Thứ Hai, 11 tháng 6, 2018

Bất đồng chính kiến, sự thật, và sự tan rã của Liên Xô






Nguồn: Gal Beckerman, “How Soviet Dissidents Ended 70 Years of Fake News”, The New York Times, 10/04/2017.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Mùa hè năm 1990, vào thời điểm sống còn khi đất nước bắt đầu đi từ cải tổ sang tan rã, Mikhail S. Gorbachev đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Time rằng “Tôi ghét những lời nói dối.” Đo là một tuyên bố mang tính cách mạng, chỉ bởi nó xuất phát từ miệng một nhà lãnh đạo Liên Xô.

Ngoài mặt, ông chỉ đơn giản đang tung hô chính sách công khai hóa (glasnost) của mình, chính sách cởi mở mới được giới thiệu cùng với cải tổ (perestroika), hay việc cơ cấu lại nền kinh tế chỉ huy của Liên Xô nhằm cứu đất nước khỏi tình trạng “rơi tự do” về địa chính trị. Gorbachev đã đánh cược rằng quyền thể hiện ý kiến một cách thành thật và tự do – hay một nền báo chí có thể phê bình và điều tra, sách lịch sử không cần đổi tên nhân vật, cùng với một chính phủ trung thực và có trách nhiệm giải trình – sẽ có thể cứu vãn thành trì đang lung lay của chế độ Cộng sản.

Trong cuốn Dismantling Utopia: How Information Ended the Soviet Union, Scott Shane – phóng viên tại Moskva của tờ Baltimore Sun (và hiện giờ đang làm việc cho tờ Times) – viết rằng: đối với nhà lãnh đạo Liên Xô, glasnost là “một cái đèn khò có thể thổi sạch lớp sơn cũ đang bong tróc khỏi xã hội Liên Xô. Nhưng hệ thống cộng sản đã chứng minh rằng nó là một mồi lửa.”

Người phương Tây luôn ca ngợi Gorbachev vì lòng dũng cảm của ông khi bắt đầu canh bạc này – ngay cả khi ông đánh mất cả một đế quốc trong tiến trình đó – nhưng ông đã làm điều đó vì chịu áp lực. Ý tưởng rằng việc đề cao sự thật có thể giải phóng Liên Xô khỏi tham nhũng và ốm yếu không phải là mới. Gorbachev đã lặp lại và sử dụng các lập luận của một phong trào bất đồng chính kiến mà suốt nhiều thập niên đã nhấn mạnh rằng sự thật là hình thức phản kháng thiết yếu của họ.

Nếu Liên Xô là ví dụ lớn nhất của thế kỷ 20 về một chế độ sử dụng tuyên truyền và thông tin để kiểm soát các công dân của mình – hay 70 năm thao túng tin giả – thì dịp kỷ niệm một trăm năm Cách mạng Bolshevik là một thời điểm quan trọng để đánh giá lại cách mà nó tạo ra một làn sóng phản kháng mạnh mẽ trong xã hội dân sự “ngầm” tại Moskva và Leningrad.

Phản kháng nội bộ thực sự chống lại chế độ Liên Xô bắt đầu nổi lên trong những năm 1960, vào thời điểm nhiệt độ chính trị trong nước đang chuyển từ thời kỳ hậu Stalin hừng hực sang lạnh lẽo trở lại. Đàn áp bắt đầu với phiên tòa xét xử các nhà văn trào phúng Yuli Daniel và Andrei Sinyavsky vào đầu năm 1966. Khi các đợt phản kháng và các phiên tòa tiếp diễn sau đó, phe bất đồng chính kiến đã phải đối mặt với một tình trạng lưỡng nan thú vị: làm thế nào để chống đối hiệu quả nhất trong bối cảnh thông tin họ có đang ngày càng nhiều. Gần như hàng ngày, họ đều được nghe chi tiết về những cuộc thẩm vấn, những câu chuyện được truyền lại về cuộc sống trong các trại lao động, cũng như những cuộc lùng sục và bắt bớ.

Nhóm bất đồng chính kiến có thể lựa chọn hình thức tuyên truyền riêng của mình, nhấn mạnh cuộc bức hại và biến vốn từ ngữ phong phú của Liên Xô về những kẻ “côn đồ” và “phần tử phản xã hội” thành những áng văn dài cay đắng chống lại nhà nước. Nhưng họ đã không làm vậy. Thay vào đó, họ đã chọn cách truyền đạt một cách phi cảm xúc và trong trẻo nhất có thể. Họ đã đạt được những gì chúng ta có thể gọi là sự khách quan.

Nhiều thế hệ công dân Liên Xô đã tự đào tạo mình để nghĩ về sự thực như một khái niệm mang tính tương đối. Các bài báo đã được đọc như những câu chuyện nhằm tôn vinh nhà nước chứ không phải phản ánh thực tế. Và người ta cũng bị tách biệt thành những con người riêng tư, thường khác biệt với khuôn mặt và lời nói chốn công cộng của họ.

Do xã hội Liên Xô được xây dựng dựa trên sự lừa dối kéo dài hàng thập niên này, điều đáng chú ý và khiến ta yên tâm là việc nói thật và nói rõ ràng vẫn có quyền lực lớn lao trong số cho các nhà bất đồng chính kiến vào những năm 1960. Và thực sự là vậy. Hãy nghe Lyudmila Alexeyeva, một trong những nhà sáng lập của một tạp chí ngầm quan trọng nhằm tôn vinh sự thật, tờ A Chronicle of Current Events, mô tả về sự cuốn hút gần giống với tôn giáo:

“Đối với từng người trong chúng tôi, làm việc cho tờ Chronicle có nghĩa là cam kết trung thành với sự thật, nó có nghĩa phải gội sạch bản thân khỏi mọi dơ bẩn của việc ‘suy nghĩ nước đôi’ vốn đã tràn ngập mọi giai đoạn trong đời sống Liên Xô,” bà viết. “Tác động của Chronicle là không thể đảo ngược. Mỗi người trong chúng tôi đã trải qua điều này một mình, nhưng ai cũng biết những người khác cũng đã trải qua cuộc tái sinh đạo đức này.”

