứ khi nào chúng tỏ ra khác nhau hay thậm chí ngược nhau, thì cũng không quan trọng, vì tất cả đều ám chỉ, một cách biểu tượng, đến một chân lý nguyên thủy nào đó.

Kết quả là, không thể có sự tiến bộ của tri thức. Sự thật đã được tuyên một lần và mãi mãi, và ta chỉ có thể tiếp tục diễn giải thông điệp tối nghĩa của nó.

Người ta chỉ cần nhìn vào giáo trình của mọi phong trào phát xít để tìm ra những nhà tư tưởng theo chủ nghĩa truyền thống. Thuyết ngộ đạo (gnosis) của Đức Quốc xã được nuôi dưỡng bởi các thành phần chủ nghĩa truyền thống, thuyết hổ lốn và huyền bí. Nhà lý thuyết có ảnh hưởng nhất của phe cánh hữu Ý mới, Julius Evola, đã trộn Chén Thánh với Ghi chép của những nhà thông thái Do thái (The Protocol of the Elders of Zion), giả kim thuật với Đế quốc La Mã và German thần thánh. Sự kiện cánh hữu Ý, nhằm thể hiện tinh thần cởi mở, gần đây đã mở rộng giáo trình của mình để bao gồm các tác phẩm của De Maistre, Guenon và Gramsci, là một bằng chứng rõ ràng về chủ nghĩa hổ lốn.

Ở các hiệu sách Mỹ, nếu bạn tìm trong các kệ sách được dán nhãn là Thời đại mới, bạn có thể thấy những thứ thần bí vô nghĩa của cả Thánh Augustine, mà theo tôi, không phải là một kẻ phát xít. Nhưng kết hợp Thánh Augustine với Stonehenge thì là một triệu chứng của Ur-Fascism.

2/ Chủ nghĩa truyền thống ngụ ý từ chối chủ nghĩa hiện đại. Cả phát xít Ý và phát xít Đức đều tôn thờ công nghệ, trong khi các nhà tư tưởng chủ nghĩa truyền thống thường chối bỏ vì coi nó là sự phủ nhận của giá trị tinh thần truyền thống. Tuy nhiên, mặc dù chủ nghĩa phát xít tự hào về những thành tựu công nghiệp của nó, sự ca ngợi chủ nghĩa hiện đại chỉ là bề nổi của ý thức hệ Máu và Đất (Blut und Boden). Sự khước từ thế giới hiện đại được ngụy trang như một sự phản bác lối sống tư bản, nhưng thật ra là sự khước từ Tinh thần 1789 (và tất nhiên của cả 1776). Thời kỳ Khai sáng, Thời đại của Lý trí, được coi là khởi đầu của sự suy đồi hiện đại. Theo nghĩa này, Ur-Fascism có thể được định nghĩa là chủ nghĩa phi lý.

3/ Chủ nghĩa phi lý cũng phụ thuộc vào sự sùng bái hành động vị hành động. Hành động đẹp do chính nó, nó phải được thực hiện trước, hoặc không cần, bất kỳ suy ngẫm nào. Suy nghĩ là việc thiếu dũng khí. Do đó, văn hóa bị nghi ngờ vì bị coi là nguồn gốc của thái độ phê phán. Không tin vào thế giới trí tuệ luôn là một triệu chứng của Ur-fascism, từ tuyên bố của Goering “khi tôi nghe nói đến văn hóa, tôi với lấy khẩu súng”, đến việc sử dụng thường xuyên các cụm từ như “trí thức thoái hóa”, “egghead”, “snobs snete”, “các trường đại học hang ổ của bọn đỏ.” Việc chủ yếu của các nhà trí thức phát xít chính thống là tấn công văn hóa hiện đại và giới trí thức tự do vì đã phản bội các giá trị truyền thống.

4/ Không có đức tin kiểu hổ lốn nào có thể chịu được những phê phán mang tính phân tích. Tinh thần phê phán tạo ra sự phân biệt, và biết phân biệt là một dấu hiệu của chủ nghĩa hiện đại. Trong văn hóa hiện đại, cộng đồng khoa học ca ngợi sự bất đồng như một cách để cải thiện tri ​​thức. Với Ur-fascism, bất đồng là phản bội.

5/ Bên cạnh đó, sự bất đồng là một dấu hiệu của đa dạng. Ur-Fascism lớn mạnh và tìm kiếm sự đồng thuận bằng cách khai thác và làm trầm trọng thêm nỗi sợ tự nhiên về sự khác biệt. Lời kêu gọi đầu tiên của phong trào phát xít hay phát xít sớm là kêu gọi chống lại những kẻ xâm nhập. Do đó, Ur-Fascism là phân biệt chủng tộc (racism) theo định nghĩa.

6/ Ur-Fascism xuất phát từ sự thất vọng cá nhân hoặc xã hội. Đó là lý do tại sao một trong những đặc điểm tiêu biểu nhất của chủ nghĩa phát xít trong lịch sử là lời kêu gọi tầng lớp trung lưu bất mãn, tầng lớp phải chịu đựng do khủng hoảng kinh tế hoặc cảm giác bị sỉ nhục chính trị và sợ hãi trước áp lực của các nhóm xã hội thấp hơn. Trong thời đại của chúng ta, khi những “người vô sản” cũ đang trở thành tiểu tư sản (và sự lưu manh (lumpen) đã bị loại trừ khỏi bối cảnh chính trị), chủ nghĩa phát xít của ngày mai sẽ tìm thấy khán giả của nó trong đa số mới này.

7/ Đối với những người cảm thấy thiếu bản sắc xã hội rõ ràng, Ur-Fascism nói rằng đặc quyền duy nhất của họ chính là thứ phổ biến nhất: sinh ra ở cùng một quốc gia. Đây là nguồn gốc của chủ nghĩa dân tộc. Bên cạnh đó, người duy nhất có thể tạo bản sắc cho quốc gia chính là kẻ thù. Do đó, gốc rễ của tâm lý học Ur-fascism là sự ám ảnh với thuyết âm mưu, thường là ở mức quốc tế. Các tín đồ phải cảm thấy bị bao vây. Cách dễ nhất để giải quyết âm mưu là kêu gọi bài ngoại. Nhưng âm mưu cũng phải đến từ bên trong: Người Do Thái thường là mục tiêu tốt nhất bởi vì họ đồng thời ở cả bên trong và bên ngoài. Ở Hoa Kỳ, một ví dụ nổi bật của nỗi ám ảnh âm mưu có thể tìm thấy trong Trật tự thế giới mới của Pat Robertson, nhưng, như chúng ta đã thấy gần đây, còn rất nhiều kiểu khác.

8/ Các tín đồ phải cảm thấy bị sỉ nhục bởi sự giàu có và sức mạnh phô trương của kẻ thù. Khi còn bé, tôi được dạy nghĩ về người Anh như những người ăn năm bữa. Họ ăn thường xuyên hơn so với những người Ý nghèo nhưng trung thực. Người Do Thái giàu có và giúp đỡ nhau thông qua một mạng lưới bí mật. Tuy nhiên, các tín đồ phải tin chắc rằng họ có thể áp đảo kẻ thù. Do đó, bằng việc thay đổi liên tục trọng tâm của hùng biện, kẻ thù đồng thời rất mạnh và rất yếu. Vì lý do đó mà các chính phủ phát xít chắc chắn thua trong chiến tranh, vì họ không có khả năng đánh giá khách quan lực lượng của địch.

9/ Đối với Ur-fascism, không có đấu tranh cho cuộc sống mà, thay vào đó, sống là để đấu tranh. Như vậy, chủ nghĩa hòa bình là đổi chác với kẻ thù. Chủ nghĩa hòa bình đáng lên án, vì cuộc sống là chiến tranh vĩnh viễn. Điều này, tuy nhiên, tạo ra phức hệ (complex) Ngày tận thế. Vì kẻ thù phải bị đánh bại, nên sẽ có một trận chiến cuối cùng, sau đó phong trào sẽ quyền kiểm soát thế giới. Nhưng “lời giải cuối cùng” này ngụ ý một kỷ nguyên hòa bình, một Thời đại Vàng, và mâu thuẫn với nguyên tắc chiến tranh vĩnh viễn. Không có nhà lãnh đạo phát xít nào từng thành công trong việc giải quyết mâu thuẫn được tạo ra này.

10/ Chủ nghĩa tinh hoa (Elitism) là một khía cạnh điển hình của bất kỳ hệ tư tưởng phản động nào, về cơ bản nó là chủ nghĩa quý tộc, và quý tộc và quân phiệt có nghĩa là khinh miệt kẻ yếu. Ur-Fascism chỉ có thể ủng hộ chủ nghĩa tinh hoa đại chúng. Mỗi công dân thuộc về dân tộc tốt nhất thế giới, các đảng viên là tốt nhất trong các công dân, mọi công dân đều có thể (hoặc nên) trở thành một đảng viên. Nhưng không thể có quý tộc nếu không có hạ lưu. Trên thực tế, lãnh tụ hiểu rằng quyền lực của mình không được trao một cách dân chủ mà chiếm đoạt bằng vũ lực, cũng biết rằng sức mạnh của mình dựa trên điểm yếu của quần chúng; họ yếu đến mức cần và xứng đáng có người cai trị. Bởi lẽ được tổ chức theo cấp bậc (theo mô hình quân đội), mọi lãnh đạo cấp dưới coi thường thuộc hạ của mình, và mỗi người trong số họ khinh thường những kẻ thấp kém hơn. Điều này củng cố ý thức của chủ nghĩa tinh hoa đại chúng.

11/ Trong hoàn cảnh như vậy, mọi người đều được giáo dục để trở thành anh hùng. Trong mọi thần thoại, anh hùng là ngoại lệ, nhưng trong hệ tư tưởng Ur-Fascism, chủ nghĩa anh hùng là chuẩn mực. Sự sùng bái chủ nghĩa anh hùng này được liên kết chặt chẽ với sự sùng bái cái chết. Không phải ngẫu nhiên mà một phương châm của người Falangist là Viva la Muerte (nên dịch là “Cái chết muôn năm!”). Trong các xã hội không phát xít, giáo dân được nói rằng cái chết là khó chịu nhưng cần đối mặt nó với nhân phẩm; còn các tín đồ thì được nói rằng đó là cách đau đớn để đạt được một hạnh phúc siêu nhiên. Ngược lại, anh hùng Ur-Fascism khao khát cái chết anh hùng, được quảng cáo là phần thưởng tốt nhất cho một cuộc đời anh hùng. Người anh hùng Ur-Fascism sốt sắng để chết. Trong sự sốt sắng đó, anh ta thường xuyên đưa người khác đến chỗ chết.

12/ Vì cả chiến tranh thường trực và chủ nghĩa anh hùng đều là những trò chơi khó, nên Ur-Fascism chuyển ý chí nắm quyền của mình sang lĩnh vực tình dục. Đây là nguồn gốc của machismo (nam tính quá đáng) – ngụ ý cả sự coi thường phụ nữ lẫn không khoan dung và lên án những thói quen tình dục phi chuẩn mực, từ tiết hạnh đến đồng tính luyến ái. Vì ngay cả tình dục cũng là một trò chơi khó, người hùng Ur-Fascism có xu hướng chơi với vũ khí – vật thay thế dương vật.

