Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2018

Hầu chuyện Trần Xuân Bách




PHAN BA


Tôi đã đặt những câu hỏi với tư cách một nhà báo mong muốn tìm thấy lộ trình đi tới tự do dân chủ cho dân tộc. Rất tiếc vì nhiều lý do, ý kiến tâm huyết của anh, một nhà cách mạng, một trí thức lớn nhất của đảng Cộng sản Việt Nam mà tôi ghi chép nhiều buổi, đã không thể phổ biến đúng lúc. Lý do là vì nền “báo chí nói tiếng nói của Đảng” không cho phép, nhưng lý do chính mà tôi phải nhận là bởi sự hèn kém của mình. Phần hồi ức này, tôi xin ghi lại một số câu hỏi và giải đáp của anh không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà nó vẫn đang còn nguyên giá trị thời sự trong tình hình hiểm nghèo của đất nước trước họa ngoại xâm, và nội xâm, đang rất cần dân chủ hóa để tăng nội lực của dân tộc. Và đây cũng là món nợ ân tình đối với anh, nhiều năm nay lòng tôi luôn bứt rứt (theo Blog Phan Ba).
.




Cuối tháng 9 năm 1989, tôi từ Sài Gòn ra, vừa đến trụ sở báo Lao Động (51 Hàng Bồ, Hà Nội) thì cô Phạm Thị Châu, trưởng phòng hành chính đến gặp. Cô trao tấm danh thiếp của anh Trần Xuân Bách gửi cho tôi và háo hức kể: Xe đỗ trước cơ quan, bác ấy đi vào, nói “tôi xin gặp anh Tống Văn Công”. Em trả lời: “Thưa bác, anh Công về Sài Gòn. Hiện đang có mặt hai phó tổng biên tập là anh Huy Đan và Phạm Văn Nhàn. Bác có thể gặp anh nào ạ?” Bác ấy mở cặp lấy danh thiếp đưa cho em, nói: “Khi nào anh Công ra, đồng chí đưa giùm tôi nhé, nói là tôi đang đợi anh ấy gọi”.




Từ lâu tôi đã được ba người bạn có dịp gần gũi anh Trần Xuân Bách là nhà văn Nguyễn Khải gần anh khi còn làm báo quân khu 3 thời chống Pháp, dịch giả Lê Minh Đức gần anh ở ban Dân vận Trung ương và anh Đinh Gia Bảy ủy viên Ban Thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam từng làm việc dưới quyền của anh Bách lúc giúp bạn ở Campuchia, kể nhiều chuyện về anh Bách, “một người tài đức song toàn”. Tôi cũng được đọc nhiều bài viết của anh, rất hâm mộ, nhưng chưa có dịp gặp, không ngờ tôi lại được anh tìm! Trước khi vào Sài Gòn, tôi đã dự hội nghị nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (Khóa 6), nên cảm nhận việc anh Trần Xuân Bách đến tìm là điều quan trọng.


Xin nhắc lại một kết luận của Nghị quyết trung ương 7:


Về tình hình thế giới:


Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu nhất định, nhưng ở một số nước gặp khó khăn gay gắt, có nước chủ nghĩa xã hội đang đứng trước thách thức lớn. Lợi dụng tình hình khó khăn trên đây ở một số nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ mở cuộc phản kích quyết liệt vào chủ nghĩa xã hội, bằng những thủ đoạn rất xảo quyệt: Răn đe về quân sự; cổ vũ chủ nghĩa đa nguyên chính trị; dùng kinh tế khuyến khích việc cải cách theo hướng phát triển kinh tế tư nhân, thị trường tự do tư bản chủ nghĩa.


Tình hình trong nước:


Những khó khăn về kinh tế và xã hội đã và đang bắt đầu xuất hiện ở nước ta, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: các lực lượng bên ngoài đang tập trung đả kích, xuyên tạc Đảng ta không mạnh dạn cải cách chính trị, hạn chế dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tự do sáng tác, phê bình.


Trong bốn khuyết điểm dẫn đến tình hình trên, có:”Buông lỏng công tác tư tưởng, thiếu tinh thần chiến đấu chống những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, những hành động và lời nói sai trái.


Nghị quyết nhấn mạnh những nguyên tắc của chính sách: Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị.


Như vậy, anh Trần Xuân Bách đang là nhân vật có “vấn đề”!


Sau khi cô Châu rời khỏi phòng, tôi gọi điện ngay cho anh Trần Xuân Bách. Giọng anh rất vui: “Bảy giờ tối, tôi đợi anh nhé”. Tôi đáp: “Tôi muốn cùng anh Phạm Văn Nhàn phó tổng biên tập đến thăm anh?” Anh Bách rất vui vẻ: “Ồ, càng nhiều anh em càng vui”.


Tôi không muốn một mình đến anh Bách .Tôi kể chuyện này với phó tổng biên tập Phạm Văn Nhàn (hiện nay, anh Nhàn ở khu nhà tập thể báo Lao Động, quận Cầu Giấy). Anh Nhàn nói: “Anh ấy bảo càng nhiều anh em càng vui, vậy ta rủ thêm Lưu Văn Hân, vì Hân quen thân với bên vợ anh Bách”. Tôi gọi điện rủ, anh Hân rất vui vẻ nhận lời (anh Lưu Văn Hân lúc ấy là Vụ trưởng Vụ báo chí, Bộ Văn hóa Thông tin, anh Trần Hoàn là bộ trưởng).


Ba chúng tôi đến biệt thự của anh Bách trên đường Phan Đình Phùng bằng chiếc u-oat của báo Lao Động do tài xế cựu chiến binh Nguyễn Văn Tiến lái. Có vài người mặc thường phục đứng trên vỉa hè dòm ngó. Tôi bảo với người bảo vệ là chúng tôi được anh Bách hẹn. Anh bảo về gọi điện thoại vào nhà xin ý kiến. Tôi cứ tưởng anh Bách sẽ cho người giúp việc ra đón chúng tôi, không ngờ anh đích thân chạy ra cổng. Tôi nói “chúng tôi đến quá một người!” Anh Bách cười vui “cảm ơn các anh, tôi rất vui!” Anh đưa chúng tôi lên lầu. Chị Bách chờ sẵn, mời chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn kê sát tường. Chị pha cà phê, gọt táo và cùng ngồi với chồng tiếp khách. Thấy bên cạnh tấm lịch treo tường có kẹp bài thơ, ký tên Bách Xuân, tôi hỏi đùa: “Muốn xin anh bài thơ này đăng trang văn nghệ của báo?” Anh nhìn chị, cười đáp: “Thơ mình chỉ dành riêng cho một bạn đọc này thôi”. Có lẽ, chị Bách nghĩ rằng mấy ông khách thấy chị quá trẻ so với anh, nên đã vui vẻ kể: “Hồi em mới lấy anh ấy, các bạn cứ trêu, sau lấy ông chồng quá đát vậy? Em trả lời, nhưng tâm hồn anh ấy rất trẻ!” Sao mấy chuyện vui, tôi kể cho anh Bách nghe về lớp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 7 của cán bộ cốt cán toàn quốc trước đây hơn một tuần. Anh Bách nghe rất chăm chú.


Lớp nghiên cứu này do ông Đào Duy Tùng ủy viên Bộ Chính trị phụ trách khối tư tưởng văn hóa thuyết trình. Ông nghe phản ánh ý kiến học viên ở các tổ thảo luận, tổng kết đợt học và giải đáp thắc mắc. Sau khi nghe ông Tùng giảng ở hội trường, ban tổ chức lớp học chia học viên theo ngành công tác vào các tổ thảo luận. Tôi dự thảo luận ở tổ báo chí, gồm các tổng biên tập, báo chí, đài, nhà xuất bản ở trung ương (có lẽ các tổ viên ngày ấy chỉ mỗi nhà thơ Hữu Thỉnh còn có mặt trong nguồn máy hiện hành). Tổ trưởng hướng dẫn thảo luận là anh Thái Linh, phó trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (đến Đại hội 7, anh Thái Ninh là trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, anh Hữu Thọ phó trưởng ban thường trực). Khi thảo luận câu hỏi “Vì sao Đảng ta không chấp nhận đa nguyên chính trị”. Bùi Tín, phó tổng biên tập Báo Nhân Dân xin phát biểu. Bùi Tín cho biết, anh rất lúng túng khi bị nhiều đồng chí đảng viên các đảng bạn ở Phương Tây hỏi vì sao đảng Cộng sản Việt Nam lại không chấp nhận đa nguyên. Theo Bùi Tín, bản chất cuộc sống là đa nguyên, thực tế Việt Nam cũng đang có những yêu tố đa nguyên: bên cạnh đảng Cộng sản có đảng Dân Chủ, đảng Xã Hội; Mặt trận Tổ quốc gồm có nhiều tổ chức Nông dân, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ… mỗi giới có tờ báo nói tiếng nói của mình. Phải đa nguyên mới thực sự dân chủ. Anh Bùi Tín nói hơn 30 phút. Cả tổ im lặng lắng nghe. Tổ trưởng Thái Ninh ghi ghi chép chép, không tỏ ra sốt ruột. Không ngờ hôm sau, khi tổng kết và trả lời thắc mắc, ông Đào Duy Tùng đã gay gắt phê phán: “Thật đáng chê trách, tại hội nghị này, gồm những cán bộ tuyên huấn cốt cán của Đảng, lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ đa nguyên chính trị! Đồng chí đó không biết rằng, đa nguyên là luận điệu mị dân của các chính trị gia tư sản? Bọn chúng gồm những tập đoàn tài phiệt, cần có đa nguyên để cạnh tranh với nhau. Giai cấp công nhân có sứ mệnh độc quyền lãnh đạo cách mạng, chỉ cần liên minh chiến lược với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức cách mạng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện tập trung dân chủ, phải chống đa nguyên. Hôm nay đòi đa nguyên, rồi ngày mai sẽ đòi đa đảng, phải không?”


Anh Bách trầm ngâm, rồi nói: “chúng ta đã thực hiện đa nguyên kinh tế, vậy phải thực hiện đa nguyên chính trị, bước tới bằng hai chân mới cân bằng, không bị vấp váp”.


Hơn 10 giờ khuya, anh Bách tiễn chúng tôi ra tận cổng. Trước khi chia tay, tôi đề nghị: bất cứ lúc nào, anh rảnh, tôi xin mời anh đến nơi tôi ở, số 14 Trần Bình Trọng, đối diện với Bộ Công an. Tôi muốn được anh giải đáp cho một số câu hỏi. Và tôi gợi ý: Anh nên cho dừng xe ở Nguyễn Du, rồi đi bộ vào cổng, tôi sẽ đón bên trong. Kể ra cũng buồn cười, đón ông ủy viên Bộ Chính trị mà phải lén lút như quan hệ với kẻ gian! Hồi đó, tôi vẫn nghĩ nơi ở của mình kín đáo lắm, nên đã từng tiếp đón nhiều bạn bè có lý lịch mà phía an ninh coi là không được trong sáng như Nguyễn Kiến Giang, Lê Đạt, Dương Tường, Phạm Thị Hoài… mãi sau này, tôi mới biết là mọi việc xảy ra ở báo Lao Động đều có trong hồ sơ của cơ quan an ninh! Biết đâu chuyện tôi sắp kể ra đây cũng không phải là ngoại lệ!


Chỉ vài hôm sau, anh Bách hẹn đến, từ hôm đó tôi may mắn được hầu chuyện anh. Tôi đã đặt những câu hỏi với tư cách một nhà báo mong muốn tìm thấy lộ trình đi tới tự do dân chủ cho dân tộc. Rất tiếc vì nhiều lý do, ý kiến tâm huyết của anh, một nhà cách mạng, một trí thức lớn nhất của đảng Cộng sản Việt Nam mà tôi ghi chép nhiều buổi, đã không thể phổ biến đúng lúc. Lý do là vì nền “báo chí nói tiếng nói của Đảng” không cho phép, nhưng lý do chính mà tôi phải nhận là bởi sự hèn kém của mình. Phần hồi ức này, tôi xin ghi lại một số câu hỏi và giải đáp của anh không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà nó vẫn đang còn nguyên giá trị thời sự trong tình hình hiểm nghèo của đất nước trước họa ngoại xâm, và nội xâm, đang rất cần dân chủ hóa để tăng nội lực của dân tộc. Và đây cũng là món nợ ân tình đối với anh, nhiều năm nay lòng tôi luôn bứt rứt.


Hỏi: Tháng 6 năm 1988, Nghị quyết Trung ương 5 cho rằng khuyết điểm nghiêm trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng là “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nghị quyết cho rằng “mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật”, và phải “chống những mưu đồ lợi dụng dân chủ và công khai để chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân”. Đến tháng ba năm 1989, Nghị quyết Trung ương 6 nhắc lại phải “mở rộng dân chủ, dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật”. Tháng tám năm 1989, Nghị quyết Trung ương 7 kết luận: “Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị”.


Những kết luận nói trên, cho thấy “dân chủ” như một khái niệm rất mơ hồ, có thể thu hẹp lại, hoặc mở rộng ra. Nhưng mở rộng ra thì phải kèm với “tập trung”, với “kỷ luật”, nếu không thì sẽ xảy ra tình trạng vô chính phủ, hoặc bị bọn phản động có “mưu đồ lợi dụng dân chủ, công khai, chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân?”


Đáp: Dân chủ không hề có chỗ cho thứ tự vô chính phủ nảy nở. Chế độ dân chủ thiết lập trên cơ sở một bản hiến pháp được xây dựng từ ý chí tự do của nhân dân lựa chọn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Hiến pháp quy định thể thức bảo đảm tổng tuyển cử tự do, không phân biệt khuynh hướng chính trị, quy định cách thức hoạt động của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, bảo đảm các quyền tự do của con người và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu tuyên ngôn độc lập nước ta, đã nhắc lại tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, nói đến các quyền tự do của con người mà tạo hóa cho họ. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do ấy. Cho nên dân chủ là quyền lực của dân, với tư cách là con người tự do. Dân chủ không phải do lòng tốt của những người lãnh đạo muốn bạn ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở rộng, thấy bất tiện thì thu hẹp.


Đại hội 6 kết luận lấy “dân làm gốc”. Dân chủ sẽ khởi động trí tuệ toàn dân tộc, “gốc” sẽ ngày càng vững mạnh, ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm. Chế độ dân chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi dụng, bè phái. Chỉ có chế độ độc đoán, quan liêu, khép kín mới là rất tốt cho những kẻ xấu làm dụng quyền lực làm những điều phi pháp.


Hỏi: Chế độ dân chủ như vừa miêu tả ở trên có trái với “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà Nghị quyết Trung ương 7 kêu gọi xây dựng và phát huy?


Đáp: Chúng ta đã chọn mô hình giáo điều, lai ghép chủ nghĩa xã hội Stalin với chủ nghĩa xã hội Mao Trạch Đông. Liên Xô và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng bởi mô hình Stalin, vi phạm dân chủ, duy ý chí, quan liêu, đặc quyền, đặc lợi. Thế giới xã hội chủ nghĩa phải cải tổ, đổi mới, giải quyết những mâu thuẫn, phá vỡ cái cũ, đạt tới các tiêu chí của thời đại là: dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại. Xu thế chủ yếu là chuyển sang sở hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự.


Chúng ta đã đổi mới kinh tế, thực hiện sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường. Đã đến lúc phải đổi mới chính trị, dân chủ hóa xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà Marx và Engels đã đề ra trong tuyên ngôn Cộng sản: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.


Không đổi mới chính trị nhịp nhàng với đổi mới kinh tế thì đến một lúc nào đó sự phát triển kinh tế cũng sẽ bị chựng lại, bởi những rào cản quan liêu, tham nhũng, hạn chế sáng kiến. Đổi mới kinh tế là thực hiện đa nguyên kinh tế, kinh tế nhiều thành phần sẽ làm cho xã hội có sự phân tầng, mỗi giai tầng có quyền lợi, nguyện vọng khác nhau, từ đó nảy sinh đa nguyên chính trị. Đổi mới chính trị là từng bước chấp nhận đa nguyên chính trị song song với đa nguyên kinh tế, đúng như Marx, Engels: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của ấy”. (Lời tựa cho tuyên ngôn của đảng Cộng sản bản tiếng Đức, 28-6-1883).


Từ một xã hội khép kín, một quốc gia đóng cửa, chúng ta khởi xướng đổi mới, mở cửa, làm bạn với tất cả các nước. Vậy thì trong nước cũng phải là một xã hội mở, chấp nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhiều tiếng nói có quan điểm khác biệt đối thoại, thương thảo, quyết định thuộc về đa số, nhưng thiểu số được tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người và quyền công dân theo hiến pháp, không được ban hành luật lệ vi hiến để hạn chế các quyền ấy. Đảng lãnh đạo, cầm quyền, nhưng quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, đảng phải nằm trong chứ không nằm ngoài và không được đứng trên xã hội.


