Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2018

Bàn thêm về công nghệ của GS Hồ Ngọc Đại và sách Tiếng Việt 1



Buồn thay, trong cơn hỗn loạn của dòng chảy dư luận, không ít các GS TS, các học giả, những nhà nghiên cứu và tệ hại hơn, các nhà quản lý giáo dục cũng bị cuốn vào trào lưu chửi bới vô tiền khoáng hậu này.

Buồn hơn nữa là trong lúc các bà quét rác, ông thợ xây thi nhau ném đá vào CNGD, còn các nhà khoa học, các “sản phẩm” lừng danh của CNGD và những người trực tiếp giảng dạy CNGD, Những nhà quản lý GD tử tế, thấy được những cái hay, vượt trội hay những hạn chế của CNGD so với chương trình chính thống hiện hành cũng có vẻ rụt rè, không lên tiếng.

Bàn thêm về công nghệ của GS Hồ Ngọc Đại và sách Tiếng Việt 1

Tác giả: Phùng Hoài Ngọc (VNTB)

Trong suốt thời gian diễn ra các cuộc tranh cãi trên mạng về công nghệ giáo dục (CNGD của Hồ Ngọc Đại tôi theo dõi và chia sẻ những bài viết mà tôi cho là xác đáng, có căn cứ khoa học.

Buồn thay, trong cơn hỗn loạn của dòng chảy dư luận, không ít các GS TS, các học giả, những nhà nghiên cứu và tệ hại hơn, các nhà quản lý giáo dục cũng bị cuốn vào trào lưu chửi bới vô tiền khoáng hậu này.

Buồn hơn nữa là trong lúc các bà quét rác, ông thợ xây thi nhau ném đá vào CNGD, còn các nhà khoa học, các “sản phẩm” lừng danh của CNGD và những người trực tiếp giảng dạy CNGD, Những nhà quản lý GD tử tế, thấy được những cái hay, vượt trội hay những hạn chế của CNGD so với chương trình chính thống hiện hành cũng có vẻ rụt rè, không lên tiếng.

Sau khi quan sát theo dõi những gì diễn ra, xin có một vài ý kiến sau đây:

Hồ Ngọc Đại làm tiến sĩ tại Trường đại học tổng hợp Moskva mang tên Lomonosov, trường đại học lớn nhất Liên Xô cũ. Khi ấy, nghiên cứu sinh Hồ Ngọc Đại rất tâm huyết, hăng say nói về một mơ ước, một dự án giáo dục sẽ thực hiện ở VN. Phương pháp giáo dục đó là dạy và phát huy tối đa năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của trẻ em, là niềm tin mãnh liệt rằng trẻ em thông minh hơn những gì chúng ta các bậc người lớn thường nghĩ về chúng. Ông nói không thể chịu được khi thấy trẻ em bị đào tạo như những con vẹt, sau này chỉ có thể trở thành những nô bộc tư tưởng.

Thật ra, dự án giáo dục này không phải ý tưởng, chương trình của ông Đại, mà của thầy ông, một GS cấp tiến ở Lomonosov, khi đó đang được đưa vào thí nghiệm ở cấp tiểu học tại Liên Xô. Thấy học trò của mình quá thích chương trình này, mong muốn đưa về thực hiện ở đất nước mình, ông thầy đã đồng ý chuyển giao miễn phí. Khi về Việt Nam, nếu tiến sĩ Đại không phải con rể ông Lê Duẩn và cái mác tiến sĩ xuất sắc Liên Xô, chắc chắn trường thực nghiệm Giảng Võ không bao giờ ra đời được để cho một người làm chủ. Sau mấy chục năm trôi qua, ông Đại nay cũng đã bát thập có dư, không hiểu các truyền nhân của ông sẽ tính sao với chương trình công nghệ này.

Có vẻ như mọi chuyện vẫn ổn như 40 năm qua, nếu không bất thình lình tóe ra một làn sóng chống lại chương trình giáo dục này, trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa một bên là những người phản đối kịch liệt thậm chí kèm theo những lời lẽ thóa mạ, chửi bới vô văn hóa và một bên là những trí thức, các nhà văn hóa có tâm thực sự đối với giáo dục nước nhà đã cho ra những bài viết có cơ sở, luận cứ khoa học về chương trình giáo dục của HNĐ.

Tuy nhiên, khi đăng đàn trả lời nhà báo, GS Đại có vẻ khoa trương cường điệu cái CNGD của mình quá mức cần thiết. Ông nói “Trong lịch sử Việt Nam chưa từng có thế hệ trẻ như lớp người thế kỷ 21 này”. Ai đã từng học triết học duy vật, tối thiểu là triết cổ đại của Heraclite (535 – 475 tr.CN) về mệnh đề “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”hẳn sẽ thấy đó là một phát ngôn huề vốn. Ông lại nói “theo CNGD của ông, phụ huynh không dạy được con cháu” và đặc biệt ông say sưa “CNGD sẽ khiến cho trẻ em là, trở thành chính nó”. Rồi là “cá nhân là tế bào của xã hội chứ không phải gia đình”… Nhìn chung khi thuyết minh về CNGD có vẻ ông hơi lạc đề và cực đoan với những lý luận quá cũ và xáo. Hóa ra lời thuyết minh không thích hợp với công trình CNGD đã làm hại ông. Bởi tuồng như là ông thách thức chọc tức cả thiên hạ. Có lẽ tuổi già đã hại ông.

Cốt lõi CNGD – cũ người mới ta

Thầy ông, GS. Davydov, một trí thức Liên xô cấp tiến chịu khó nhìn sang phương Tây. Ông ta biết rõ cuộc cách mạng Phục Hưng với tiêu chí giải phóng cá nhân con người, đề cao sự độc lập của cá nhân đã hơn 500 năm qua.. Giáo sư đã truyền lửa cho học trò Hồ Ngọc Đại…(Thực ra khi ông Đại còn học ở Liên Xô thì lứa tuổi chúng tôi trong nước học sư phạm cũng được học những nguyên tắc giáo dục như “phát huy tính tích cực chủ động của học sinh”, “lấy người học làm trung tâm”. Tương tự những gì ông học ở Liên Xô).

Tuy nhiên, trong chế độ XHCN, chuyện nói một đằng làm một nẻo là chuyện thường ngày. Hoặc là tình trạng tiền hậu bất nhất. Sư phạm dạy nguyên tắc như thế, nhưng ra trường, dạy học lại rơi vào giáo điều, áp đặt như một quán tính cuả chế độ. Học sinh thi cử mà làm sai với đáp án của thầy thì điểm kém ngay.

Hệ thống giáo dục thực nghiệm của tiểu học Liên Xô cũng vấp phải sự kháng cự của những kẻ trung thành ý thức hệ. Điều này tương tự xảy ra khi trường tiểu học CNGD của ông Đại hoạt động ở Hà Nội.

Và tình trạng Bộ GD “đẽo cày giữa đường” vẫn diễn ra.

Khi các luật sư bắt bẻ về Luật giáp dục “nước ta chỉ có một bộ sách giáo khoa phổ thông” thì ông Đại không còn kiêng kỵ gì nữa. Ông tung hê ra “chính cựu bộ trưởng Phạm Vũ Luận và thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển ủng hộ ông “lách luật” bằng cách đặt tên chương trình sách là “thực nghiệm” ! Cổ nhân nói “Ông già bảy chục tuổi chửi vua cũng không bị chém”, huống chi ông Đại đã tám ba. Chỉ kẹt cho hai ông cựu bộ- thứ trưởng Luận và Hiển bây giờ mang tội “lách luật” qua mặt quốc hội. Cơ mà hai ông này cũng nghỉ hưu và lãnh đủ các huân chương huy chương rồi, chả lẽ quốc hội lại hỏi tội và truy đòi ?

Cũng không thể nói ông Đại và cộng sự không có lỗi trong chuyện này. Tôi rất ngạc nhiên vì sao một chương trình thực nghiệm kéo dài đến 40 năm mà không có tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm hoặc áp dụng đại trà ?

Cần nói thêm về bộ sách Tiếng Việt 1

Ông Hồ Ngọc Đại là nhà tâm lý giáo dục học, chẳng phải ngôn ngữ học. Bộ sách tiếng Việt 1 là của cộng sự đứng dưới tên ông chủ biên. Có lẽ, ông Đại thấy nó “mới mẻ” nên thêm một “cái mới” cho phương pháp của ông thì cũng hay chứ sao.

Sách TV 1 đề ra cách đánh vần mới và cách đọc khác hẳn truyền thống.

Thực ra đánh vần chỉ là giai đọan đầu học chữ, tập viết của lớp 1, 2. Khi đã đọc thông viết thạo chẳng ai cần phải nhớ việc đánh vần làm gì. Phụ huynh mới kêu trời là trẻ con nó đánh vần như thế thì bố nó cũng chẳng hiểu.(Một ông bố miền Tây trong cái clip nọ giận dữ chửi bới, chê con nhỏ rằng chỉ qua những cái ô trống vuông tròn tam giác vô hồn mà đọc thành tiếng. Mà chẳng phải chỉ có ông bố miền Tây Nam bộ đâu nhé, khắp cả nước đấy). Mặt khác việc đánh vần nếu muốn thì có thể dùng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ban đầu, không học vần cũng được.

Đánh vần tiếng Việt có vài cách, cách nào cũng phải nói được tiếng Việt cho người nghe hiểu, viết sao cho người khác đọc được. Đường nào cũng đến La Mã thôi.

Sách Tiếng Việt 1 lại sai vài lỗi chính tả, có lẽ chỉ do in ấn, như “con dơi” (con sinh vật) lại viết là “con rơi” (trẻ em không có bố, con hoang). Lỗi chính tả không hiếm lạ, ai cũng có thể mắc khi sơ ý, vội vã, nhưng là sách giáo khoa thì bị “soi” là phải. Lại có truyện ngụ ngôn “Vẽ gì khó” đưa làm bài học, không ghi nguồn dẫn là truyện gốc Trung Quốc. Lại nữa, sách TV 1 của ông Đại bán đắt gấp ba lần sách đại trà.