13/ Ur-Fascism dựa trên chủ nghĩa dân túy chọn lọc, có thể nói là một chủ nghĩa dân túy định tính. Trong một nền dân chủ, công dân có những quyền cá nhân, toàn bộ công dân có thể có tác động chính trị chỉ từ góc độ định lượng – mọi người tuân theo quyết định của số đông. Tuy nhiên, đối với Ur-fascism, các cá nhân với tư cách cá nhân thì không có quyền, và Nhân dân được quan niệm là một thực thể định tính nguyên khối (monolith) thể hiện Ý chí Chung. Bởi vì một lượng lớn con người không thể có một ý chí chung, Lãnh tụ đóng vai thông dịch viên của họ. Mất đi quyền ủy quyền, công dân không thể hành động; họ chỉ được kêu gọi đóng vai Nhân dân. Do đó, Nhân dân chỉ là một hư cấu sân khấu. Để có một ví dụ điển hình của chủ nghĩa dân túy định tính, chúng ta không còn cần đến quảng trường Venezia ở Rome cho Musolini hay sân vận động Nuremberg cho Hitler. Trong tương lai, ta có một chủ nghĩa dân túy TV hoặc Internet, ở đó người ta sẽ chọn cảm xúc của một nhóm công dân để trình bày và được chấp nhận là Tiếng nói của Nhân dân.

Chính vì chủ nghĩa dân túy định tính của nó, mà Ur-Fascism chống lại nền dân chủ nghị viện “thối tha”. Một trong những câu đầu tiên được Mussolini thốt ra trong quốc hội Ý là
“tôi có thể biến cái nơi âm u và ảm đạm này thành doanh trại cho trung đội của mình” – “Trung đội” là một đơn vị nhỏ trong quân đoàn lê dương La Mã. Thực tế là, ông ta đã tìm được chỗ tốt hơn cho các trung đội của mình, nhưng sau đó ít lâu ông ta đã giải tán quốc hội. Bất cứ nơi nào một chính trị gia đưa ra nghi ngờ về tính hợp pháp của một quốc hội bởi vì nó không còn đại diện cho Tiếng nói của Nhân dân, chúng ta có thể ngửi thấy Ur-fascism.

14/ Ur-fascim sử dụng ngôn mới (newspeak). Newspeak được phát minh bởi Orwell, trong cuốn 1984, với tư cách là ngôn ngữ chính thức của Ingsoc, Chủ nghĩa xã hội Anh. Nhưng các yếu tố của Ur-fascism là phổ biến cho các hình thức độc tài khác nhau. Tất cả sách giáo khoa của Đức quốc xã hay phát xít Ý có kho từ vựng nghèo nàn và một cú pháp cơ bản, để hạn chế các công cụ cần cho lý luận phức tạp và quan trọng. Nhưng chúng ta cũng phải sẵn sàng để xác định các loại newspeak khác, ngay cả khi chúng mang hình thức rõ ràng vô hại của một chương trình talkshow.

Vào sáng ngày 27/7/1943, tôi được biết rằng đài phát thanh loan báo chủ nghĩa phát xít đã sụp đổ và Mussolini bị bắt giữ. Khi mẹ sai đi mua báo, tôi thấy rằng các tờ báo tại quầy thông tin gần nhất có tiêu đề khác nhau. Hơn thế nữa, sau khi xem các tiêu đề, tôi nhận ra rằng mỗi tờ báo nói những điều khác nhau. Tôi đã mua bừa một trong số đó, và đọc một tuyên bố trên trang đầu tiên được ký bởi năm hoặc sáu đảng chính trị – trong số đó có Đảng Dân chủ Ki tô, Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Hành động và Đảng Tự do.

Cho đến lúc đó, tôi đã tin rằng chỉ có một đảng duy nhất ở mỗi quốc gia và ở Ý nó là Đảng Dân tộc Phát xít. Bấy giờ, tôi khám phá ra rằng ở đất nước của tôi nhiều đảng có thể cùng tồn tại. Vốn là một cậu bé thông minh, tôi lập tức nhận ra rằng rất nhiều đảng phái không thể được sinh ra chỉ sau một đêm và chúng đã phải tồn tại bí mất trong một thời gian.

Tuyên ngôn trên mặt báo ghi nhận sự kết thúc của chế độ độc tài và sự trở lại của tự do: tự do ngôn luận, báo chí, của hiệp hội chính trị. Những từ “tự do”, “độc tài”, “giải phóng” – bấy giờ tôi đọc chúng lần đầu trong đời. Tôi được tái sinh thành một người đàn ông phương Tây tự do nhờ những từ mới này.

Chúng ta phải cảnh giác, để ý nghĩa của những từ này sẽ không bị lãng quên một lần nữa. Ur-Fascism vẫn ở xung quanh ta, đôi khi trong bộ thường phục. Sẽ dễ dàng hơn nhiều với chúng ta, nếu ai đó xuất hiện trên thế giới và nói rằng: “Tôi muốn mở lại Auschwitz, tôi muốn đội quân áo đen diễu hành một lần nữa trên các quảng trường Ý.” Cuộc sống không đơn giản vậy. Ur-Fascism có thể trở lại dưới bộ dạng ngây thơ nhất. Nhiệm vụ của ta là phát hiện ra nó và vạch mặt chỉ tên bất kỳ hình thái mới nào của nó – mỗi ngày, ở mọi nơi trên thế giới. Câu nói của Franklin Roosevelt ngày 4/11/1938, đáng để nhắc lại: “Tôi xin tuyên bố đầy thách thức rằng, nếu nền dân chủ Mỹ không tiếp tục tiến lên như một lực lượng sống, bằng những biện pháp hòa bình, ngày đêm nỗ lực cải thiện cuộc sống của công dân, thì chủ nghĩa phát xít sẽ phát triển và lớn mạnh trên đất của chúng ta. ”

Tự do và giải phóng là một nhiệm vụ bất tận. Hãy để tôi kết thúc với một bài thơ của Franco Fortini:

Trên lan can cầu
Đầu của những người bị treo cổ
Trong dòng suối
Nước bọt của những người bị treo cổ.
Trên các tảng đá ở chợ
Móng tay của những người bị sắp thành hàng và bắn
Trên bãi cỏ khô ở quảng trường
Răng vỡ của những người bị sắp thành hàng và bắn.
Cắn không khí, cắn đá
Xác thịt của chúng tôi không còn là con người
Cắn không khí, cắn đá
Trái tim của chúng tôi không còn là con người.
Nhưng chúng tôi đã nhìn vào mắt của cái chết
Và sẽ mang lại tự do trên trái đất
Nhưng nắm chặt trong nắm tay của người chết
Là công lý sẽ được thực thi

Hết bài viết của Eco
Dịch từ các nguồn: Bản tiếng Anh và bản tiếng Nga

Bài diễn giải thêm về 14 dấu hiệu của Ur-Fascism:

1/Sùng bái truyền thống

Mặc dù chủ nghĩa truyền thống tự nó là một hiện tượng cổ xưa và có thể tồn tại mà không có chủ nghĩa phát xít, tất cả các phong trào phát xít mà ta biết đều dựa vào ý tưởng của chủ nghĩa truyền thống, tìm kiếm ý nghĩa trong di sản của quá khứ: trong các biểu tượng cổ xưa, nghi lễ dân gian, truyền thuyết và thần thoại. Ví dụ, những kẻ phát xít sử dụng các biểu tượng ngoại giáo một cách có hệ thống, bao gồm chữ vạn, nghi lễ và biểu tượng của Đế chế La Mã thần thánh. Họ tâng bốc sự khôn ngoan và truyền thống của tổ tiên đến mức trở thành sự sùng bái trong xã hội, biến những quan điểm, trật tự và nền tảng truyền thống thành chân lý không thể chối cãi. Do đó, bất kỳ sự phát triển về kiến ​​thức và niềm tin, bất kỳ sự tiến hóa của tâm lý và hệ giá trị, đều được coi là sai lầm và có hại ngay từ đầu. Đối với những người theo chủ nghĩa truyền thống, chân lý đã được chỉ ra từ lâu, và bất kỳ sự sai lệch nào đều là dối trá và xấu xa.

2/Phủ nhận những gì hiện đại

Theo Eco, những người theo chủ nghĩa truyền thống rất thù địch với các công nghệ và xu hướng mới, nhìn thấy ở đó thách thức đối với các giá trị truyền thống và tinh thần. Mặc dù phát xít Ý và phát xít Đức tự hào về thành tựu công nghiệp của họ, toàn bộ hệ tư tưởng của họ dựa trên sự phủ nhận thế giới hiện đại như là thành quả của chế độ tư bản chủ nghĩa phương Tây và sự suy đồi đạo đức của thời Phục hưng, trái ngược với các giá trị truyền thống. Theo nghĩa này, chủ nghĩa phát xít cơ bản là chủ nghĩa phi lý.

3/Hành động vị hành động

Trong những năm 1930, những kẻ phát xít khinh miệt trí thức, bởi vì tư duy trí thức đặt ra những câu hỏi “tại sao” và “để làm gì” cho bất kỳ hành động nào. Những kẻ phát xít rất không muốn tìm căn nguyên cho hành động của mình, vì họ thấy sự quyến rũ trong chính hành động, ngay cả khi không có lời giải thích hợp lý. Duyệt binh, càn quét, biểu tượng, trang phục đen, lời chào của Hitler, các công trình khoa trương mà phi thực tế – tất cả những thứ này rất khó trả lời một cách hợp lý cho câu hỏi “tại sao”? Vì hay hỏi những câu đó, nên giới trí thực tự do bị phát xít căm ghét và gán cho tội phản bội các giá trị truyền thống.

4/Bất đồng quan điểm = phản bội

Chủ nghĩa phát xít không cho phép đa nguyên ý kiến. Vì với những người theo chủ nghĩa truyền thống, chân lý chỉ có một, cho nên tất cả những người cố gắng đặt câu hỏi về nó đều là kẻ thù và kẻ phản bội. Sự phân loại này rất điển hình cho cả các phong trào phát xít trước chiến tranh lẫn các tổ chức cực hữu hiện đại.

5/Bài ngoại (chúng ta vs. chúng nó)

Bản năng thú vật cổ xưa – chia thành “người mình” và “kẻ lạ”, thù địch với mọi thứ xa lạ, nước ngoài, khó hiểu, không quen, bất thường – là mảnh đất màu mỡ để chủ nghĩa phát xít nảy sinh. Tất cả các biểu hiện của sự không khoan dung – phân biệt chủng tộc, bài Do Thái, chống Di gan, ghê tởm đồng tính luyến ái, khinh miệt người khuyết tật, cũng như sự thù địch đối với ảnh hưởng nước ngoài có thể thấy rất rõ trong hùng biện và hành động của phát xít Đức và Ý thời kỳ tiền chiến tranh. Cũng các biểu hiện đó, ở mức độ khác nhau, ta quan sát thấy ngày nay trong số các phong trào và khuynh hướng cực hữu đang lại dần lớn mạnh.

6/Đám đông tức giận

Không phải ngẫu nhiên mà các phong trào phát xít luôn trở nên đặc biệt phổ biến trong thời kỳ xã hội gặp khó khăn, thảm họa, đình trệ kinh tế và sự sỉ nhục quốc gia (ví dụ như ở Đức sau thất bại trong Thế chiến thứ nhất). Sự bực tức và giận dữ trong quần chúng khiến họ dễ đi theo các lời kêu gọi gây hấn. Một người đang khó chịu thường ít có khuynh hướng suy nghĩ hợp lý. Anh ta muốn trút sự hung hăng của mình. Và, trong khi suy nghĩ hợp lý khó tìm thấy chỗ để trút giận vì thiếu bằng chứng khách quan về tội lỗi của ai đó, thì suy nghĩ phi lý luôn dễ dàng tìm thấy vật tế thần (kẻ phản bội, người Do Thái, người nhập cư, v.v.). Không phải ngẫu nhiên mà ngày nay, ở các quốc gia có khó khăn về kinh tế, các phong trào cực hữu đang trở nên phổ biến hơn ở các nước giàu có.