Hỏi: Chúng ta có sợ đa nguyên chính trị sẽ làm suy yếu đảng Cộng sản Việt Nam và cuối cùng là mất quyền lãnh đạo? Bởi vì chấp nhận đa nguyên chính trị thì phải thực hiện các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, từ đó xuất hiện đảng đối lập có cương lĩnh cạnh tranh với đảng Cộng sản?


Đáp: Đó chính là sự ngộ nhận của những ai có thói quen độc quyền chân lý, theo chủ nghĩa giáo điều. Xu thế thời đại là tự do, dân chủ. Cách mạng khoa học kĩ thuật, bùng nổ thông tin, giao lưu quốc tế làm cho xu thế đó chuyển động rất nhanh chóng và có tính dây chuyền. Không ai có thể bưng bít thông tin, ngoảnh mặt trước đòi hỏi của nhân dân, ngăn chặn sự vận động tất yếu của cuộc sống. Bản chất của cuộc sống là đa nguyên. Đổi mới chính là thuận theo bản chất cuộc sống xã hội vốn mang tính đa nguyên cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên kia đã nói, đang nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên xã hội, có nghĩa là thế nào? Đổi mới chính trị, trước hết Đảng phải tự đổi mới mình, phải trở thành đảng dân tộc, kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời đại. Đảng phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ từ trên xuống dưới, từ Bộ Chính trị trở đi.


Đảng không bao biện lấn sân làm thay nhà nước, không duy trì chế độ đảng trị, toàn trị. Nhà nước là công cụ của dân. Nhà nước quản lý theo luật và bằng chính sách chứ không làm thay doanh nghiệp. Kế hoạch nhà nước nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên thị trường. Ngược lại, nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không phải làm cho Đảng, cho nhà nước vững mạnh mà là tạo môi trường xã hội dung dưỡng độc đoán, lạm quyền, tham nhũng làm thoái hóa Đảng và mục ruỗng Nhà nước.


Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Trong hệ tư tưởng Đức, Marx và Engels cho rằng “hình thức thương mại, bởi lực lượng sản xuất đang có quyết định ở một giai đoạn lịch sử và trở lại quyết định lực lượng sản xuất, đó là xã hội dân sự” và “xã hội dân sự bao gồm toàn bộ thương mại vật chất của các cá nhân ở một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất”. Hai ông cho rằng, xã hội dân sự tồn tại ở mọi thời đại với tư cách tổ chức xã hội trực tiếp bắt nguồn từ sản xuất và thương mại, đồng thời tạo thành nền tảng của nhà nước và mọi kiến trúc thượng tầng tinh thần khác. Các chế độ độc tài, phát xít Hitler, Mussolini thực hiện chế độ toàn trị xóa bỏ xã hội dân sự đã bị thất bại. Mô hình xô viết Stalin cũng xóa bỏ xã hội dân sự là nguyên nhân đưa tới quan liêu hóa, khủng hoảng xã hội. Tình trạng đó chúng ta phải khắc phục. Nhiều năm qua các đoàn thể quần chúng đều bị chính trị hóa, hành chính hóa, không đại diện quyền lợi cho đoàn viên, hội viên, hạn chế sáng kiến của họ, quan trọng hơn là chỉ tiêu sự góp ý thẳng thắn của họ đối với đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước. Thực hiện quyền tự do lập các hội, đoàn, các câu lạc bộ, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân, tương ái, tự trang trải về tài chính, đó chẳng những đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng mà còn khôi phục xã hội dân sự, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, làm lành mạnh kinh tế thị trường.


Trong môi trường dân chủ, thượng tôn pháp luật, đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện để phát triển lành mạnh. Đảng Cộng sản Việt Nam có một quá trình lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khởi xướng đổi mới, nay lại mạnh mẽ tự đổi mới mình để trở thành đảng của dân tộc, không dùng quyền lực thay cho năng lực, trí tuệ. Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc. Liệu có đảng đối lập nào đưa ra cương lĩnh trái với lợi ích dân tộc mà giành được lòng dân đối với đảng Cộng sản? Chỉ có làm ngược lại, không chịu đổi mới chính trị, cố giữ thể chế độc quyền, trong khi xã hội đã chuyển sang đa nguyên về kinh tế, đa nguyên thành phần xã hội, tài nguyên tư tưởng, văn hóa thì như vậy không khác nào đặt bản trong tình thế của một cây cổ thụ đứng đơn độc trước bão tố!


Hỏi: Có nên duy trì các chỉ đạo báo chí của Ban Tư tưởng Văn hóa trung ương như hiện nay? Thực dân Pháp đã từng chấp nhận quyền tự do báo chí đối với nhân dân nước Việt Nam thuộc địa. Chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có hai lần thực hiện tự do báo chí, lần đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám cho đến toàn quốc kháng chiến, lần thứ hai sau 30 tháng tư 1975 với báo tư nhân Tin Sáng cho đến tháng 6 năm 1981. Cả hai lần ấy, báo chí tư nhân đều có những đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đổi mới chính trị, phải chăng đã đến lúc chuyển tự do báo chí tự quyền “tự do của tập thể” sang “quyền tự do của mỗi người” như Marx, Engels nói, như Nguyễn Ái Quốc đòi hỏi? Trong sách “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc viết: “Tôi gọi báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh tế thì văn học như chúng ta đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính quyền lập ra”. Tại sao chúng ta không thực hiện ước nguyện của Hồ Chí Minh từ năm 1919 về quyền tự do báo chí trong bản yêu sách gửi hội nghị Hòa Bình Versailles?


Đáp: Ngày 24 tháng 9 năm 1982, Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về các quyền dân sự và chính trị. Công ước này có quy định quyền tự do ngôn luận: mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp; được tự do ngôn luận bao gồm tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến bằng các hình thức tuyên truyền miệng, viết ra, in, tự do sáng tạo các hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.


Công ước đòi hỏi các quốc gia thành viên cam kết không hạn chế hoặc hủy bỏ những quyền tự do tính phổ biến của nhân loại đã được quy định ở đây. Nhà nước ta sẽ phải sớm sửa đổi luật báo chí, luật lập hội, thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội như các quốc gia dân chủ trên thế giới.


Cuối năm 1989 anh Trần Xuân Bách có bài phát biểu “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?” Nội dung bài ấy tương tự những điều anh trả lời trên đây. Nhiều người cho rằng anh Trần Xuân Bách chưa bao giờ nói đến “đa đảng”. Thật ra chấp nhận đa nguyên chính trị tức là chấp nhận sự có mặt của các tầng lớp, các nhóm có lợi ích khác nhau, có quan điểm chính trị khác nhau, cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh. Chấp nhận đa nguyên chính trị tức là đã chấp nhận đa đảng sẽ diễn ra ngày sau đó.


Dịp tết 1990, vài tháng trước khi bị kỷ luật ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng, anh Trần Xuân Bách có sáng tác bài thơ sau đây.


Bài thơ khai bút 1990


Ngày xuân nhớ cụ Tú Xương,
Cố nhân chính trực, đồng hương nghĩa tình.
Lẳng lặng mà nghe tiếng nói dân.
Lấy dân làm gốc phải nghe dân.
Trí khôn thiên hạ không hề thiếu.
Chỉ sợ người ngu thích kẻ đần.


Nhà thơ Hải Như đề nghị thay chữ “mình” cho chữ “người” ở câu cuối. Anh Bách tiếp thu nhưng bảo, lấy làm tiếc vì đã phổ biến cho nhiều bạn bè.


Chiều thứ 5, ngày 22 tháng 3 năm 1990, anh Bách gọi điện bảo tôi, 7 giờ tối đến nhà anh, có chuyện rất cần biết. Cả ba anh em, Lưu Văn Hân, Phạm Văn Nhàn và tôi cùng đến. Trên lề đường trước nhà anh có nhiều người mặc thường phục đứng trên vỉa hè săm soi số xe. Anh Bách vẫn ra tận cổng đón chúng tôi. Chị Thịnh vẫn vui vẻ pha cà phê, gọt táo mời bạn bè. Anh Bách kể chuyện Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khai mạc từ ngày 12-3. Anh đã bị phê phán rất dữ dội. Anh cho rằng, mình chắc chắn sẽ bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, thậm chí có ý kiến đòi khai trừ anh ra khỏi Đảng. Tôi tỏ ý băn khoăn, chẳng lẽ lại có thể xảy ra điều tồi tệ đến mức ấy, hoàn toàn trái với tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật của Đại hội 6? Anh Bách kể: “Một đồng chí trong Bộ Chính trị cho rằng, việc làm của đồng chí Trần Xuân Bách đã khiến cho đồng chí, bạn bè lo âu, còn kẻ thù thì vô cùng mừng rỡ”. Một người đã bị nhận xét tới mức đó thì làm sao có thể coi trong Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương?” Anh Bách cho biết nhận xét đó không phải là ý kiến cá biệt, quan trọng hơn, đó là quan điểm của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Chỉ có hai ủy viên bộ chính trị, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt cho rằng, từ quan điểm “lấy dân làm gốc”, anh Bách muốn công cuộc đổi mới phải “đi hai chân” để đất nước phát triển và đảng vững mạnh.


Hôm ấy, chia tay anh chị, chúng tôi buồn rười rượi, dù anh động viên: “Cho dù sắp tới sự nghiệp đổi mới có bị khó khăn hơn. Tuy nhiên cái gì thuộc về quy luật, xu thế thì nó vẫn cứ đi tới, dù có chậm”.


Ngày 27-3-1990 Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa 6, thông qua nghị quyết có những nội dung quan trọng như sau:


… Nghị quyết đã chỉ ra tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng các nước xã hội chủ nghĩa đối với nước ta, trước hết là về các mặt chính trị, tư tưởng: một số người hoài nghi chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng và nhà nước, một số cán bộ, đảng viên tiếp nhận những tư tưởng, quan điểm sai lầm về cải tổ, cải cách của nước ngoài một cách máy móc, giáo điều; một số ít phần tử cơ hội bất mãn đang đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng, đòi dân chủ không giới hạn.


Hội nghị nhận định: đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang còn nước ta là một trọng điểm chống phá, ráo riết thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và quân sự rất thâm độc. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa hai con đường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa ta và địch trên phạm vi thế giới, ở nước ta và ba nước Đông Dương đang diễn ra gay gắt, quyết liệt và phức tạp.


Việc Bộ Chính trị và ban bí thư tự phê bình và Trung ương góp ý kiến phê bình Bộ Chính trị, ban bí thư được tiến hành một cách nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, chân thành và thân ái, với tinh thần trách nhiệm và xây dựng, đã góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong trung ương.


Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa 6 đã quyết định cách chức ủy viên Bộ Chính trị, bí thư trung ương, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Bách vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu.”


Sau khi anh Bách bị cách chức, bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin nhận anh về làm cán bộ nghiên cứu của Bộ Ngoại giao. Nhưng lúc này chính cái ghế của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng đang lung lay. Cũng như Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch hiểu rất rõ nguyên nhân suy sụp của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền, trái với xu thế thời đại. Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm, về đối nội, dân chủ hóa xã hội, đối ngoại cần mau chóng quan hệ bình thường với Hoa Kỳ và thế giới dân chủ. Trong khi đó, tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và nhiều người trong Bộ Chính trị cho rằng phe xã hội chủ nghĩa suy sụp là do các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại. Do đó, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng phải cầu hòa với Trung Quốc. Trung Quốc dù có tư tưởng bành trướng thì cũng vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Để lấy lòng Bắc Kinh, Bộ Chính trị đứng đầu là tổng bí thư Nguyễn Văn Linh loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một cách vô nguyên tắc, không cho tham gia đoàn cấp cao đi Hội nghị Thành đô. Sau khi Nguyễn Cơ Thạch bị loại, anh Bách cũng xin nghỉ việc.




Sau 20 năm nhìn lại, thực tế diễn ra trên thế giới và trong nước đã cho thấy ý kiến Trần Xuân Bách hoàn toàn chính xác.


Tình hình thế giới:


Do duy trì quá lâu mô hình xô viết cho đến ngày sụp đổ đã khiến cho nhân dân các nước Nga và Đông Âu cạn niềm tin đối với các đảng Cộng sản và cánh tả. Ở liên bang Nga, suốt 20 năm qua, thời hậu Liên Xô, đảng Cộng sản, tổng bí thư G. Zyuganov chỉ nhận được tối đa khoảng 20% số phiếu trong các cuộc bầu cử. Trong khi đó, Đảng Nhân dân Campuchia thì chấp nhận “cuộc chơi” đa đảng đã bị lép vé, nhưng nhờ giương cao ngọn cờ dân tộc, nay đã giành được thế thượng phong trên chiến trường đất nước. Hiện nay, đợt sóng dân chủ lần thứ tư đang cuồn cuộn, nước Miến Điện gần sát Việt Nam đã chuyển từ quân phiệt sang dân chủ.


Sau 20 năm tái lập quan hệ đồng chí, trên cơ sở “16 chữ vàng” và “4 tốt” với Trung Quốc, ta càng ngày càng bị họ dồn ép: thành lập thành phố Tam Sa bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa; mời thầu dầu khí ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của ta; xua hàng vạn tàu cá, tàu vũ trang vào vùng biển Trường Sa; đòi “lấy máu người Việt làm lễ tế cờ trong trận chiến Nam Sa!”


Kỷ niệm 10 năm hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), chính phủ Việt Nam tuyên bố: Việt Nam nhất quán chủ trương sẵn sàng cùng Hoa Kỳ nổ lực đưa quan hệ hai nước Việt Mỹ lên tầm cao mới. Ngày 2 tháng 8 năm 2012 Thượng viện Hoa Kỳ thông qua nghị quyết ủng hộ vai trò ASEAN trong vấn đề biển Đông, ủng hộ tuyên bố DOC năm 2002 giữa ASEAN – Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực đóng góp vòng đàm phán thứ 13 hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).


Tình hình trong nước:


Nghị quyết trung ương 4 (khóa 11) nhận định “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”. Tham nhũng đã từ vài “con sâu” trở thành cả “bầy sâu”. Sự khiếu kiện đất đai dai dẳng bởi nạn cướp đất, đẩy nông dân tới bước phản ứng bằng bạo lực. Đội quân chủ lực của cách mạng giải phóng dân tộc đã nãy sinh cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn làm bom tự tạo chống cưỡng chế phi pháp. Một trăm hộ dân Văn Giang đương đầu với 1000 cảnh sát vũ trang. Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo, có đến 30 % số người bị suy dinh dưỡng. Họ đã tổ chức hơn 5000 cuộc đình công đòi tiền lương, cải thiện bữa ăn, nhiều cuộc huy động từ 5.000 đến 10.000 người, nhưng vẫn bị coi là bất hợp pháp, vì không được sự chỉ đạo của công đoàn! Trí thức bị cấm phản biện bằng Nghị định 97 của thủ tướng. So sánh tư thế của nhà nước Việt Nam với nhà nước Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản trong cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, người Việt không khỏi hổ thẹn. Mỹ sẵn sàng giúp Philippines bảo vệ chủ quyền, trong khi đó đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện dân chủ, nhân quyền làm điều kiện “thế chấp”!


Nghĩ về vận nước, không khỏi chua xót nhớ Trần Xuân Bách! Nguyện vọng khoán hộ của Kim Ngọc tuy đã thành hiện thực, từng đưa Việt Nam vào hàng nước xuất khẩu lương thực lớn thứ hai thế giới. Nhưng cho đến nay, giấc mơ về quyền sở hữu ruộng cày và cuộc sống no đủ với hạt gạo do mình làm ra của người dân vẫn còn xa ngái!


Ngày 20-5-2002 tại nhà anh Trần Xuân Bách ở (Trung Tự) Hà Nội, nhà thơ Hải Như đã viết bài thơ tặng anh:


Trần Xuân Bách


Chắc chắn lịch sử sau này sẽ dành một trang về anh,
– khách quan phán xử
Tôi chỉ xin lưu ý nhỏ mai đời:
Cái Trần Xuân Bách mất rõ rồi, nhưng còn cái được,
Tuyệt vời sao!
Chia sẻ tiếng sét giáng xuống đời anh,
Có một người đàn bà nguyện làm ngọn thu lôi vượt qua giông bão.
(Chúng ta từng sống một thời vô luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo).
Trần Xuân Bách. Anh là nạn nhân và cũng là tác giả tội ác.
Đúng không nào?
Trên chục năm dài lê thê con chim bằng gậm nhấm nỗi cô đơn
Tâm hồn vẫn sáng trong không rũ buồn vì khép cánh…
Câu “chúng ta từng sống một thời vô luân để hai chữ ‘liên quan’ đè lên cơm áo” tôi cảm thấy như chỉ trích riêng mình!