Với cam kết sẽ buộc Liên Xô phải chịu trách nhiệm giải trình trước luật pháp quốc gia và các hiệp ước quốc tế, A Chronicle of Current Events đã đại diện cho sự tái sinh của xã hội dân sự. Đó là một cộng đồng nhỏ, và là một cộng đồng chỉ tồn tại trên những trang giấy mỏng như vỏ hành tây của samizdat,[1] những ấn bản bất hợp pháp do các nhóm bất đồng chính kiến tự xuất bản, nhưng đây là nơi mọi người có thể hành động như một công dân, chứng kiến và tố cáo các hành vi vi phạm nhân quyền và dân quyền.

Tờ Chronicle đã làm việc một cách ngay thẳng. Các số báo được in tại Moskva và sau đó được truyền tay. Nếu ai đó có một số thông tin muốn truyền đi, họ có thể viết nó trên một tờ giấy và chuyển nó cho người mà trước đây cho họ bản sao của tạp chí, người này sau đó sẽ chuyển nó về lần lượt theo từng mắt xích trong chuỗi. Điểm đầu nguồn có các biên tập viên như Natalya Gorbanevskaya, “nhà biên soạn” đầu tiên của tạp chí, theo cách mà họ thích tự gọi mình. Sau này bị bắt giữ bởi cơ quan an ninh quốc gia, K.G.B., vào năm 1969, Gorbanevskaya đã bị nhốt trong một viện tâm thần cho đến năm 1972.

Trong khoảng 65 số báo, xuất bản từ năm 1968 đến năm 1983, Chronicle đã trở thành một danh mục ghi chép lại những vụ lạm dụng, trấn áp bất đồng chính kiến bằng một giọng văn trung lập nhất có thể. Đó là một nỗ lực hết sức cần mẫn để công bố những thông tin mà sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trên các phương tiện truyền thông chính thức của Liên Xô. Trong tạp chí này, người ta có thể đọc được chi tiết các phiên tòa chính trị được xử kín và các câu chuyện về những gì mà Chronicle gọi là “cuộc bức hại không qua xét xử,” hiểu sâu hơn về quá trình bắt bớ của K.G.B., đọc những tài liệu mật vốn dĩ chỉ dành cho những người cầm quyền, tìm hiểu về các cuộc bức hại tôn giáo và văn hoá liên tục xảy ra, và cập nhật tin tức về các tù nhân chính trị ở phương Đông.

Đây là một nỗ lực tự tạo ra một nguồn tin tức có giá trị và có thể kiểm chứng được. Chronicleyêu cầu những người đóng góp tin tức phải “thật cẩn thận và chính xác” với bất kỳ thông tin nào họ đưa ra/truyền đi và thậm chí còn thường xuyên xuất bản thông tin đính chính những ấn phẩm trước (đây là việc làm tiên phong mà một số cơ quan truyền thông phương Tây phải nhiều năm sau mới áp dụng). Theo vị học giả chuyên nghiên cứu về tình trạng bất đồng chính kiến ở Liên Xô Peter Reddaway, viết vào năm 1972, “mục đích của Chronicle là sự cởi mở, không bí mật, tự do thông tin và biểu đạt. Tất cả những khái niệm này được gộp vào một từ tiếng Nga, glasnost.”

Hành động này trực tiếp chống lại mệnh lệnh mà nhà lãnh đạo Bolshevik, Vladimir Lenin, ban hành cho báo chí trong thời kỳ tiền Cách mạng Nga hồi năm 1901. Báo chí khi ấy “không chỉ là một nhà tuyên truyền và kích động tập thể, mà còn là một nhà tổ chức tập thể” – nói cách khác là một công cụ để củng cố sức mạnh của nhà nước. Đối với nhà biên soạn Alexeyeva, Chronicleđại diện cho một cái gì đó rất khác biệt và không có tiền lệ ở Liên Xô: “Một nguồn thông tin trung thực về các tầng nấc ẩn giấu trong xã hội chúng ta.”

K.G.B. đã không nương tay với hành động này, và Gorbanevskaya chỉ là người đầu tiên trong số rất nhiều biên tập viên bị bắt giữ và bỏ tù. Tuy nhiên, vào những năm 1970, việc thu thập bằng chứng thực tế này đã trở thành phương thức hành động chủ yếu của các nhà bất đồng chính kiến, đặc biệt là trong số những nhân vật nổi bật nhất của phong trào như Andrei Sakharov, nhà vật lý Liên Xô, người đã được trao giải Nobel Hòa bình năm 1975. Trong một số trường hợp, đó là những người mà công việc đòi hỏi họ nghiêng về sự thật – nhiều người trong số họ là các nhà khoa học, một nghề mà chính họ đã lựa chọn trước khi bắt đầu trở thành nhà bất đồng chính kiến nhằm thoát khỏi bất kỳ lĩnh vực nào có thể bị bóp méo bởi ý thức hệ cộng sản.

Năm 1975, Liên Xô, với suy nghĩ rằng mình đang thông minh hơn phương Tây, đã ký Định ước Helsinki. Bản hiệp ước mang lại sự công nhận quốc tế đối với những lãnh thổ mà nước này giành được sau Thế chiến II, nhưng cũng đòi hỏi họ phải tuân thủ các quy chuẩn nhân quyền quốc tế. Các nhà bất đồng chính kiến ở Moskva coi đây là một cơ hội: Họ có thể sử dụng cam kết này để chống lại bộ máy cộng sản, bằng cách tuyên bố rằng họ có quyền được công bố mọi vi phạm.