Mấy chuyện sai lẻ tẻ đã bị thổi phồng thành to tát và chỉ trích gay gắt.

Buồn cười nhất là ông phó thủ tướng Vũ Đức Đam chiều nay đăng đàn nói “chính phủ không có kế hoạch cải cách tiếng Việt trong những năm tới”. Ông nói để dẹp yên dư luận, tuy nhiên lộ ra cái vớ vẩn là: tiếng Việt là sản phẩm của dân tộc tạo ra sau cả nghìn năm, chả ai cải tiến được cả. Người ta chỉ đang tranh cãi về chữ viết và đánh vần thôi, tiếng Việt vẫn cứ nguyên vẹn như thế và hàng ngày nó được bổ sung, thay thế, loại trừ theo năm tháng. Không có mệnh lệnh hành chính hay cá nhân xuất chúng nào sai khiến được tiếng nói dân tộc. Đảng và Chính phủ của ông cũng chả can thiệp được gì.

Hơn nữa, chương trình thực nghiệm cũng mới chỉ ở bậc tiểu học và dừng ở đó suốt từ 1978 đến nay. Phải có một tổng kết xem từ sự cải cách mang tính cách mạng như thế, sau lại chuyển đối tượng của mình lên cấp phổ thông trung học đại trà với đầy rãy những khiếm khuyết, thì cái gì đã và đang xảy ra ? Các học sinh tiểu học thực nghiệm lại hòa nhập vào học sinh phổ thông đại trà không thực nghiệm? Đám đa số đại trà đương nhiên lấn át cuốn hút bọn thiểu số phải theo. Thực nghiệm tiểu học trở thành công cốc.

Bên cạnh đó, như đã nói ở trên, chương trình CNGD vốn không phải là đứa con ruột của ông Đại. Chưa có bài tổng kết nào nói tới việc chương trình dành cho trẻ em Nga này đã được “Việt Nam hóa” ra sao cho phù hợp với trẻ em Việt Nam ? Làm sao cho móc nối được tiểu học thực nghiệm với hai cái toa tầu trung học cấp 2 và 3 nặng nề phía trước để cả đoàn tầu GD tiến lên ? Chưa và chưa! Và đây chính là nhiệm vụ còn lại của Bộ Giáo dục, ông Đại cùng các cộng sự. (ý kiến TS Đào Tuấn )

Chúng ta hi vọng vào những trí thức chân chính, vì hiểu rằng trong chiến trận những người lính trinh sát là những kẻ dũng cảm, liều chết nhất và than ôi, mười kẻ đi, may ra có một người sống sót trở về. Trong văn chương và trong giáo dục cũng y như vậy.

Và hậu quả của cơn bão dư luận là ngành giáo dục TP HCM, Đà Nẵng, Phú Yên và một số địa phương khác đang hò nhau tẩy chay CNGD.

Phương pháp công nghệ giáo dục

Có thể nói, quan điểm chính của CNGD là “lấy người học làm trung tâm”, “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” là tiến bộ. Có nhiều hướng giải quyết nhưng đều đi tới mục tiêu chung là biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Ở các địa phương sử dụng CNGD đều thu được coi là có kết quả tốt. Sơ bộ cho thấy HS vùng dân tộc thiểu số tiếp cận với Tiếng Việt nhanh, chính xác, hiệu quả. Các em cũng phát âm chuẩn, nhanh, đọc to, rõ hơn so với cách dạy theo sách giáo khoa hiện hành. HS ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ có thể giải quyết dứt điểm tật nói ngọng…

Tuy nhiên, những ngày gần đây, trên mạng xã hội người ta vùi dập CNGD của Hồ Ngọc Đại không thương tiếc. Chung quy lại cũng chỉ từ cách ghi phiên âm C, K, Q là “cờ” thay vì “xê”, “ka”, “quy” của sách tiếng Việt lớp 1 vì nó “lạ tai”.

Hồ Ngọc Đại đã mang mô hình GD của nước Nga về áp dụng tại Việt Nam và cả đời ông tận tâm, tận lực để học thuyết này phát triển.

CNGD được ra đời cách đây tròn 40 năm và số phận của nó thăng trầm qua từng thời lãnh đạo Bộ GD. Từ giai đoạn phát triển rực rỡ (áp dụng trên 43 tỉnh thành), đến năm 2000, khi Bộ GD&ĐT cho ra đời bộ sách giáo khoa mới, sử dụng thống nhất trên toàn quốc, CNGD của GS Hồ Ngọc Đại đành phải “lùi” về đại bản doanh của nó là Trường Thực nghiệm Giảng Võ Hà Nội.

Đến năm 2015, trước áp lực “Đổi mới giáo dục toàn diện” mà chưa biết đổi mới cái gì ? đổi mới từ đâu?…Bộ GD&ĐT đã tìm đến CNGD của Hồ Ngọc Đại. Theo GS Hồ Ngọc Đại, cái được lớn nhất của ông là triết lý GD của mình chính thức đi vào cuộc sống. Đó là khát vọng lớn nhất của ông, của một nhà khoa học đã từng từ chối chức thứ trưởng Bộ GD để đi dạy lớp 1.

Giữa lúc dư luận đang rất “nóng”, ngày 8/9, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam công bố ý kiến kết luận của hội đồng thẩm định tài liệu, “Căn cứ kết quả khảo sát, đánh giá của Bộ GD&ĐT hướng dẫn các sở GD&ĐT” triển khai tài liệu phù hợp điều kiện cụ thể của địa phương trên nguyên tắc tự nguyện của nhà trường trong năm học 2017-2018 và 2018-2019 và không mở rộng để giữ ổn định cho đến khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.

Bộ GD &ĐT cho rằng: “Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, khảo sát, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam đã đánh giá việc triển khai Tài liệu Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục ở các địa phương đạt được hiệu quả khả quan thông qua kết quả giáo dục học sinh, năng lực chuyên môn của giáo viên và đề xuất các giải pháp để tiếp tục sử dụng hiệu quả Tài liệu Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục”.

Vậy là Bộ GD&ĐT đã thay Thủ tướng, Quốc hội trả lời nội dung một số đơn từ của những người sốt ruột gửi lên.

Tuy nhiên, phần còn lại trong lòng của một nhà khoa học có lẽ là nỗi buồn da diết. Tại sao những tư tưởng “lạ”, sáng kiến “khùng” thường phải đi ngược chiều với quan điểm truyền thống? Tại sao đến thế kỷ XXI rồi, suốt ngày ra rả CMCN 4.0 mà tiếp nhận cái mới, cái khác biệt lại khó thế ?

Ghi chú: Cần phân biệt cách làm của GS Đại với PGS. Bùi Hiền.

Ông Bùi Hiền lại đòi cải cách chữ quốc ngữ, thay thế chữ cái và đánh vần khác hẳn. Vì ông Hiền nói hệ thống chữ Việt vô lý. Ông này đã bị Viện ngôn ngữ học chính thức bác bỏ rồi, không nhắc lại nữa.

TS Đào Tuấn bạn học cùng trường với Gs Đại vào trang web xem lịch sử phát triển của Trường Thực nghiệm Số 91 Moscow, nơi các giáo sư như Davydov, Elkonin cùng các cộng sự dày công vun đắp. Vào những năm 1975-1980, phòng thí nghiệm của V.V. Davydov cùng với các giáo viên trường Tiểu học 91 Moscow thực hiện kế hoạch đặt hàng của Bộ Giáo dục. Kết quả là vào cuối những năm 1970, một hệ thống giáo dục tiểu học mới hùng hậu đã ra đời. Lý thuyết và thực hành về hoạt động giáo dục của D.B. Elkonin và V.V. Davydov được coi là tài liệu thống trị ở tiểu học.

Vậy mà đến những năm 1980, V.V Davydov bị “lên thớt” xét xử. Năm 1982, vì lý do ý thức hệ, các hoạt động thực nghiệm ở trường 91 Moscow đã bị cấm. Mặc dù vậy, giáo viên của trường 91 tiếp tục làm việc trên các tài liệu thử nghiệm trong điều kiện bí mật. Một số nhà tâm lý học từ phòng thí nghiệm cũ của V.V. Davydov không thể tiến hành các thí nghiệm trong các lớp học, nhưng họ tiếp tục nghiên cứu các hoạt động giáo dục của mình tại các viện nghiên cứu.

Đến năm 1984, D.B El’konin qua đời, các môn đệ và những người theo ông dưới sự lãnh đạo của Boris Daniilovich đoàn kết bên nhau để tiếp tục sự nghiệp của THẦY: Học thuyết phát triển phương pháp giáo dục.

Tuy nhiên, đến những năm 1990, công cuộc cải tổ (Perestroika) khiến hệ thống GD phải lột xác và học thuyết phát triển phương pháp giáo dục của Davydov và Elkonin lại lên ngôi. Các trường tiểu học trên cả nước lại rầm rập theo học học thuyết của hai ông. Các trung tâm đào tạo GV theo hệ thống Davydov-Elkonin mọc lên như nấm, SGK của trường phái Davydov-Elkonin in nhanh như in báo…Trong bối cảnh ấy, trường 91 Moscow trở thành Trung tâm bồi dường nâng cao cho giáo viên Tiểu học.

Hệ thống GD D.B. Elkonin , V.V. Davydov chính thức được nhà nước công nhận vào năm 1996. Theo quyết định của Bộ Giáo dục và Khoa học Nga, hệ thống D.B. Elkonin – V.V. Davydova trở thành một trong ba hệ thống giáo dục tiểu học của Liên bang Nga.