7/Chủ nghĩa dân tộc và thuyết âm mưu

Trong một xã hội bị mặc cảm (phức cảm tự ti), chủ nghĩa phát xít như là một phương thuốc, bởi vì nó biến một điều rất chung thành niềm tự hào cho người dân: cùng sinh ra ở đất nước này. Ý tưởng về lòng yêu nước chỉ hiệu quả nếu có kẻ thù bên ngoài, nếu không thì chủ nghĩa yêu nước chẳng còn ý nghĩa gì. (Chẳng ai cỗ vũ cho một đội bóng không bao giờ thi đấu với ai). Do đó, chủ nghĩa phát xít dựa trên nỗi ám ảnh về thuyết âm mưu. Mọi người phải cảm thấy rằng họ đang bị địch vây. Tâm lý bài ngoại (xenophobia) giúp nuôi dưỡng niềm tin này, bởi vì mọi người thường rất hay tin hễ mình không thích ai thì hẳn đó là kẻ xấu. Âm mưu có thể là quốc tế (chủ nghĩa đế quốc Anglo-Saxon, bóng ma của chủ nghĩa cộng sản), nhưng cũng có nội bộ (cùng những kẻ phản bội,  gián điệp, người nhập cư, người Do Thái). Với phát xít, người Do thái là cái cớ lý tưởng, vì nếu muốn, âm mưu của bọn Do Thái có thể được xem xét cả từ khía cạnh trong nước và thế giới.

8/Hình ảnh kẻ thù đầy mâu thuẫn (vừa mạnh vừa yếu)

Kẻ thù phải cùng lúc có vẻ vừa mạnh mẽ vừa yếu đuối. Hắn có thể giàu hơn, phát triển hơn, được vũ trang tốt, nhưng đồng thời cũng ngu ngốc và hèn nhát. Do đó, ngày từ đầu một kịch bản đầy cảm hứng cho những người yêu nước đã được đặt trong chính hình ảnh của kẻ thù, theo đó bên yếu hơn, nhưng khôn ngoan và dũng cảm hơn, chắc chắn sẽ chiến thắng. Khi tin vào hình ảnh này, mọi người sẽ ý thức được mức độ nghiêm trọng của mối đe dọa, nhưng không quá sợ kẻ thù, vì họ tin vào chiến thắng tất yếu. Umberto Eco tuyên bố rằng tất cả các chế độ phát xít đều chịu thất bại trong các cuộc chiến chính vì không thể đánh giá khách quan sức mạnh của kẻ thù, do tâm lý trên.

9/Sùng bái chiến tranh

Chủ nghĩa hòa bình (pacifism) là coi kẻ thù như anh em. Chiến tranh là ý nghĩa của cuộc sống. Phát xít hòa bình là điều không tưởng. Có thể quan sát thấy chủ nghĩa quân phiệt (militarism) trong tất cả các lĩnh vực cuộc sống của chế độ phát xít – các cuộc diễu binh, tượng đài cho các anh hùng, ngành công nghiệp quân sự phát triển mạnh mẽ, trẻ em được chuẩn bị cho chiến tranh từ nhỏ. Với lý giải này, chẳng có gì ngạc nhiên khi các phong trào cực hữu hiện đại, bất chấp thời bình, thích diễu hành trong quân phục.

10/Sùng bái sức mạnh và quyền lực

Ý tưởng về tinh hoa dân tộc – thuộc về dân tộc vĩ đại nhất trên thế giới – tự nó đã ngụ ý sự vượt trội của một số người, tốt đứng trên xấu, mạnh trên yếu. Nếu dân tộc ta là những người mạnh mẽ nhất, anh hùng, công chính, thì phải có những dân tộc, trái lại, là những kẻ yếu đuối, khốn khổ, xấu xí. Với cách tiếp cận này, một người nên được ngưỡng mộ, và người kia phải bị khinh miệt. Nếu xã hội cho phép logic như vậy, thì một hệ thống phân cấp tinh hoa cũng được hình thành trong chính xã hội, tôn thờ kẻ mạnh và coi thường kẻ yếu. Tâng bốc bề trên lên đến trời, ngợi ca sức mạnh và lòng can đảm của lãnh đạo, và chùi chân vào bọn ở dưới.

11/Sùng bái anh hùng chủ nghĩa và cái chết

Trong xã hội phát xít, chủ nghĩa anh hùng là chuẩn mực. Mỗi người phải là một anh hùng, lập chiến công và, nếu cần thiết, hy sinh mạng sống cho đất nước. Hơn nữa, cái chết anh hùng là hình ảnh truyền cảm hứng chính mà các nhà tư tưởng phát xít truyền bá cho tín đồ của mình, ca ngợi những anh hùng đã ngã xuống và truyền bá những câu chuyện về chiến công hy sinh của họ. Chủ đề này rất phổ biến trong lời các bài hát đương đại thuộc thể loại White Power.

12/Sùng bái tính nam (machismo)

Chủ nghĩa phát xít có khuôn mặt nam giới. Và không chỉ khuôn mặt. Những hình ảnh được phát xít sử dụng bị chi phối bởi những đặc điểm nam tính rập khuôn: sức mạnh, cơ bắp, vũ khí, hình giống linga. Bạn sẽ không tìm thấy một poster tuyên truyền phát xít với mèo và nơ hồng. Chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng cứng rắn, hiếu chiến với khuôn mặt của một trượng phu tàn bạo, alpha đầu đàn. Đây chính là hình ảnh mà phát xít thường gắn với các lãnh đạo và anh hùng của họ. Hình ảnh quý ông không phù hợp. Biểu hiện nữ tính, cũng như xu hướng tình dục phi chuẩn, bị khinh bỉ. Hình ảnh này có một sức hấp dẫn cao, cho cả nam và nữ, bởi vì nó dựa vào bản năng động vật cơ bản là sinh sản và bầy đàn.

13/Chủ nghĩa dân túy chọn lọc

Một mặt, chủ nghĩa phát xít gốc rễ là một hệ tư tưởng dân túy, huy động đa số bằng các câu trả lời đơn giản cho các vấn đề họ quan tâm nhất (trước đó đã đóng gói những vấn đề này vào một định dạng đơn giản và dễ hiểu cho số đông lười suy nghĩ). Người di cư gây bất an? Trục xuất người di cư! Bực mình vì điều mới lạ? Cấm điều mới lạ! Có phải tờ báo này viết những điều không yêu nước? Đóng cửa báo! Không thích người đồng tính? Cấm đồng tính! Mệt mỏi âm mưu Do Thái? Gửi người Do Thái đến trại tập trung! Hơn nữa, phát xít luôn biện minh cho hành động của mình là ý chí của người dân. Rõ ràng là cả một quốc gia không thể có một ý chí chung. Có lẽ tốt nhất là ý chí của đa số. Và vì, mặt khác, những kẻ phát xít không có ý định chấp nhận ý kiến của đa số nếu nó không phù hợp với mô hình phát xít, nên chúng đảm nhận vai trò là “tiếng nói của dân”. Mọi người dân phải tin rằng, đằng sau hành động của chính quyền phát xít luôn là ý chí của nhân dân, và nếu anh ta nghi ngờ, thì chỉ có mình anh ta nghi. Đảm nhận vai trò là tiếng nói của nhân dân, phát xít cố gắng làm mất uy tín của bất kỳ đối thủ nào, vu cho họ là những kẻ phản bội và là lính đánh thuê của kẻ thù bên ngoài. Chính nhờ những lời hoa mỹ đó mà phát xít đã thuyết phục được quần chúng rằng các thể chế dân chủ, quốc hội, không thể thực hiện ý chí của người dân, và do đó, quyền lực chính phải được giao phó cho “tiếng nói của nhân dân”. Điều đó đã xảy ra ở Đức và Ý, khi chủ nghĩa phát xít đã thay thế nền dân chủ nghị viện với sự đồng ý của quần chúng.

14/”Ngôn mới” và đánh tráo khái niệm

Eco viết rằng tất cả sách giáo khoa của phát xít Ý và Đức đều đơn giản hóa ngôn ngữ một cách mạnh mẽ, với mục đích hạn chế khả năng giải thích và đánh giá phản biện về thông tin được truyền đạt. Tạo ra những cách thể hiện đơn giản và ổn định cho những hiện tượng phức tạp và gây tranh cãi, phát xít đồng thời cài cắm đánh giá chủ quan của họ trong những biểu hiện này, từ đó đưa thế giới quan của chúng vào bắt rễ trong đầu những người sử dụng cái “ngôn mới” này. Nó hoạt động thế nào? Rất đơn giản. Ví dụ, có thể nói rằng “mối đe dọa đối với sự ổn định của nhà nước đã bị vô hiệu hóa”, nhưng cũng có thể nói rằng “các nhà lãnh đạo biểu tình dân sự đã bị bắn chết”. Có thể nói “cuộc tấn công cảnh cáo”, hoặc có thể nói “cuộc xâm lược quân sự”. Vì vậy, quốc tế vô sản đã dễ dàng trở thành “bệnh dịch đỏ”, các quốc gia dân chủ trở thành “tài phiệt tư bản”, phe đối lập nghị viện trở thành “đội quân thứ năm“, và càng nghe những các thể hiện này, họ càng dễ tin vào những huyền thoại của phát xít về những kẻ phản bội và kẻ thù.

Hết bài “14 dấu hiệu…”

Tham khảo thêm Định nghĩa Phát xít trên wikipedia.

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020

 


KHÔNG SỐNG BẰNG NHỮNG SỰ GIẢ DỐI: LỜI KÊU GỌI LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ THẬT TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY



Alexander Solzhenitsyn

Nguyễn Trung Kiên dịch

[*Solzhenitsyn viết bài tiểu luận này vào năm 1974 và nó đã lan truyền trong giới trí thức Moscow vào thời điểm đó. Nó được đề ngày 12 tháng Hai, cùng ngày mà cảnh sát mật đột nhập vào căn hộ của ông và bắt ông. Ngày hôm sau, ông bị trục xuất sang Tây Đức. Bài tiểu luận này là một lời kêu gọi lòng can đảm về đạo đức và là ánh sáng cho tất cả chúng ta – những người luôn coi trọng sự thật.*]



*

CÓ LÚC CHÚNG TA thậm chí không dám thì thầm. Bây giờ chúng ta viết và đọc sách báo ngoài luồng, và đôi khi khi tụ tập trong phòng hút thuốc ở Viện Khoa học, chúng ta thẳng thắn phàn nàn với nhau: Họ đang giở trò gì với chúng ta, và họ đang lôi chúng ta đi đâu? Vô cớ khoe khoang thành tựu về công nghệ vũ trụ khi mà nghèo đói và sự tàn phá đang tràn ngập quê nhà. Đề cao các chế độ man rợ xa xôi. Kích động nội chiến. Và chúng ta đã liều lĩnh nuôi dưỡng Mao Trạch Đông bằng chi phí của mình – và chúng ta sẽ là những người bị bắt đi lính để chống lại ông ta, và sẽ buộc phải đi. Có lối thoát nào ở đây không? Và họ đưa ra xét xử bất kỳ người nào họ muốn, rồi họ đưa những người ôn hòa vào trại tập trung – luôn luôn là họ, còn chúng ta thì bất lực.