Nhóm Theo dõi Moskva Helsinki (Moscow Helsinki Watch Group), theo tên gọi sau này, đã đi theo phong cách của Chronicle, tạo ra một loạt các báo cáo, tất cả đều được nghiên cứu kỹ lưỡng và đôi khi dài đến hàng trăm trang. Trong số những báo cáo đầu tiên là cuộc điều tra về việc bức hại người Tatar ở Crimea và tình trạng bữa ăn nghèo nàn của các tù nhân. Các báo cáo đã được gửi đến các đại sứ quán phương Tây, cũng như lưu hành dưới dạng samizdat. Ngay sau đó, các tổ chức giám sát tương tự cũng đã xuất hiện ở các quốc gia thuộc khối Đông Âu và thậm chí ở Mỹ. Nhóm Theo dõi Helsinki (Helsinki Watch), một tổ chức có trụ sở tại New York, đã trở thành tổ chức mà chúng ta biết tới ngày nay dưới tên gọi Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch).

Liệu hành trình “ngầm” nhằm tìm kiếm sự thật dựa trên các báo cáo khách quan, thận trọng này có góp phần thúc đẩy sự tan rã của Liên Xô?

Thật khó để xác định, vì còn có rất nhiều yếu tố khác, đặc biệt về kinh tế, cũng góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô vào cuối những năm 1980. Nhưng nó đã ảnh hưởng đến cách Liên Xô tan rã. Không giống như Trung Quốc, vốn cũng phải đối mặt với một thách thức lớn đối với quyền lực của đảng cộng sản vào năm 1989, Liên Xô không thể hy vọng tự cải cách chỉ bằng perestroika (về kinh tế). Việc Gorbachev thông qua khái niệm glasnost đã thừa nhận rằng cũng cần phải thay đổi xã hội dân sự nữa.

Các nhà bất đồng chính kiến đã tạo ra kỳ vọng rằng có thể sẽ có một loại ngôn ngữ khác, một ngôn ngữ thể hiện được thực tế mà không bị sàng lọc qua các mệnh lệnh của Liên Xô. Họ khao khát sự trung thực và minh bạch ở một quốc gia mà ngay cả tỷ lệ tự tử cũng được coi là bí mật nhà nước. Samizdat cung cấp một phương tiện để họ đạt được mục đích này.

Và những sự thật, không ngừng xếp chồng lên nhau, đã trở thành cách mà các nhà bất đồng chính kiến xây dựng một nước Nga khác, nơi mà họ hy vọng một ngày nào đó có thể đứng lên và vượt qua tất cả những điều dối trá.

Gal Beckerman là tác giả của cuốn “When They Come For Us, We’ll Be Gone” cuốn sách viết về lịch sử của phong trào Do Thái tại Liên Xô, đồng thời cũng sắp ra mắt một cuốn sách mới về truyền thông xã hội trước khi có internet.

———

[1] Đây là từ chỉ các ấn phẩm, báo chí bí mật, hoặc bị cấm, ngoài luồng, do các (nhóm) cá nhân tự xuất bản mà không được chính quyền cho phép lưu hành chính thức. Được mượn từ tiếng Nga, từ này gồm hai phần: sam (nghĩa là tự) và izdat (viết tắt của từ izdatel’stvo, nghĩa là nhà xuất bản) (NBT).

Hình ảnh ‘vua hổ’ và ‘hầu vương’ trong Mao Trạch Đông






Nguồn: Roderick MacFarquhar, “How Mao Molded Communism to Create a New China“, The New York Times, 23/10/2017.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Trong thời khắc cuối đời, khi đang hấp hối vì căn bệnh xơ cứng teo cơ (bệnh Lou Gehrig), Mao Trạch Đông tuyên bố hai thành tựu của mình là gồm đưa cách mạng cộng sản đi đến chiến thắng và phát động Cách mạng Văn hoá. Bằng cách nhấn mạnh những giai đoạn này, ông cũng nhấn mạnh mâu thuẫn suốt đời trong thái độ của ông đối với cách mạng và quyền lực nhà nước.

Mao định hình chủ nghĩa cộng sản cho phù hợp với hai khía cạnh tính cách của mình. Nói như người Trung Quốc, ông vừa là một vị vua hổ, vừa là một hầu vương.



Đối với người Trung Quốc, hổ là vua của rừng rậm. Còn trong thế giới loài người, “hổ” là cách gọi một quan chức cao cấp. Cơ quan chủ trì cuộc chiến chống tham nhũng của Chủ tịch Tập Cận Bình ngày nay vẫn thích thông báo mỗi khi họ đả được một con hổ. Bằng cách lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đi đến chiến thắng vào năm 1949, Mao đã trở thành con hổ mạnh nhất.

Trong khi đó, hầu vương là hình ảnh tưởng tượng về một siêu nhân, một con vật biết đi mây về gió và ưa dùng chiếc gậy thần của mình vào những mục đích mang tính hủy diệt. Nó rất khôn ngoan. Người thường và thậm chí là thần thánh cũng chẳng thể đánh bại nó.

Trong những bài viết đầu tiên của mình, Mao dường như đã miêu tả bản thân như siêu nhân kiểu Nietzsche, hay một con hổ:


Hành động vĩ đại của người anh hùng là của chính anh ta, là biểu hiện cho sức mạnh ý chí của anh, cao cả và thanh sạch, không hề dựa trên bất cứ tiền lệ nào. Sức mạnh của anh ta giống như cơn cuồng phong phát xuất từ hẻm núi sâu, giống như khao khát không thể cưỡng lại dành cho tình nhân, một sức mạnh sẽ không dừng lại, không thể bị dừng lại. Tất cả mọi trở ngại sẽ biến mất trước anh ta.