Năm 1998, D.B. Elkonin (sau khi chết), V.V. Davydov và một số nhân viên của phòng thí nghiệm của ông đã được trao giải thưởng Tổng thống Nga cho việc tạo ra một hệ thống D.B. Elkonin – V.V. Davydov ở trường tiểu học. Năm 1999, Giải thưởng Chính phủ RF đã được trao cho G.N. Kudina, Z.N. Novlyanskaya (NCV của Viện Tâm lý học), N.E. Burstina và M.P. Romaneyeva (giáo viên của Trường 91 Moscow)….

Số phận “Học thuyết phát triển phương pháp giáo dục” của V.V Davydov và D.B Elkonin có cái kết có hậu, còn CNGD Hồ Ngọc Đại sẽ ra sao?

Năm nay, các tỉnh đang lục tục chia tay với CNGD, Bộ GD&ĐT đang chuẩn bị cho ra đời chương trình SGK mới.

Vậy thì lý gì lại chửi một nhà khoa học khi phương pháp của họ còn khiếm khuyết, chửi đến độ nghe và đọc xong không còn dám tin vào lòng nhân của người Việt. Họ đâu phải là Đấng toàn năng. Họ đưa ra chương trình, Bộ GD đồng ý họ mới thực hiện được.

Nếu triển khai rộng khi chưa có một đội ngũ giáo viên được huấn luyện cách dạy theo hướng này một cách bài bản thì bất cập. Vai trò của GS Đại là chưa đáp ứng đủ điều kiện căn bản đó. Phương pháp mới chưa đưa vào trường sư phạm.

Giáo dục là chuyện của toàn xã hội, gia đình và nhà trường. Tuy nhiên, giảng dạy phải là chuyện của nhà trường.

Vừa kêu ca về sự phải tham gia quá sâu vào việc học của con do những bất cập trong giáo dục nước nhà, phụ huynh vừa phẫn nộ vì không được tham gia vào đó do không nắm được phương pháp dạy mới là sự rất khó hiểu.

Bất cứ chương trình cải cách giáo dục nào, đều hướng đến mục đích làm cho việc giáo dục học sinh tốt hơn. Nhưng đây là lý thuyết, vì thực tế nhiều năm qua, những cải cách của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã làm lòng dân chán ngán về tính không hiệu quả và những thay đổi xoành xoạch của nó. Vì vậy dễ hiểu vì sao chương trình Công nghệ giáo dục của GS. Hồ Ngọc Đại bị phản ứng quyết liệt như vậy, không cần phân định đúng sai, thậm chí hình thành một phong trào a dua, nói theo. Đó là vì tâm lý người dân đã bị ức chế với những “cải cách” liên miên của Bộ Giáo dục. Chuyện này thì phải trách chính Bộ lúng túng gây ra bức xúc trong xã hội.

Cuối cùng, sự đa dạng các chương trình giáo dục sẽ mang lại nhiều lợi ích cho chính các em học sinh và phụ huynh. Phụ huynh nào còn phân vân có thể vẫn cho con theo học những trường không áp dụng công nghệ giáo dục của GS Đại, hoặc cho con học sách của nhóm Cánh Buồm. Giáo dục không được độc quyền. Tri thức không được độc quyền. Càng nhiều chương trình giáo dục thì người dân càng có nhiều sự lựa chọn. Nên duy trì nhiều chương trình giáo dục song song, không nên độc quyền một chương trình nào cả, điều đó cũng giúp cho việc triệt tiêu lợi ích nhóm. Dù cho đến nay vẫn chưa có 1 công trình khoa học nào thẩm định lại hiệu quả của các chương trình giáo dục. Đã đến lúc cần làm việc này để giúp cho người dân hiểu biết để mà lựa chọn chương trình giáo dục nào phù hợp với con em mình.

Thứ Năm, 13 tháng 9, 2018

Ai tham gia đường dây Đưa Tiền Gỡ Bài?






Ít nhất 6 nhà báo "có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan" được triệu tập đến phiên tòa xét xử vụ án bà Phạm Lê Hoàng Uyển đòi giám đốc một công ty khoản tiền 700 triệu đồng để gỡ loạt bài trên báo Phụ Nữ TPHCM. Tuy rằng bà Phạm Lê Hoàng Uyển có nhiều lời khai bất lợi cho bà NLYT, nhưng nữ nhà báo ấy đã nhanh chân chạy qua Mỹ hơn 1 năm nay. Rõ ràng, cách thức ứng phó và kỹ năng ra giá, cho thấy có một đường dây chuyên chạy gỡ bài bất lợi trên các báo! Bà Phạm Lê Hoàng Uyển là con gái của một cựu Tổng Biên tập, còn bà NLYT là cô ruột của một lãnh đạo báo chí đương nhiệm.

Về vụ “đưa tiền gỡ bài” bị bắt quả tang, Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều – Cần Thơ chuẩn bị xét xử Phạm Lê Hoàng Uyển ( Trưởng cơ quan đại diện phía Nam của báo Hòa Nhập Và Phát Triển) và Võ Hoàng Hà (40 tuổi, nguyên chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP Hóa chất khử trùng Châu Á) với tội danh “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đồng thời, nhiều nhà báo cũng phải nhận lệnh triệu tập đến phiên tòa với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong số này có một phó tổng biên tập kiêm trưởng văn phòng đại diện phía Nam của một tờ báo; hai phóng viên và một lãnh đạo ban nghiệp vụ của báo Phụ Nữ TP.HCM; phóng viên một số báo và một phó phòng nghiệp vụ thuộc Sở TT&TT TP.HCM.

Vụ án có thể tóm tắt như sau: Khi báo Phụ Nữ TPHCM đăng loạt bài điều tra bất lợi cho công ty do mình làm chủ, Võ Thành Long (tổng giám đốc) gọi điện thoại cho Phạm Lê Hoàng Uyển nhờ gỡ bài. Phạm Lê Hoàng Uyển gọi cho NLYT (Trưởng ban kinh tế báo Người Tiêu Dùng) để tìm phương án. Khi nghe NLYT báo giá 600 triệu đồng, Phạm Lê Hoàng Uyển đã nói lại với Võ Thành Long là 700 triệu đồng cộng với chi phí đi lại 30 triệu đồng.

Phạm Lê Hoàng Uyển yêu cầu đưa trước 350 triệu đồng và “dọa” nếu không đồng ý thì báo sẽ tiếp tục đăng bài. Để tránh bị phát hiện, Phạm Lê Hoàng Uyển nhờ Võ Hoàng Hà hợp thức hóa việc nhận tiền từ ông Võ Thành Long bằng hợp đồng mua bán cây kiểng. Ngày 6-8-2017, Võ Hoàng Hà lái ô tô cá nhân chở Phạm Lê Hoàng Uyển đến quán cà phê ở quận Ninh Kiều để nhận tiền thì bị bắt quả tang.

Tuy rằng Phạm Lê Hoàng Uyển có nhiều lời khai bất lợi cho NLYT, nhưng nữ nhà báo ấy đã nhanh chân chạy qua Mỹ hơn 1 năm nay. Rõ ràng, cách thức ứng phó và kỹ năng ra giá, cho thấy có một đường dây chuyên chạy gỡ bài trên các báo cho doanh nghiệp! Phạm Lê Hoàng Uyển là con gái của một cố Tổng Biên tập, còn NLYT là cô ruột của một lãnh đạo báo chí đương nhiệm.
PV

LẮNG ĐỌNG MỘT TRIẾT LÝ PHỒN SINH




(Nhân đọc tập thơ “Phồn sinh”-NXB HNV- 2018 của Đinh Sỹ Minh)


VƯƠNG TÂM


Mở đầu thay cho lời tựa tập sách, nhà thơ Đinh Sỹ Minh đã phần nào thể hiện sự kiêu bạc với cuộc đời:


“Va đập mãi cũng chỉ là viên gạch vỡ
Chèn vào mạch đời nỗi nhớ vu vơ”


Đó là một quá trình trải nghiệm của cuộc đời lang bạt, phong trần mà tác giả đã ngộ ra khi đã


“Đi qua nông sâu
Mới biết dòng nông nổi
Chạm cơn gió ngược chiều chợt thấy trống hoác trống hơ”.


Đó cũng chính là mạch chủ cảm xúc lôi cuốn người đọc từ những câu thơ đầu tiên của Đinh Sỹ Minh. Đây đó ta lại gặp những trạng thái dằn vặt, trăn trở với nỗi niềm ẩn giấu:


“Bước chân lang thang lạc trong cánh rừng già
Tìm mầm trổ dưới bàn chân rớm máu
Bao gai góc bao lá vàng rụng xuống
Trái tim ta khô hạn giữa cõi người”.


Từ đây kẻ lãng du ấy luôn luôn đi tìm mình, trở lại với mình, và đã tự họa rằng:
“Ta là ta và ta mãi ngờ ta
một mình làm nên cõi nhớ
thôi cứ mãi là người mặc nợ
phù dù ơi cứ bạc bèo”
(Tản mạn cuối năm).


Từ đó, Đinh Sỹ Minh đã tìm con đường riêng của mình trong triết lý sống và sáng tạo thơ ca.


Tiếp tục với sự dồn nén tâm trạng từ cái lồng “Nhốt đam mê” và tình yêu “Thăm thẳm bóng làng”, của những tập thơ trước, giờ đây với “Phồn sinh” của Đinh Sỹ Minh đã hình thành một chân dung thơ rõ nét. Tác giả bộc lộ một phương pháp nghệ thuật sáng tác đan xen giữa hiện thực và trừu tượng khá nhuần nhuyễn. Tập thơ có nhiều thi phẩm sinh động truyền cảm, đọng lại cho người đọc những mạch thơ huyền ảo thú vị. Tôi bị cuốn hút với những câu thơ


“Cứ giấu mãi trong chiều xơ xác gió.
Chút đam mê chín rụng giữa hoang vu”
(Đam mê)


Hoặc chính bài thơ “Sỏi”, dường như nó được phát triển từ ý tưởng “Va đập mãi cũng chỉ là viên gạch vỡ”; bài thơ đầy ắp triết lý nhân văn, thông qua thi ảnh ngỡ như khô khan:


“Lăn lóc trần gian, lang thang bãi chìm bãi nổi…
Gói lại xa xăm ẩn ức quặn sỏi”.