Mọi thứ gần như đã chạm đáy. Một cái chết của linh hồn mang tính phổ quát đã chạm đến tất cả chúng ta, và cái chết thể xác sẽ sớm bùng phát và tiêu diệt cả chúng ta và con cái của chúng ta – nhưng như trước đây chúng ta vẫn mỉm cười một cách hèn nhát và lầm bầm rằng mình chẳng liên quan gì. Nhưng chúng ta có thể làm gì để ngăn chặn nó? Phải chăng chúng ta không có sức mạnh?

Chúng ta đã mất nhân tính một cách vô vọng đến mức để đổi lấy khẩu phần lương thực khiêm tốn hàng ngày, chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi nguyên tắc, từ bỏ linh hồn, từ bỏ mọi nỗ lực của những người đi trước và mọi cơ hội cho con cháu của chúng ta – miễn sao đừng làm phiền đến sự tồn tại mong manh của chúng ta. Chúng ta thiếu lòng kiên định, niềm tự hào và sự nhiệt tình. Chúng ta thậm chí không sợ cái chết hạt nhân rộng lớn, và chúng ta không sợ Chiến tranh thế giới thứ Ba. Chúng ta đã trú ẩn trong các kẽ hở. Chúng ta chỉ sợ những hành động được thúc đẩy bởi lòng can đảm dân sự.

Chúng ta chỉ sợ bị tụt lại phía sau đàn gia súc và đi một mình – và đột nhiên nhận thấy mình không còn bánh mì trắng, không còn gas để sưởi và không có hộ khẩu tại Moscow.

Chúng ta đã được truyền dạy trong các khóa học chính trị, và theo cách tương tự đã được nuôi dưỡng ý tưởng để sống thoải mái, và phần còn lại của cuộc đời chúng ta sẽ tốt đẹp. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội của mình. Cuộc sống hàng ngày định hình nên nhận thức. Nó liên quan gì đến chúng ta? Điều gì ở nó là bất khả đối với chúng ta?

Nhưng chúng ta có thể – mọi thứ. Nhưng chúng ta dối mình để an toàn. Và không phải họ là người phải chịu trách nhiệm về mọi thứ – chính chúng ta, chỉ chúng ta. Những cái khóa mõm đã được nhét vào miệng của chúng ta. Không ai muốn lắng nghe chúng ta và không ai yêu cầu chúng ta. Làm thế nào chúng ta có thể buộc họ phải lắng nghe nghe? Suy nghĩ của họ là không thể thay đổi.

Sẽ là tự nhiên nếu ta bỏ phiếu để loại bỏ họ – nhưng không có cuộc bầu cử nào ở nước ta. Ở phương Tây, người ta biết về các cuộc đình công và biểu tình phản đối – nhưng chúng ta quá bị áp bức, và đó là một viễn cảnh khủng khiếp đối với chúng ta: Làm sao một người có thể đột ngột từ bỏ công việc của mình và xuống đường? Tuy nhiên, những con đường chết chóc khác được khảo sát trong suốt thế kỷ qua bởi lịch sử nước Nga cay đắng của chúng ta không dành cho chúng ta, và thực sự chúng ta không cần chúng.

Giờ đây, những sự trừng phạt đã hoàn thành công việc của mình, khi mọi thứ đã được gieo trồng đã nảy mầm trở lại, chúng ta có thể thấy rằng những người trẻ tuổi và đầy kiêu mạn, những người nghĩ rằng họ sẽ kiến tạo nên một đất nước công bằng và hạnh phúc thông qua khủng bố, nổi loạn đẫm máu và nội chiến, tất cả trong số họ đã bị nhầm lẫn. Không, cảm ơn, hỡi những kẻ đã nhào nặn nên nền giáo dục này! Bây giờ chúng ta biết rằng các phương pháp bỉ ổi sẽ tạo ra những kết quả bỉ ổi. Hãy để cho bàn tay của chúng ta được sạch sẽ!

Một vòng luẩn quẩn – nó đã khít chưa? Và có thực sự là không có lối thoát? Và chỉ còn một việc để chúng ta làm, đó là chờ đợi mà không hành động? Có lẽ điều gì đó sẽ xảy tự nó xảy ra? Nó sẽ không bao giờ xảy ra miễn là chúng ta hàng ngày thừa nhận, mở rộng và củng cố – và không tách mình khỏi khía cạnh dễ nhận thấy nhất của nó: Những sự dối trá.

Khi bạo lực xâm nhập vào cuộc sống yên bình, khuôn mặt của nó rạng rỡ với sự tự mãn, như thể nó đang giăng biểu ngữ và la toáng lên: “Ta là bạo lực đây. Hãy chạy đi, nhường đường cho ta – ta sẽ nghiền nát chúng mi”. Nhưng bạo lực sẽ nhanh chóng già đi. Và nó đã đánh mất niềm tin vào bản thân, và để duy trì một bộ mặt đáng kính, nó kết nạp sự giả dối làm đồng minh của nó – vì bạo lực không phải ngày nào cũng đè lên vai tất cả mọi người. Nó đòi hỏi chúng ta chỉ tuân theo những sự giả dối và sống với những sự giả dối đó hàng ngày – tất cả lòng trung thành dành cho những sự giả dối đều nằm ở đó.

Và điểm mấu chốt đơn giản nhất và dễ tiếp cận nhất để giải phóng bản thân không bị lãng quên của chúng ta nằm ngay ở đây: Các cá nhân không tham gia vào những sự giả dối. Dù dối trá che dấu mọi thứ, dù dối trá bao trùm lấy mọi thứ, nhưng ta sẽ không tiếp tay cho chúng.

Điều này sẽ tạo ra sự vượt ngục thoát cái nhà tù tưởng tượng vốn được hình thành nên bởi sự không hành động của chúng ta. Đó là điều dễ dàng nhất đối với chúng ta, nhưng lại tạo ra sự tàn phá thảm khốc nhất đối với những sự giả dối. Bởi vì khi người ta từ bỏ sự giả dối, nó chỉ đơn giản là cắt đứt sự tồn tại của chúng. Giống như bệnh nhiễm trùng, chúng chỉ có thể tồn tại trong một cơ thể sống.

Chúng ta không tự hô hào bản thân. Chúng ta chưa đủ trưởng thành để tiến vào các quảng trường và gào lên sự thật của chúng ta hoặc để thể hiện những gì chúng ta đang nghĩ. Điều đó không cần thiết.

Điều đó thật nguy hiểm. Nhưng chúng ta hãy từ chối nói điều mà chúng ta không nghĩ.

Đây là con đường của chúng ta, con đường dễ dàng và dễ tiếp cận nhất, mà đã có tính đến sự hèn nhát cố hữu vốn đã sâu rễ bền gốc trong mỗi chúng ta. Và nó dễ dàng hơn nhiều – thậm chí còn nguy hiểm khi nói điều này – hơn là kiểu bất tuân dân sự mà Gandhi chủ trương.

Con đường của chúng ta là xóa bỏ ranh giới băng đảng. Nếu chúng ta không dán những mảnh xương và vây của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta không khâu những mảnh vải vụn thối rữa lại với nhau, chúng ta sẽ thật sự ngạc nhiên khi chứng kiến những sự giả dối trở nên bất lực và lắng xuống nhanh chóng.

Cái mà lẽ ra nên bị lột truồng sau đó sẽ thực sự bị lột truồng trước toàn thế giới.

Vì vậy, trong sự rụt rè của chúng ta, mỗi người chúng ta hãy đưa ra lựa chọn: Cho dù có ý thức, chúng ta vẫn là nô lệ của sự giả dối – tất nhiên, điều đó không phải vì khuynh hướng, mà là để nuôi sống gia đình, nuôi dạy con cái của mình bằng tinh thần dối trá – hoặc từ bỏ những sự giả dối và trở thành một người lương thiện đáng được cả con cái và người đương thời kính trọng.

Và từ ngày đó trở đi, mỗi chúng ta:

• Do đó, sẽ không viết, ký tên hoặc in ấn theo bất kỳ cách nào một cụm từ mà theo ý kiến của ta là đang bị bóp méo để sai với sự thật.

• Sẽ không thốt ra cụm từ như vậy trong cuộc trò chuyện riêng tư, không thốt ra trước sự chứng kiến của nhiều người, không tự mình hay thay mặt người khác thốt ra, không thốt ra khi bị người khác nhắc nhở, kích động;

• Sẽ không mô tả, nuôi dưỡng hoặc truyền bá một ý tưởng nào mà ta chắc chắn nhận thấy nó sai lầm hoặc bị bóp méo so với sự thật, cho dù đó là trong hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc.

• Sẽ không trích dẫn ngoài ngữ cảnh, bằng lời nói hay bằng văn bản, một trích dẫn duy nhất để làm hài lòng ai đó, để làm yên ấm cái tổ ấm của chính mình, để đạt được thành công trong công việc của mình, nếu ta không chia sẻ hoàn toàn ý tưởng được trích dẫn, hoặc nếu nó có không phản ánh chính xác vấn đề đang được đề cập.

• Sẽ không cho phép mình bị buộc phải tham gia các cuộc biểu tình hoặc mít-tinh nếu chúng trái với mong muốn hoặc ý chí của mình, sẽ không giăng một áp-phích hoặc khẩu hiệu mà ta không hoàn toàn chấp nhận.

• Sẽ không giơ tay biểu quyết cho một đề xuất mà ta không thông cảm chân thành, sẽ không bỏ phiếu, cả công khai lẫn bí mật, cho một người mà ta cho là không xứng đáng hoặc đáng ngờ.

• Sẽ không cho phép mình bị lôi kéo đến một cuộc họp mà có thể sẽ diễn ra một cuộc thảo luận gượng ép hoặc bị bóp méo về một vấn đề. Sẽ ngay lập tức rời khỏi một cuộc họp, phiên họp, bài giảng, buổi biểu diễn hoặc chiếu phim nếu ta nghe thấy một người nói dối, hoặc tuyên truyền vô nghĩa hoặc vô liêm sỉ về ý thức hệ.

• Sẽ không đăng ký hoặc mua báo hoặc tạp chí trong đó thông tin bị bóp méo và sự thật chính yếu bị che giấu. Tất nhiên chúng ta đã không liệt kê tất cả các sai lệch có thể và cần thiết từ sự giả dối. Nhưng một người thanh lọc bản thân sẽ dễ dàng phân biệt các trường hợp khác bằng cách nhìn nhận sự thanh lọc của mình.

Không, mọi người lúc đầu sẽ không giống nhau. Lúc đầu, một số sẽ bị mất việc làm. Đối với những người trẻ muốn sống với sự thật, điều này, ngay từ đầu sẽ làm phức tạp cuộc sống trẻ trung của họ rất nhiều, bởi vì những lời tán tụng bắt buộc bị nhồi nhét bởi những sự giả dối, và cần phải lựa chọn.

Nhưng không có kẽ hở cho bất kỳ ai muốn trung thực. Vào bất kỳ ngày nào, bất kỳ ai trong chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với ít nhất một trong những lựa chọn nêu trên, ngay cả trong trường hợp an toàn nhất về khoa học kỹ thuật. Sự thật hoặc giả dối: Hướng tới sự độc lập về tinh thần hoặc về sự nô lệ tinh thần.

Còn nếu một người nào không đủ can đảm để bảo vệ linh hồn mình – đừng để hắn tự hào về quan điểm “tiến bộ” của mình, đừng để hắn khoe khoang rằng hắn là một viện sĩ hay một nghệ sĩ nhân dân, một nhân vật nổi tiếng hay một vị tướng. Hãy để hắn tự nói với chính mình: “Ta là một con cừu trong bầy cừu, và là một kẻ hèn nhát. Đối với ta tất cả đều như vậy, miễn là ta được ăn no và mặc ấm”.