Sau khi anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật, tôi còn tiếp tục làm Tổng biên tập báo Lao Động ba năm nữa, nhưng không đến thăm anh một lần nào! Tôi tự bào chữa: vì thời gian này tôi phải liên tục đối phó với quá nhiều áp lực, chống đỡ cho tờ báo. Vì tôi đặt tòa soạn báo Lao Động ở Sài Gòn; gia đình, vợ con tôi cũng ở Sài Gòn, cho nên thời gian tôi có mặt ở Hà Nội rất eo hẹp. Nhưng mọi lý do vẫn không đủ để cho tôi có thể từ chối cho mình một chữ “Hèn”! Anh Hải Như an ủi: “Mình biết, rất nhiều anh nhờ anh Bách mà leo lên ‘quyền cao chức trọng’, nhưng sau khi anh bị kỷ luật, suốt bao năm có anh nào dám đến thăm ông thầy cũ của họ đâu!”




Ngày anh Bách qua đời (1-1-2006), nhà thơ Hải Như viết bài “Vĩnh biệt người bạn cùng quê”, có câu này:


“Ngày anh đi xa, trên báo Nhân Dân, bạn đọc thấy những gì thuộc về anh đều được trả lại”







Nhà thơ Hải Như cũng đã không chính xác khi vội mừng “những gì thuộc về anh đều được trả lại”! Cho dù điếu văn có nhắc lại tất cả công lao của Trần Xuân Bách, cho dù đã kể ra đủ các loại huân chương mà anh đã được trao tặng, cho dù cuối cùng, anh đã được nằm trong nghĩa trang Mai Dịch, nơi chỉ dành riêng cho các vị đại công thần của chế độ

Tri kỷ ơi!





Tác giả: KD/KD

———————-

Viết cho ngày 18/6…..



Ta đã đi cuối đất cùng trời
Để tận cùng trời cuối đất gặp nhau
Rưng rưng lạ lẫm
sương trắng một mầu

Bàn tay trong bàn tay run run nắm chặt
29 năm nổi trôi được mất

Đen trắng cuộc đời
bẽ bàng nhân thế
Ở hai đầu không gian quạnh quẽ
Có đêm nào thao thức nhớ nhau

Có đêm nào giấc ngủ đằm sâu
Ngỡ định mệnh rồi mất nhau mãi mãi
Hồn ngơ ngác cơn xé đau bải hoải
Cánh hoa mong manh hóa đá
về đâu

Một ngọn đèn khêu thắp đêm thâu
Em ngược gió
Phạc phờ bão giông dầu dãi
Cô độc hành trình đầu non đất bãi
Chân cứng đá mềm gieo hạt ngày mai
Quá khứ thương đau nguyên vẹn
hình hài
Nhưng cây đã lớn đời vẫn ra hoa trái
Ngọt lành đắng cay đôi bờ xa ngái
Mắt nhớ đỏ hoe bến đậu góc trời

Vẫn tiếng chim kêu bạn chiều chơi vơi
Vẫn bông cúc cuối thu mướt mải
Lời nguyền số phận bao giờ hóa giải
Cho Hà thành mây trắng nắng vàng
Và tình yêu trọn vẹn dung nhan
Sẽ đến ngày rạch ròi Thiện Ác
Trả lại ta những đêm trắng rạng ngời
Cho ta vai tựa vai đắm đuối mắt cười
sóng sánh
Có phải không người hỡi
Tri kỷ ơi


Hà Nội 27/8/2018

Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2018

TÌNH YÊU- SỰ KẾT NỐI LINH HỒN





Tác giả: Hamvas Béla.

Dịch giả: Nguyễn Hồng Nhung.











1



Về những gì Hy lạp cổ đại tạo ra tôi có một phản luận. Giả sử, vì một lẽ nào đấy tôi không chấp nhận thi ca của họ; tôi không chấp nhận kiến trúc của họ; triết học, truyền thuyết của họ; tôi có thể nói, cái này cái kia hay hơn, hoàn chỉnh hơn, trong sáng hơn, nồng nhiệt hơn, trung thực hơn, cao cả hơn.



Nhưng có một cái tôi không thể phản đối. Đấy là tượng của Hy lạp. Tôi không thể không chấp nhận. Bên các bức tượng Hy lạp không có bất kỳ bức tượng nào hoàn chỉnh hơn, con người hơn, trong sáng hơn, trung thực. Chắc có thể, không bao giờ có một nền điêu khắc như thế nữa.



Trong tất cả những gì người Hy lạp đã sáng tạo ra, có thể tìm thấy một chút nhiễu nhương, giả dối, thô bạo, phân vân nào đấy. Nhưng ở những bức tượng thì không. Độc nhất chỉ tượng Hy lạp mang lại cho tôi khả năng có thể đối diện với con người của thượng đế. Những gì người Hy lạp sáng tạo ra tôi có thể đưa ra một ý kiến phản đối; nhưng với tượng của Hy lạp, tôi chấp nhận ngay lập tức mà không giải thích và không đưa ra lý do nào hết.



Một dân tộc, một thời đại, một thời điểm, một giống người khác có thể sáng tạo ra hình ảnh con người thượng đế trung thực hơn trong thi ca, trong triết học, trong thế giới của lịch sử và đời thường. Nhưng con người thượng đế trong điêu khắc chỉ một lần và mãi mãi duy nhất một lần, chỉ văn hóa Hy lạp nhận ra và sáng tạo nên.



Đối tượng duy nhất của toàn bộ điêu khắc Hy lạp: con người thượng đế. Cùng lắm với điêu khắc Hy lạp có thể bắt chước hoặc bị chinh phục, ngoài ra không có gì khác.



Giữa các bức tượng Hy lạp là vô số thân hình đàn bà, thiếu nữ, có Aphrodite hoặc trần truồng, hoặc phủ chút khăn, hoặc đang cởi quần áo, hoặc đang chuẩn bị tắm. Cái bồn tắm trước đêm tân hôn của người đàn bà trẻ chắc chắn không liên quan gì đến hành động vệ sinh thân thể hoặc mang tính chất y học. Sự miêu tả này đặc biệt nhấn mạnh đến ý nghĩa tôn giáo. Có thể cho rằng người đàn bà trẻ muốn trao tấm thân rạng rỡ nở hoa một cách trong sạch cho vòng tay ôm ấp đầu tiên. Và chắc là như vậy, nếu từ bức tượng không tỏa ra một thứ ánh sáng vũ trụ, thiên thần. Tượng Hy lạp không bao giờ là con người, luôn luôn và trong mọi trường hợp chỉ, nó là con người thượng đế.



Trẻ con ngây thơ tin rằng ngôi sao không phải là một thiên thể giống, như Mặt trời mà là một kẽ hở nhỏ trên tấm mành bầu trời đêm; và ánh sáng của thế giới bên kia chiếu vào lấp lánh thông qua kẽ hở nhỏ này. Bức tượng người đàn bà trẻ đang chuẩn bị tắm như có một kẽ hở nhỏ, mở ra, mở ra vũ trụ. Mọi bức tượng đều như một ngôi sao.



Việc cởi quần áo là một tượng trưng, mang tính chất tôn giáo. Người đàn bà trẻ trước đêm tân hôn cởi quần áo; không phải là quần áo mà là thứ phủ lên bản chất thật sự của nàng. Nàng cởi bỏ chính mình. Để gội rửa khỏi bản thân những thứ không phải là chính nàng.



Bởi vì, kẻ sẽ thành một bộ phận của vòng tay ôm ấp, kẻ đó mới là nàng? Sự giải thích này bị bỏ lửng. Chỉ trở lại ý nghĩ ban đầu. Đối tượng của tượng Hy lạp là con người thượng đế. Đối tượng của bức tượng người đàn bà trẻ là cô gái thượng đế. Bức tượng này là cô gái thượng đế. Và khi người đàn bà trẻ cởi quần áo, hành động linh thiêng này không là gì khác ngoài động tác phép thuật của nhà điêu khắc cởi bỏ tấm mành che phủ con người: vật chất; để lồ lộ phơi phới một cô gái thượng đế.



Cái bồn tắm linh thiêng gợi nhớ tới cái chết. Đêm tân hôn và cái chết, linh hồn đều cởi bỏ quần áo, gột rửa khỏi mình tất cả những gì phủ lên bản chất của mình. Người chết cần được tắm rửa, trước khi trả họ cho quyền lực vũ trụ. Đây là sự tắm rửa tượng trưng. Bởi không có ý nghĩa gì trước khi vùi xác chết vào đất lại cần tắm rửa lau chùi cho xác chết. Cái bồn tắm của cái chết và đêm tân hôn là nghi thức linh thiêng của việc tan hòa toàn bộ linh hồn.



Cô gái Hy lạp, khi cầm lên bình nước, bước ra khỏi đống áo quần để tắm rửa; lúc đó, một cách đích thực và vẹn toàn, trong toàn bộ sự sống của mình, con người duy nhất trần truồng một lần, không che phủ bất kỳ cái gì lên bản chất của nó, và gột rửa đi tất cả mọi cái gì không thuộc về nó.



Đây là câu giải thích về ánh sáng siêu phàm của bức tượng cô gái; cảm nhận từ bức tượng, như qua một kẽ hở của tấm mành bầu trời đen đặc, một tia sáng trong sạch rạng rỡ xuyên qua. Bức tượng cô gái Hy lạp mô tả một khoảnh khắc, khi người đàn bà trong cái bồn tắm linh thiêng gột rửa cái bên ngoài để hiện ra cái linh hồn thượng đế chói sáng.



Đấy là bản thể; cái thực thể chuẩn bị bước đến đêm tân hôn; sẵn sàng tham dự và chuẩn bị chạm vào vòng tay ôm ấp của một người đàn ông? Bởi vậy bức tượng tỏa ngời rạng rỡ, bởi vậy như một ngôi sao, bởi vậy dường như thông qua bức tượng có thể nhìn sang được thế giới bên kia?



Không. Đêm tân hôn mà Linh hồn thượng đế chuẩn bị không liên quan gì đến vòng tay ôm ấp của người đàn ông. Không liên quan bởi không phải vì thế cô gái gột rửa cái tự nhiên khỏi bản thân mình. Càng không phải vì thế để thể hiện mình trong bản chất thượng đế. Đêm tân hôn ở đây mang một ý nghĩa khác hẳn.



Cái Linh hồn, không thân xác trút bỏ áo quần, và chất lỏng linh thiêng nằm trong bình nước bên cạnh; nàng sẽ gột đầu, rửa ráy da thịt, cơ thể; hình hài nàng sẽ tan rã và không đọng lại gì, để có thể nắm giữ được.



Cái Linh hồn sáng chói bên trong nàng, cô gái thượng đế, luôn rạng rỡ trên bức tượng, tỏa sáng cho bức tượng. Con mắt thô bỉ và trần tục của con người hiện đại không thể hiểu được sắc đẹp tầm thường đã bị bỏ xa thế nào với ánh sáng thiên thần phản chiếu từ những nàng con gái cẩm thạch này.



Người ta cố gắng giải thích bằng nghề nghiệp, bằng thị hiếu, bằng kiến thức, bằng tài năng. Không bao giờ nghề nghiệp, thị hiếu, kiến tức, tài năng sáng tạo được cái gì đã bước qua tự nhiên. Cái lấp lánh trong bức tượng cô gái không phải là vật chất, là hình thức, là sắc đẹp, là tỷ lệ vàng. Tất cả không liên quan gì đến cái đẹp linh thiêng này.



Con mắt của kẻ thô tục chỉ nhìn thấy hình dáng một người đàn bà khêu gợi. Nhưng ở đây, người đàn bà này không hề khêu gợi. Một người đàn bà là một người đàn bà. Người đàn bà này là một Linh hồn và Linh hồn này là một cô gái, một thiếu nữ. Đây chính là suối nguồn của nữ tính. Đây là nguồn gốc.



Có một khoảnh khắc lấp lánh trong sự chiêm ngưỡng phi vật chất, trong thế giới bên kia, trong ánh sáng của thiên đường vĩnh cửu, nơi từ đó sinh ra đàn bà. Đây là khoảnh khắc khi con người nhìn thấy tận mắt nguồn gốc thượng đế của đàn bà. Một giây phút cũng không được phép quên rằng đối tượng duy nhất của điêu khắc Hy lạp là con người thượng đế, và cô gái Hy lạp là người đàn bà thượng đế.

Tấm thân xinh đẹp và quyến rũ của người đàn bà ở đây là hình thức thể hiện, và công cụ là chất liệu đá cẩm thạch. Đây là tín hiệu của vũ trụ và sự đồng nhất thiên nhiên giúp chúng ta hiểu được sự vật định nói lên điều gì.



Nhưng bản thân bức tượng không làm nên từ thân xác, không từ vật chất và đá cẩm thạch. Bức tượng làm nên từ Linh hồn trong một khoảnh khắc, Linh hồn được mô tả khi người đàn bà trong bể tắm linh thiêng tắm rửa và một lần duy nhất trong đời hiển hiện trong bản chất thượng đế cổ xưa và đích thực.



Truyền thuyết Hy lạp kể lại rằng, nữ thần của các vị thần, nàng Hera mỗi năm một lần tẩy rửa lại sự trinh trắng của mình để dâng hiến cho Zeus, chúa tể của các vị thần. Hera biết rằng nếu tẩy rửa bụi trần gian và biến thành Linh hồn, nàng sẽ một lần nữa biến thành người đàn bà cổ, thành trinh nữ cổ, trong trắng như ánh sáng, rạng ngời như ngôi sao. Sẽ quay lại nguồn gốc của đàn bà, đặt lên mình hình hài đàn bà đầu tiên; lấy lại bản chất đầu tiên của đàn bà và trở nên mới mẻ trở lại; sẽ là người đàn bà quay lại với linh hồn thượng đế.



2



Cái Linh hồn được bức tượng cô gái Hy lạp bằng cẩm thạch miêu tả hoàn toàn khác một linh hồn đàn ông. Không phải sự bổ sung, sự tương ứng của linh hồn đàn ông, không phải tính chất tiêu cực hay tích cực hay là một nửa của linh hồn đàn ông. Không phải vậy.



Nguồn gốc của đàn bà hoàn toàn khác so với của đàn ông. Linh hồn của đàn bà cũng hoàn toàn khác của đàn ông. Có những người thích đặt tên cho Linh hồn này là cảm xúc. Đàn bà là một thực thể cảm xúc; bởi không suy nghĩ, không nhìn thấu suốt, chỉ yêu, căm thù, có cảm tình hoặc ghét bỏ, hay khóc, dễ cười, hay bực bội thất thường, hay thay đổi, bấp bênh như nóng, như lạnh, nhờ nhờ, lạnh lùng như âm thanh, như xúc cảm, như âm nhạc.



Những người khác lại cho rằng không phải cảm xúc là đặc tính của đàn bà mà là sự nhậy cảm; bởi vì đàn bà nắm bắt rất nhanh cái đụng chạm tới họ, và tinh tế phản ứng lại như một bông hoa. Thực ra sự nhậy cảm không liên quan gì đến cảm xúc và các giác quan. Bởi sự nhậy cảm không tự nhiên có mà là đặc tính của Linh hồn.









Và chính vì vậy đàn bà có thể trở nên hết sức tinh tế cũng như hết sức thô tục; có thể trở nên hết sức cao quý nhưng cũng có thể hết sức trụy lạc bởi cái số phận từng trải đụng chạm vào cái thực thể nhậy cảm vô cùng này. Và cái gì đàn bà đã trải qua, mang một ảnh hưởng định mệnh.



Không phải xúc cảm hay sự nhậy cảm là đặc tính cơ bản của linh hồn đàn bà. Về đàn ông ai cũng có thể nói đặc tính của họ là tư duy, hay hành động, hoặc tinh thần hoặc sự sáng tạo. Một cách như thế nào đó, theo nghĩa bóng, điều này có thể hiểu được. Nếu không tìm ra bản chất một cách chính xác, thì cũng không hoàn toàn sai.



Nhưng nếu người ta nói về người đàn bà là một thực thể nhạy cảm, đầy cảm xúc hoặc nói một cách khác theo ý thích của họ; thì ngay từ xa đã không đụng chạm gì tới bản chất của đàn bà. Chỉ có đúng một từ có thể chỉ ra và chỉ đúng linh hồn và bản chất của đàn bà, đó là từ: đàn bà. Không là gì khác. Vì bằng một cách khác không thể hiểu được, với từ này không thể hiểu theo nghĩa bóng; bằng nghĩa bóng không thể gợi lên người đàn bà.