Tác giả đã tạo nên tứ thơ ngập tràn mơ mộng qua hình ảnh hòn sỏi. Bởi nó như cuộc đời. Nó như con người luôn luôn hy vọng trong những biến cố khắc nghiệt nhất của sự sống. Tác giả viết:


“… Chắt hết ước mơ không thoát khỏi xói mòn mưa lũ
Tin vào đất sẽ đơm hoa kết nụ
Chưa thôi mong ngày sỏi đá cũng phồn sinh”.


Cảm xúc huyền ảo được nhân lên khi tác giả viết:


“Định mệnh rồi, duyên nợ gả thời gian.
Phận sỏi mãi lăn tròn ẩn ức
Trên mỗi lối mòn, sớm mai thức dậy
Một tình yêu sỏi đá cũng dịu dàng”.


Đây là một bài thơ có sự khám phá mới của tác giả. Một tác phẩm được hình thành trong quá trình bươn trải đó đây, với các công trình xây dựng, mà nhà thơ đã chiêm nghiệm sáng tạo. Ắt hẳn người đọc sẽ yêu thương


“Những mảnh đời bé con ghép nhau nhịp thở
Nâng bàn chân hy vọng
Bước lên ta phận sỏi lát đường”
(Sỏi).


Đáng chú ý tác giả đã có nhiều bài thơ hay và xúc động viết về quê hương, về mẹ và những nơi mình đã đi qua. Trở về với cội nguồn của những ký ức của người con tha hương, nhà thơ Đinh Sỹ Minh như được chắp cánh bay bổng, trong những rung động chân thành nhưng cũng không kém phần trăn trở. Anh có nhiều khổ thơ gây ấn tượng qua mỗi trang thơ và thể hiện sự phối cảm giữa hiện thực và trừu tượng luôn luôn đan xen. Hình ảnh đôi khi sần sùi thô nhám nhưng lại được phủ một lớp men huyền ảo tạo nên hiệu quả bất ngờ. Đây đó người đọc có thể nghe như anh đang bộc bạch, cùng những suy tư, buồn vui, nhưng bao giờ cũng đọng lại những thi ảnh độc đáo. Nếu ở bài “Nhật ký Vinh”, người đọc có thể ngỡ rằng anh đang trò chuyện rằng:


“Bạn bảo Vinh nằm ngang
Em nói Vinh nằm dọc…”


thì ở khổ thơ cuối anh gây bất ngờ với những câu thơ:
“Vinh cởi áo sau trận mưa rào mùa hạ
Lấm lem câu ví “Giận rồi thương”
Sông Lam trắng trở mình, phía nào cũng chật
Hỏi dòng trôi. Trong đục mô hè?


. Người đọc bị dẫn dắt hết những ký ức này sang những nỗi niềm khác; có khi cay nghiệt, khổ đau, lại có khi nhớ nhung, nhói buốt. Không ít những thi phẩm để lại ấn tượng mới lạ như “Ngàn Hống”, “Giếng làng”, “Dòng sông tháng Tư”; hoặc độc đáo như “Đường làng”, “Hương Canh”, “Nhật ký Vinh”; hay như “Vu lan nhớ mẹ”, “Xanh đồng”, “Bến cũ”…Người đọc luôn tìm được những câu thơ lạ và có sự tìm tòi:


“Sông tuổi trẻ cạn lòng nhìn trời mây
Khát một cơn mưa lũ dốc đáy ngày hun hút
Làng nằm nghiêng mắc cạn một nốt trầm”
(Làng tháng Chạp);


hay như:
“Dọc những chiều vết cắt tha hương
Đường nhói lòng tôi những luống cày trần thế”
(Đường làng)


hoặc có khi tác giả thảng thốt trong nỗi cô đơn:
“Làng của ta ơi, xa lắc của ta ơi
Nơi chôn rau, giờ chỉ là kỷ niệm
Bạn bè, người thân ngày càng trống vắng
Ta hoang mang như kẻ lạc loài”
(Nhớ làng)


“Phồn sinh” để lại những suy tư ngổn ngang về con người. Nhìn ở góc độ nào, nhà thơ cũng rút ra được mầu sắc, cùng sự chuyển động bay bổng của cuộc sống. Đó là trách nhiệm công dân của thi nhân. Một con mắt nhìn đầy phản biện, nặng trĩu tâm trạng. Nhưng bao giờ cũng vậy, thơ ca là sự cứu rỗi của tâm hồn, nó vươn tới ánh sáng và một tương lai. Mơ mộng. Bao dung. Bởi vậy cho dù nhà thơ có lúc xốn xang:


“Ừ thì ta cứ yêu, dù hoa vàng bỡn cợt
Yêu say đắm để lọt qua cơn hoảng hốt
Bủa vây ta là một kiếp người”
(Tản mạn cuối năm)


hay lại có khi ứa đầy thất vọng:
“Qua thăng trầm giờ còn lại chia ly
Nắng cứ đốt, lòng ta thành khe cạn
Trơ tận đáy ngổn ngang đá sạn
Em yêu ơi vẫn là gió u mê”
(Nắng chiều)


nhưng cuối cùng nhà thơ vẫn trao gửi tâm cảm vào niềm tin và sự đam mê trong tâm hồn:
“Cuộc đời này vốn dĩ giấc chiêm bao
Sáng ngắm bình minh chiều bão nổi
Qua những thăng trầm thấy mình lớn dậy
Có hề chi dù sông rộng núi cao”
(Niềm tin).
Sức mạnh của sự sống đã vượt qua bão táp phong ba, triết lý về “kiếp người” không hẳn chỉ còn là nỗi đau, mà tác giả nhấn mạnh:


“Hạnh phúc ư, là sống ở trên đời
Ta tìm kim cương từ bụi cát
Ngóng mầm trổ giữa bao la trời đất
Ngẩng cao đầu bình thàn đón phong ba”
(Niềm tin).


Đó chính là mạch nguồn phát sáng trong tâm hồn từ triết lý sinh động từ hình ảnh hòn sỏi nhỏ nhoi. Nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên và ngang dọc cùng những trầm luân cuộc sống. Người đọc bị lôi cuốn khi nhà thơ viết:


“Tôi xin một chút nắng trời
Chút mây của gió, chút Người của tôi”
(Xin).


Và “Chút người” ấy tạo nên cái duyên thơ của Đinh Sỹ Minh, với


“Chông chênh đó, như là cơn gió
Đưa ta về tìm lại những dấu yêu”


“Phồn sinh” thêm một lần khẳng định thơ Đinh Sỹ Minh có giọng điệu riêng, trầm tĩnh, lắng đọng trong ý tưởng, cảm xúc dồn nén trong câu chữ và hình ảnh sáng tạo. Với sự trải nghiệm trong cuộc sống, cùng với trái tim đa cảm, nhà thơ đã biểu đạt bằng ngôn ngữ thơ qua những hình ảnh liên tưởng phong phú. “Phồn sinh” gợi mở một không gian mới cho một tương lai. Đó chính là sự tìm lại chính mình như tác giả đã gửi thông điệp tới bạn đọc:


“Năm tháng vo tròn thai nghén những mầm xanh”.







một tứ thơ đầy sự ám ảnh và huyền diệu, tiêu biểu cho tập thơ của Đinh Sỹ Minh.

Phụ âm kép gi, qu.




 