Ngay cả con đường này, con đường khiêm tốn nhất trong tất cả các con đường phản kháng, cũng sẽ không dễ dàng cho chúng ta. Nhưng nó dễ dàng hơn nhiều so với việc tự thiêu hoặc tuyệt thực: Ngọn lửa sẽ không bao phủ cơ thể ta, nhãn cầu của ta, sẽ không bùng phát vì sức nóng, và bánh mì nâu cùng nước sạch sẽ luôn có sẵn cho gia đình ta.

Một dân tộc vĩ đại của châu Âu, những người Tiệp Khắc, dân tộc mà chúng ta từng phản bội và lừa dối: Họ đã không cho chúng ta thấy làm thế nào mà một bộ ngực dễ bị tổn thương có thể đứng vững ngay cả khi chống lại xe tăng nếu có một trái tim xứng đáng bên trong lồng ngực?

Bạn nói rằng điều này sẽ không dễ dàng ư? Nhưng nó sẽ là điều dễ dàng nhất trong tất cả những lựa chọn khả thi. Nó sẽ không phải là một lựa chọn dễ dàng cho một thể xác, nhưng nó là một lựa chọn duy nhất cho một linh hồn. Đúng vậy, đó không phải là một con đường dễ dàng. Nhưng đã có những người, thậm chí hàng chục người trong số họ, qua nhiều năm đã duy trì tất cả những quan điểm này và sống với sự thật.

Vì vậy, bạn sẽ không phải là người đầu tiên đi theo con đường này, nhưng sẽ tham gia cùng những người đã đi. Con đường này sẽ dễ dàng hơn và ngắn hơn cho tất cả chúng ta nếu chúng ta thực hiện nó bằng nỗ lực chung và nắm chặt tay nhau. Nếu có hàng nghìn người cùng đi với chúng ta, họ sẽ không thể làm gì chúng ta. Nếu có hàng chục nghìn người cùng đi với chúng ta, thì chúng ta thậm chí sẽ không nhận ra sự thay đổi của đất nước của mình.

Nếu quá sợ hãi, chúng ta nên ngừng phàn nàn rằng ai đó đang làm chúng ta ngạt thở. Chính chúng ta đang làm điều đó. Sau đó, chúng ta hãy cúi đầu xuống nhiều hơn nữa, chúng ta hãy than khóc, và hỡi người anh em, sự tiếp tay của các nhà sinh học, vốn sẽ giúp cho nỗ lực của họ để đọc được những suy nghĩ của chúng ta, ngay cả điều này cũng sẽ trở nên vô ích và vô vọng.

Và nếu chúng ta có đôi chân đầy sợ hãi, ngay cả khi bước đi những bước đầu tiền này, thì chúng ta đã trở thành kẻ vô dụng và vô vọng, và sự khinh bỉ của Pushkin nên dành lại cho chúng ta:

“Tại sao lại phải trao hoa trái của tự do cho bầy gia súc?

Di sản của chúng, từ thế hệ này sang thế hệ khác, là cái ách chiếc roi”./.

*

Thứ Tư, 21 tháng 10, 2020

KIẾN NGHỊ CỦA NGUYỄN TRUNG GỬI TỔNG BÍ THƯ – CHỦ TỊCH NƯỚC VÀ TOÀN THỂ BỘ CHÍNH TRỊ

 




Kính gửi : Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
và toàn thể Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam

Thưa các Đồng chí,

Với trách nhiệm công dân, hưởng ứng kêu gọi lần này của Đảng về góp ý cho Đại hội XIII, tôi trân trọng đề nghị Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa Đại hội XII quan tâm 5 vấn đề dưới đây.

1. Tổng bí thư – Chủ tịch nước nên quyết định tiến hành xử lại vụ án Đồng Tâm đúng với luật pháp hiện hành và mọi quy định đã ghi thành Luật về các thủ tục điều tra và xét xử, nhằm làm rõ sự việc, xử đúng việc đúng người, tránh oan sai. Qua việc xử lại vụ án này với nhận thức đúng đắn như vậy, thúc đẩy ý thức thượng tôn pháp luật trong toàn Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị – nhà nước của quốc gia. Vụ Đồng Tâm là một vết thương nghiêm trọng đối với dân tộc, đánh dấu một bước phát triển nguy hiểm cho đất nước. Dư luận chân chính trong nước và bè bạn quốc tế không tán thành cuộc trấn áp, cách xét xử vụ án, và bản án sơ thẩm đã công bố ngày 14-09-2020.



Nhân đây xin nhắc lại kinh nghiệm cũ: Khi nhận thức được sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh hồi ấy đã tự nhận hết trách nhiệm về riêng mình, và quyết định sửa sai triệt để, nhờ vậy cả miền Bắc một bề yên lòng, cùng nhau khắc phục được mọi thương đau và tổn thất đã xảy ra. Sau đó tất cả mới có thể cùng nhau dốc lòng chuẩn bị cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhờ đó có được hôm nay. Chủ lực trực tiếp đảm nhận gánh nặng lớn nhất của toàn bộ sự nghiệp này là tầng lớp nông dân của chúng ta.

Mong rằng việc xử lại theo tinh thần như vậy vụ Đồng tâm sẽ nói lên ý chí của lãnh đạo ĐCSVN quyết đổi mới nền tư pháp hiện nay – một trong những đòi hỏi rất cấp bách của đất nước trước tình hình và nhiệm vụ mới. Hợp lý nhất là Tổng bí thư – Chủ tịch nước nên ban bố quyết định này trước khi họp Đại hội XIII, tạo ra trong Đảng một tinh thần dám nhìn thẳng vào sự thật và củng cố đoàn kết dân tộc, quyết vượt qua mọi sai lầm, khó khăn, thách thức, cùng nhau nắm bắt thời cơ mới, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới.

Kính thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước và toàn thể Bộ Chính trị,

Tại đây, tôi xin trình bầy thêm một phương án khác nữa, rất mong được cân nhắc:

Trong thâm tâm, suy nghĩ kỹ, tôi mong muốn: Đúng đắn nhất có lẽ là nên quyết định hủy vụ xử án này, để xử lý vụ Đồng Tâm bằng con đường dân sự theo tinh thần sửa sai (gọi là phương án sửa sai) như đã làm trong cải cách ruộng đất. Kinh nghiệm một năm trời (1956-1957) tôi trực tiếp đi sửa sai CCRĐ[1] ở Trực Ninh – Nam Định, khiến tôi vô cùng nhức nhối về vụ Đồng Tâm, thôi thúc tôi đưa ra phương án này.

Vụ Đồng Tâm xảy ra vì bất kỳ nguyên do gì – rồi sẽ phải làm rõ, nhưng đã làm cho đất nước lâm vào những khó khăn nội tại mới, rất nhạy cảm, đẩy đất nước lún sâu hơn nữa vào xu thế mang tính quy luật của chế độ toàn trị: nội trị xuống cấp, trấn áp gia tăng – ngày càng đi vào chiều hướng tới một điểm nào đó sẽ không thể đảo ngược được nữa, với triển vọng đen tối cho cả nước. Giữa lúc này những thách thức đối với nước ta và mọi nguy cơ uy hiếp mới nhiều bề từ bên ngoài ngày càng lớn. Toàn bộ thực tế quyết liệt này đòi hỏi nước ta sống hay là chết phải chuyển đoạn đi vào một thời kỳ phát triển mới, và sống hay là chết nước ta phải giành bằng được một vị thế quốc tế mới để thoát khỏi thế bị giằng xé và lệ thuộc hiện nay, để tự quyết định lấy vận mệnh của nước mình! Hòa bình và tương lai của đất nước đang quyết liệt đòi hỏi như vậy

- Tiếp tục đi sâu nữa vào con đường đang đi với triển vọng đen tối của chế độ toàn trị hiện nay đối với Đảng và đối với quốc gia, đành chịu để cho nội tình phân tán, chia rẽ, tiềm năng phát triển của đất nước tiếp tục bị kìm hãm, uy hiếp, nguy cơ đổ vỡ và bạo loạn bên trong gia tăng, ý chí chiến đấu của quốc gia có lúc mang những biểu hiện phân tán, tê liệt trước sự can thiệp từ bên ngoài và nguy cơ xâm lược?

- Hay là Đảng quyết rũ bỏ chế độ toàn trị này để mở đường sống cho bản thân mình và cho đất nước, đem tất cả nghị lực giành lấy một tương lai mới, nước mình tự làm chủ vận mệnh của mình trong một thế giới đầy bất định và giành giật nhau quyết liệt, để đất nước có hòa bình, phát triển và hạnh phúc?



Thực ra, ngay từ khi bước sang thế kỷ 21 đất nước ta đã đứng trước hai câu hỏi định mệnh nói trên, và từ hồi ấy cho đến hôm nay trong nước liên tục có nhiều tiếng nói cảnh báo rất sớm, nhưng vô ích. Cục diện quốc tế mới hôm nay quyết liệt và căng thẳng hơn rất nhiều, thôi thúc ráo riết ĐCSVN và đội ngũ lãnh đạo của Đảng phải hành động trước khi quá muộn. Xin hãy nhìn ra toàn thế giới và nhìn kỹ những gì hiện đang xẩy ra ở Đông Nam Á, trên Biển Đông, những diễn biến khác ở nhiều quốc gia – nhất là ngay trong khu vực mình.., để hiểu được hai câu hỏi định mệnh nêu trên đang ngày càng nóng bỏng đối với quốc gia!

Người đời nói và nói đúng: Ngoại trừ bị đập tan hay sụp đổ – chưa thấy một đảng cộng sản nào nắm quyền ở bất kỳ đâu trên thế giới này có thể tự thay đổi được chính nó.

Nhưng 4 cuộc trường kỳ kháng chiến cứu nước đã đòi hỏi dân tộc ta phải chịu đựng những hy sinh tổn thất không lời nào nói hết mới có được hôm nay. Vì thế tôi thấy dứt khoát phải làm mọi việc chặn đứng cho đất nước ta nguy cơ một cuộc bể dâu mới sẽ lại cướp đi tất cả, để quyết khai phá con đường sống cho đất nước và cũng là con đường tối ưu cho sự nghiệp của Đảng. Phải nói với nhau hết lời: Tình hình đã tới mức ĐCSVN cách mạng đã từng dẫn dắt nhân dân hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất, nhưng hôm nay chỉ còn cách một cái xảy chân để có thể ngã xuống biến thành trở lực đối kháng của dân tộc, nhất là giữa lúc Việt Nam hôm nay đang có trong tay cơ hội vượt qua mọi thách thức hiểm nghèo để giành lấy một tương lai xán lạn! Chưa bao giờ như hôm nay Việt Nam đang được hầu hết mọi đối tác coi là điểm đến giầu tiềm năng và rất hứa hẹn trong thế giới đầy xáo động này! Bè bạn thế giới đều muốn có một Việt Nam là một nhân tố không thể thiếu cho hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực! Vì thế, hơn bao giờ hết, lãnh đạo Đảng phải chắt chiu từng cơ may nhỏ nhất, hội tụ mọi khát vọng cháy bỏng của nhân dân cả nước thành sức mạnh đổi đời đất nước. Nắm vận mệnh đất nước trong tay, nếu Đảng không thực hiện được sứ mệnh này sẽ là mắc trọng tội đối với đất nước và tổ tiên! Đấy là những lý do tôi quyết định nói với các Đồng chí:

Dựa vào trí tuệ và ý chí cả nước, với tất cả bản lĩnh lãnh đạo của mình, các Đồng chí phải có gan lựa chọn cho đất nước phương án sửa sai vụ Đồng Tâm, chặn đứng xu thế diễn biến cực kỳ nguy hiểm của độc tài toàn trị, để từ điểm nhấn dám sửa sai này, Đảng thực hiện bước đột phá: Phát huy dân chủ giải phóng sức mạnh cả nước mở ra một bước ngoặt chiến lược cứu nước cứu Đảng trong tình hình nguy hiểm mọi bề hôm nay, đưa đất nước đi vào một thời kỳ phát triển mới! Đảng chủ động làm như thế mới đúng là lãnh đạo, sẽ được lòng dân, cổ vũ được cái tốt trong toàn Đảng và cả nước, và chắc thắng; bạn bè thế giới sẽ hoan nhênh, hậu thuẫn! Đất nước sẽ chỉ mất đi sự lệ thuộc, cái yếu kém và tiêu cực! Có bản lĩnh thì phải quyết biến nguy cơ thành thời cơ như vậy! Chứ không phải là ngoan cố đối phó bằng cách tăng cường bắt bớ và độc đoán hơn nữa như đang diễn ra!