Trong số phận của người đàn ông có những sự vật ưu tiên vượt quá cả giới tính. Nhưng đàn bà, giới tính đứng ưu tiên đầu tiên. Ở đàn bà đấy không phải là thế gian, là mục đích; cái tuyệt đối và tận cùng đều có mặt ở đàn bà như mọi cái khác: xúc cảm hay sự nhậy cảm.



Khái niệm đàn bà với những đặc thù cá tính của họ rộng lớn hơn và hoàn toàn khác hẳn. Nghĩa là đàn bà, không thể hoàn thiện bằng bất cứ điều gì, từ ngữ này không thể thay thế bằng bất cứ từ ngữ nào khác. Không thể liệt và hiểu được khái niệm đàn bà từ khái niệm đàn ông, thiên nhiên, thế gian, hoặc giống cái.



Có thể có một kiến thức về bản chất đàn ông. Nếu con người chỉ để ý tới khối lượng khổng lồ của những cuốn sách nghiên cứu cá tính đã đủ thấy kiến thức này thật đáng kể. Nhưng toàn bộ tủ sách nghiên cứu cá tính này đến một từ ngữ nhỏ cũng không liên quan đến đàn bà. Thậm chí toàn bộ kho sách tâm lý học của văn học thế giới cũng không biết tý gì về đàn bà.



Đàn bà không có lịch sử, chỉ có truyền thuyết; so với điều này tâm lý học về họ vẫn còn là cái gì đơn giản hơn nhiều. Cái có nghĩa là sự trực tiếp. Cái có nghĩa là một hiện thực vô cùng khó khăn.



Cái ánh sáng sao và linh hồn rạng ngời của các cô gái Hy lạp bằng cẩm thạch biết rõ điều này. Không thể nhầm lẫn được. Không thể gán cho người đàn bà bất kỳ điều gì khác, chỉ là người đàn bà nếu đúng đấy là một người đàn bà. Và tôi không cho rằng tất cả các dạng đàn bà là cái cái gì khác ngoài một người đàn bà.



Đấy là ánh sáng và sự rạng ngời chói mắt của một thế giới cao hơn thế giới vật chất. Đấy là thực thể không hình hài, đấy là linh hồn đàn bà; điều này rõ ràng đến nỗi nếu những bức tượng biến mất, hình dạng của chúng tan ra, lúc đó cũng không thể nào nói thêm điều gì khác ngoài một câu: đấy là đàn bà.



3



Câu nói tình yêu là sự hợp nhất giữa hai nửa bị cắt rời cũng nhầm lẫn như câu tình yêu là một cộng với một. Tình yêu không phải là sự đối xứng. Chưa chắc Swedenborg hoặc Welkisch hoặc Jung đã suy nghĩ đúng khi họ hình dung một cách tương xứng mối quan hệ của đàn ông và đàn bà. Ở đây chẳng có gì xảy ra hết ngoài điều truyền thuyết của Platon đã viết, hai nửa bị cắt rời bởi sự ghen tuông của thượng đế gặp gỡ nhau.



Sự bí ẩn của tình yêu chính là ở chỗ một người đàn ông hoàn toàn khác và một người đàn bà hoàn toàn khác, những kẻ hoàn cảnh thế gian, nguồn gốc, cá tính, hình dáng hoàn toàn xa lạ và khác hẳn nhau, đây là thực thể có khả năng sắp xếp một cách đối xứng với nhau, là hai kẻ gặp gỡ và tan vào nhau làm một.



Trong thế giới động vật, tính dục có thể là sự hợp nhất các thực thể sắp đặt vị trí cho cân bằng tương xứng bên phải bên trái, trên dưới, tích cực và tiêu cực; có thể là như vậy. Nhưng ở con người tình yêu làm tan hòa những thế giới, hoà tan các thực thể khác biệt vào làm một với nhau. Đấy là điều chắc chắn.



Bởi vì, nếu chỉ là sự hợp nhất của các phần tử bổ sung lẫn nhau, khó có thể đạt tới điều này, rằng mỗi con người cần phải sống và trải qua những khao khát dày vò thông suốt đến tận gốc rễ siêu hình của họ, và nếu không sống từng trải, con người sẽ nghèo nàn như một kẻ ăn mày mù lòa.

Cái kỳ diệu bất ngờ và khoảnh khắc không thể tưởng tượng nổi trong sự thần bí của tình yêu chính là vì những kẻ hòa tan làm một với nhau không thể và không bao giờ thuộc về nhau. Không ai có thể tìm thấy câu giải thích về tình yêu trong tự nhiên; chỉ có tính dục trong tự nhiên mà thôi. Để tình yêu cháy bùng lên, cần sự can thiệp của thượng đế, thiếu điều này các thực thể và các thế giới khác biệt nhau không bao giờ gặp gỡ lẫn nhau.



4



Điều chắc chắn, nguồn gốc của tình yêu khác của tính dục. Tình yêu là mối quan hệ của người đàn bà thượng đế với người đàn ông thượng đế. Trong mối quan hệ này hai kẻ có nguồn gốc, thời gian xuất hiện, bản chất siêu hình khác hẳn nhau; là hai thực thể không cân xứng, không thể gọi cùng tên, gặp gỡ nhau trong sự thần bí thượng đế và tan hòa vào nhau thành một.



Ngược lại, tính dục là sự thỏa mãn lẫn nhau của những thực thể tự nhiên trộn vào nhau một cách tương ứng và đối xứng. Kant có lý, một đàn ông và một đàn bà làm hoàn thiện con người, đấy là trong tự nhiên.



Trong tình yêu, sự gặp gỡ của một người đàn ông thượng đế và một người đàn bà thượng đế không chỉ là một con người hoàn thiện, còn cao hơn thế nữa. Cao hơn bằng thượng đế cao hơn tự nhiên. Người đàn ông và người đàn bà gặp gỡ và tan hòa làm một trong tình yêu là sự hội nhập vô cùng bí hiểm, là sự sáng tạo của hai linh hồn.



Từ tính dục sản sinh ra một thực thể tự nhiên mới. Từ tình yêu sản sinh ra linh hồn mới. Nếu hai thực thể tự nhiên hợp nhất thiếu tình yêu, lúc đó là sự hợp nhất thực thể tự nhiên hoang dã. Đây là trường hợp của thế giới động vật, nó nhà như vậy. Cũng có một loại tình yêu trong đó hai linh hồn gặp gỡ và giao tiếp không có sự đụng chạm xác thịt. Đấy là tình yêu mà hoa trái sinh ra là thứ linh hồn phi vật chất.



Con người lầm lẫn tình yêu với tình dục. Nhiều khi họ cho rằng đấy là tình yêu, thứ chỉ là tình dục, và tưởng rằng không có ngoại lệ, trong mọi tình yêu đều kết thúc bằng tình dục. Và con người tin rằng các thực thể đều do tính dục sinh ra.



Các thực thể do tình yêu sáng tạo, tình dục chỉ khoác áo quần cho nó, khiến nó bức bối và kiểu gì cũng cần phải cởi bỏ. Sáng tạo chỉ hai linh hồn làm được, và đấy là tình yêu được xây dựng lên không có giao tiếp xác thịt.



Khi tình dục hạ nhiệt, kết thúc; khi hai linh hồn tràn ngập một sức mạnh của thực thể thượng đế; khi mọi đụng chạm và ý nghĩ mon men đến gần hiện lên như một sự xỉ nhục và hoảng sợ; khi kẻ khác, kẻ lạ, một thực thể không quen biết nhóm lên một ngọn lửa từ tự nhiên, như chớp, lóe sáng, đây là khoảnh khắc sáng tạo trong Tình yêu Linh hồn.





Xin đừng tin rằng khoảnh khắc này hiếm hoi.



Tất cả những ai đã từng sống một số phận gần như chìm trong mịt mù, sẽ nhớ đến những giây phút bốc lửa trong gian phòng đêm một mình, hoặc trong rừng vào một ngày phương nam, hoặc trên đỉnh núi, ngoài biển khơi, khi ngả lưng trong đám cỏ ngát vị hoa quả trái cây một chiều hè êm ả, khi người đàn bà thượng đế cho dù xuất hiện ở khoảng cách không thể với tới, hay ở đó, trong tầm tay, nàng cuốn hút đến mức một cái gì đó bật ra từ đấy, lúc đó người đàn bà cho dù ở xa hàng trăm kilomet vẫn nắm lấy và tiếp nhận.



Ai không trải qua giây phút sáng tạo, sự sáng tạo của Linh hồn, sẽ không biết chút gì từ bức tượng cô gái Hy lạp thượng đế. Và không biết rằng nàng con gái chuẩn bị cho một giao hoan như thế. Nàng bước vào bể tắm thần bí để rũ đi tất cả những gì ngáng con đường bước vào sự giao hoan linh hồn.



Nhiều linh hồn đã được sinh ra trong một đêm động phòng tình yêu linh thiêng, nhiều hơn cả con người tự nhiên sinh ra từ đêm tân hôn tình dục. Và những linh hồn này làm sinh sôi nảy nở thêm không gian thượng đế, không gian mà ánh sáng của nó lóe sáng thông qua bức tượng cô gái bằng cẩm thạch như qua một kẽ hở của bức mành trên bầu trời tối đen.



(Trích tiểu luận triết học: CÂU CHUYỆN VÔ HÌNH- NXB TRI THỨC 2012)

Thứ Ba, 21 tháng 8, 2018

Tụng ca Sáng Tạo – Nasadiya Sukta





Tụng ca Sáng Tạo

Nasadiya Sukta (the Hymn of Creation)

Nasadiya Sukta


1.
Một trong những bài tụng ca đươc nhắc đến nhiều nhất trong Rig Veda là Nasadiya Sukta và cũng được gọi là Tụng ca Sáng Tạo (the Creation Hymn). Từ ‘Nasadiya’ có gốc từ ‘ná ásat’ nghĩa ‘không phải cái không-là-có’ (not the nonexistent) [1]. Nasadiya Sukta là tụng ca thứ 129 của sách (Mandala) thứ 10, trong tập Rig Veda (10:129).
Thường được xem như một trong những bản văn viết về sau trong Veda, có lẽ được viết vào khoảng thế kỷ 9, TCN. Như tất cả những bản văn trong Veda, chúng đều đã được lưu truyền bằng tụng đọc từ rất lâu, đến nghìn năm, trước khi được chép thành văn tự, Như thế, Nasadiya Sukta có lẽ là bản văn được biết (còn giữ được) đầu tiên của nhân loại nói về vũ trụ và sự khởi thuỷ của thế giới.



2.
Những lý luận trừu tượng - một giọng triết lý đặc biệt trưởng thành thay vì tín ngưỡng thần bí thường thấy ở những tương tự khác – trong bài tụng ca này đã mang đến cho nó rất nhiều chú ý, không chỉ trong ngành học-India, lịch sử tôn giáo mà còn rất nhiều những học giả, triết gia, người đọc khác nữa. Dòng suy nghĩ của nó gần gũi tuyệt diệu với những suy nghĩ về vũ trụ của những triết gia Hellas thời cổ, cho đến những nhà vật lý, triết gia ngày nay. Tác giả cho thấy sự trầm tưởng về chính câu hỏi muôn thuở – có thể có một gì là ‘đầu tiên’ không, hay nói khác đi, có thể đã từng có một sự ‘tạo thiên lập địa’ hay ‘sáng thế’ hay không. Và nó kết thúc với những gì có vẻ giống như một bất ngờ hết sức bất ngờ, một nghịch lý đến cùng cực, gần như là người viết vô danh của nó trêu ngươi chúng ta. Đây là những dòng cuối cùng của nó (theo bản của Max Müller):


Ai là người biết từ đâu sáng tạo lớn lao này đã nảy sinh?
Ai mà từ người ấy tất cả những sáng tạo tuyệt vời này đã đến.
Cho dù ý chí người ấy đã tạo ra hoặc đã câm nín,
Nhà tiên tri cao nhất ở trên tầng trời cao nhất,
Vị ấy biết điều đó - hay thậm chí vị ấy không biết.


Chủ yếu, Rig Veda10: 129 cho thấy một nghịch lý không tan được; trong đó suy tưởng con người từ quá khứ đến hiện tại đều vướng mắc: Làm thế nào vũ trụ có thể nảy sinh thành là-có?, tức là, làm sao một gì đó có thể ra từ không-gì? Làm thế nào có thể có một khởi đầu, nhưng trước đó lại không có gì? Tất cả, trở về với câu hỏi, Leibniz đã phát biểu: ‘Tại sao lại có một gì đó thay vì là không có gì?


Câu hỏi trên của Leibniz đơn giản chỉ tự nhận rằng nó không có một trả lời. Bertrand Russell tiếp tục dòng suy nghĩ này, trong một tranh luận nổi tiếng trên radio năm 1948; khi hỏi tại sao ông nghĩ vũ trụ là-có (hiện hữu). Ông đã trả lời: “tôi sẽ nói rằng vũ trụ thì giản dị là có-đó, và chỉ thế thôi”.


Theo giải thích này, vũ trụ sẽ là một gì những triết gia gọi là ‘một thực tế phũ phàng’ – một gì đó vốn không có một giải thích. Điểm Russell nêu lên là không phải rằng con người đã chưa giải thích được tại sao có một gì đó hơn là không có gì, nhưng là sẽ không thể có giải thích cho câu hỏi đó được. Mặc dù ngày nay, một trả lời phổ thông cho câu hỏi lớn lao của Leibniz là nói rằng vũ trụ thì sau cùng không giải thích được, nó vẫn là một thao thức, không hoàn toàn thỏa mãn trí tuệ (mặc dù dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là câu trả lời thì sai). Trí tuệ của một thời vẫn chỉ biết và tin rằng – ‘vật hữu bản mạt, sự hữu chung thủy’


3.
Sau đây là bản tôi tạm dịch, bản văn rất khó hiểu, nếu chỉ đọc nó ngoài Rig Veda. Theo chân những học giả phương Tây, nhấn mạnh vào thái độ hoài nghi triết học, và quan điểm về sáng tạo vũ trụ vẫn có ở phương Đông; vũ trụ tự nó vẫn có đó, như Russell đã phát biểu ở trên, và thêm nữa ở đây, thần thánh ra đời sau; họ không sáng tạo vũ trụ, nếu họ có; đúng như ý nghĩa trong tên gọi sukta này, Nasadiya: nói và hoài nghi về một gì trước không-Có lẫn Có.
Chính yếu tôi dựa trên một bản dịch đã phổ biến (không phải là bản hay nhất) và nổi tiếng của Arthur Llewellyn Basham (1914-86), người đã giới thiệu tụng ca này – trong The Wonder That was India (1954) – với thế giới phương Tây:


Tụng ca Sáng Tạo


Khi đó, ngay cả cái Không đã không, cũng không cái Có,
Đã không có khí trời khi đó, cũng không vòm cao trên nó.
Cái gì đã trùm lên nó? Nó đã ở đâu? Trong giữ gìn của gì?
Đã có chất lỏng vũ trụ ở đó, trong sâu thẳm không hiểu được?


Khi đó không có chết, cũng không không-chết
cũng không đuốc cháy của có đêm và ngày.
Cái Một thở không hơi gió, và tự duy trì.
Khi đó, có cái Một đó và không gì khác.


Trước hết đã chỉ có tối đen bọc trong tối đen
Tất cả điều này chỉ là chất lỏng vũ trụ không sáng.
Một đó vốn đã đi vào là-có, được bao bọc trong không-gì,
Cuối cùng đã nổi lên, sinh từ sức mạnh của Nóng


Ban đầu, ham muốn giáng xuống nó –
đó là hạt giống nguyên thủy, được sinh ra từ não thức.
Các nhà hiền triết đã tìm kiếm cõi lòng họ với khôn ngoan
biết rằng đó thì họ hàng với kia vốn thì không.


Và họ đã kéo dài dây của chúng qua khoảng không,
và biết gì ở trên, và gì ở dưới.
Những quyền năng gieo giống đã tạo những sức mạnh phi thường màu mỡ.
Dưới là sức mạnh, và trên nó là xung lực.


Nhưng, sau tất cả, ai biết, và ai có thể nói
Tất cả từ đâu đã đến, và sự sáng tạo đã xảy ra như thế nào?
những thần linh, chính họ tất cả đều muộn hơn sự sáng tạo,
cho nên ai biết thực sự nó đã phát sinh từ đâu?