Vào đầu thập niên 1920, trong lúc lang thang ở vùng nông thôn của tỉnh Hồ Nam, Mao đã nói với người bạn đồng hành rằng ông thấy mình là hiện thân cho truyền thống của những nông dân đã sáng lập nên các triều đại Trung Hoa, đặc biệt là Lưu Bang, người sáng lập nên nhà Hán. Nhưng đến năm 42 tuổi, ngay sau khi những người sống sót trong cuộc Vạn lý Trường chinh cuối cùng đã đến đích an toàn ở tây bắc Trung Quốc, Mao lại thể hiện sự khinh thường đối với tất cả các hoàng đế vĩ đại của quá khứ. Trong một bài thơ nổi tiếng, Tuyết, Mao viết:



Giang sơn đẹp đẽ biết bao

Làm ngất ngây

Vô số bậc anh hào

Tiếc Tần Hoàng Hán Vũ

Kém phần văn nhã

Đường Tông Tống Tổ

Thiếu vẻ thanh tao

Một thuở kiêu hùng

Thành Cát Tư Hãn

Chỉ giỏi cung loan bắn đại điêu

Còn đâu nữa?

Điểm mặt phong lưu thử.

Dù ước mơ vinh quang thuở đầu của Mao có tự phụ đến mấy, thì vai trò lãnh đạo tối cao của ông cũng hoàn toàn không được định trước. Trước khi công khai theo chủ nghĩa Marx ở tuổi 27, Mao là một người theo chủ nghĩa dân tộc mộc mạc ở vùng tỉnh lẻ. Ông đã từ chối tin rằng nước Trung Hoa Dân quốc mới sẽ sống sót, tự hỏi liệu Hồ Nam có bao giờ trở thành một tiểu bang của Mỹ hay không, và ủng hộ việc tất cả các tỉnh của Trung Quốc trở thành các quốc gia riêng biệt.

Phải đến tháng 11/1920, ông mới thừa nhận thất bại: Dân Hồ Nam không đủ tầm để hiểu hết được ý tưởng của Mao. Ông đã viết cho những người bạn là nhà hoạt động ở thủ phủ của tỉnh để nói rằng mình giờ đây sẽ trở thành một nhà xã hội chủ nghĩa. Ông đã quyết định đúng lúc.


Các nhóm cộng sản đã được lập ra ở Thượng Hải, Bắc Kinh và các thành phố khác, và giữa năm 1921, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ nhất được tổ chức. Mao, người nhanh chóng tổ chức một nhóm cộng sản ở Hồ Nam, đã giành được một trong 12 suất đại biểu tham dự. Ông đã sớm là một con hổ.

Các đặc vụ Liên Xô tài trợ và chỉ đạo cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong thời kỳ mới thành lập đã báo cáo về Comintern, cơ quan truyền bá ý tưởng và tầm ảnh hưởng của Liên Xô ở nước ngoài. Với ký ức về thất bại trong chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905) và trong việc cạnh tranh với Nhật Bản để giành ảnh hưởng tại Mãn Châu, Liên Xô cần một Trung Quốc mạnh mẽ để làm đồng minh chống lại chủ nghĩa bành trướng của Nhật.

Nhưng ĐCSTQ non trẻ vẫn còn quá yếu. Liên Xô đã quyết định ủng hộ nhà cách mạng nổi tiếng, người đã giúp hạ bệ triều đại Mãn Châu nhưng sau đó lại bị các lãnh chúa gạt sang bên lề: Tôn Trung Sơn.

Họ cung cấp kinh phí, giúp Tôn tổ chức lại Quốc Dân Đảng (QDĐ) và giúp ông đào tạo một đội quân. Các thành viên ĐCSTQ được các đặc vụ của Comintern chỉ thị hỗ trợ QDĐ, và thậm chí trở thành thành viên của đảng này, nhưng vẫn giữ lòng trung thành của họ đối với cộng sản. Kế hoạch là nhằm giúp ĐCSTQ tiếp quản QDĐ từ bên trong, sau khi mặt trận liên hiệp này đánh bại các lãnh chúa Trung Quốc.

Hầu hết các lãnh đạo ĐCSTQ đã phản đối chính sách của Comintern; họ nghĩ hợp tác với QDĐ “tư sản” sẽ làm suy đồi các thành viên của họ. Nhưng ai trả tiền thì kẻ ấy có quyền quyết định, và thành viên ĐCSTQ bắt đầu gia nhập QDĐ, trong số đó hiếm ai hăng hái hơn Mao.

Có hai sự kiện đã đưa Mao vào một con đường mới, định hình cho sự nghiệp của ông. Đầu tiên là cuộc tấn công của Tưởng Giới Thạch vào Đảng Cộng sản. Đến năm 1927, sau cái chết của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch đã lên đảm nhận vai trò lãnh đạo QDĐ, và ông đã chinh phục được phần lớn miền nam đất nước. Hiểu được mục tiêu dài hạn của Liên Xô là để ĐCSQT lật đổ QDĐ, Tưởng đã phá vỡ kế hoạch này vào tháng 05/1927 bằng cách ra lệnh thanh trừng phe Cộng sản, chủ yếu ở Thượng Hải. Các nhà lãnh đạo cộng sản đã tan tác khắp nơi.

Sự kiện khác là trải nghiệm của Mao về quyền lực của người nông dân. Sau cái chết của cha mẹ, Mao và hai người anh em của ông được sở hữu một cơ ngơi tài sản đáng giá mà cha ông gầy dựng tại quê nhà. Gia đình họ đã đi từ nông dân nghèo khó trở nên giàu có. Và mặc dù đã lớn lên giữa những đau khổ của đời sống nông thôn, khi là một người cộng sản non trẻ, Mao đã tập trung vào giai cấp vô sản thành thị cho đến khi Moskva, nhận ra rằng Trung Quốc rất khác biệt, đã ra lệnh nên chú ý hơn đến nông dân.


Mao trở nên tích cực trong các vấn đề nông dân, và trải nghiệm mang tính cách mạng của ông là việc chứng kiến và ghi chép lại cuộc nổi dậy ở tỉnh Hồ Nam quê nhà. Trong một đoạn văn nổi tiếng, ông bác bỏ cáo buộc rằng những người nông dân “đã đi quá xa”:


Một cuộc cách mạng không giống như mời mọi người đến ăn tối, hoặc viết một bài luận, hoặc vẽ tranh, hoặc thêu hoa; nó không thể là bất cứ điều gì tinh tế, bình tĩnh và nhẹ nhàng.