Chữ Việt có 7 phụ âm kép: ch, gi, ng, nh, qu, th, tr. Tôi không coi gh và ngh là phụ âm kép, mà chỉ coi gh là biến thể của g và ngh là biến thể của ng. H trong gh và ngh là h câm, không có công dụng thay đổi âm của g và ng. Theo ý tôi, bỏ h ra, âm g và ng không bị thay đổi, nhứt là ng.
Bảy phụ âm kép nầy chỉ kép về hình thức, tức do 2 chữ cái phụ âm ghép lại. Còn “nội dung”, phát âm của mỗi phụ âm kép chỉ cho ra một âm trơn, một tiếng, mà thôi.
Năm phụ âm kép ch, ng, nh, th, tr được cấu tạo cách bình thường, là ghép 2 phụ âm (trơn) vào nhau để tạo ra 1 phụ âm khác, phát ra tiếng khác với tất cả những phụ âm đã có. Và 5 phụ âm kép nầy không gây ra điều chi rắc rối cho người nghiên cứu chữ Việt.
Riêng 2 phụ âm kép gi, qu được cấu tạo cách khác lạ, là lấy 1 chữ cái phụ âm ghép với 1 chữ cái nguyên âm để tạo ra 1 phụ âm khác, phát ra tiếng khác với tất cả phụ âm đã có. Và 2 phụ âm kép nầy đã gây ra lắm điều nhiều chuyện trong việc nghiên cứu chữ Việt.
Theo tôi, chuyện gây rối lung tung là do cách nghiên cứu kỳ quặc của những nhà ngôn ngữ học tuân thủ theo ngành ngữ âm học được ứng dụng cho các thứ chữ Pháp và Anh. Người ta đưa ngữ âm học một cách cứng nhắc vào tiếng Việt, nên gây rối, không tìm ra được cách lý giải cho một số chữ có phụ âm kép gi và qu.
A.- Phụ âm kép gi.
Ở San Jose có một vị viết một bài với tên tựa “Chữ ‘Giê’ nầy sai”. Ông nầy quả quyết rằng hằng triệu (toàn dân) người Việt đều đã viết sai chữ “giê” trong chữ phiên âm “chó bẹc-giê”, “giê-rô”, phải viết là “chó bẹc-gê”, “gê-rô” mới trúng. Từ đó suy thêm, viết “giẻ” rách, “gien” di truyền cũng sai, phải viết “gẻ” rách, “gen” di truyền mới trúng.
Có lẽ từ vài chữ sau đây, giết, giêng, (láng) giềng, giếng (nước), ông thấy g phải có âm giơ mới đọc ra được g+iết, g+iêng, g+iềng, g+iếng, còn gi+ết, gi+êng, gi+ềng, gi+ếng… thì làm sao phát ra âm như mình muốn được.
Từ đó ông nầy cho rằng, đứng trước i, e, ê thì g = gi. Vậy thì chỉ 1 âm giơ mà biểu thị bằng 2 ký âm g và gi.
Trong một cơ hội hiếm hoi, tôi có được xấp bài thuyết giảng của Giáo sư Phạm Văn Hải, một đệ tử chân truyền của G/s Nguyễn Đình-Hoà và Học giả Lê Ngọc Trụ, tên tựa là “Hệ Thống Chữ Viết của Người Việt”. Đoạn viết về gi, Ông Phạm Văn Hải viết:
Trích: “- g, gi là 2 cách viết (hai biến thái) của một âm vị /gi/
g đứng trước các âm chính i, iê và ya. (Cái gì), (tháng) giêng, (chém) giết, (giặt) gỵa.” Hết trích
Vậy G/s Hải cũng cho rằng g có 2 cách phát âm, 1 là “gơ”, 1 là “giơ”. Chỉ khác ở chỗ ông Hải cho rằng g chỉ phát âm “giơ” trước i, iê, và ya mà thôi: gì, giết, giêng, gỵa. Còn trước e, ê thì vẫn phải dùng gi: Giê-su, giẻ…
Tôi không đồng tình phụ âm g có 2 âm khác nhau, 1 là “gơ”, 1 là “giơ” (âm gần giống với j, jơ, của Pháp). Tất cả mẫu âm của chữ Việt chỉ có một âm mà thôi (Trừ 2 trường hợp: 2 ký hiệu mẫu âm c và k có chung âm là “cơ”; và i có âm gần giống y) Ông Phạm Văn Hải dùng từ “mẫu âm” để chỉ nguyên âm, âm chánh. Còn tôi dùng từ “mẫu âm” để chỉ tất cả 39 âm căn bản, gồm chánh âm (nguyên âm & bán nguyên âm) và phụ âm.
Có người hỏi tôi, trong vài trường hợp, không dùng g = gi thì ông lý giải thế nào về mấy chữ: (chim) gi, (là) gì, (chém) giết, (tháng) giêng, giếng (nước)…
Tôi xin trình bày ý mọn của tôi, như sau:
1) Mỗi một mẫu âm chỉ có một cách phát âm mà thôi, không thể khi thì phát âm thế nầy, khi thì phát âm thế khác. 39 âm căn bản (mẫu âm) có 39 tiếng phát âm khác nhau. Không thể g phát âm “gơ”chỗ nầy, lại có khi g phát âm “giơ” chỗ khác. Làm vậy là làm rối loạn quốc ngữ, bắt học sinh phải nhớ những chuyện thật vô lý (một biểu thị có tới 2 lối phát âm, dù là tử âm, phụ âm)
2) Các từ gi, gì, giết, giêng, giếng… phân tích ra thấy gi+-, gi+-, gi+ết, gi+êng, gi+ếng, không thể phát âm ra gi, gì, giết, giêng, giếng… Tôi thấy các từ nầy nằm trong qui tắc sau đây:
“Trong một chữ quốc ngữ không có 2 nguyên âm giống nhau đứng liền nhau. Nếu có thì phải bỏ bớt một” Theo tôi, các chữ nêu trên đúng ra phải viết đủ như vầy: (chim) gii, (làm) giì, (chém) giiết, (tháng) giiêng, giiếng (nước). Chữ i trước là thành phần “kép” của phụ âm kép gi, còn i sau là thành phần của bán nguyên âm kép iê. Vậy mình đánh vần gi+i, gi+ì, gi+iết… (giơ+i, giơ+ì, giơ+iết…) thì sẽ ra đúng với tiếng mình muốn ghi lại. Tuân thủ qui tắc bỏ bớt một nguyên âm, nên các chữ đó thành ra những chữ giống như chúng ta thấy đang dùng hôm nay. Riêng chữ gỵa, theo tôi phải viết là giịa mới chỉnh. Bỏ 1 i thì còn gịa. Chữ nầy dễ lộn với chữ giạ, nên người xưa chế ra chữ gỵa. Thật ra quốc ngữ không có vần ya, mà chỉ có vần ia. Nhưng thỉnh thoảng mình cũng thấy vần ya, vì có qui tắc nầy “Vần ia, iu khi ráp với u hay vần xuôi có u phía trước thì i phải đổi thành y”:(canh) khuya, khuỷu tay, té khuỵu…
ya mà ráp với phụ âm phía trước thì chỉ có 1 chữ duy nhứt gỵa. Có lẽ người ta nghĩ y = ii, nên mới chế chữ như vậy. Nếu nghĩ như vậy mà được mọi người chấp thuận, thì viết gyết, gyêng thay cho giết, giêng cũng được.
3) Âm kép là âm được chế tạo thêm để có đủ âm căn bản cho hệ thống tạo chữ Việt. Nếu cắt rời một thành phần của âm kép, thì tức thời nó không còn là âm kép nữa. gi mà bị ngắt i ra, thì tức thời đâu còn là gi nữa, mà chỉ còn là g thôi, nghĩa là sẽ trở lại là âm “gơ” trơn thôi. Tôi gọi lối phân tách âm kép ra tới từng chữ cái là theo lối ngữ âm học áp dụng cho chữ Pháp và chữ Anh, áp dụng vào chữ Việt chỉ gây phức tạp, rối rắm mà thôi.
4) Nếu chúng ta chịu cải tiến chữ Việt bằng cách dùng j thay gi (làm gọn một phụ âm), thì không còn gì vướng mắc. Các chữ gây rắc rối được viết như vầy, (chim) ji, (là) jì, (chém) jiết, (tháng) jiêng, jiếng (nước)… thì đâu còn gì để tranh luận.
[Có người cho rằng âm của j không giống âm của gi. Nói như vậy là quên rằng ta chỉ mượn bộ chữ cái thôi. Còn âm thì ta toàn quyền sửa đổi ít nhiều để phù hợp trong việc ghi âm tiếng Việt. Âm Tr của Anh đâu giống âm Tr của ta. Âm G của Anh trước âm i, e đâu giống G của Pháp. Âm E của Anh (phát âm là i), của Pháp (phát âm là ơ), của ta (phát âm là e) đâu giống nhau]
B.- Phụ âm kép qu.
Gần như những nhà ngôn ngữ đều cho rằng c, k và q cùng âm, là /k/.
G/s Phạm Văn Hải viết, “c, k và q là 3 cách viết của một âm vị /k/”.
Ông Đỗ Việt Hùng (“Tiếng Việt Thực Hành”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Hà Nội, 1998) viết, “…-âm /k/ được biểu thị bằng 3 kí hiệu: C, K, Q”.
Tôi nhận định về chuyện nầy như sau:
1) Trong chữ Việt, âm c (cơ) có rất nhiều công dụng trong việc tạo chữ, vừa đứng được đầu chữ, vừa đứng được cuối chữ:
a) C đứng trước, ghép được với 6 nguyên âm a, o, ô, ơ, u, ư để tạo chữ vần xuôi: ca, co, cô, cơ, cu, cư.
b) C đướng sau ghép được với 11 chánh âm (gồm nguyên âm và bán nguyên âm) a, e, o, ô, u, ư, ă, â, iê, uô, ươ để tạo chữ vần ngược: ac, ec, oc, ôc, uc, ưc, ăc, âc, iêc, uôc, ươc.
c) C cũng được dùng ghép với h để tạo ra phụ âm kép Ch.
2) Trong chữ Việt, k có rất ít công dụng trong việc tạo chữ:
a) K chỉ đứng trước, ghép được với 4 nguyên âm e, ê, i và y để tạo chữ vần xuôi thôi: ke, kê, ki, ky.
b) K cũng được dùng ghép với h để tạo ra phụ âm kép Kh
c) K không có chức năng đứng cuối chữ.
Vậy, theo tôi, phải viết, “C và k cùng âm là /cơ/” hoặc viết “Âm /cơ/ được biểu thị bằng 2 ký hiệu c và k”. Sự thật, k chỉ là biến thể của c, chỉ thay thế c khi ghép với e, ê, i, và y mà thôi.
3) Còn q đứng một mình thì chưa được giao “trách nhiệm” giữ âm gì hết. Đứng một mình, qkhông ghép được với bất cứ chánh âm nào để tạo ra chữ, ra vần. Vậy làm sao coi q có âm giống c hay k được. Q phải được u ghép vào mới thành phụ âm kép qu, có âm là quơ (hoặc cu-ơ) Lúc bấy giờ qu mới có chức năng tạo chữ như các phụ âm khác. Cắt u trong qu ra để định âm q là gì là làm rối nghiên cứu mà thôi.
Vậy, theo tôi, qu không dính dáng với c và k. Cho q = c thì chữ “đi qua” sẽ có thể thành “đi cua” sao? Chữ “qui y” sẽ có thể thành “cui y”; “quì lạy” thành “cùi lạy” sao?
Kính xin quí vị “nhà ngôn ngữ” VN đừng đem ngữ âm học của Pháp & Anh áp dụng vào việc nghiên cứu chữ Việt, rồi phân tích chữ Việt tới từng đơn vị chữ cái, gặp chữ có phụ âm kép, hoặc chữ ráp vần, quí vị sẽ làm rối lung tung, mà không ích lợi gì.
Tôi coi các chữ “qua”, “qui”, “quý” là chữ vần xuôi, phụ âm ghép với nguyên âm, giống như các chữ “ta”, “ti”. “tý” hoặc như “nha”, “nhi”, “tha”, “thi”…
Tôi phân tích 3 chữ đó ra 2 phần , phụ âm + nguyên âm, như vầy:
Qua = qu+a, đánh vần quơ+a sẽ tự nhiên ra tiếng qua
Qui = qu+i, đánh vần quơ+i = qui
Quý = qu+ý, đánh vần quơ+ý = quý.
Đến các chữ ráp vần, có một vần rồi, đem vần đó ráp với qu, như các chữ sau đây: quắn, quang, quốc, quân, quính quáng… thì cũng phân tích thành phụ âm + với vần ngược để đánh vần như sau:
Quăn = qu+ăn, đánh vần là quơ+ăn sẽ đương nhiên ra tiếng quăn,
Quang = qu+ang, đánh vần là quơ+ang = quang,
Quốc = qu+ốc, đánh vần là quơ+ốc = quốc (chớ không ra cuốc được)
Quân = qu+ân, đánh vần là quơ+ân = quân (Người Nam phát âm ra quưng, sai)
Quính = qu+ính, đánh vần là quơ+ính = quính.
Quáng = qu+áng, đánh vần là quơ+áng = quáng…
Trong một bài góp ý thảo luận về “qui tắc đánh vần” trên Trang Nhà Viện Việt Học (viethoc.org) phần Diễn Đàn Tiếng Việt, tác giả Lily viết:
“- Phụ âm QUỜ được ghi lại bằng kí hiệu QU. Phụ âm này chỉ kết hợp với những vần khởi đầu bằng âm U và âm O. Khi viết, người ta lược bỏ chữ U hay chữ O của vần ấy đi. (Thí dụ: QU+ÚY = QUÝ; QU+ OANH = QUANH)”
Mọi phụ âm được ghép với nguyên âm thì tạo ra chữ vần xuôi, được ghép với vần ngược thì tạo ra chữ ráp vần: ma, tha, tu, lư, ngu, che, trê, thô, phê: tan, nhang, sông, thênh thang, mênh mông…
Lẽ nào phụ âm Qu lại ngoại lệ, “phải ráp với vần khởi đầu bằng O hoặc U?”. Chữ qua lẽ nào phải là quoa? Chữ quê lẽ nào phải là quuê? Chữ Quì lẽ nào phải là Quuì? Chữ Quang lẽ nào phải là quoang, chữ Quỳnh lẽ nào phải là Quuỳnh?
Không biết Bà/Cô Lily lấy đâu ra âm U và âm O bị bỏ ra từ chữ Quuý, Quoanh để hiện nay còn là Quý, Quanh.
Hai phụ âm kép gi và qu là 2 phụ âm gây nhiều tranh cãi rối rắm mà vô ích nhứt. Những tranh cãi nầy là do quí vị “nhà ngôn ngữ” tìm cách biện giải gi và qu cách rắc rối, rập theo khuôn “ngữ âm học” của các nhà ngôn ngữ Tây phương.
Mong rằng các nhà ngôn ngữ Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, nên coi lại, và tìm cách biện giải đơn giản mà thuyết phục mọi người, về 2 phụ âm gi và qu.
Kính,
Nguyễn Phước Đáng.