Từ đâu tất cả sáng tạo có nguồn gốc của nó,
Người ấy, cho dù người đã theo phong cách nó hay đã không,
Người ấy, người tra cứu nó tất cả từ những tầng trời cao,
Người ấy biết – hay có lẽ thậm chí người ấy không biết




Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2018)








Nasadiya Sukta (Sankrit)[2]
(the Hymn of Creation)


1.
नासदासींनॊसदासीत्तदानींनासीद्रजॊनॊव्यॊमापरॊयत्।
किमावरीव: कुहकस्यशर्मन्नभ: किमासीद्गहनंगभीरम्॥१॥
nāsad āsīn no sad āsīt tadānīṁ nāsīd rajo no vyomā paro yat |
kim āvarīvaḥ kuha kasya śarmann ambhaḥ kim āsīd gahanaṁ gabhīram
Then even nothingness was not, nor existence, There was no air then, nor the heavens beyond it.
What covered it? Where was it? In whose keeping
Was there then cosmic water, in depths unfathomed?


2.
नमृत्युरासीदमृतंनतर्हिनरात्र्या।आन्ह।आसीत्प्रकॆत: ।
आनीदवातंस्वधयातदॆकंतस्माद्धान्यन्नपर: किंचनास॥२॥
na mṛtyur āsīd amṛtaṁ na tarhi na rātryā ahna āsīt praketaḥ |
ānīd avātaṁ svadhayā tad ekaṁ tasmād dhānyan na paraḥ kiṁ canāsa
Then there was neither death nor immortality Nor was there then the torch of night and day.
The One breathed windlessly and self-sustaining. There was that One then, and there was no other.


3
तम।आअसीत्तमसागूह्ळमग्रॆप्रकॆतंसलिलंसर्वमा।इदम्।
तुच्छॆनाभ्वपिहितंयदासीत्तपसस्तन्महिनाजायतैकम्॥३॥
tama āsīt tamasā gūl̥ham agre 'praketaṁ salilaṁ sarvam ā idam | tucchyenābhv apihitaṁ yad āsīt tapasas tan mahinājāyataikam
At first there was only darkness wrapped in darkness. All this was only unillumined water.
That One which came to be, enclosed in nothing, arose at last, born of the power of heat.


4.
कामस्तदग्रॆसमवर्तताधिमनसॊरॆत: प्रथमंयदासीत्।
सतॊबन्धुमसतिनिरविन्दन्हृदिप्रतीष्याकवयॊमनीषा॥४॥
kāmas tad agre sam avartatādhi manaso retaḥ prathamaṁ yad āsīt | sato bandhum asati nir avindan hṛdi pratīṣyā kavayo manīṣā
In the beginning desire descended on it. That was the primal seed, born of the mind.
The sages who have searched their hearts with wisdom know that which is kin to that which is not.


5.
तिरश्चीनॊविततॊरश्मीरॆषामध: स्विदासी३दुपरिस्विदासीत्।
रॆतॊधा।आसन्महिमान्।आसन्त्स्वधा।आवस्तात्प्रयति: परस्तात्॥५॥
tiraścīno vitato raśmir eṣām adhaḥ svid āsī3d upari svid āsīt | retodhā āsan mahimāna āsan svadhā avastāt prayatiḥ parastāt
And they have stretched their cord across the void, and know what was above, and what below.
Seminal powers made fertile mighty forces. Below was strength, and over it was impulse.


6.
कॊ।आद्धावॆदक।इहप्रवॊचत्कुत।आअजाताकुत।इयंविसृष्टि: ।
अर्वाग्दॆवा।आस्यविसर्जनॆनाथाकॊवॆदयत।आबभूव॥६॥
ko addhā veda ka iha pra vocat kuta ājātā kuta iyaṁ visṛṣṭiḥ | arvāg devā asya visarjanenāthā ko veda yata ābab || 6 ||
But, after all, who knows, and who can say Whence it all came, and how creation happened?
The gods themselves are later than creation,
so who knows truly whence it has arisen?


7.
इयंविसृष्टिर्यत।आबभूवयदिवादधॆयदिवान।
यॊ।आस्याध्यक्ष: परमॆव्यॊमन्त्सॊआंगवॆदयदिवानवॆद॥७॥
iyaṁ visṛṣṭir yata ābabhūva yadi vā dadhe yadi vā na |
yo asyādhyakṣaḥ parame vyoman so aṅga veda yadi vā na veda || 7 ||
Whence all creation had its origin,
he, whether he fashioned it or whether he did not, he, who surveys it all from highest heaven,
he knows - or maybe even he does not know.






Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2018)
(Còn tiếp...)


http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com



[1] Tôi nhấn mạnh – với những từ ngữ dịch theo tôi ‘là-có’ và ‘không-là-có’, – thay vì ‘’hiện hữu / phi hiện hữu (hay ‘tồn tại’,…) như hiện vẫn quen dùng. Những từ này, đã bị lạm dụng, nghĩa đã thành từ mơ hồ đến hàm hồ. (Nội dung của chúng là những khái niệm đặc biệt trong triết học phương Tây, nên để hiểu nghĩa, chúng ta phải quay trở về với những 'exist,existence/nonexist, nonexistence'; những từ Tàu vẫn dùng, không trọn ý; Như thế, chúng ta có thể dịch chúng thẳng sang tiếng Việt là: là-có và không-là-có. Dễ hiểu hơn)
Chúng ta chỉ có thể biết được những gì có mặt trong thực tại, cho rằng biết được, it nhiều, ‘sự có’ của chúng. (Đó là câu hỏi về ‘sự có’ , chưa nói đến câu hỏi về sự thật sau đó: ‘nó có đó nhưng nó có thật không’). Những gì có, sự vật việc có, tôi gọi chúng là-có (exist/être), ngược lại, là không là-có, tôi nhấn mạnh không-là-có; chúng ta đoán biết và cho rằng một gì đó nếu nó không-là-có (như bình trà giả định bay trong không gian của Russell); còn những gì ngoài [có + không-có], chúng ta không thể bàn/nói/biết được.
Thế nên, bài tụng ca trên chỉ nói về Có và ngược lại với nó là không-là-Có (hiểu như một tập hợp Có khác, nhưng là một tập hợp trống). Khi người ta nói đến Có và Không (Hữu và Vô), chỉ có nghĩa nếu nói đến Có trong tương quan với không-là-Có, còn những gì ngoài chúng, như khi chúng ta muốn gọi đến một gì đó như cái Không (tự thân), hiểu như không phải là không Có, chúng ta không thể nói được, vì chúng ta tuyệt không có ý niệm dù mơ hồ nào về nó. Đây là quan điểm đã có từ lâu của Parmenides, khi ông nói chúng ta chỉ có thể nói được về cái Có; từ cổ Hellas (xem thêm Plato-Parmenides).
Theo tôi, đó là câu 1 ở trên: trước khi Có và không-Có, đã có/là gì chúng ta không thể biết, sau đó cả Có và không-Có khởi sinh cùng một lúc.
[2] Nghĩa từng chữ trong mỗi câu:
sukta– một bài thánh ca Veda, được nói hay đọc hay đọc, nói tốt, hùng biện, trì tụng hay diễn đạt, lời nói khôn ngoan, bài ca ngợi;
āsya - để nói một lời, nói rõ;
paramēṣti - cấp trên, trưởng, quyền trên;
prajāpati - thần tính chủ trì qua sinh sản, người bảo vệ cuộc sống
dēvatā - vị thần, thần tính;
bhāvavṛtta - liên quan đến sự sáng tạo hay vũ trụ;
bhāva - đi vào sự tồn tại, liên tục trở thành, thịnh vượng, biến đổi và chuyển hóa thành, tối cao;
vṛtta - đặt trong chuyển động, trở thành biểu hiện, biến đổi, phương tiện tồn tại hoặc cuộc sống
chanda - làm hài lòng, lôi cuốn, mời gọi, ca ngợi, thú vị, mong muốn


1.
na asad āsīn nō sad āsīt tadānīṃ na āsīd rajō nō vyōmā (a)parō yat |
kim āvarīvaḥ kuha kasya śarmann ambhaḥ kim āsīd gahanaṃ gabhīram || 1 ||
(a) na - không, cũng không, không, không như, như; asad (asat) - không tồn tại, không thực thể, không-là, không đúng, không thực; āsīn - ngồi, đang nghỉ ngơi, ngồi, tồn tại; nō - cũng không, không, hay không; buồn (ngồi) - tồn tại, là sự thật; āsīt - ngồi, đang nghỉ ngơi, ngồi, tồn tại; tadānīṃ - tại thời điểm đó, khi đó (b) na - không, cũng không, không như, như; āsīd (āsīt) - ngồi, đang nghỉ ngơi, ngồi, tồn tại; rajō (rajas) – khí quyển, không khí, bầu không khí, không gian thanh tao, toàn bộ bầu trời hay bầu trời; nō - cũng không, không, hay không; vyōmā (vyōman) - trời, bầu trời, không khí, không khí, ête; parō (paras) - xa hơn, xa hơn nữa, đi, ở phía bên kia của; yat (yad) - cái nào, bất cứ thứ gì, (c) kim - cái gì, như thế nào, từ đâu, tại sao, tại sao; āvarī (āvāra) - nơi trú ẩn, lưu giữ, che đậy; vaḥ - mang, giữ; kuha - ở đâu; kasya – của ai;śarmann - nơi trú ẩn, bảo vệ, thoải mái (d) ambhaḥ (ambhas) - nước thiên thể, sức mạnh; kim - cái gì, như thế nào, từ đâu, tại sao, tại sao; āsīd (āsīt) - ngồi, đang nghỉ ngơi, đang ngồi, tồn tại; gahanaṃ (gahana) - sâu, dày đặc, dày, không thấm, không thể hiểu được, không thể giải thích được, khó hiểu; gabhīram (gabhīra) - vực thẳm sâu thẳm hay bí ẩn


2.
na mṛtyur āsīd amṛtaṃ na tarhi na rātryā ahna āsīt prakētaḥ |
ānīd avātaṃ svadhayā tad ēkaṃ tasmād dhānyan na paraḥ kiṃ chanāsa || 2 ||
(a) na - không, không, không, như, như; mṛtyur (mṛtyu) - cái chết; āsīd (āsīt) - ngồi, đang nghỉ ngơi, ngồi, tồn tại; amṛtaṃ (amṛta) - bất tử; na - không, không, không, như, như; tarhi - tại thời điểm đó, sau đó, tại thời điểm đó (b) na - không, không, không, như, như; rātryā (rātri) - đêm, tĩnh lặng về đêm; ahna– ngày, hàng ngày, nhiều ngày; āsīt - ngồi, đang nghỉ ngơi, ngồi, tồn tại; prakētaḥ (praketa) - ngoại hình, sự xuất hiện, phân biệt (c) ānīd (āna) - thở; avātaṃ (avāta) - không gió, không có gió, không rắc rối; svadhayā (sva dhayā) - bởi tự lực, quyền lực cố hữu, xung lực riêng; tad - đó; ēkaṃ - cái Một, một mình, cô đơn (d)tasmād (tasmāt) - từ đó, vào lý do đó, do đó; dhā - (cái Một đó) ban tặng; anyan (anya) - khác hơn; na - không, cũng không, không, như, như; paraḥ (paras) - ngoài, khác hơn; kiṃ-chanāsa (kim-cana) - không có cách nào, ở một mức độ nhất định, thỏa đáng


6.
kō addhā vēda ka iha pra vōchat kuta ājātā kuta iyaṃ visṛṣṭiḥ |
arvāg dēvā asya visarjanē nāthā kō vēda yata ābabhūva || 6 ||
(a) kō - ai, cái gì; addhā - chắc chắn, thực sự; vēda - để biết; ka - ai, cái gì; iha - ở đây, trong thế giới này;pra - về điều đó; vōchat (vāc, vāca) - được nói (b) kuta (kutas) - bằng cách nào, từ đâu; ājātā - được tạo ra, phát sinh; kuta (kutas) - bằng cách nào, từ đâu; iyaṃ - cái này; visṛṣṭiḥ - Sáng tạo riêng biệt, Sáng tạo chi tiết, Sáng tạo với cường độ, đa dạng (c) arvāg (arvāk) - sau này, sau; dēvā - Thượng đế, Trời, thần thánh;asya – chỗ ở; visarjanē - sản phẩm, sáng tạo, sắp ra mắt; nā - phải không? (d) āthā - thế thì, người nào khác, làm sao khác; kō - ai, cái gì; vēda - để biết; yata - nơi mà; āba – sự bắt đầu; bhūva (bhu) – đi đến thành hiện hữu


7.
iyaṃ visṛṣṭir yata ābabhūva yadi vā dadhē yadi vā na |
yō asyā adhyakṣaḥ paramē vyōman sō aṅga vēda yadi vā na vēda || 7 ||
(a) iyaṃ - cái này; visṛṣṭir – sự Sáng tạo riêng biệt, Sáng tạo trong chi tiết; yata - nơi mà; āba - bắt đầu;bhūva (bhu) - hiện hữu (b) yadi vā - nếu-hoặc-nếu, dù-hoặc, dù-hay-không, tuy nhiên; dadhē - để giữ, sở hữu, để cho; yadi vā na - dù có hay không (c) yō - như, kể từ; asyā – chỗ ở, trú ngụ; adhyakṣaḥ (adhyaka - giàu có trong tri thức) - giám sát, chứng kiến ​​với mắt, có quyền năng nhận biết; paramē (parama) - tối đa, cùng cực, xa nhất, cao nhất; vyōman - trời, ête, không gian (d) sō - để kết luận, để hoàn thành; aṅga - quả thực, đúng; vēda - để biết; yadi vā - nếu-hoặc-nếu, dù-hay, dù-hay-không, tuy nhiên; na - không; vēda - để biết

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

CON ĐƯỜNG KHÔNG CÔ ĐƠN





Nguyễn Hoàng Đức

Không có em
Anh mới có dịp ngắm lại chiếc bóng của mình
dọc con đường mưa nhè nhẹ

Không em trong vòng tay
Anh cố xiết bóng mình cô quạnh
hồn gặp thân
thân gặp bóng
bỗng chớp lên ý tưởng
chỉ có trong cô đơn
ta mới được uống cạn chính mình
ta chạy trốn ta
ta rượt bắt ta từng bước
và ôm ta trọn vẹn
trong vòng tay xiết lấy
hững hờ bờ vai quen thuộc
vẫn lại là mình!

Và cứ thế
mỗi lần anh bắt được mình
lại cảm thấy lòng sao trống rỗng!
chẳng khác nào chiếc đấu kia
đang tự đong lấy vỏ của mình
trò chơi vô ích chăng?
Anh tự nhủ
Ồ, không!
mỗi lần câu hỏi đó nhen lên
là một lần
em len vào một chút
dâng lên... dâng lên...
đầy tràn... và anh bỗng thấy
trong cuộc rượt bắt chính mình
nỗi cô đơn không thể nào vượt qua khoảng trống
vực thẳm gót chân em khơi lại phía sau mình
ôi, chỉ có em, có em thôi!
mới lấp được khoảng không hun hút đó
để nỗi cô đơn của anh gặp lại mình
để hai nỗi cô đơn của đôi ta chồng khít lại
lấp tràn khoảng không băng giá
gom thành một khối cô đơn chẳng còn cô đơn nữa!

Trong cô đơn
Anh không uống được mình
Như chiếc miệng chẳng thể nào uống nổi vầng môi!

Trong cô đơn
Anh không thấy được anh
Như mắt làm sao thấy nổi con ngươi!

Trong cô đơn
Anh không nghe thấy anh
Như đôi tai không nghe nổi hốc thẳm lặng câm của chúng!

Và em xuất hiện
Tình yêu là huyền nhiệm
Khi anh uống lấy em
Nghĩa là anh đang trở thành nước uống!

Khi anh lắng nghe em
Anh liền hóa âm thanh
vọng đến tai em nhịp đập của ái tình!
Ôi kỳ diệu tình yêu
Khi trao ban cũng là khi nhận lấy!

Ước gì, phía kia
cuối con đường mờ mịt trong mưa
khi nỗi cô đơn của anh sắp bắt kịp mình
bất ngờ bắt gặp em!

Và em ơi
Ánh mắt anh sẽ đổ xuống mắt em
tất cả suối nguồn khao khát
mong uống cạn những lớp sóng thủy triều
dâng nhớ nhung từ mắt em
vô tận...

Con đường không còn cô đơn nữa
Nó đã hóa con đường
Ta chạy trốn nỗi cô đơn của ta
Không phải đến với ta
Mà tìm đến với nàng
tiếng chân bước chẳng còn lạc lõng
nghe từng bước vang lên
có một hòa thanh
của tiếng chân ai vọng đến
cuối con đường...

Hà Nội
tối 26/3/1997

Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2018

Xác Ướp








Tru sa


Tôi sắm được một căn hộ nhỏ nằm liền kề trung tâm thành phố. Tôi không có hàng xóm. Quanh đây chỉ có các cửa hàng và một vài chi nhánh của công ty tư nhân. Tôi vẫn mời nàng về nhà. Hoặc nàng tự đến. Luôn có những bữa cơm theo kiểu vợ chồng son không hôn thú, nhưng cũng chỉ thế.