Chứng kiến cảnh đổ máu ở vùng nông thôn Hồ Nam, Mao đã khám phá một khía cạnh khác của mình. Như học giả kiêm nhà ngoại giao Richard Solomon đã chỉ ra, Mao tìm thấy niềm vui trong sự “loạn”. Khi còn trẻ, Mao đã viết rằng để thay đổi, Trung Quốc phải “bị phá hủy và cải cách.” Giờ đây, ông nhận ra rằng chỉ có nông dân mới có thể làm được điều đó. Và Mao sẽ là vị hầu vương dẫn dắt sự tàn phá đó.

Nguyên bản của vị vua khỉ là cuốn tiểu thuyết Trung Hoa kinh điển “Tây Du ký.” Được cho là viết về nhà sư người Trung Quốc nổi tiếng, Huyền Trang, người đã thực hiện chuyến đi đầy khó khăn vượt dãy Himalaya để tìm kiếm chân kinh của Phật giáo ở Ấn Độ, “Tây Du ký” một câu chuyện huyền ảo trong đó Tôn Ngộ Không, vua khỉ, đã đóng vai trò quan trọng khi là người hộ tống nhà sư Huyền Trang. Vào đầu những năm 1960, giữa lúc ĐCSQT đang có tranh cãi với Đảng Cộng sản Liên Xô, Mao đã lên tiếng khen ngợi Tôn Ngộ Không:


Đất bằng khi nổi trận lôi đình

Thì thấy tòi ra Bạch Cốt Tinh

Lão sãi ngây ngô còn dễ dạy

Con yêu nham hiểm chuyện không lành

Khỉ vàng, thiết bổng vung tin tít

Lầu ngọc, trần ai quét sạch sanh

Nay lại hoan hô Tôn đại thánh

Chỉ vì yêu khí mới hồi sinh.

Sau đó, Mao đã nhanh chóng thăng tiến, từ chỉ huy đội quân du kích cuối thập niên 1920 trở thành một nhà lãnh đạo đảng vào giữa thập niên 1930 trong cuộc Vạn lý Trường chinh, hành trình của các thành viên ĐCSTQ từ đông nam đi về tây bắc để tránh các cuộc tấn công của Tưởng Giới Thạch. Đây là một sự kiện rất lớn trong biên niên sử của ĐCSTQ vì nó kéo dài đến một năm, vượt qua khoảng 6.000 dặm, và với 85.000 người ra đi thì chỉ có gần 8.000 người còn sống sót về đến tây bắc. Mao khi ấy đã rút ra hai bài học: “Quyền lực đẻ ra từ nòng súng”; và trong phần lớn thời gian, rất khó để tập hợp nông dân bởi vì họ phải chăm lo đồng ruộng và gia đình.


Từ giữa những năm 1930 đến giữa những năm 1950, Mao đã đóng vai hổ. Ông là người lãnh đạo một đảng và một đội quân ngày càng mạnh mẽ và hiệu quả, sống sót qua cuộc chiến chống lại người Nhật và sau đó đánh bại cả Tưởng Giới Thạch và QDĐ trong nội chiến cuối những năm 1940. Trong giai đoạn 1949 – 1956, Mao dẫn dắt việc thiết lập chế độ độc tài cộng sản tại Trung Quốc, loại bỏ mọi chống đối, dù có thực hay chỉ là tưởng tượng, và chuyển đổi quyền sở hữu phương tiện sản xuất từ tay tư nhân sang cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Sau đó, ông lần đầu tiên áp dụng vai trò vua khỉ. Theo quan điểm của một cán bộ ĐCSTQ, “vua khỉ” ở đây có thể được định nghĩa là bất kỳ biện pháp nào có thể làm gián đoạn các quy trình vận hành tiêu chuẩn của đảng. Các cán bộ đảng đã không đánh giá cao khi Mao, vào năm 1956, khuyên các trí thức “Hãy để Trăm hoa đua nở,” và một năm sau đó lại một lần nữa khuyến khích trí thức phê bình đảng. Là thành phần tinh hoa cầm quyền, các cán bộ không thích bị chỉ trích, và dù Mao đã hứa rằng những lời chỉ trích này sẽ chỉ giống như một cơn mưa rào, nhưng khi nó biến thành một cơn bão, ông đã nhanh chóng kết thúc chiến dịch và thanh trừng những người phê bình.

Mao thật sự đã trở thành vua khỉ khi bắt đầu Cách mạng Văn hoá vào năm 1966 để xua tan “sương mù” của “chủ nghĩa xét lại” kiểu Liên Xô trong ĐCSTQ. Giờ đây, chính giới trẻ Trung Quốc, chứ không phải những người nông dân, đã trở thành những kẻ phá hoại của Mao, khi các cơ quan đảng và chính phủ lớn bị phá hủy và các quan chức bị làm nhục và thanh trừng.

Đối với Mao, Cách mạng Văn hoá đã kết thúc vào năm 1969 với việc bổ nhiệm một ban lãnh đạo mới, và hy vọng có tính cách mạng hơn. Nhưng mặc dù ông đã đánh sập hệ thống quan liêu lâu đời của Trung Quốc bằng một đòn chí mạng, ông biết rằng nó vẫn có thể trỗi dậy từ tro tàn. Ông luôn nhấn mạnh rằng Trung Quốc sẽ thường xuyên phải trải qua những cuộc Cách mạng Văn hoá như vậy.

Nhưng khi người kế nhiệm mà Mao lựa chọn, Hoa Quốc Phong, lặp lại khẩu hiệu đó, ông đã bị lật đổ. Đặng Tiểu Bình và những đồng chí sống sót của ông không muốn có thêm bất kỳ một vua khỉ nào khác đưa đảng cộng sản và đất nước rơi vào cảnh hỗn loạn một lần nữa.