Xin nhấn mạnh: Bối cảnh trong ngoài khiến cho tình hình nước ta đã chín muồi để thực hiện quyết định lịch sử này! Nước ta hiện nay đã hội được mọi điều kiện đủ cho thực hiện quyết định lịch sử này, chỉ còn thiếu duy nhất điều kiện cần là ý chí của Đảng Cộng Sản Việt Nam!]

2. Nhằm đổi mới nhiệm vụ xây dựng Đảng trước những đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới trong thế giới quyết liệt thời đại dịch covid-19, đề nghị Đại hội XIII quyết định trong khóa Đại hội này sẽ tiến hành xây dựng một bộ Luật về Đảng Cộng Sản Việt Nam[2], để cụ thể hóa Điều 4 của Hiến pháp.

Mục đích của Luật này nhằm (i) làm rõ nội dung vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với quốc gia, gắn việc thực hiện nhiệm vụ này với trách nhiệm ràng buộc của Đảng đối với quốc gia trong tình hình mới, (ii) ngăn ngừa tình trạng mất dân chủ, hoặc sự lạm dụng quyền lực và những tha hóa khác biến tướng vai trò lãnh đạo của Đảng thành vai trò thống trị / cai trị, (iii) tạo ra sự phân công rành rẽ để không gây ra chồng lấn, không có vùng trống, nghiêm cấm những hiện tượng lộng quyền, tiếm quyền.., không để xảy ra Đảng làm thay vai trò của những thành phần khác trong hệ hống chính trị của quốc gia – bao gồm Quốc Hội, Chính phủ và hệ thống chính quyền, hệ thống Mặt trận, (iv) góp phần nâng cao vai trò và năng lực của hệ thống Nhà nước là Quốc hội, vai trò Chính phủ và hệ thống chính quyền, xây dựng và phát huy vai trò xã hội dân sự, (v) góp phần vào những công việc của quốc gia nhằm nâng cao tính nhà nước dân chủ pháp quyền của quốc gia và tinh thần thượng tôn pháp luật trong cả nước, xây dựng những chuẩn mực đạo lý và pháp lý quốc gia phải có, vận dụng phổ cập nguyên tắc công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình như một đòi hỏi ràng buộc trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của toàn bộ đời sống đất nước – qua đó Đảng gương mẫu thực hiện tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, tất cả đều phải sống và làm việc theo pháp luật, không có ngoại lệ.

Tóm lại, đây là một bộ Luật nhằm phục vụ nhiệm vụ xây dựng về mặt pháp lý một ĐCSVN giầu trí tuệ và có phẩm chất, bản lĩnh vững vàng, hoạt động trong một quốc gia có hệ thống chính trị dân chủ pháp quyền ngày càng mạnh với một xã hội dân sự ngày càng phát triển. Nghĩa là: Bộ Luật này góp phần tạo ra tình hình Đảng và đối tượng Đảng phục vụ đều cùng mạnh lên và tiếp tục phát triển lành mạnh; khắc phục hiện trạng Đảng ngày càng tập quyền, trong khi đó đối tượng Đảng phục vụ ngày càng tha hóa do nhiều quyền tự do dân chủ bị tước đoạt và bị bưng bít trong chính sách ngu dân. Bộ Luật này sẽ là bước đi đầu tiên trong quá trình đổi mới, cải cách, để tiến tới xây dựng nên một thể chế chính trị của một nước phát triển. Luật này chủ yếu nên nhằm:

- Xác định về mặt pháp lý nội dung cần thực hiện vai trò lãnh đạo của ĐCSVN là những gì, gắn việc thực thi nhiệm vụ của vai trò này với trách nhiệm ràng buộc của Đảng đối với quốc gia, tất cả với tinh thần: Đảng tuyệt đối trung thành với tổ quốc và Hiến pháp, tôn trọng quyền của nhân dân làm chủ đất nước, cam kết chăm lo những quyền tự do – dân chủ và nghị lực sáng tạo của nhân dân vì đây là nguồn lực quyết định nhất của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, chịu sự phê phán – rèn luyện của nhân dân như một yếu tố tất yếu bảo vệ và phát huy phẩm chất và tính chiến đấu của Đảng.

- Luật này phải góp phần: không để xảy ra nhầm lẫn nhân dân với kẻ thù, không quy kết bừa bãi coi những ý kiến phản biện và những người bất đồng chính kiến là thế lực thù địch, nghiêm cấm mọi hiện tượng nhà nước công an trị, tăng cường kỷ cương của quốc gia và sự nghiêm minh của luật pháp.

[Ngay trước mắt, nên sớm trả lại tự do cho những người bị bắt giam, bị án tù, chỉ vì họ bất đồng chính kiến. Phải lấy đối thoại tìm ra lẽ phải, chỉ trị nước bằng lẽ phải. Từng việc làm của Đảng phải lấy thu phục lòng người bằng lẽ phải và chính nghĩa, nhất nhất chỉ vì dân vì nước – chứ không phải bằng trấn áp của bạo lực và dối trá. Phải như thế, để xây dựng nên trong lòng mỗi người dân thành lũy tinh thần không gì lay chuyển nổi bảo vệ đất nước và chế độ! Có dân sẽ có tất cả, mất dân sẽ dẫn đến mất nước và tự sát! Không có thế lực thù địch nào ở trong nước có thể lật đổ chế độ này, nhưng ách toàn trị là nguyên nhân ngày đêm tạo ra nguy cơ này. Vì vậy phải lấy thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình để chủ động phòng ngừa mọi yếu kém, và giải quyết những yếu kém khi xảy ra.]

- Cần phải trung thực với lịch sử, tôn trọng lịch sử là thầy dạy của hiện tại và tương lai, nhất là phải rút ra từ lịch sử những bài học không được quên. Nhất thiết không được vẽ lịch sử, không được lạm dụng cứ mài lịch sử ra mà sống, để tự tôn vinh, ru ngủ, để ăn bám và khỏa lấp những yếu kém. Tệ hơn nữa, làm như thế còn là tiếp tục tự giam mình và mặc nhiên giam cả đất nước trong quá khứ – như đã và đang xảy ra. Làm như thế là Đảng tự đánh lừa mình, khuyến khích nói dối, tiếp tục làm tha hóa chính mình và đất nước một cách nguy hiểm. Thành lập viện này viện nọ mà không có học, không có tự do tư duy trong học tập, sẽ chỉ có thêm bằng rởm! Nhân đây phải nói những yếu kém của hệ thống tuyên giáo và báo chí của Đảng (thường được gọi là báo chí lề phải) góp phần làm trầm trọng thêm thực trạng này. Truyền thông và báo chí của hệ thống chính trị nặng về làm vai trò bảo vệ quyền lực toàn trị và trấn áp tinh thần, tư tưởng, che giấu / cắt xén sự thật, thiếu hay không có thông tin trung thực… Trong khi đó chưa làm được gì đáng kể cho nhiệm vụ nâng cao dân trí và phát triển tư duy cho sự tiến bộ của Đảng và của đất nước. Nhất thiết Đảng cần sớm khắc phục những sai lầm trầm trọng này, giao cho Tuyên giáo và hệ thống truyền thông báo chí nhiệm vụ xây dựng hòa hợp đoàn kết dân tộc, phát huy trí tuệ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, khuyến khích văn hóa và những giá trị cao đẹp, bảo vệ những tiếng nói chân chính và chân lý, tuyên chiến với dối trá, cái ác, tham nhũng tiêu cực, sự đồi trụy, hủ tục và lạc hậu.

- Đặc biệt quan trọng là yêu cầu phát triển của đất nước ta và những thách thức quyết liệt của thế giới hôm nay đòi hỏi Đảng trên mặt trận truyền thông báo chí phải dành nỗ lực cao nhất cho sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam tự do của một Việt Nam độc lập tự do, vị thế mới của đất nước đòi hỏi như vậy. Nhận về mình vai trò lãnh đạo đất nước, Đảng có trách nhiệm khuyến khích tự do trong tư duy để luôn luôn tìm đường đưa đất nước đi lên phía trước – không được coi đấy là diễn biến. Mặt khác phải xem nô dịch tư tưởng là một trọng tội đối với dân tộc không được phép phạm phải – vì nó làm thui chột sức sống và khả năng đề kháng của dân tộc. Sự trung thành đạo lý cao cả nhất đòi hỏi chỉ dành cho Tổ Quốc và Sự Thật![3] Ngay trước mắt, tuyên giáo và truyền thông báo chí phải được học lại, trang bị lại trí tuệ và bản lĩnh, để phục vụ đắc lực những nhiệm vụ cả nước phải làm mở ra bước ngoặt chiến lược cho phát triển đất nước.

- Cuộc sống có vận tốc ngày càng cao và đã vượt quá xa, nhưng Đảng đang tụt hậu rất nghiêm trọng về nhiều phương diện. Trong khi đó khoảng cách giữa năng lực và phẩm chất của Đảng so với nhiệm vụ hôm nay Đảng phải thực hiện rất lớn. Do đó với tính cách là lực lượng chính trị lớn nhất nước, Đảng hôm nay phải học lại, học cái mới, trau giồi phẩm chất và bản lĩnh mới, tri thức mới, phải làm tất cả mọi việc có thực chất thường xuyên tu dưỡng và đổi mới chính mình để bắt kịp, phải bổ khuyết sớm những thiếu hụt lớn về trí tuệ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay đòi hỏi. Nhất là phải làm cho Đảng trở thành nhân tố phát huy dân chủ và gìn giữ đoàn kết dân tộc trong đời sống đất nước – bắt đầu từ xây dựng dân chủ và đoàn kết hướng về phía trước trong Đảng, lời nói đi đôi với việc làm.

- Đảng cần phải tổ chức học lại và học mới như nói trên, để xây dựng mới cho toàn bộ đội cán bộ ngũ đảng viên của mình phẩm chất, trí tuệ, sự giác ngộ lợi ích của quốc gia và dân tộc, những kiến thức mới của phát triển, ý chí phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân và sự cường thịnh của Tổ quốc. Đảng cần rèn luyện nên mỗi đảng viên của mình là một chiến sỹ tiên phong của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, chứ không phải là một robot của Đảng! Vì những lẽ trọng đại đã trình bầy, trong khóa Đại hội XIII sớm muộn cần xây dựng lại Cương lĩnh và Điều lệ Đảng.