Chuyển tới căn hộ này, tôi muốn tách khỏi mẹ và dượng. Hẳn nhiên hai người họ còn rất thương tôi. Họ chu cấp đầy đủ tiền bạc, ngay tới căn hộ này đây, dù là ý của tôi nhưng vẫn phải cần đến tiền của dượng. Một sự thay đổi để tôi và nàng có thể sống chung và mãi bên nhau…Tôi không chắc. Tôi không ở nhà thường xuyên. Nàng sống một mình nhưng dù thế nàng cũng không định chuyển tới đây để trở thành một nội trợ đảm đang.

Tôi và nàng chưa bao giờ cố định vào một điều gì.

“Dựng một gia đình, ngay ở đây, được chứ.” –Tôi nói.

“Anh thật muốn như thế.” – Nàng nói.

“Có lẽ…”-Tôi nói.

“Ở cùng nhau, có thật sự là hạnh phúc. Anh nghĩ lý tưởng gì trong chuyện này. Ngày trước cha mẹ em cũng đã nói như vậy. Giờ họ đã vô tăm tích trong cuộc đời nhau.”

“Điều quái gì là nghĩa lý bây giờ?”

Nàng im lặng. Tôi cũng im lặng.

Không có thêm một tiếng vang nào. Tôi khuấy động căn hộ bằng cách bế nàng lên giường.

Nàng biết nấu ăn, thêu thùa hoặc đồ họa máy tính. Nàng chưa ổn định công việc. Đấy là do nàng muốn vậy. Chi tiêu hàng tháng nàng tự kiếm lấy bằng cách làm nhiều việc khác nhau. Đã một lần tôi thấy nàng trong trang phục nhân viên lễ tân nhà nghỉ. Khi ấy tôi đi cùng một cô gái và đặt một phòng theo giờ. Tôi và nàng không nói gì với nhau. Phòng nghỉ tôi vẫn đặt. Nàng đưa chìa khóa rồi chỉ lên tầng. Việc lang chạ của tôi nàng biết. Tôi cũng có thể kể cho nàng mình đã quan hệ với bao nhiêu đàn bà. Nàng không phải người đàn bà duy nhất có quan hệ xác thịt với tôi. Chỉ nàng là người tình của tôi.

Có một thời gian nàng đăng ký học nhu đạo. Chỗ nàng học không phải một lớp ngắn hạn được dạy trong khuôn viên trường học vào mỗi tối. Đấy là võ đường có uy tín do các võ sư người Nhật truyền dạy. Biết vài miếng võ nàng sẽ có thể tự bảo vệ mình khi tôi không có bên cạnh. Được một thời gian nàng bỏ dở. Võ sư dạy cho lớp nàng nuối tiếc về điều này. Nàng học rất nhanh và dường như có tố chất con nhà võ. Trong lớp (Tất nhiên là lớp nữ), nàng là người chỉ trong một thời gian ngắn lên được đai xanh. Bởi nàng học nhu đạo nên tay chân không có nhiều vết chai, nhưng các vết trầy xước thì vẫn có. Trong một lần tập luyện nàng đã bị chấn thương, phần thương tích đấy đã thành sẹo. Nàng không khóc, còn việc vết sẹo có làm thân thể nàng xấu xí hơn không thì có lẽ cũng chẳng phải vấn đề. Vết sẹo nằm ở hông, tôi vẫn thấy nó mỗi khi cùng nàng lõa lồ trong một cuộc ái ân. Tôi chắc nàng không bỏ dở việc học võ chỉ vì thương tích nhỏ này. Lần đó đối thủ của nàng đã bị đo ván và xem chừng tình hình còn đáng lo hơn. Cú vật của nàng đã làm cô ta gãy xương.

Nàng vẫn thường với tôi về một nhà văn. Cái tên này, nàng đã nhiều lần nhắc đến. Nàng vốn không siêng đọc sách. Bằng chứng là tôi chưa bao giờ thấy nàng mua sách, cũng như chẳng có một cuốn sách nào trên kệ tủ nhà nàng. Riêng cái tên này thì nàng lại mến mộ. Một nhà văn, với cái tên Ai.

*

Trời bắt đầu sáng. Nắng đã lên cao và phủ xuống mọi ô nhà manh áo bằng rơm. Sân thượng của tòa nhà cao đã thấy tiếng chim gọi bầy. Ngoài đường đã thấy tiếng người đi lại. Chiếc xe buýt đi chậm lại và dừng ở một tuyến đợi ven đường. Tôi ngáp dài rồi mở bao thuốc rút thêm một điếu. Nơi tôi ngồi là bậc lên xuống cầu thang bộ. Tôi ngồi đây từ tối qua, sau khi tạm biệt nàng ở quán bar. Suốt đêm qua tôi loanh quanh trên cầu thang bộ và hút thuốc. Ống lọc và tàn thuốc vương vãi dọc lối đi. Cách đây vài giờ tôi đã đái một bãi trên này. Vũng nước tiểu đã ngấm mất tiêu nhưng mùi vẫn khăm khẳm. Tôi đi lại trên cầu thang bộ. Mở bao thuốc, tôi rút thêm một điếu. Bật lửa đã hết ga. Tôi ngậm điếu thuốc trên miệng, cắn lấy đầu lọc rồi đi ngược lại phía mình vừa đi.

Một lát, tôi nhổ điếu thuốc với đầu lọc đã bị nhai nát. Tôi rời khỏi cầu thang bộ. Bắt đầu nghe thấy tiếng còi xe.

Tôi không ăn sáng. Hơn một tiếng sau tôi gặp nàng.

“Anh đi bộ à?” – Nàng nói với tôi.

Tôi gọi thuốc lá. Nàng gọi thêm một cốc sữa tươi để ăn cùng bánh ngọt.

“Nhìn anh có vẻ mệt mỏi quá, tối qua anh không về nhà phải không?”

“Anh đi dạo cả đêm, không mệt chút nào.”

Chúng tôi nói về chuyện các bài hát đang thịnh hành cùng mấy bộ phim bom tấn sắp công chiếu. Tôi châm thuốc hút. Khói thuốc phả vào mặt nàng. Nàng không xua khói, cũng không cau mày.

Tôi nhìn nàng. Đôi mắt tròn nằm dưới hàng lông mày lá liễu này tôi đã vài lần nhìn vào. Mắt nàng sâu lắng như vướng phải một nỗi buồn từ hàng thế kỷ. Đôi mắt nàng luôn hướng về một nơi chốn mà không bao giờ tôi hiểu được. Tôi không muốn nhìn vào mắt nàng. Tôi ghét điều này. Hút hết thuốc, tôi rút thêm một điếu.

Nàng nói về Ai.

“Ông ấy tự tử bằng súng lục. Một phát đạn ngay chính miệng.” – Nàng nói.

“Mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết.” – Tôi vẩy tàn thuốc xuống sàn - “Già chết, bị đâm chết, bệnh chết hay tự bắn chết cũng như nhau cả. Vẫn chỉ là một cái xác ngã xuống và thối rữa.”

“Một phát đạn vào cuống họng, và chấm hết…” – Nàng vẫn nói.

Quán có thêm khách. Họ ngồi đối diện với tôi. Chủ quán mở nhạc, một bản nhạc đồng quê với volum vừa đủ. Tôi đốt thêm một điếu thuốc. Tôi cảm thấy váng đầu và đắng miệng. Mười mấy tiếng qua tôi chỉ cháy trong khói thuốc. Nàng hỏi tôi có ăn gì không. Tôi lắc đầu và gọi thêm thuốc lá.

*

Nàng đã đúng. Hôm trước tôi đã đi bộ tới quán. Tôi không nhớ rõ mình đã để xe ở đâu. Chắc chắn tôi không cho ai mượn hoặc gửi ở một bãi trông xe nào đó quanh thành phố. Chìa khóa xe cũng mất tiêu cùng.

“Chắc mình quên rút chìa khóa xe và một thằng cha đã nhanh tay.” – Tôi nói với suy nghĩ của mình. Tôi châm một điếu thuốc, chậm rãi hút.

Trên tờ nhật báo cuối tháng có đăng một bài về một nữ diễn viên đột tử trên sàn diễn. Gương mặt diễn viên này kể ra cũng khá quen. Bà ấy quá bảy mươi và đây cũng là vai cuối cùng của bà ấy. Theo những gì tôi đọc ở bài viết thì diễn viên đã dùng thuốc mỗi khi lên sàn diễn. Đây là một bộ phim điện ảnh và đòi hỏi có những phân đoạn mạo hiểm.

“Nếu không có sự cố này, đây sẽ là một bước ngoặt lớn của…Bộ phim đã được giới Holywood để mắt tới.”

Đấy là lời kết lại của người viết bài này.

Bộ phim rất thành công. Danh tiếng của đoàn làm phim trở thành vị trí dẫn đầu trong ngành phim ảnh Việt. Người nghệ sỹ được trả cát-xê bằng một lễ tang long trọng.

Tôi mở trang báo tiếp theo.

*

Từ ngày thành phố có khu thương mại tổng hợp, nhiều người đã tụ họp ở đây. Ngoài khu bách hóa, bên trong còn có bể bơi và một sân bóng nhỏ sẵn sàng cho thuê. Tôi ít khi ra vào mấy nơi chuyên về hoạt động ngoài trời. Chỗ của tôi là ở quầy bar. Nơi đây luôn có âm nhạc, đủ loại đồ uống và tôi thì luôn gọi thuốc lá. Tôi vẫn gặp nàng ở quầy bar. Nàng tới đây để gặp tôi, nàng không chủ ý một món ăn hay đồ uống nào ở quầy. Tôi gọi gì nàng uống nấy, nhiều khi nàng còn nhờ tay bồi bàn chọn giúp. Giá cả ở đây rất đắt nhưng tôi thì không thiếu tiền. Người dượng của tôi không phàn nàn về chuyện này, ông ấy dành cho tôi một tài khoản. Hàng tháng tiền vẫn chuyển đều.

Hôm nay nàng không đến. Tôi ngồi một mình. Trên bàn chỉ có tàn thuốc và đầu lọc thuốc lá. Ly cocktail gọi từ lúc vào vẫn còn đấy. Sau cú đấm trời giáng, tay bồi bàn đã không dám lèo nhèo về việc vứt tàn thuốc bừa bãi của tôi nữa. Nhạc đã hết, người phục vụ tua lại từ đầu. Tiếng kèn trumlet và một câu hát vang lên. Tôi đã nghe bài hát này đâu đó rồi. Có lẽ là tôi đã từng mê mẩn và còn hát theo khi tới đoạn mình yêu thích. Tôi thử hát theo, lời không khớp. Tôi huýt sáo, tiếng vẫn lệch. Gõ tay theo nhịp, tôi thành kẻ phá ngang bản nhạc.

“Bố khỉ…” – Tôi gác những suy nghĩ lại bằng một hơi thuốc.

“Em có thể ngồi đây chứ.”

Một vũ nữ. Tôi chắc chắn. Ả ngồi cạnh tôi và bắt đầu hỏi chuyện.

“Anh có chuyện buồn phải không? Em cũng không vui vẻ gì…”

Ả hỏi tôi. Tôi rút thuốc hút. Ả kể về mình.

Tôi hút một hơi sâu rồi nhả khói qua mũi.

Chợt ả cười phá lên. Ả lại tiếp tục nói. Tôi rít thuốc.

“Vừa nãy em nói đến đâu rồi.”

“Chịu.”

“Ừ, thì chịu.”

Ả uống cạn ly cocktai.

Ả đã nói thêm gì đấy. Ngay khi rời khỏi Bar, chúng tôi tìm một khách sạn và làm tình. Tôi không ngủ chung với ả. Hai chúng tôi chỉ cuồng hoan trong chốc lát rồi biến khỏi cuộc đời nhau. Tôi mở bao thuốc. Ngón tay tôi không tìm thêm được điếu nào. Ném vỏ thuốc, tôi đi dọc trên vỉa hè. Gần sáng, trời lất phất mưa. Sương vẫn dày và nặng trĩu trên mỗi cành cây. Tôi đi trong màn sương. Mưa xối xuống. Tôi không đi nép dưới mái hiên. Tôi trầm mình trong cả mưa lẫn sương.

*

Căn hộ thế là đã năm ngày vắng chủ. Mấy ngày qua tôi như tên hành khất. Bạ đâu ăn đấy và qua đêm ở bất kì đâu, hễ thấy mệt. Khi thì ở quán karaoke, khách sạn, ghế đá công viên, vỉa hè, dưới chân cầu thang bộ hoặc một xó xỉnh trong chợ…Giờ, tôi mới rời đi. Tôi trở về nhà. Không phải căn hộ. Đây là nhà tôi. Chuyện chiếc xe khiến việc đi lại của tôi khó khăn. Nàng sẵn sàng nhượng lại chiếc Attila cho tôi nhưng đấy không phải điều tôi mong. Tôi chỉ cần nàng chở đến điểm dừng xe bus có tuyến đi qua nhà tôi.

Cửa mở, tôi đi vào. Nhà tôi rộng, có sân và nuôi ăn ở một đám giúp việc. Mấy con nhóc giúp việc đang tuổi mới lớn tôi đã thử qua. Chúng sành sỏi chuyện giường chiếu hơn tôi nghĩ. Sau mỗi cuộc chơi, tôi phóng tinh lên bụng chúng rồi lấy chân, di bằng hết. Tôi rút tiền, quăng tung tóe trên giường. Khi một đứa đe dọa tôi bằng một cái que với hai vạch đỏ, tôi ném thêm tiền. “Tống nó khỏi bụng mày, hoặc chính tao sẽ lóc nó ra.” – Tôi nói thế và mấy hôm sau con nhóc trình diện tôi bằng một cái bụng eo ót. Cái bụng nhỏ nhắn đó khiến tôi vừa lòng và khơi dậy trong tôi ý nghĩ về một cuộc mây mưa.

“Cậu chủ đi đâu cả tháng nay thế.” – Một ai đó trong bọn giúp việc nói.

Tôi nghe thấy tiếng mẹ. Bà đang ở tầng hai và đang khóc nấc lên. Chẳng có gì hệ trọng cả. Chỉ là bà đang xem một bộ phim tình cảm. Những đĩa phim luôn chật ních trong ngăn tủ.

Tôi đi tới cạnh bà, bốc một miếng bánh trong hộp bánh mà bà đang ăn.

“Con về rồi đấy à.” – Mẹ tôi nói, rồi mời tôi ngồi xuống.

Đôi mắt mẹ vẫn ướt nhòe vì bộ phim.

“Phim hay lắm con ạ. Anh này…Cô này…”

“Con ghét phim tình cảm.” – Tôi nói và bốc thêm một miếng bánh.

Mẹ tôi tiếp tục xem phim. Một lúc mẹ hỏi về việc dọn ra ngoài ở của tôi. Tôi nói ổn. Bà mỉm cười với tôi.

“Dượng đâu rồi!”- Tôi nói. Lời tỏ tình của đôi tình nhân trong phim vang hơn tiếng tôi.

“Cha con đi công tác.”

“Mẹ còn nhớ mã két không?”

“Ngày sinh của con.”

“Mẹ đọc đi.”

“Con không nhớ à? Trong chứng minh thư hoặc giấy tờ tùy thân có đấy.”

Tôi ngồi dậy. Đi vài bước tôi nghe thấy tiếng nấc. Lúc trước mắt mẹ hoe đỏ và giờ thì nó đã ướp nhèm. Nước mắt rơi thành hai hàng dài và chảy đều nhau. Mẹ rút khăn giấy lau mắt. Trong tiếng khóc mẹ kêu lên “Don Suke, đừng bỏ cô ấy…”

Tôi lấy mười triệu, rồi đi khỏi nhà.

*

Khác với mẹ, nàng không khóc bao giờ. Nàng là người thành phố, tôi chuyển đến đây không lâu nhưng nàng thì ở đây từ lúc còn rất nhỏ. Cha mẹ nàng tôi không thấy mặt, cũng không nghe nàng kể và tôi cũng không hỏi. Giờ nàng sống một mình. Ngày trước…Dẹp chuyện vớ vẩn đó đi. Quá khứ đáng bị nhổ nước bọt. Một tên bạn của tôi, đã từng là nhân tình của nàng. Hắn là người đàn ông đầu tiên của nàng. Tất nhiên. Cũng chính hắn giới thiệu nàng với tôi. Về chuyện này, tôi mang ơn hắn.