Thế nhưng ngày nay, lãnh đạo đương nhiệm của Trung Quốc, Tập Cận Bình, với chiến dịch chống tham nhũng không ngừng nhằm làm cho các quan chức trung thành hơn, lại đang phát động một cuộc Cách mạng Văn hoá khác chống lại bộ máy quan liêu, dù lần này do trung ương kiểm soát chứ không phải xuất phát từ đường phố.

Đây là hành động của một vị vua khỉ. Dù ngày nay không có hỗn loạn, nhưng chắc chắn là nỗi sợ hãi và oán hận vẫn lan rộng khi cây thiết bảng của ông đang mang lại nhiều nạn nhân hơn.

Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 19 đã xác nhận Tập là con hổ đầu đàn, là nhà cai trị quyền lực nhất kể từ thời Mao. Nhưng Tập sẽ phải đảm bảo khía cạnh “vua khỉ” của ông không được quá lớn. Là nhà sáng lập cách mạng, Mao không bao giờ có thể bị lật đổ. Nhưng là một người kế nhiệm cách mạng, Tập có thể.

Roderick MacFarquhar là giáo sư tại Đại học Harvard và là tác giả của nhiều cuốn sách về lịch sử Trung Quốc dưới thời Mao.

Bản dịch các bài thơ trong bài được tham khảo từ các nguồn trên internet.

Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2018

KHÔNG 99 NĂM. KHÔNG 70 NĂM. KHÔNG ĐẶC KHU. ĐỪNG TẠO CƠ HỘI CHO KẺ THÙ XÂM CHIẾM ĐẤT ĐAI CỦA TỔ TIÊN MỘT CÁCH HỢP PHÁP



KHÔNG 99 NĂM. KHÔNG 70 NĂM. KHÔNG ĐẶC KHU. ĐỪNG TẠO CƠ HỘI CHO KẺ THÙ XÂM CHIẾM ĐẤT ĐAI CỦA TỔ TIÊN MỘT CÁCH HỢP PHÁP

I. ÁT CHỦ BÀI ĐÃ BỊ LẬT TẨY

Đến bây giờ thì át chủ bài đã bị lật tẩy. Không chỉ những người quan tâm đến luật đặc khu, mà cả đất nước đều rõ tỏ, là đặc khu Vân Đồn nhắm vào Trung Quốc.

Dự thảo luật đặc khu, Điều 54, khoản 4, đã được cộng đồng mạng “phổ cập”:
“Công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Ninh sử dụng giấy thông hành hợp lệ nhập cảnh vào đặc khu Vân Đồn với mục đích du lịch được miễn thị thực với thời hạn xác định; trường hợp có nhu cầu đến các địa điểm khác của tỉnh Quảng Ninh để du lịch thì làm thủ tục thông qua doanh nghiệp lữ hành quốc tế của Việt Nam.”

Người Trung Quốc được ưu ái đặc biệt ở đặc khu Vân Đồn, được ghi rõ rành rành trong luật đầu tư. Vân Đồn là dành đặc biệt cho người Trung Quốc.

Với điều khoản này, 1 tỷ 414 triệu 688 ngàn 453 người Trung Quốc, (theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp quốc ngày 07/06/2018), chỉ cần chứng minh thư mà không cần hộ chiếu, sẽ được tự do ra vào Vân Đồn tùy thích!

Thế còn 96 triệu 429 ngàn 667 người Việt Nam (cũng thống kê của Liên Hợp Quốc ngày 07/06/2018) có được tự do ra vào Thâm Quyến bằng chứng minh thư không? Không!

Mở đặc khu để thêm bị thấp hèn thì mở làm gì!

II. KHÔNG CHÍNH DANH

Đường đường là luật đầu tư của một quốc gia sao còn giấu giếm sự thật. Rõ ràng người dự thảo luật đã cố tình giấu hai từ Trung Quốc để che mắt nhân dân. Nhưng sao cả gần 500 vị ĐBQH đã thảo luận luật đặc khu hôm 23/5/2018 mà không thấy ai chỉ thẳng ra điều này? Cầm quyền mà giấu dân là không chính danh.

Bới thế, Quốc Hội phải trừng trị những kẻ đã cố ý đẩy Quốc Hội vào tình cảnh không chính danh.

III. THÂM QUYẾN, ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀ CON TÌ HƯU

Thâm Quyến là một đặc khu cũ rích không đáng để học. Nếu muốn học thì gần có Singapore, xa hơn là Nhật, xa nữa là Đức, Mỹ. Trên thế gian này thiếu gì nơi học mà phải học Thâm Quyến.

Nhưng Bộ KH và ĐT lại lấy tiền thuế của dân để đưa đoàn nhà báo đi tham quan Thâm Quyến, nhằm cổ súy cho mở đặc khu kiểu Thâm Quyến, đi ngược lại lòng dân, làm một điều lãng phí có tội, nên phải nói đôi điều.

1. Về tính thời sự, đặc khu Thâm Quyến mở ra khi Trung Quốc còn đóng cửa với thế giới bên ngoài, vào thập niên 1980, nhưng Việt Nam cũng đã mở cửa hơn 30 năm, từ cuối thập niên 1980, đã tiếp xúc với các nền kinh tế tiên tiến nhất như như Nhật, Mỹ, châu Âu, hơn hẳn Thâm Quyến rồi, nên Thâm Quyến không có gì mới lạ với Việt Nam nữa. Tính thời sự của Thâm Quyến đối với Việt Nam bằng 0.

2. Đặng Tiểu Bình không đặt đặc khu ở Thượng Hải, Đại Liên hay một nơi nào khác mà ở Thâm Quyến vì Thâm Quyến cạnh Hồng Kông, để đón lõng dòng đầu tư từ Hồng Kông, do các nhà tư bản Hồng Kông đối phó với việc Hồng Kông sẽ nhập vào Trung Quốc năm 1997. Thâm Quyến phát triển là nhờ chủ yếu từ đầu tư của người Hoa Hồng Kông.

3. Cho nên sau Thâm Quyến, đặc khu Chu Hải ở gần đó không thành công. Vì dòng đầu tư chính từ Hồng Kông đã đổ vào Thâm Quyến.