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2018

BẠN TÔI ( viết tặng Kim Thanh)



Mày là con gái
sao cứ rủ nhậu hoài
cớ chi mày phải đãi
bọn tao là con trai


Đất Sài Gòn mày phải cày
kiếm tiền chẳng dám xài
đợi về quê đãi bạn
còn mấy thằng con trai


Rượu uống hoài phải say
mà sao đêm vẫn dài
chuyện chúng mình thuở nhỏ
ai bảo mày nhớ dai


Thương mày là phận gái
uống say mai vẫn cày
đất Sài gòn oan trái
gửi nỗi buồn cho ai


Nếu một ngày tao không bắt máy
xin mày về cứ việc uống say
linh hồn tao vẫn còn ở lại
trong ly rượu bè bạn hôm nay

Học để thành tài hay để thành người?





Học để thành người. Làm người thì phải biết sống đúng với vai trò xã hội của mình và mẫu số chung trong tất cả diều kiện để sống đúng là tính trung thực.
“Phải để cho đứa trẻ là, hay trở thành chính bản thân nó”.- câu nói của Gs. Hồ Ngọc Đại đã gói gọn Công nghệ giáo dục mà ông đưa ra.
Đáng tiếc rất nhiều người vẫn chưa hiểu đúng câu nói của ông và tôi biết chắc những người chỉ trích ông chưa bao giờ dự một buổi dạy "trình diễn của Gs. Hồ Ngọc Đại.
" Hãy để cho đứa trẻ chính là bản thân của nó" - đó là TÍNH TRUNG THỰC.
Đáng buồn, một xã hội đang băng hoại bởi sự GiẢ DỐI do llối giáo dục mang tính "ÁP ĐẶT" tạo ra đang được thay đổi bởi lối giáo dục mang lại TÍNH TRUNG THỰC lại không được đồng thuận bởi chính tầng lớp được xem là TRÍ THỨC.

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2018

Người trí thức khác với người làm khoa học thuần túy ở chỗ nào?




Trong các tài liệu chính thức , người ta chỉ nói Trần Đại Nghĩa như một quan chức và cùng lắm thì gọi ông là nhà trí thức mang kiến thức chuyên môn phục vụ đất nước.
Còn với chúng tôi – tôi tin có nhiều người cũng nghĩ như tôi – qua bài nói chuyện này thấy ông là một trí thức thực thụ với nghĩa không chỉ bó hẹp trong chuyên môn của mình mà còn quan tâm và có ý kiến về những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và đó là những ý kiến đúng - những điều tiên tri.
Chỉ có một điều tôi để ý thì thấy những ý kiến loại này không bao giờ được ghi nhận trong các tài liệu chính thức về Trần Đại Nghĩa .
Người ta không bao giờ coi trọng những ý kiến này của ông.
Việc của người trí thức là thực hiện những điều cấp trên đã nghĩ, chứ không được bàn góp và nghĩ thay cấp trên, lại cũng không nên nói rộng ra các ý ấy với công chúng – chúng tôi được dạy bảo như vậy và thấy nguyên tắc này được áp dụng với cả công thần Trần Đại Nghĩa .
Giả sử như hôm ấy tôi không nghe ông nói chuyện thì chả bao giờ biết ông có ý ấy.
Trên con đường đi tới của mình, chúng tôi không được sự gợi mở của những người đi trước.
Tôi không muốn các bạn trẻ hơn lặp lại bi kịch của chúng tôi, nên đã tìm cách phổ biến lại những ý của Trần Đại Nghĩa và có bài dưới đây.

NHỮNG LỐI ĐOẠN TRƯỜNG

Thư viện quốc gia Hà Nội hàng tháng thường có những buổi nói chuyện về đủ loại vấn đề đang được dư luận quan tâm. Một ngày hè 1976, tôi có dịp được nghe một buổi nói chuyện loại đó mà diễn giả là kỹ sư Trần Đại Nghĩa. Đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, ông cũng như nhiều người nghĩ nhiều đến sự phát triển kinh tế, trong đó có việc học hỏi kinh nghiệm nước ngoài. Bấy giờ nước Nhật còn là cái gì xa xôi lắm. Trần Đại Nghĩa kể ở Tokyô, các kỹ sư đứng ở ngã tư, để nghe mọi người phát biểu về kinh tế, ai nói họ cũng ghi để tham khảo, ai nói hay họ còn trả tiền. Quay về mình ông bảo đừng ỷ vào tài nguyên mà phải dành nhiều quan tâm tới khâu quản lý, không quản lý tốt kinh tế không khác gì thùng không đáy. Đất nước được quản lý kém thì có độc lập cũng chỉ là độc lập hờ, độc lập giả. Nước mình lạ lắm, càng những ngành then chốt càng lạc hậu, ông nói tiếp. Về hướng phát triển ông gợi ý đủ chuyện từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn. Chuyện nhỏ ( đúng ra phải nói “có vẻ là nhỏ “ ) đào tạo công nhân lành nghề khó lắm, thợ hàn cao áp ở VN đào tạo 100 người chỉ đậu được 4 người. Chuyện lớn ( cái này thì lớn thật ) - phải hiện đại hóa về giao thông và thông tin. Phải tiêu chuẩn hóa mọi chuyện. Tiêu chuẩn hóa là công cụ để đạt tới hiệu lực, biến khó thành dễ. Một điều lạ nữa với bọn tôi là ở chỗ tuy làm khoa học kỹ thuật, nhưng Trần Đại Nghĩa lại xem trọng khoa học xã hội. Ông báo động là cả nước 50 triệu người mà gần như không có ai nghiên cứu tâm lý. Hiểu và xử lý đúng tâm lý xã hội tâm lý nhân dân không tốt, thì cũng quản lý kinh tế không tốt. Tổng quát hơn ông nói đến cái sự mình phải minh bạch với mình, rành mạch với mình. Bấy giờ là những năm tháng đầu tiên sau chiến tranh nên cái sự giấu giấu giếm giếm còn tạm tha thứ được. Song Trần Đại Nghĩa đã thấy đủ những tai hại mà cái lối “gì cũng coi là bí mật “ ấy gây ra. Theo Trần Đại Nghĩa, trong quản lý xã hội phải xác định bằng được số liệu chính xác. Vì đây là bước đầu để đi tới mình nắm được mình, tự xác định được vị trí của mình trên thế giới.
Lần giở lại những trang ghi chép được hôm ấy tôi thấy nó giống như một lời tiên tri. Bởi nó đúng quá, đúng cả với “thời gian lớn” là hơn ba chục năm nay, cả với “thời gian nhỏ” là khoảng dăm bảy năm nay. Cả cái cách nó bị quên lãng nữa chứ ! Và tôi thầm nghĩ sao lịch sử oái oăm vậy, những suy nghĩ đúng thì không được thực hiện, những cảnh báo đúng thì không được đề phòng, khiến cho đất nước cứ ì ạch mãi.