“Nó chẳng khóc bao giờ, tao ghét điều này. Tao đã tát vào mặt nó, xé hết quần áo rồi dẫm lên người nó. Tao lấy roi đánh vào người nó, rất mạnh đấy tiếc là nó vẫn không chịu khóc lấy một tiếng. Một con đàn bà như vậy thật cụt hứng. Này, khi làm tình mày làm nó kêu to tới mức nào.” – Hắn nói với tôi, và cười. Tôi biết được lý do về mấy vết sẹo, không do tập nhu đạo.

Mấy hôm sau, nhà hắn bị cháy. Ngọn lửa khủng khiếp, lớn ngoài sức tưởng tượng đã nghiền nát mọi thứ. Người nhà hắn bị lửa hun thành xương đen. Hắn thoát chết nhưng cơ thể hỏng cả. Tôi tới thăm, mang theo quà cùng một bó cẩm chướng vàng. Hắn giờ đây nằm còng queo trên giường. Toàn bộ cơ thể hắn bị băng kín như xác ướp. Chỉ có hai con mắt ló ra từ lớp băng bùng nhùng. Thấy tôi hắn mừng rỡ và dường như muốn nói gì đấy. Miệng hắn không mở được thành tiếng. Tôi ghé vào tai hắn và khẽ nói : “Nhà mày cháy hả? Tao biết hết, biết cả. Tao đã nhìn, trọn vẹn. Vì…”

Mắt hắn trợn trừng, dường như định nói gì đấy. Tôi không nhìn hắn và ra khỏi phòng. Ra đến cửa, cô y tá hỏi tôi về hắn, tôi nói ổn và nhét cho cô ta một chút tiền.

Chuyện này, tôi có kể với nàng. Nàng hỏi tôi “Thích không.” Tôi lắc. Rồi tôi hỏi lại “Em thấy thế nào.”

“Chịu thôi.” Lời của nàng. Tôi dự trù sẽ đáp lại chính câu này, nếu nàng hỏi lại. Thế nhưng nàng không hỏi.

Nói đến nước mắt thì tôi chưa khóc bao giờ. Ngày chào đời tôi đã không khóc. Ngày cha mất tôi không khóc. Một tuần lễ sau, mẹ tái giá tôi cũng không khóc. Nàng cũng không khóc bao giờ

“Em đang theo một lớp hội họa.” – Nàng nói với tôi.

“Rồi thì em cũng bỏ nó theo một trò gì khác thôi.” – Tôi rít một hơi thật sâu.

“Phía chân trời, vết nứt đã loang ra và rộng lắm rồi. Tôi bẻ đầu mình xuống. Nơi cần cổ máu không chảy mà mọc lên cái đầu khác. Tôi lại bẻ nó xuống. Một cái đầu tiếp tục nhú lên. Dưới chân, những cái đầu lăn lóc. Biết bao cái miệng lập bập như nói thầm với nhau. Tôi vẫn đứng đấy và tiếp tục ngắt đầu mình…”

“Cái quái gì thế.” – Tôi dập điếu thuốc đang cháy dở.

“Mỗi người cần bao nhiêu cái đầu để sống đây?” – Nàng nói. Lời nàng ngắt quãng nhưng rất rõ ràng. Đôi mắt nàng vẫn lạ quá. Ánh nhìn. Chẳng buồn, chẳng vui, cũng không phải đăm chiêu. Nó hờ hững như vệt khói bị gió thổi tan.

“Ai đã viết thế.”

“Em nói ai?”

“Ai đã viết thế.”

“Ai kia?”

“Là Ai.”

“Có phải cái tay nhà văn tự bắn vào mồm.”

“Ông ấy giã biệt khỏi trần gian và đến thánh đường của mình.”

Tôi châm điếu mới.

“Tự tìm đường chết thì hay quái gì. Mà em đọc toàn thứ nhố nhăng thế.”

“Ai đã chết trên số bản thảo chưa một lần công bố. Nó là di cảo của thánh thần. Chẳng ai biết được về sự vĩ đại như thế.”

“Nhà văn thích tự sát lắm.” – Tôi nói.

“Cuộc đời nhà văn chỉ có cái chết.” – Nàng nói. Một nụ cười hé trên môi nàng - “Họ gánh cái chết thay chúng ta. Máu họ đổ thành chữ và đấy là kinh thánh.”

Nàng ngửa cổ, mắt nàng nhìn lên cánh quạt trần rồi nhắm từ từ. Tôi rít một hơi dài rồi nhả khói. Ba mảnh khói, lồi lõm như ba cái sọ người.

Tôi bật cười, rồi im hẳn.

*

Một tháng nay tôi lang thang khắp thành phố. Vạ vật ở nhiều ngõ ngách. Ăn uống bừa bãi, thậm chí tôi còn chẳng ngủ. Có một vài chuyến đi xa, cùng bầy bạn. Nàng không có trên chuyến đi. Gần đây nàng bận với trò vẽ vời. Nàng có gọi điện cho tôi, hỏi về chuyến đi. Tôi nói ổn.

Nàng nói về Ai. Tôi đã rõ, nhà văn Ai.

Kết thúc chuyến đi, tôi về căn hộ. Việc đầu tiên về nhà là tìm mua một cây Ba Số để hút dần. Phòng ẩm thấp vì lâu chưa được quét dọn. Trần nhà bắt đầu có mạng nhện. Đĩa cơm rang trên bàn giờ đã mốc meo, hạt cơm khô đanh như hạt sỏi. Có một lớp nấm trắng mọc trên đấy. Gián bò quanh nhà. Có chuột nhưng chúng đã lẩn đi khi tôi bật đèn. Quá mệt mỏi và không muốn dọn dẹp. Tôi châm một điếu thuốc.

Tôi ngả lưng sau ghế sofa. Có thật là tôi đã vui chơi hết sức và đang mệt lử. Tôi nói gì trong chuyến đi. Ai nhỉ? Người này…Người kia…Đã nói chuyện gì với tôi. Thuốc lá và rượu mạnh…Hình như có mấy thân xác đàn bà…Và…Chắc chỉ có thế.

Thuốc cháy hết, tôi hút thêm.

Mở máy tính, tôi truy cập vào một trang wed chuyên về giải trí. Trên trang chủ có một bức ảnh hài hước với các bộ mặt đã bị làm méo đi. Có một dòng chữ ngô ngê được chèn dưới bức ảnh. Tôi phì cười.

Tôi luôn cười mỗi khi xem một bức tranh hề, hoặc do vẽ tay hoặc là ảnh một ai đó cố làm mình méo mó bởi những động tác quái gở. Tôi dễ bị chọc cười. Và tôi đã cười phá lên, trong giây lát. Nhớ lại về điều đấy, tôi cố tìm lý do để cười.

*

Nàng cho tôi xem mấy bức tranh vẽ trong khóa học. Ngoài mấy mẫu tĩnh vật còn lại đều là chân dung. Có vẻ như nàng đã quá thích thú với trò vẽ vời này rồi. Nàng đã sắp xếp hẳn một gian phòng chỉ để vẽ tranh. Nhìn vào giá vẽ, tôi thấy một tranh chân dung. Mái tóc ngắn với những lọn xoăn, khuôn cằm vuông và điểm ít râu thì hẳn là một hình đàn ông. Chưa có mắt mũi, ngay tới một nét nhỏ, biểu hiện cho một nếp nhăn vẫn chưa có.

“Thử vẽ anh đi.” – Tôi nói.

“Anh ngồi xuống ghế đi.” – Nàng hỏi lại.

“Đùa thôi.” – Tôi nhìn sang các bức tranh khác.

Không một bức nào. Thật là như thế. Không một bức chân dung nào là đầy đủ mặt mũi. Tôi đã tìm cả các bức tranh đã được phối màu thì vẫn chỉ thấy một bộ mặt trống rỗng. Ở một bức tranh, xét theo mái tóc buông dài cùng cái cổ áo dài thì nàng vẽ một thiếu nữ. Khuôn mặt rất cân đối, nét vẽ dù chưa đủ cứng cáp nhưng rất uyển chuyển và tạo được một trạng thái sống cho bức tranh. Tiếc rằng các nét trên khuôn mặt vẫn chưa được vẽ. Nàng để rỗng bức chân dung.

“Anh uống trà hay cafe.”- Nàng nói.

“Sao cũng được.”

“Bao giờ thì em hoàn chỉnh các bức tranh.”

Nàng chọn café. Tôi hút thuốc trong lúc chờ nước sôi.

“Em không biết.” – Nàng nói.

“Em sợ vẽ hỏng ư?”- Tôi nói.

“Không.” – Nàng đáp.

“Vậy vẽ làm khỉ gì.”

“Anh nghĩ bao nhiêu đường nét mới đủ cho một khuôn mặt đây. Không quy chuẩn nào hết.”

Mắt nàng, tôi không muốn nhìn vào nữa. Tôi chỉ hút thuốc. Nàng nói về Ai.

“Họ là ai? Tại sao tôi đi cùng họ? Họ có đi cùng nhau không hay đấy chỉ là sự lạc đường của những đức tin.” – Lại một câu văn ngu ngốc nữa từ Ai.

Tôi cố pha trò bằng mẩu chuyện cười vớ được trên báo. Nàng không cười, tôi cũng không cười. Tôi nói về chuyện của một người. Thêm một người nữa…Câu chuyện chết trong im lặng. Tôi hút cạn điếu thuốc bằng một hơi dài.

“Có bao giờ anh nghĩ chúng ta là thứ gì đó không?”

“Thứ gì.”

“Anh nói xem…”

“Thứ quái gì chẳng được.”

“Ai đã từng nói về một trạng thái sống. Ôi, một dạng sống nhưng chẳng sống và cũng chẳng chết. Có lẽ rằng, lâu lắm rồi chỉ những cái bóng nhưng chẳng là bóng vật vờ qua lại...”

“Làm sao bây giờ…” – Nàng nói trong nỗi buồn. Nàng nhấp một ngụm café.

Ai. Tại sao lúc nào cũng là Ai. Thứ ám muội này luẩn quẩn trong đầu nàng lâu quá rồi. Tôi nghĩ đến việc làm tình. Ý nghĩ tắt phụt ngay khi vừa hiện ra. “Có lẽ nào, tôi với nàng…Chỉ như thế…”

Tôi ngậm một điếu thuốc. Bật lửa hết ga. Nhà nàng không trữ bật lửa hay diêm. Tôi nhào lên nàng. Nàng lẩm bẩm gì đấy, tôi nghe không rõ. Đầu lọc thuốc bị tôi nhai nát nhừ. Phần dưới vẫn nã xuống nàng.

*

Mẹ gọi điện.

Dượng chưa về. Tài khoản của tôi và mẹ hàng tháng vẫn được chuyển tiền.

Mẹ kể về mấy bộ phim tình cảm. Một hoàn cảnh bi đát, rồi một cuộc tình đẹp bị chia cắt bởi sóng gió…Thế là mẹ khóc. Nhắc tới một chuyện tình éo le khác, mẹ bật khóc. Nước mắt rơi dễ thế sao.

Tôi cáo bận và gác máy.

*

Ngồi quầy Bar nửa ngày trời, giờ tôi muốn đi đâu đấy. Tụ điểm vui chơi ở khu số 6 khá nhộn nhịp với đủ mọi lứa tuổi. Tôi tạt qua đó, rồi lại đi ra vì không biết chơi trò gì. Loanh quanh một hồi, tôi ấn thang máy và lên tầng thượng.

Không vướng vào chút suy nghĩ nào. Tôi châm thuốc hút. Trước giờ tôi không hút cố định một loại thuốc nào, thấy thuốc là tôi vớ lấy. Đứng trên này có thể thấy mọi sinh hoạt ở dưới. Từng điếu thuốc cháy liền một lúc.

Tôi nhìn xuống một quầy trò chơi. Có lẽ là bốc thăm trúng thưởng. Mấy hình ảnh chưa kịp nhập vào đầu đã chạy biến đi. Tôi nhìn sang một phía kia, rồi một phía kia…Một thân xác đàn bà nóng rẫy, bộ ngực căng tròn với đầu vú săn cứng vì được mơn trớn, cặp đùi hé mở chờ đợi…Và…Và…Chẳng nghĩ nổi nữa. Điếu thuốc tiếp tục cháy trên miệng.

Cười một cái xem. Tôi ráng nghĩ như thế. Một ông già luống tuổi râu ria xồm xoàm mặc váy đang õng ẽo và tỏ vẻ bẽn lẽn. Một thanh niên ngã cắm đầu vào bãi cứt, hai chân chổng lên trời, vẫy vẫy…Rồi thì, một ai đấy…Thế nào nhỉ…Tôi nhớ lại một đoạn trong Mr.Bean.

Tôi vẫn chưa cười được. Trước đấy tôi từng cười phá lên cơ mà.

Tôi rút thêm thuốc. Điếu cuối cùng. Tôi xuống tầng.

Một phút dừng chân. “Vừa rồi mình nghĩ về cái gì nhỉ.”

Một tuần đã qua. Tôi không gặp nàng. Nàng cũng không gọi cho tôi. Điện thoại có tin nhắn. Nhiều số và nhiều cái tên.

Căn hộ của tôi như một bãi rác. Mọi ngõ ngách đều có mùi ẩm mốc. Chuột không tránh tôi và tôi ở chung với chúng. Tôi ghét phải dọn dẹp, tôi cũng nghĩ điều này không cần thiết. Nếu muốn một chỗ sạch sẽ, tôi có thể vào khách sạn. Trong nhà nhìn đâu cũng chỉ thấy đầu lọc và tàn thuốc. Đèn vẫn bật sáng. Tôi ngồi trên giường, miệng vẫn ngậm điếu thuốc. Tôi không nghĩ ra cái khỉ gì trong đầu. Nếu mở máy, nhìn vào bức hình nàng trên desktop, rất có thể tôi sẽ nảy ý gặp nàng. Nhưng để lúc khác.

“Ai là ai?”

Nàng luôn nói về người này. Như nàng từng nói, đấy là một nhà văn tầm cỡ. Rõ ràng lão đã chết rồi. Sao nàng luôn thích nhắc về một người chết nhỉ. Mối bận tâm của nàng là về nhà văn Ai. Cái kẻ lạ hoắc này đã chen vào chuyện tình giữa tôi và nàng. Ghen tuông ư? Không thể nói vậy. Bởi lẽ tôi chưa bao giờ bực bội mỗi khi nàng dùng cái tên này để cắt ngang lời tôi nói. Không chút ngờ vực nào. Tôi tin tưởng nàng đến thế ư…

Điếu thuốc vẫn ngậm trên miệng dù đã cháy hết từ bao giờ.

Tôi ngồi dậy. Cái tên Ai vẫn chạy trong đầu tôi. Mở Wikipedia và tìm kiếm cái tên này?

Ý nghĩ là thế. Tôi không mở máy và hút một điếu mới.

Chờn vờn sáng, tôi nhận được hung tin. Nàng đã chết. Khi đấy còn sớm, tôi đương ngái ngủ và thế là tôi ngủ lại ngay.

*

Không gọi được cho nàng, tôi tin hơn về cái tin báo của số máy gọi cho mình. Một số máy lạ hoắc, hẳn là thế vì không thấy hiện tên. Tôi gọi lại cho số máy kia thì nghe tiếng báo không liên lạc được của tổng đài.

Tôi đến nhà nàng. Những người sống quanh đấy cho biết xác nàng đã được chuyển vào bệnh viện. Điếu thuốc vẫn trên miệng, tôi thong thả rít từng hơi.

Đầu óc tôi có còn tỉnh táo nữa không. “Nàng chết rồi đấy.”- Tôi muốn nói to như thế. Tôi dừng hút thuốc. Sao chẳng có một chút bận lòng. Tôi không nghĩ gì, cũng chẳng thứ gì vướng vào đầu để tôi có thể, chút nào đó nghĩ về nàng và rưng rưng.

Trong ví tôi có một ảnh thẻ chụp nàng. Tôi lấy nó ra và nhìn thật lâu. Để chắc ăn, tôi hồi tưởng đến gương mặt nàng trong đầu.

“Nàng chết rồi đấy!” – Một lần nữa tôi muốn mình nói to như thế. Miệng tôi vẫn mím chặt. Tiếng nói đấy chỉ ở trong đầu. Nó rất nhỏ và dường như đang biến mất.

Cố gắng tìm một lý do để mình phát điên lên. Tôi thất bại.

Theo khám nghiệm y khoa thì nàng đột tử. Thi thể nàng được đưa vào bệnh viện. Tôi phải đến sớm hơn, trước khi đám người đó chuyển nàng xuống nhà xác.

Khuôn mặt nàng bắt đầu nhợt nhạt vì mất đi sức sống. Tóc nàng xơ và rụng từng sợi. Mắt nàng vẫn mở. Có lẽ cái chết đến với nàng quá nhanh. Mắt nàng không vuốt xuống được. Nàng chết rồi cơ mà, đôi mắt này cũng nên nhắm lại đi thôi. Mở thấy gì nữa đâu.