4. Tại sao lại Thâm Quyến? Là vì con Tì Hưu.

Tì Hưu là con vật ăn vào mà không ỉa đái ra. Thần thoại Hy lạp có bao nhiêu con quái vật mình người đầu thú hay ngược lại, nhưng không có con nào quái đản như con Tì Hưu.

Con Tì Hưu là lòng tham vô độ, đi ngược với tuần hoàn tự nhiên. Chỉ có lòng tham và tính nghịch tặc vô độ mới nghĩ ra được con Tì Hưu. Con tì Hưu là sản phẩm của người Tàu.

Cũng chỉ có Đặng Tiểu Bình, kẻ có lòng tham vô độ và nghịch tặc tày trời, nên mới mở đặc khu ở Thâm Quyến, đón dòng tiền từ Hồng Kông, không cho chảy ra khỏi Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình là một đại Tì Hưu.

5. Bởi thế, bất cứ ai trong Chính Phủ và Quốc Hội, trước khi nghĩ rằng mình có tài khống chế được Trung Quốc khi mở ra đặc khu Vân Đồn, thì hãy tự hỏi rằng có đủ trí tuệ để nghĩ ra được con Tì Hưu quái đản hay không. Nếu không đủ trí tuệ để nghĩ ra được con Tì Hưu, thì đừng mở đặc khu Vân Đồn, vì không cản trở được Trung Quốc thâu tóm.

IV. TRUNG QUỐC SẼ THÂU TÓM ĐẶC KHU VÂN ĐỒN NHƯ THẾ NÀO?

Trung Quốc có muôn ngàn mưu kế để thâu tóm Vân Đồn mà Việt Nam không có cách nào ngăn chặn được. Mở đặc khu Vân Đồn là giúp cho Trung Quốc thâu tóm Vân Đồn một cách hợp pháp. Đơn giản bởi Trung Quốc có rất nhiều tiền, lòng tham không giới hạn, nhẫn tâm, thâm độc.

Trung Quốc không chỉ thâu tóm Vân Đồn mà còn thâu tóm các tập đoàn lớn của Việt Nam khi cổ phần hóa. Đã cổ phần hóa thì không thể cưỡng lại được đấu giá. Mà đấu giá thì kẻ nhiều tiền sẽ thâu tóm. Sabeco là một thí dụ điển hình.

Đừng nghĩ rằng tỷ phú gốc Hoa quốc tịch Thái thâu tóm Sabeco không dính dáng đến Trung quốc. Nếu quả thực chưa dính dáng thì biến thành của Trung Quốc cũng không khó gì.

VTV vào phút chỏt hôm nay đã mua bản quyền world cup từ Infront Sports & Media với giá trên dưới chừng 10 triệu usd. Nhưng ít người nhớ rằng năm 2015 Tập đoàn Đại Liên Vạn Đạt của Trung Quốc đã chi khoảng 1,1 tỉ USD để sở hữu Infront Sports & Media. Sống động hơn, hãy nhớ lại hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc.

Hàng không mẫu hạm Varyag của Liên Xô vì không có tiền và do Liên Xô tan rã mà nằm phơi sương gió ở cảng Ôdexa. Một tỷ phú Hồng Kông thấy “lãng phí”nên xin được mua về làm sàn nhảy trên cảng với giá 2 triệu USD. Điều kiện là động cơ cùng các thiết bị điện tử, kỹ thuật quân sự trên tàu phải được dỡ bỏ thì mới được bán. Nhưng đồng tiền đã đưa đường chỉ lối để cuối cùng hàng không mẫu hạm Varyag được chia gói chuyển về Hồng Kông nguyên vẹn. Ít năm sau thì tự nhiên nó“tàng hình thành Liêu Ninh”.

Trung Quốc đã có một thương vụ xiếc ngoạn mục, tốn dăm triệu USD mà có được chiếc hàng không mẫu hạm đáng giá nhiều trăm triệu đô la. Hơn cả là sở hữu công nghệ hàng không mẫu hạm. Rút ngắn cả chục năm trong cuộc chạy đua hàng không mẫu hạm với Nga và Mỹ.

Trung Quốc sẽ thâu tóm Vân Đồn trực tiếp, hay qua bàn tay người khác, lúc này hay dăm mười năm sau. Dưới vỏ bọc của các nhà đầu tư phương Tây, Hoa Kiều các nước, và mua lại các đại gia Việt Nam đang hối hả đầu tư tại Vân Đồn để kiếm lời. Vì mục tiêu quân sự, lãnh thổ và bành trướng, Trung Quốc không đếm xỉa đến giá cả. Còn kẻ đã đi làm giàu thì không thể cưỡng lại những núi tiền.

Khi trở thành đặc khu, chuyện thâu tóm Vân Đồn đối với Trung Quốc “dễ như trở bàn tay”. Đừng mơ hồ là chúng ta có chủ quyền.

Chúng ta có chủ quyền, thế mà ở Đà Nẵng người Trung Quốc xây phố Tàu, người Trung Quốc mua đất rầm rầm, nhưng ông BT Bộ TN &MT trả lời trước QH là không thấy, và còn ngồi chờ người đến báo!

Chúng ta có chủ quyền, không có từ nào nói đến Trung Quốc, mà Trung Quốc thắng thầu khắp mọi nơi.

Chúng ta có chủ quyền, nhưng đến ông bộ trưởng “thét ra lửa” Đinh La Thăng cũng phải ngậm đắng nuốt cay, không đuổi được nhà thầu Trung Quốc.

Huống hồ chi là mở đặc khu, với chỉ định mở cửa đích danh cho người Trung Quốc, thì chủ quyền đặc khu chỉ còn là cái bóng bóng.

Có người phản bác tại sao lại chia rẽ với Trung Quốc. Chúng ta không chia rẽ với nhân dân Trung Quốc, mà là chống lại kẻ cầm quyền độc tài ở Trung Quốc có dã tâm thôn tính nước ta, đang ăn cướp biển đảo của ta, ngày đêm xua đuổi đâm chìm thuyền đánh cá của ngư dân nước ta, không cho chúng ta khai thác đầu khí ngay chính trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.