Vương Trí Nhàn

Chủ Nhật, 9 tháng 9, 2018

Nên dạy trẻ học chữ và học đánh vần thế nào?










Tính khoa học của cách đánh vần theo âm vị của Công nghệ giáo dục

Trong cuốn "Ngữ âm tiếng Việt", sách dạy ngữ âm hàng kinh điển gối đầu giường của nhiều thế hệ nhà ngôn ngữ học Việt Nam, GS Đoàn Thiện Thuật cho rằng chữ Quốc ngữ là thứ chữ ghi âm âm vị học nhưng "còn nhiều thiếu sót".

Kỳ thực, chữ Quốc ngữ là thứ chữ ghi âm tinh tế đến cấp độ âm tố. Trong thực tế lịch sử, tiếng Việt từng có đến 36 thanh mẫu và 206 vận mẫu trong vỏ bọc của hệ thống từ vựng Hán Việt ngữ, nhưng theo giải thuyết âm vị học phổ biến gần đây, Tiếng Việt chỉ còn 22 phụ âm và 126 vần thường dùng.

Chữ Quốc ngữ không đơn thuần là chữ ghi âm vị, những kết hợp phân bố của các biến thể âm gốc lưỡi được ghi bằng các ký tự "c","q", "qu" cần được nhìn nhận là các âm tố khác nhau mang đặc trưng khu biệt. Sách Tiếng Việt cải cách năm 2000 và sách Công nghệ giáo dục nêu quan điểm "c", "k", "q" đều là âm vị c/k là quan điểm không sai dưới góc nhìn âm vị học phương Tây, nhưng chưa phù hợp với thực tế tiếng Việt.

Giải pháp âm vị học này bỏ qua thực tế chữ Quốc ngữ không có chữ "q" đi một mình, chỉ có chữ "qu" đọc là "quờ" ghi âm cho các âm tiết có nguồn gốc từ thanh mẫu "quần", tức âm tố [ k], một biến thể tròn môi âm gốc lưỡi mà truyền thống cũ ta vẫn quen gọi là quờ, như vậy trong trường hợp này cách đánh vần truyền thống chính xác và khoa học hơn.

Trong thực tế, chữ Quốc ngữ có khá nhiều chữ ghép dùng để ghi âm các âm vị như "th" (thờ), "ch" (chờ), "tr" (trờ), "ph" (phờ), "qu" (quờ) cũng nằm trong hệ thống ký tự ghi âm tố/ âm vị tiếng Việt, không bao giờ đứng một mình cả. Giải thuyết "c", "k", "q" đều đọc là cờ/k đứng từ góc độ chữ viết hay góc độ ngữ âm đều chưa thực sự khoa học.



TS Nghiêm Thúy Hằng.



Sách Công nghệ giáo dục nhận định "c", "k", "q" đều là c /k dẫn đến nghịch lý "quả" đồng âm với "của", "qua" đồng âm với "cua", "cuốc" đồng âm với "quốc" trong khi thực tế tiếng Việt chưa chắc là như vậy, không dễ để giải thích với trẻ đâu là đỉnh vần, đâu là âm đệm, đâu là nguyên âm đôi, ngay cô giáo trong clip hướng dẫn cũng đã dạy sai kiến thức ngữ âm, trong chữ cua, vần của nó là nguyên âm đôi /u##/, không phải /ua/ như cô giáo dạy, không phù hợp với thực tế, làm méo mó tiếng Việt. Cách đánh vần như vậy của công nghệ giáo dục thiếu tính chính xác, chuyên nghiệp, chưa khoa học, người dân có lý khi không đồng thuận.

Theo quan niệm âm hệ học cổ điển của Trung Quốc thì Hán Việt ngữ có 36 tự mẫu đại diện cho 36 phụ âm chứ không chỉ có 22 phụ âm như quan điểm hiện đại, cụ thể đó là các thanh mẫu bang, bàng, tịnh, minh, đoan, thấu, định, nê, lai, tri, triệt, trừng, tinh, thanh, tùng, tâm, tà, trang, sơ, sùng, sinh, chương, xương, thuyền, thư, thường, nhật, kiến, khê, quần, nghi, ảnh, dương, hiểu, hạp, vân.

Các thanh mẫu này lấy phụ âm để biểu thị âm trị của phụ âm đầu, lấy phần vần trong tên thanh mẫu để thể hiện tính phân bố trong kết hợp với phần vần. Các phụ âm khi kết hợp với các vần khác nhau cho các phụ âm có các chùm đặc trưng khu biệt khác nhau, từ đó có các âm tố khác nhau. Ba anh em sinh ba "c", "k", "qu" dẫu có giống nhau thì họ vẫn cần có 3 cái tên, trong lịch sử nó không dùng chung một tên, nay cũng không nên nhập một hay gán cho nó âm trị giống nhau. Ngữ âm học của phương Tây đâu có đủ để khu biệt ngữ âm với hệ thống vần phong phú của tiếng Việt ta.

Tính hợp lý của chữ Quốc ngữ

Tiếng nói và chữ viết có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau như hai mặt của một ký hiệu, như cái áo quốc phục gắn với mỗi dân tộc, có chức năng nhận diện và thể hiện bề sâu văn hóa. Tiếng nói là thứ có trước, chữ viết là thứ có sau, "y phục xứng kỳ đức", chữ Quốc ngữ như cái áo trùm lên cơ thể người Việt, thể hiện từ diện mạo đến tâm hồn, trình độ văn hóa của người mặc.

Tiếng nói có thể mang tính địa phương, nhưng chữ Quốc ngữ dạy trong nhà trường thì phải là công cụ siêu phương ngữ, ghi được tiếng nói chung của cả dân tộc khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, làm cơ sở cho các cháu bé có thể giao tiếp thuận lợi, có năng lực ngôn ngữ đủ để tiếp thu nền giáo dục, trở thành những công dân ưu tú, chủ nhân của tương lai.

Chữ Quốc ngữ kỳ diệu ở chỗ tuy hệ thống phụ âm, nguyên âm và thanh điệu của nó giản tiện như nhiều hệ thống ngữ âm châu Á khác, nhưng nó lại thể hiện được hệ thống vần tiếng Việt cực kỳ đồ sộ, ghi âm thành công thứ tiếng "như tiếng chim hót", đồng thời ký âm được tất cả các phương ngữ tiếng Việt, thực sự trở thành một công cụ siêu phương ngữ ghi âm tiếng Việt toàn dân.

Tiếng Việt đã hình thành, phát triển từ rất lâu, mang cái áo chữ Hán trước khi nó được thiết kế mặc chiếc áo chữ Quốc ngữ, vì vậy cũng cần tôn trọng đặc tính lịch sử của nó. Dẫu mặc Tây phục thì từ dáng vẻ đến hồn cốt tiếng Việt vẫn là thuần Việt, cần tôn trọng truyền thống ghi âm đến cấp độ âm tố trong các sách vận thư, vận đồ sử dụng tại Việt Nam những thế kỷ trước, cách đánh vần truyền thống làm rất tốt điều này.

Cần phải khẳng định lại, chữ Quốc ngữ không có thiếu sót nào đáng kể, thực ra nó vô cùng kỳ diệu và hợp lý. Bằng việc thiết kế tỉ mỉ đến cấp độ âm tố với các thế phân bố rõ ràng, rành mạch, nó dễ nhớ, dễ học, giúp người Việt thoát nạn mù chữ, giúp tiếng Việt hoàn toàn thoát khỏi sự lệ thuộc vào việc phải mượn hình chữ Hán như tiếng Nhật, nó tạo ra nhiều âm tiết và khuôn vần cho phù hợp với thứ tiếng "như chim hót" và có nhiều sắc thái biểu cảm như tiếng Việt mà hệ thống âm vị vẫn không bị trở nên cồng kềnh, lại còn khéo léo thoát được khỏi vấn nạn đồng âm bủa vây tiếng Hán, tiếng Nhật.

Nên cám ơn nhiều thế hệ giáo sĩ phương Tây và người Việt vì điều kỳ diệu và cái áo rất vừa vặn này chứ không nên xoáy sâu vào "tính bất hợp lý " của nó, nên hiểu cái lý của nó và giải thích cho các thầy cô nắm được, điều chỉnh khi dạy học trò và tìm cách dạy dễ hiểu nhất có lẽ sẽ hơn.

Đừng biến tiếng Việt thành "hàn lâm học vụ", trẻ em thành nhà ngữ âm học

Nên tách việc dạy chữ và dạy đánh vần như kinh nghiệm dạy lớp vỡ lòng truyền thống năm xưa, không nên biến việc học của trẻ em thành "hàn lâm học vụ" như sách Công nghệ giáo dục hiện hành.

Việc dạy chữ nên dạy tại lớp mẫu giáo 5 tuổi, dạy các nét cơ bản, mỗi nét kèm theo tên gọi, mỗi nét nên cho các cháu viết 1 trang, các chữ cái mỗi chữ viết 1 trang. Lứa tuổi mẫu giáo tô chữ là phù hợp, theo nghiên cứu bất cứ cái gì, kể cả đồ hình mà có tên gọi, lặp đi lặp lại 7 lần tái hiện trong bộ nhớ thì sẽ được nạp vào bộ nhớ vĩnh viễn.