- Luật này còn đòi hỏi Đảng phải nghiêm khắc chống mọi hiện tượng giáo điều, bảo thủ, nạn bè phái, nhóm lợi ích, tệ sùng bái cá nhân, tham nhũng / tiêu cực, tệ nạn quan liêu ăn bám, thói xu nịnh, lừa dối… đang đẻ ra nhiều tội ác. Đấy là những kẻ thù nguy hiểm nhất của Đảng và thường trực tạo ra nguy cơ lớn cho quốc gia còn hơn giặc ngoại xâm.

- Đổi mới xây dựng Đảng về mặt tổ chức, để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, và đồng thời qua đó nâng cao được phẩm chất và năng lực của những thành phần khác trong toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước (bao gồm Đảng, Hệ thống Nhà nước, Mặt trận…), phân nhiệm chặt chẽ giữa từng thành phần trong hệ thống, từng người phải làm đúng việc của mình trong biên chế – không thừa, không thiếu. Sự đổi mới như vậy toàn bộ hệ thống sẽ làm rõ trách nhiệm và nâng cao năng lực của từng thành phần trong hệ thống, tạo ra sự phân công mới rành rọt giữa các thành phần này, qua đó tránh được hiện tượng chồng chéo “3 trong 1” (bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận) rất quan liêu như hiện nay.

- Xin nhấn mạnh: Phát huy dân chủ trong Đảng, đồng thời tạo mọi điều kiện cho phát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực của toàn bộ đời sống đất nước, đây chính là con đường thực hiện đoàn kết toàn dân tộc, giải phóng sức mạnh cả nước, nâng cao chất lượng toàn bộ hệ thống chính trị – nhà nước của quốc gia, mở ra và thúc đẩy cải cách chính trị do Đảng chủ xướng và tổ chức thực hiện, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới. Dân chủ của yêu nước là cái gốc của tự do, là nền tảng cho những giá trị của dân tộc và quốc gia, là yếu tố gắn bó keo sơn giữa nhân dân, tổ quốc và Đảng, và là chìa khóa của phát triển!

3. Đổi mới xây dựng Quốc hội theo tinh thần: (i) Hiến pháp là bộ luật tối cao của quốc gia, (ii) Quốc hội là cơ quan quyển lực cao nhất của cả nước, (iii) nâng cao năng lực kỹ trị trong việc xây dựng luật pháp và những chủ trương chính sách quan trọng của quốc gia, tăng cường khả năng chế tài việc thực thi pháp luật của cả nước. Quốc hội đại diện cho quyền lực và tiếng nói của nhân dân, không phải là cơ quan (thực thể) chấp hành (executive body) của quyền lực, do đó cần loại bỏ mọi hoạt động hình thức phô trương và hữu danh vô thực. Dưới đây là một số vấn đề nên đặc biệt quan tâm.

- Quốc hội Việt Nam từ khóa XV nên gọn nhẹ, ưu tiên hàng đầu là chất lượng đại biểu Quốc hội về trình độ chính trị và năng lực kỹ trị, rồi nếu tình hình cho phép mới tính đến cơ cấu các thành phần xã hội, nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, tuổi tác, nghề nghiệp… Dứt khoát không cơ cấu ĐBQH cho đủ mâm bát giống như quy chế của Mặt trận. Theo tinh thần này, người ứng cử hay được đề cử phải chứng minh trước cử tri của mình lý lịch rõ ràng, là công dân không phạm pháp, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh, trình độ học vấn và năng lực chuyên môn của mình. Vì không xây dựng quyền lập pháp theo chế độ lưỡng viện, do đó ngoại trừ một số ít trường hợp đặc biệt, người ứng cử hay được đề cử trước hết nên là người làm ăn sinh sống tại địa phương (tỉnh / thành phố…), phải hiểu rõ tình hình và những vấn đề, những đòi hỏi của địa phương, phải trình bầy được trước cử tri của địa phương mình những mục tiêu sẽ theo đuổi, và cam kết có sự ràng buộc pháp lý việc thực hiện nếu được bầu. Vì những lý do như vậy, nên bãi bỏ việc người từ tỉnh này được ứng cử hay được đề cử tại tỉnh khác.

- Nên xây dựng mới những quy chế, quy định, và cách hiệp thương – thảo luận – tranh luận công khai và dân chủ ở địa phương cho việc phát hiện / giới thiệu hiền tài (dù là đảng viên hay không phải đảng viên ĐCSVN), lựa chọn được đúng người đề cử hoặc khuyến khích ứng cử, sao cho có nhiều hiền tài tham gia việc nước, cử tri lựa chọn và bầu trực tiếp hiền tài, loại bỏ cách “đảng cử – dân bầu” như lâu nay.

- Số đại biểu QH quy định cho mỗi tỉnh nên là 3, mỗi thành phố trực thuộc TƯ là 5, riêng Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mỗi nơi sẽ là 6. Nhìn chung nên có khoảng ≤ 1/3 tổng số đại biểu QH là ĐBQH chuyên trách. Mỗi ĐBQH đều có 2 chức năng chính là (i) đại diện trực tiếp của tỉnh (địa phương) mình tại QH, và (ii) đồng thời là thành viên của QH gánh vác công việc quốc gia.

- Đại biểu Quốc hội không chuyên trách được giữ nguyên lương của cơ quan chủ quản và phải tiếp tục thực hiện công việc mình được trả lương, nhưng được dành một khoảng thời gian thích đáng để thực thi nhiệm vụ ĐBQH, đồng thời được hưởng thêm một khoản phụ cấp theo quy định chung của QH trong thời gian là ĐBQH. Nếu là ĐBQH chuyên trách, sẽ được hưởng lương quy định chung cho ĐBQH chuyên trách và các chế độ khác trong thời gian làm nhiệm vụ ở QH, và dừng việc nhận lương trong biên chế cũ trước khi trở thành ĐBQH chuyên trách. Mọi chế độ đãi ngộ dành cho ĐBQH không chuyên trách và chuyên trách sẽ kết thúc khi hết nhiệm kỳ hoặc nếu bị bãi miễn.

- Tiến hành mọi cải tiến, cải cách cần thiết để QH thực hiện được đầy đủ chức năng với hiệu quả cao nhất là cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia và đồng thời là cơ quan lập pháp của quốc gia như ghi trong Hiến pháp 2013, thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân kiểm xoát toàn bộ sự vận động của quốc gia, thể hiện và thực thi được với ý thức trách nhiệm thiêng liêng và cao cả nhất quyền của nhân dân làm chủ đất nước. Thực tế này đòi hỏi phải nâng cao nền tư pháp quốc gia, sớm hình thành trong hệ thống Nhà nước hiện tại một thực thể pháp lý (a quasi-judicial body) làm chức năng của Tòa án Hiến pháp; khi tình hình cho phép sẽ tiến hành xây dựng Hiến pháp mới. [Chấm dứt hẳn tình trạng Đảng coi QH là công cụ của mình và ngồi trên tất cả – thể hiện rõ nhất qua việc nhiều ĐBQH công khai thừa nhận Bộ Chính trị là cấp trên của QH.]

4. Trong thời gian vừa qua một số người Việt Nam là học giả, các nhà kinh tế và các nhà kinh doanh, sống ở trong nước hoặc nước ngoài, có nhiều ý kiến, kiến nghị rất xác đáng về con đường phát triển của Việt Nam, về đổi mới cơ cấu kinh tế và thể chế vận hành quốc gia thời cách mạng công nghiệp 4.0, những cải cách kinh tế và chính trị phải làm để thực hiện những mục tiêu này… Xin trân trọng đề nghị Đảng, Quốc hội và Chính phủ dành sự quan tâm đặc biệt cho những ý kiến, kiến nghị này, huy động trí tuệ cả nước và hiền tài lập ra một loại hình think tank thường trực cho nhiệm vụ nghiên cứu / xây dựng chiến lược chung và những chiến lược từng lĩnh vực, những nhiệm vụ phải thực hiện cho việc mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước, đáp ứng được những đòi hỏi và thách thức của tình hình và nhiệm vụ mới. Xin đặc biệt quan tâm đến một số vấn đề trọng yếu sau đây.

- Cải cách thể chế chính trị để mở rộng dân chủ hóa, xây dựng nền giáo dục tiên tiến là nền tảng văn hóa và tinh thần của quốc gia, phát huy sức mạnh quan trọng nhất của đất nước là con người Việt Nam và nguồn nhân lực Việt Nam – đấy là 3 tiền đề nhất thiết phải tạo ra cho việc phát triển đất nước trong tình hình và nhiệm vụ mới. 3 yếu tố này mang tính chất dĩ bất biến ứng vạn biến, giúp cho quốc gia giành được cơ hội đang đến, đối phó được mọi thách thức dưới bất kỳ hình thức nào – kể cả chiến tranh xâm lược nếu xảy ra. Nên dành mọi nỗ lực có thể cho việc hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam mạnh với thương hiệu Việt Nam cho đất nước! Xin lưu ý, vì thiếu 3 tiền đề “dĩ bất biến” kể trên nên đã không hoàn thành được chiến lược công nghiệp hóa đất nước vào năm 2020. Như vậy triển vọng thực hiện chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã đề ra sẽ như thế nào?

- Cần nắm bắt được nội dung và xu thế vận động đang diễn ra của cách mạng công nghiệp 4.0 để tái cơ cấu kinh tế đất nước, phát triển các ngành khoa học / kỹ thuật và xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn và lực lượng lao động có tay nghề cao để đáp ứng, đổi mới thể chế vận hành quốc gia, và giải phóng mọi nguồn lực – bao gồm cả xây dựng và phát huy vai trò nền kinh tế số, để làm ra những sản phẩm mới Việt Nam đang có những lợi thế lớn nhất…

- Không thu hút mọi FDI và bằng bất cứ giá nào, không để cho FDI trở thành yếu tố lôi kéo và khuynh đảo sự vận động và xu hướng phát triển kinh tế đã lựa chọn của đất nước như đã và đang xảy ra – nổi lên hiện nay là tình trạng: Càng thu hút được nhiều FDI, kinh tế quốc dân càng ngả lệch sang phát triển theo chiều rộng với nhiều hệ quả nặng nề. Phải chuyển hẳn sang thời kỳ chủ động chọn lọc và thu hút FDI nhằm phục vụ tối ưu chiến lược phát triển của đất nước – với phương châm: FDI phải thúc đẩy sự phát triển mới đất nước muốn lựa chọn, dứt khoát loại bỏ FDI tạo ra sự lệ thuộc và những tiêu cực mới. Lấy nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà và trình độ của Nhà nước trong quản lý và vận hành nền kinh tế để thực hiện phương châm này.

- Cần đặc biệt quan tâm và coi phát triển bền vững là ưu tiên số 1 trong khi tận dụng mọi cơ hội cho tăng trưởng kinh tế, dành mọi nỗ lực có thể cho việc phát triển kết cấu hạ tầng của quốc gia, cải thiện – bảo vệ môi trường tự nhiên, nhất quyết xây dựng tiết kiệm là quốc sách hàng đầu, giữ chữ tín trong làm ăn kinh tế trong nước cũng như trong kinh tế đối ngoại.