Tôi không khóc. Cũng không gào rống lên. Tôi bình thản.

“Cô ấy chết vì dùng morphin quá liều.” – Viên bác sỹ nói với tôi.

“Morphin ư?” – Tôi nói.

“Đúng vậy, morphin.”

Tôi mở bao thuốc. Bác sỹ bảo không được. Đây là bệnh viện.

Hai ngày sau khi nàng chết tôi vẫn ăn ngủ bình thường. Tôi chẳng dính vào một giấc mơ hoặc hồi tưởng nào liên quan đến nàng. “Nàng đã chết.” – Có nói to cũng chỉ thế. Bức chân dung của nàng kia. Tôi nhìn vào đấy, giục mình nhớ về nàng. Tôi nhớ ra nhiều thứ, và rồi lại quên đi.

Tôi bước vào nhà tắm. Tôi mở vòi hoa sen ở mức to nhất. Nước lạnh xối xuống lạnh buốt. Cái gương phòng tắm ở kia, tôi nhìn vào nó. Khuôn mặt tôi chẳng vui cũng chẳng buồn. Nó bình thản đến tức cười.

Tôi cố làm khuôn mặt trở nên đau đớn, trong đầu tôi nghĩ về nàng. Một cái chết trong tuyệt vọng. Nàng giẫy giụa, quờ quạng tay trên không và gọi tên tôi. Nàng có gọi cho tôi không? Có đi, và bao nhiêu cú? Nàng mong nghe giọng tôi lắm phải không? Hẳn thế rồi…Và sao nữa…Chịu. Cơ mặt tôi vẫn trơ lì như tượng vôi. Còn cái miệng đang tỏ vẻ đau đớn bằng cách ngoác ra gào thét thì lại giống với một điệu mếu máo đầy miễn cưỡng.

“Nàng chết rồi đấy! Hiểu chưa!” – Tôi nói to với cái mặt trong gương. Hắn nhìn tôi. Tôi nhìn hắn. Bốn mắt đâm thẳng vào nhau và chết lặng.

Tôi đập mạnh đầu vào cái bản mặt đang trân trân nhìn mình. Một tiếng “Xoảng” và gương vỡ. Từng lớp, từng lớp toác ra. Bộ mặt thối tha vỡ thành các khuôn mặt nhỏ. Những mảnh thủy tinh cắm vào trán và mặt tôi. Một cơn đau và tôi khoái chí. Tôi đã đau đớn vì nàng, cứ cho là thế…

*

Họ nói về việc làm lễ tang cho nàng. Ý của chính tôi và đây là sự chuộc lỗi của tôi với nàng.

Không ai biết tin tức về cha mẹ nàng. Nàng là con một. Lá đơn ly hôn chia đôi hai người họ và cũng chia đôi nàng với họ. Tôi muốn nàng yên nghỉ trong thanh thản và vì thế tôi lo tất cả chi phí. Mẹ tôi không phản đối, vì trước đó bà cũng biết đến sự có mặt của một nàng dâu tương lai. Dốc hết thẻ tín dụng và lấy thêm từ tài khoản dượng tôi đã có đủ tiền chuẩn bị cho đám tang. Tôi đã thuê được một người ở vũ đoàn kịch nói không tên tuổi đã hết thời. Đây sẽ là người chủ trì lễ tang dưới danh phận ông ngoại nàng.

Mắt nàng không thể vuốt xuống. Một điều không hay. Nàng sẽ khó về trời. Một người đã nói với tôi vậy đấy. Phải có cách khiến mắt nàng khép lại. Tôi không làm được. Viên bác sỹ đã khám nghiệm cho nàng nói về một liều thuốc có thể khiến cơ mắt giãn ra. Ông ấy đã thử nó và không được. Họ đã khâu mắt nàng bằng một cuộc tiểu phẫu. Tôi không phản đối.

Lòng tôi bình yên quá. Không có chút nhỏ nhói đau khi nghĩ đến nàng. Không, nghĩ về nàng, đấy là khi tôi ép mình phải làm vậy.

Tôi rút thuốc hút. Tôi hút tất cả thuốc mình có cùng một lúc. Vẫn chẳng gì vướng lại.

Nàng luôn yêu thích Ai. Điều này tôi còn nhớ. Nhà văn Ai.

Tôi muốn lão ta phải trở thành người hầu của nàng. Bởi tôi có chìa khóa nhà nàng nên có thể vào. Mấy đồ vật trong nhà không giúp tôi nhớ lại nàng. Ký ức về nàng đang nhòa dần.

Phòng tranh. Nàng chết trong phòng vẽ tranh. Các bức chân dung do chính nàng vẽ đều bị xé rách hết. Không một bức nào nguyên vẹn. Giá vẽ nằm chỏng chơ dưới đất. Cửa kính để mở. Cọ vẽ và hộp màu vung vãi khắp nơi. Tôi hút thuốc trong phòng tranh. Bóng tối ăn gần hết gian phòng dù cửa sổ vẫn đang mở và ngoài trời nắng to. Tôi đứng lặng ở đây. Một cái đầu rỗng tuyếch. “Phải rồi, người văn sỹ tên Ai…”

Tôi không tìm thấy Ai.

*

Không một chiếc khăn tang. Họ đến dự lễ tang bằng một cái đầu được chải chuốt gọn gàng cùng áo xống chỉnh tề. Trong đám người chỉ những con rối của tôi-Người nhà nàng là chít khăn và mặc áo xô gai. Họ rất chuyên nghiệp trong việc tạo một vẻ mặt khổ sở.

Mẹ tôi không chít khăn. Nàng chưa hoàn toàn là con dâu của bà. Những người viếng đang bắt chuyện với nhau. Một vài người còn tỏ ra hợp ý trong cách trò chuyện. Họ kết thân. Không ai nhắc tới nàng và tôi cũng chẳng thắc mắc. Nàng đâu có giao tình gì với họ. Ngày hôm nay họ viếng tang, vì cái tước vị mang tên tình làng nghĩa xóm.

Bưu ảnh của nàng kia. Tôi đứng rất gần. Mấy ngọn nến leo lét bởi một cơn gió lạ thổi qua. Mẹ đứng cạnh tôi và đang khóc. Mẹ đã an ủi tôi nhiều và tôi không còn muốn nghe thêm nữa.

“Cô ấy còn rất trẻ.” – Một người nói.

“Tớ từng học cùng cậu ấy, năm nào cậu ấy cũng đoạt giải nữ sinh thanh lịch.” – Một nhóm người nói với nhau, ở hàng bên kia.

Ông ngoại nàng đọc xong điếu văn và đã khóc. Mấy giọt nước mắt và điệu bộ khổ sở này cũng đáng đồng tiền bát gạo.

“Anh chị của…”

“Cô của…”

Họ đều là diễn viên của tôi. Họ tới trước linh cữu, thắp hương cho nàng.

Tôi đứng đó. Không một nỗi buồn. Ai tát cho tôi một cái đi chứ.

Tôi muốn hút thuốc.

Đã tới lúc mặc niệm. Tất cả im lặng. Hơn ba mươi khuôn mặt đều tỉnh bơ. Các diễn viên của tôi mắt cũng ráo nước. Quy định trong phút mặc niệm là phải im lặng. Họ im lặng, tôi cũng im lặng. Mấy cái đầu cúi thấp trước linh cữu. Vòng hoa đã ở kia. Một vài ngọn nến đã tắt dù chưa cháy hết.

Chưa hết một phút nhưng tôi đã nghe thấy một tiếng nấc nghẹn ngào. Đấy là mẹ tôi. Bà rút khăn chấm nước mắt. Bà lầm bầm tiếng gì đó. Vẻ mặt này tôi đã thấy rồi. Cái động tác chấm nước mắt bằng khăn mùi xoa, mắt chăm chú về một phía này…Chính là khi bà xem phim.

Mấy người đứng quanh mẹ đã nghe thấy tiếng nấc. Một người cố nghẹn ngào, thế nhưng do làm không khéo cái âm thanh đó giống như một tiếng ợ. Một vài bộ mặt nhăn nhúm lại trong khi miệng vẫn ngậm chặt. Họ tỏ ra mếu máo. Những người khác cũng đang nhăn mặt. Mấy bản mặt được trang điểm thật kiều diễm cũng cố làm theo những người quanh mình. Da mặt họ méo hẳn đi. Vì trời nóng, son phấn họ tan chảy và nhễ nhại trên khuôn mặt. Họ cố điều chỉnh gương mặt mình theo khuôn mẫu của một cái mặt khổ đau.

“Ha! Ha! Ha! Ha!”

Tiếng cười của chính tôi. Tôi cứ cười lớn như thế. Tôi không nghe rõ đám người quanh mình nói gì nhưng họ đang nói chuyện với nhau. Họ nói rất to.

Mẹ không giữ tôi lại. Bà không khóc và nói với người bên cạnh mình - “Nó đau khổ vì con bé đây mà. Hai người yêu nhau mà mất nhau thì khác nào mặt trời mất đi ánh sáng. Khi Don Suke chết, Lee Yang cũng…”

Người bên cạnh nhận ra điều mẹ nói và hai người trò chuyện với nhau.

Phút mặc niệm qua rồi. Tiếng cười của tôi vẫn chưa dứt. Tôi đã thấy người lấy tay che miệng và quay đi chỗ khác. Bọn chúng tôi xiêu vẹo hàng lối. Chẳng một ai chỉnh tề áo xống. Đám họ hàng của nàng đang gào rống lên để át đi tiếng tôi cười. Từng người, như bị thương một chân, đang đi lò cò. Họ lắc lắc, đổ nhào lên nhau thành hàng như hiệu ứng Đôminô.

*

Không ai nhớ về tang lễ của nàng. Họ quên sạch những gì xảy ra ngày hôm đó. Còn tôi, thì lấy làm lạ. Đấy là lễ tang cơ mà. Một nghi lễ thiêng liêng để tiễn biệt một kiếp người. Trong áo quan còn là nàng. Nhưng thú thực khi nhìn những bộ mặt quanh mình lúc đó tôi không sao kìm được và buộc phải cười phá lên.

Sau khi nhận được thù lao, những kẻ sắm vai người thân nàng cũng rời khỏi sàn diễn. Họ bá vai nhau, cười với số tiền mình được hưởng. Sẽ có một bữa nhậu ở quán bia vỉa hè.

Nàng được chôn ở nghĩa trang ngoài thành phố. Ngôi mộ chỉ là một bãi đất gờ lên. Có bia, và bia có khắc tên. Tôi đọc thấy một sai chính tả. Rõ ràng là Tr chứ không phải Ch. Các que hương cắm đầy bát hương mộ phần nàng. Tất cả hương đều do tôi thắp. Chỉ có một vài cây là do những người khác đi viếng mộ, vì thừa ra nên thắp cho nàng.

“Có phải con đã rút tiền từ tài khoản.” – Tôi nhận được cuộc gọi từ một số máy lạ. Nghe tiếng thì tôi biết là dượng. Không thấy tôi đáp, dượng lặp lại thêm một lần nữa. Lần này thì tôi đáp lời. Một tiếng “Vâng” thật khẽ và thật ngoan.

“Nếu cần con cứ lấy. Vậy cha cứ tưởng đứa ăn hại nào đã rút lõi.”

“Dượng này…”

“Sao?”

“…”

“Có gì à?”

“Không!”

“Chào con, yêu con nhiều.”

“Chào dượng, yêu dượng nhiều.”

Dượng đã gác máy từ trước. Chỉ tiếng tút tút còn nghe và nó nghe hết, những lời yêu thương từ thằng lỏi ranh ma, là tôi. Tôi tắt máy. Tôi định bấm một số gọi. Số? Số nào? Và của ai? Tôi tắt máy. Tôi mở bao thuốc rồi châm một điếu.

Nàng không còn nữa. “Đã chết rồi! Chết thật rồi!” – Tôi đã hét thật lớn như vậy ở giữa đường. Tiếng của tôi ai cũng nghe thấy, và tất nhiên họ hồi đáp bằng cách tập trung hết về phía tôi. Tiếng xì xào, và những cái mặt cười. Chỉ một chốc lát thôi, rồi họ đi mất.

Tôi không buồn, không giận dữ, cũng không cười rống lên như ngày đưa tang nàng. Tôi hút thuốc, uống rượu. Chẳng có giấc mơ hay một giọt nước mắt nào chã ra để tôi có thể coi đấy là nỗi đau mất nàng. Nàng đã ra đi như thế ư…

Vẫn có đàn bà tìm đến tôi. Tôi không từ chối. Mấy lý do để tìm đến nhau không còn cần thiết nữa. Chúng tôi chỉ đang khát, và cần phải tìm nước uống để không trở thành xác khô.

“Ai.”- Ý nghĩ hiện trong tôi – “Ai. Nhà văn Ai, đúng. Nàng luôn nói về hắn. Kẻ tên Ai chứ không phải ai.”

Ai. Tôi cần tìm ra những gì của người này. Tôi sẽ gom hết lại và hóa vàng chúng trước ngôi mộ nàng.

Không ai biết Ai. Google gõ ra nhiều hàng chữ ai là…

Trong nhà nàng không có sách vở gì. Tôi đã lục tung những chỗ có thể giấu đồ nhưng vẫn không thấy.

Tôi tìm thấy những lọ morphin. Trong sọt rác chật cứng vỏ morphin.

Nàng không có chút tài liệu nào của Ai hay nàng đã nhanh tay hơn tôi, đốt thành tro và nuốt hết vào bụng…

Tôi đốt một điếu thuốc.

Một lần nữa tôi vào phòng tranh của nàng. Nhiều bức đã bị vò nát. Số còn lại, có lẽ là hoàn chỉnh thì bị xé nát. Hẳn là nàng đã xé. Tôi tìm thấy vài mảnh vẽ mắt, mũi. Bởi tất cả tranh đã tan nát và bừa bộn khắp phòng nên tôi chẳng thể ghép lại.

“Nàng vẽ ai đây? Tôi ư? Chính nàng? Một khuôn hình tưởng tượng? Hay một ai đấy…”

“Ai…” Tôi lẩm bẩm “Nhà văn Ai hay ai…Ai hay ai…Có thể là ai…”

Một cơn gió lạc vào phòng thổi tắt điếu thuốc. Tôi không châm lại.

Đầu óc tôi sạch sẽ tới mức không vướng vào gì. Tôi muốn nghĩ về nàng, rất nhiều. Những phút bên nàng, nụ cười, cái ôm hôn, thân thể nàng, đôi mắt không hồn vía…Cái chết của nàng. “Nàng, đã chết rồi…” – Tôi lẩm bẩm mãi như vậy.

Tưởng tượng về cái chết của nàng, một cơn đau khiến mọi tế bào nàng hóa thành máu, máu trào đến họng nàng thì kết đông lại và giống như bị bóp cổ, nàng không kêu được ra nửa tiếng, mũi nàng xì khói đỏ, rồi, sao nữa nhỉ? À, thì nàng tắt thở, tắt thở và rồi thì chết, vì tắt thở. Tôi điềm nhiên tưởng tượng và cũng điềm nhiên để mọi tưởng tượng bay sạch thành hư không. Thấy rằng mọi sự như vẫn tốt, và bình yên…Tâm tôi phẳng lặng như mặt hồ.

Tôi châm thuốc. Điếu cuối cùng. Lửa bén phừng phừng. Khói thuốc xông lên mắt. Mắt cay, không ứa nước. Một tưởng tượng khác ló trong đầu tôi. Đôi mắt nàng, dưới hầm mộ rứt tung lớp chỉ khâu và mở to. Mắt nàng nhìn tôi, vẫn là lạ, thờ ơ như ngày nào. Chỉ nửa giây, rồi mọi mường tượng rơi tõm đi, mất hoàn toàn.

“Vô lại đến thế…”

*

Tôi nằm nhoài trên những xác tranh được gom lại, vun đống. Điếu thuốc còn trên miệng. Thuốc còn ăn lửa. Tôi không hớp thêm hơi thuốc nào. Khói rỉ ra từ điếu thuốc, tỏa đều trên mặt tôi như mồi hương còn sót, thắp trước nấm mộ không còn nàng.

Nén hơi, tôi phun điếu thuốc lên cao. Khói rạch một đường ngắn trên không. Tàn thuốc vương mỏng rồi rơi lấm chấm như giọt nước còn sót từ cõi Ta Bà. Đầu lọc xoay vòng trên cao rồi rơi cắm ngập giấy tranh, bắt lửa.

Lửa hừng hực dâng từ mặt đất. Tôi thấy một bức chân dung đủ nét họa từ cành cọ lửa.