Việc dạy đánh vần nên tuân thủ mô hình cấu trúc 2 bậc của âm tiết tiếng Việt, việc ghép vần theo chữ bao nhiêu thế hệ người Việt vẫn đang học, tiếp thu một cách dễ dàng thì chả có lý do gì phải thay đổi. Biến trẻ em thành các nhà ngữ âm học bất đắc dĩ, rồi thì bắt chúng nhắc đi nhắc lại những câu vô nghĩa như những đứa loạn thần kinh, đi phân tích những câu thơ thành những âm tiết vô hồn, băm nát tâm hồn trẻ nhỏ, bắt chúng đọc như cái máy chính là tội ác.

Còn nhớ, sách học vần thập kỷ 70 thế hệ chúng tôi học cực kỳ dễ dàng, rất mỏng chứ không dầy cộp rồi phân tận 2 tập như bây giờ, không phải học trước ở nhà, về nhà cũng không bao giờ phải giở sách ra học. Thế mà cho đến hơn 40 năm sau tôi vẫn nhớ những bài kinh điển: "con mèo kêu "meo, meo", con dê kêu "be be", "sếu bay", "kéo dây".

Đến giờ tôi vẫn nhớ những câu thơ rất đẹp như: "Mẹ ơi tại sao/ Hoa hồng lại khóc/ Không phải đâu con/ Đấy là hạt ngọc/ Người gọi là sương/ Sao đêm gửi xuống/ Tặng cô hoa hồng". Tôi cũng nhớ mẹ tôi dạy những câu kinh điển từ thời của mẹ như: "i tờ tờ i ti", tôi không biết chữ, tôi đi lội bùn; "o tròn như quả trứng gà, ô thời đội mũ, ơ thời thêm râu".

Giáo dục cần ổn định kế thừa , "gạn đục, khơi trong" hơn là "đập cũ, xây mới", nếu xây mới cũng cần hiện đại, chính xác, không nên nửa vời, tây không ra tây, ta chẳng ra ta. Nhiều người lấy cớ cần cải cách vì học sách 2000, nhiều cháu bị tái mù chữ hoặc viết sai chính tả, xin thưa, nếu viết sai chính tả thì tại sách cải cách năm 2000 chứ không phải tại cách ghép vần theo chữ có vấn đề. Cùng với thời gian, có thể giải thích luật chính tả cho các cháu.

Trên thực tế sau giai đoạn ghép vần từng chữ quen rồi, các cháu sẽ tri nhận toàn bộ khuôn vần kèm theo thanh điệu cùng một lúc, việc phân tích cấu trúc âm tiết không có ý nghĩa nhiều, thậm chí còn cản trở tốc độ đọc, sau một thời gian các cháu hoàn toàn có thể học các khuôn chữ theo nguyên tắc loại suy. Điều cốt yếu là giữ cho các cháu bé hăm hở học, không sợ học, thích học và nhớ được những điều hay ý đẹp trong sách, biết thương yêu ông bà bố mẹ, bạn bè chứ không phải là đi học tư duy khoa học ở độ tuổi sớm như vậy.

Chuyện trao đổi quan điểm khoa học nếu ý kiến có khác nhau cũng chỉ là chuyện bình thường nên làm, nếu có thể xin các nhà khoa học và các nhà sư phạm tiếp tục góp ý, chỉ giáo vì lợi ích của các cháu bé, những tâm hồn ngây thơ trong sáng, những tờ giấy trắng chờ chúng ta gieo những con chữ đầu tiên, khuyến khích mở những cánh cửa ước vọng đầu tiên.

TS Nghiêm Thúy Hằng

GIẤC MƠ THỜI THỔ TẢ







Cả ngày trời âm u. Vừa sập tối, gió thổi ù ù, .Rồi mưa.Mưa như trút nước. Mọi âm thanh đều như tắt tịt bởi tiếng rầm rập của mưa dồn dập mái tôn.

Rồi chớp lạch, rồi sét đánh và điện cúp.

Nhà không có lấy cái áo mưa, bụng đói cũng không muốn bước ra ngoài . Cảm giác lạnh nhanh chóng đến. Trong cái bóng tối phũ chụp, tôi chỉ có thể trùm mềm kín đầu và cố dỗ giấc ngủ bằng cách niệm thầm câu : A men, cầu Chúa ban phước lành!

*

Tôi mở mắt thấy mình đang lơ lửng giữa bầu trời đầy sao lấp lánh, tuyệt đẹp. Sự thích thú chưa kịp trào ra, nỗi sợ hãi đã ập đến khi tôi nhận ra mình đang rơi. Nỗi sợ hãi càng lớn, tôi rơi càng nhanh. Phản xạ bản năng, đôi cánh tay tôi quạt lia quạt lịa. Bất ngờ, tôi thấy mình rơi chậm lại và vui mừng khi tôi thấy mình dần được nâng lên .

Thật là một điều kỳ diệu! Trên lưng tôi đã mọc ra đôi cánh trắng nuốt.

Đội ơn Đức chúa trời. Ngài đã ban cho tôi đôi cánh thiên thần!

Nỗi sợ hãi chấm dứt và tôi càng lúc càng khoan khoái với đôi cánh của mình. Tôi vỗ cánh và lượn bay .Chưa bao giờ cảm thấy được tự do và hạnh phúc như bây giờ. Đầu tôi lại nảy sinh ý nghĩ : Tại sao tôi không lượn vòng trên bầu trời thành phố nơi tôi sinh sống?

Đêm đã khuya. Khuya lắm. Đường phố vắng tanh, chỉ có những cây cột đèn tỏa sáng., thứ ánh sáng vàng nhợt, lạnh ngắt

Tôi vỗ cánh nhẹ nhàng lượn lờ trên các con đường.

Bất chợt, đâu đó vang lên âm thanh thảng thốt. Cái âm thanh chừng như rất quen thuộc của sự sợ hãi.Tôi vội vàng vỗ cánh lao đến nơi phát ra âm thanh đó.

Từ trên, tôi nhìn thấy khá rõ. Một người phụ nữ đang bị ba gã đàn ông vậy bọc.Một gã đang ôm chầm người phụ nữ, dùng sức mạnh ép cô ta vào vách tường.

Một vụ cưỡng hiếp chăng?

Có chút lưỡng lự nhưng tôi cũng bay đến gần hơn.Tôi nhận ra người phụ nữ là một cô gái ăn mặc hở hang, khá khêu gợi. Bốn gã đàn ông đều có gương mặt khá trẻ.

Mèo mã gà đồng đây mà!

Tôi quay mình vỗ cánh bay đi nhưng tôi thấy mình không nhúc nhích. Tôi quạt cánh mạnh hơn cũng không thể bay lên.

Đột nhiên, đôi cánh biến mất và tôi rơi xuống.

Tiếng rơi của tôi đủ làm mấy gã thanh niên chú ý. Khi nhận thấy tôi, hai gã vội vàng lao đến tôi với ánh sáng lấp lánh của những lưỡi dao.

Quá sợ hãi, tôi quay lưng bỏ chạy và cố kêu thét cầu cứu nhưng âm thanh cứ nghẹn lại nơi cuống họng.

Hay gã thanh niên càng đuổi càng gần. Tôi vừa chạy vừa quạt hai tay hy vọng có thể bay lên. Đúng lúc, hai gã thanh niên vừa bắt kịp , tôi vụt bay lên.

Tôi thở phào nhẹ nhỏm, vỗ cánh bay vút đi , vui mừng vì thoát khỏi nguy hiểm.

*

Tôi thức giấc bởi tiếng rên ư ử của chú chó con. Chung quanh vẫn là bóng tối. Bên ngoài vẫn mưa âm ỉ.

Mấy ngày sau, đọc tin trên tờ báo mạng : người ta phát hiện xác một cô gái lõa lồ nơi bãi rác thành phố.Tôi rùng mình, người co rúm.

Trời lại đổ mưa, lại sấm chớp, lại cúp điện.Tôi rúc mình nơi góc giường chẳng dám chợp mắt.















Nghệ Thuật Bonsai

Bonsai kết hợp nhuần nhuyễn cách trồng cây và sự am hiểu tính chất thiên nhiên của từng loại cây.
Những cái chậu cây nông cạn này rất cần thiết để không khí có thể luồn qua rễ cây. Đất phải xốp và tơi, dễ thóat nước để rễ cây mọc sợi nhuyễn hơn và không bị úng nước. Hằng năm, hay vài ba năm một lần, bonsai lại được thay qua cái chậu khác, rễ cây được xén bớt, thay đất mới. Dần dần, rễ cây mọc dày hơn giúp cho cây hút nước và chất dinh dưỡng dễ dàng hơn.
Rễ dầy khuyến khích tàng cây mọc rộng hơn, rễ nhuyễn hơn sẽ giúp lá cây mọc nhỏ hơn. Đến khi cây trưởng thành, bonsai sẽ trở nên hòa hợp, nó sẽ tin rằng nó là cái cây cao ba mươi feet (tương đương với mười mét) trong phong cảnh thiên nhiên. Từ đó, cách săn sóc bonsai sẽ chú trọng đến việc duy trì sự cân bằng rất tế nhị của năng lượng.
Theo Wikipedia, bon có nghĩa là cái mâm, cái khay, hay cái chậu thấp; sai có nghĩa là trồng cây. Bonsai hiểu đơn giản là trồng cây trong mâm trong chậu. Bây giờ người Mỹ dùng chữ bonsai cho loại cây kiểng, tuy nhỏ bé nhưng có hình dáng của cây to già. Bonsai phát xuất từ Trung quốc nhưng phát triển mạnh ở Nhật. Năm 970 có một nhà văn, Utsubo Monogatari, tuyên bố trong tác phẩm The Tale of the Hollow Tree, “cây mà để tự lớn lên thì không có gì gọi là tao nhã. Chỉ khi nào nó được con người chú ý uốn nắn, săn sóc thành ra hình này cảnh kia thì mới có thể làm xao động tâm hồn của con người.” Có lẽ từ đó người ta bắt đầu yêu mến môn trồng cây tốn sức tốn tiền này. Thật là nghề chơi cũng lắm công phu.