5. Về đối ngoại nên quán triệt phương châm: Cần xây dựng một nền nội trị vững mạnh và kiên cường làm nền tảng cho một nền ngoại giao dấn thân vì lợi ích quốc gia và vì trách nhiệm phải có của một nước thành viên có bản lĩnh và được tôn trọng trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Đấy phải là một nền ngoại giao phát huy được truyền thống lịch sử của đất nước lấy đại nghĩa thắng hung tàn, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo ra được cho quốc gia sự tập hợp lực lượng phải có trên thế giới, chủ động vận dụng sáng tạo mọi thể chế và luật pháp quốc tế hiện hành, tất cả để phục vục triệt để nhất sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Ở vị trí địa đầu tại khu vực ĐNÁ, sống hay là chết, không muốn làm đe thì phải làm búa (J. W. Goethe), Việt Nam nhất thiết phải xây dựng cho mình một nền ngoại giao của một nhân dân trưởng thành, được trang bị mọi thông tin, hiểu biết và nhận thức phải có, được trau giồi lòng yêu nước, ý chí và khả năng chiến đấu của người chiến sỹ trên mặt trận đối ngoại – không khác gì những đòi hỏi về lòng yêu nước, phẩm chất và khả năng chiến đấu phải có của toàn dân là chiến sỹ trên chiến trường khi đất nước có ngoại xâm. Bởi vì, để sống và vươn lên được trong thế giới quyết liệt hôm nay, Việt Nam – là một quốc gia có gần 100 triệu dân và một cộng đồng gần 10 triệu người Việt sống ở nước ngoài – cả nước ta, trước hết là ĐCSVN – cần vượt lên quá khứ, chiến thắng mọi hận thù, vượt qua mọi giả dối, sớm xây dựng cho quốc gia mình những giá trị, bản lĩnh và khả năng thực hiện, để quyết lấy mở rộng dân chủ xây dựng thành công một nền ngoại giao của đại đoàn kết và hòa hợp dân tộc “người Việt Nam vì tổ quốc Việt Nam!” – một thế mạnh bất khả chiến bại của nước ta! Nhưng nếu không làm được như vậy, thế mạnh quyết định này sẽ trở thành thách thức thường trực rất nguy hiểm đối với đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói nhiều lần: Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết! Làm mọi việc để người dân thực sự là chủ của đất nước, chắc chắn sẽ thực hiện được.

Gần một nửa thế kỷ đất nước độc lập thống nhất là thời gian quá chín muồi để cả nước và toàn Đảng nhận thức được tầm vóc nhiệm vụ chiến lược sống còn nêu trên và cần quyết tâm thực hiện. ĐCSVN dẫn dắt đất nước thực hiện thành công nhiệm vụ chiến lược sống còn này, sẽ minh chứng và khẳng định thuyết phục vai trò lãnh đạo của mình đối với quốc gia, và chỉ có làm được như thế mới đích thực là thực hiện vai trò lãnh đạo! Hơn thế nữa xin lưu ý, bối cảnh lịch sử và những thách thức mới đất nước hôm nay phải đối mặt đặt lên vai ĐCSVN – người đã đưa đất nước đi con đường Cách Mạng Tháng Tám – trọng trách: Tiếp tục con đường đã dẫn dắt đất nước trong những thập kỷ vừa qua, hôm nay Đảng có trách nhiệm ràng buộc phải thực hiện thành công nhiệm vụ trọng đại này, để hoàn thành thắng lợi cuối cùng này[4] của Cách mạng Tháng Tám cho Tổ Quốc.

Thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị,

Đòi hỏi sống còn của đất nước và tiền đồ của Đảng chỉ dành cho lãnh đạo Đảng hôm nay con đường duy nhất dẫn dắt đất nước đi đến thành công, đó là:

Đảng phải nhìn thẳng vào sự thật, giác ngộ nhiệm vụ phải thực hiện trong tình hình và nhiệm vụ mới hôm nay, học hỏi để đổi đời chính mình với ý chí Tổ quốc trên hết. Đồng thời qua mở rộng dân chủ phát huy trí tuệ cả nước quyết mở ra bước ngoặt chiến lược về phát triển để cứu nước cứu Đảng như đã trình bầy sơ bộ trong kiến nghị này, lấy thực hiện dân chủ giải phóng sức mạnh của nhân dân, tổ chức toàn Đảng và toàn dân đoàn kết quyết tâm thực hiện!

Vì mọi quyền lực vẫn đang nguyên vẹn trong tay, do đó Đảng đang có cơ hội tốt nhất và hoàn toàn có thể chủ động bắt đầu sự nghiệp đổi đời đất nước từ việc Đảng tự xây dựng lại chính mình trước thành đảng của dân tộc và dân chủ, có trí tuệ và bản lĩnh. Đấy là con đường giúp Đảng gắn bó với nhân dân, chứ không phải là ngồi trên nhân dân, thực hiện đúng cam kết Đảng không có mục đích nào cao cả hơn và cũng không có lợi ích nào khác là phục vụ nhân dân và phụng sự tổ quốc. Được như vậy, rồi Đảng sẽ biết phải làm gì trong những bước tiếp theo mà kiến nghị này đã sơ bộ gợi ý những việc cần làm ngay trước mắt, và nhất định sẽ làm được. Chậm trễ sẽ không còn gì để làm ngoài gánh chịu hậu quả và kéo đất nước vào tai ương khôn lường. Song trong trường hợp này, nhân dân nhất định sẽ đứng lên tự quyết định lấy vận mệnh của mình, đất nước này và dân tộc này không bao giờ khoanh tay chịu chết! Điều này đã được chứng minh suốt từ thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc cho đến hôm nay. Còn nhiều vấn đề khác, xin được bàn vào dịp khác. Cái khó nhất trước sau vẫn là Đảng phải chiến thắng chính mình trước tiên!

Những căng thẳng mới đang diễn ra trong khu vực ĐNÁ, Biển Đông đang trên miệng hố chiến tranh, và những thay đổi tại một số quốc gia ở đây đang nhắc nhở nghiêm khắc đất nước ta về những bài học xương máu trong quá khứ của cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược biên giới nước ta 17-02-1979 và mối liên kết của nó với cuộc chiến tranh của Khmer đỏ chống nước ta ở phía Tây Nam. Cuộc sống trong thế giới khắc nghiệt hôm nay chỉ giành cho một Việt Nam có phẩm chất và bản lĩnh, để có thể chủ động với hiệu quả cao nhất vận dụng chiến lược và sách lược phải có, tự quyết định lấy vận mệnh của chính mình. Chỉ như vậy mới có thể gìn giữ được hòa bình, phấn đấu thành công cho hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển trong khu vực và trên thế giới, cho phép sẵn sàng chiến đấu và quyết chiến thắng bất kỳ cuộc chiến tranh xâm lược mới nào chống nước ta nếu xảy ra.

Núi xương sông máu ba thế hệ liên tiếp dân tộc ta đã phải đổ ra để có độc lập thống nhất hôm nay. Một giọt máu nào của dân rơi xuống dù ở đâu hay bên nào cho cõi đất này đều là máu người Việt ta! Nhưng chưa bao giờ cơ đồ và con đường sống của nước ta đang bị bạo quyền bên ngoài lăm le chặn đứng như hôm nay! Không loại trừ một cuộc xâm lược mới! Chưa bao giờ như hôm nay những sai lầm, yếu kém, tham nhũng, sự ngu dốt và bao nhiêu cái ác khác của chính chúng ta nếu không được chặn đứng sẽ có ngày xô đẩy đất nước ta một lần nữa vào cảnh nồi da xáo thịt, cho bên ngoài đục nước béo cò! Bao chùm lên tất cả là đại dịch covid-19 đang hoành hành và đảo lộn cả thế giới, không phân biệt giầu nghèo, ý thức hệ, tôn giáo, châu lục, quốc gia. Những tác nhân gây ra đại dịch và những hệ quả của nó đang thách thức quyết liệt và ghê tởm sự sống còn của từng quốc gia! Sống chỉ dành cho trí tuệ và bản lĩnh chiến thắng được tội ác và cái chết!

Vì vậy, từng đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam – từ Tổng bí thư cho đến đảng viên thường – xin hãy nén lại cái tôi trong chính con người mình, để có đủ lương tri và lòng yêu nước biết đau nỗi đau của dân tộc, biết nhục nỗi nhục của dân tộc, biết lo những mối nan nguy nhiều bề chưa từng có phía trước đang đe dọa đất nước! Bốn cuộc kháng chiến cứu nước đằng đẵng và đẫm máu không phải là để tạo ra cho nhân dân ta những bất công và sự kìm kẹp như đang xảy ra, sự phát triển đất nước đạt được phải trả cái giá quá đắt và đang bị ụy hiếp, đất nước bị làm hỏng nhiều mặt, hiện nay đang bị lệ thuộc và thách thức nguy hiểm. Từng đảng viên của Đảng quyết không được phản bội một hy sinh nào của dân tộc và của những bậc tiền bối, quyết không được bỏ qua bất kỳ mất mát nào của đất nước![5] Không có gì quý hơn độc lập tự do của Tổ Quốc! (Hồ Chí Minh).

Hơn bao giờ hết toàn Đảng phải trung thành với lời thề cứu nước đã viết trên lá cờ Đảng kể từ ngày thành lập, bảo vệ mọi thành quả dân tộc đã giành được, hôm nay phải lột xác phấn đấu làm đội quân tiên phong của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình và nhiệm vụ mới!

Hơn bao giờ hết toàn Đảng phải đoàn kết hy sinh phấn đấu cho quyền sống và hạnh phúc của nhân dân!

Chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhân dân, mỗi đảng viên hãy giữ trong tim mình Tổ Quốc và Sự thật! Phải dám sống vì Tổ Quốc và Sự Thật, để mỗi đảng viên sẽ tìm ra con đường sống cho mình và cho đất nước!

ĐCSVN hôm nay chỉ có thể thực hiện được nghĩa vụ cam kết của mình đối với dân tộc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước bằng cách Đảng phải xây dựng cho mình đội ngũ cán bộ đảng viên có trái tim, ý chí và trí tuệ dám sống vì Tổ quốc và Sự thật.

Thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước và toàn thể Bộ Chính trị,

Trên đây tôi đã trình bầy những kiến nghị và suy nghĩ của mình về 5 vấn đề lớn của đất nước, mong các Đồng chí cân nhắc thấu đáo, đề đạt với Đại hội XIII những việc nên làm trong khóa Đại hội này. Nếu bỏ ngoài tai, kiến nghị này sẽ là lời cảnh tỉnh!

Xin gửi các Đồng chí lời chào trân trọng.

Hết

Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Hà Nội, Võng Thị, ngày 12-10-2020

(Đã gửi cùng ngày, được xem lại và bổ khuyết ngày 18-10-2020)

[1] Tham khảo thêm thư của cố lão thành cách mạng Chu Đình Xương 03-1982 về cải cách ruộng đất – http://vanviet.info/tu-lieu/thu-cua-ng-chu-dnh-xuong-gui-cho-ban-chap-hnh-trung-uong-dang-cong-san-viet-nam/

[2] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Lũ”, NXB Tre Xanh, USA, 2015, tập hai, chương 26, tr. 362… http://nguyentrung-vt.blogspot.com/search/label/A1%20%22L%C5%A9%22%20-%20Final%20Draft%20April%202015

[3] Sự thật có ý nghĩa quan trọng tới mức có thể nói ĐCS Liên Xô đã ra đời với tờ báo chiến đấu của mình là SỰ THẬT (PRAVDA). Tiếc rằng sư tha hóa của Liên Xô cuối cùng đã chôn vùi tờ báo này về cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Những người cộng sản Nga hôm nay đang tìm cách cứu lại tính chiến đấu cho PRAVDA. ĐCSVN có nhà xuất bản SỰ THẬT, nhưng thành quả thật nghèo nàn!

[4] Khẩu hiệu có ý nghĩa quyết định của Việt Minh đưa ra làm nên thành công cho Cách mạng Tháng Tám là “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”.

[5] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Dòng đời”, NXB Văn Nghệ, TPHCM – 2006, quyển hai, tập IV, chương 30, tr. 857 – http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/index.htm

Nguồn: http://viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_KienNghi181020.html