V. VÂN ĐỒN HỨNG CÁI GÌ?

Những người cổ súy cho đặc khu đang vẽ ra những nguồn thu khổng lồ nhiều chục tỷ đô la. Trong lúc đó thì ngân sách đang thâm hụt phải đảo nợ, nên Chính phủ và Quốc hội khó mà cưỡng lại chiếc bánh vẽ lợi nhuận đặc khu.

Trên thực tế thì sẽ rất khác xa. Nguồn thu sẽ không như bản vẽ. Ở Vân Đồn sẽ không có hy vọng đón dòng đầu tư công nghệ cao. Thay vào đó là cơn sốt bất động sản. Tiếp đến là sòng bạc và phố đèn đỏ. Cùng với dòng khách du lịch là những tệ nạn xã hội.

Trung Quốc có nhiều điều kinh khủng. Nhưng không phải ở nền công nghiệp 4.0 mà một số lãnh đạo Việt Nam hay dùng, cũng như những kẻ sính từ khác là cửa miệng. Những người bảo vệ Trung Quốc vì đặc khu, hãy chỉ ra những sáng chế cách mạng bước ngoặt nào của Trung Quốc đi trước Mỹ, Nga, Đức, Nhật? Chưa bao giờ. Hiện thời Trung Quốc còn đi sau. Trung Quốc chỉ là kẻ nhái công nghệ siêu hạng.

Ngạn ngữ Việt Nam có câu “thầy nào trò nấy”. Chẳng hạn như trong bóng đá, có những ông thầy không dạy về kỹ thuật, mà chỉ dạy tiểu xảo chèn kéo đánh nguội đối thủ. Đi theo Trung Quốc là học làm hàng nhái, là làm đồ giả, là học tiểu xảo.

Cho nên nếu ai đó nghĩ rằng, mở đặc khu Vân Đồn để học công nghệ tân tiến của Trung Quốc thì thật nhầm to. Đừng cao giọng về “phượng hoàng”.

Sau những nguy hiểm về quân sự và lãnh thổ, điều đáng lo ngại mà Vân Đồn phải hứng chịu là những băng nhóm tội phạm từ Trung Quốc tràn sang tìm nơi trú ẩn, hành nghề, lừa đảo. Một cơ chế vào ra tự do cho người Trung Quốc là tấm thẻ xanh cho những kẻ tội phạm trốn tránh. Trung Quốc là nước ngầm khuyến khích tội phạm di cư ra nước ngoài.

Có người mong rằng mở đặc khu thì có các cường quốc đến làm rào cản Trung Quốc. Lại là một giấc mơ tự sướng. Quan hệ với các cường quốc nằm ở tầng khác. Không phải ở những mưu nhỏ này. Hơn thế nữa Trung Quốc là cáo già của phép “nhân kế nó dùng kế mình”.

VI. DỨT KHOÁT KHÔNG CẦN ĐẶC KHU

Chìa khoá không nằm ở đặc khu. Thí điểm thể chế đặc khu không giải quyết được vấn đề cốt lõi. Muốn giải quyết vấn đề cốt lõi thì cả nước phải là một đặc khu với một cơ chế mới.

Cả chục khu công nghiệp, trong đó có Dung Quất, Chu Lai , đã thất bại thảm hại. Khu công nghệ cao Láng - Hoà Lạc chưa thành công sau đã hai chục năm. Số phận ba đặc khu mới rồi cũng sẽ như vậy.

Mở đặc khu là lợi ích nhóm. Những kẻ bảo vệ lợi ích nhóm đang thúc đẩy thông qua luật đặc khu bằng mọi giá. Vì đồng tiền chúng bất chấp an nguy của Tổ Quốc.

Con đại bàng đã nhìn thấy mồi ở khoảng cách 3 km từ trời xanh, mà con thỏ thì chỉ đang nhìn thấy bụi cỏ trước mắt. Không phải vẽ ra tai hoạ, mà phải nhìn thấy trước được tại hoạ.

Sự khác biệt mang tính nguyên tắc giữa Thâm Quyến và Vân Đồn nằm ở chỗ , Thâm Quyến là Trung Quốc mở đặc khu cho người Trung Quốc, còn Vân Đồn là Việt Nam mở đặc khu cho người Tàu.

Nạn kiều năm 1976-1978 đã là một trong những nguyên do cơ bản để tên giặc già Đặng Tiểu Bình xua quân đánh chiếm nước ta ròng rã 10 năm trời. Nạn kiều cũng là nguyên do mà nhân dân Ucraina hiện đang hứng chịu cuộc nội chiến đau thương phân chia đất nước.

Dân tộc Việt Nam không cần đặc khu. Không phải đầu tư nước ngoài, mà con người và cơ chế mới quyết định sức bật của đất nước. An nguy của Tổ Quốc là tối thượng. Lợi ích nhóm không có nghĩa gì trước vận mệnh của Dân Tộc.

Không 99 năm. Không 70 năm. Không đặc khu. Hãy ngừng luật đặc khu. Đừng tạo cơ hội cho kẻ thù xâm chiếm đất đai của Tổ Tiên một cách hợp pháp.

Đừng nghĩ rằng bỏ đặc khu là phải chịu thua dân. Một chính quyền mà cố thắng chính nhân dân của nước mình thì tất sẽ sụp đổ.

NGUYỄN NGỌC CHU

THUYẾT ÂM MƯU "TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI "

Tuy nhiên, đến thời Tổng thống Trump, ông lại đứng lên chống lại âm mưu kinh hoàng này. Ông Trump, ông Putin và ông Tập có cùng mục tiêu, đó là chống lại âm mưu xây dựng ‘Trật tự Thế giới mới’ và tất cả những nỗi kinh hoàng mà họ đã và đang gây ra trong nhiều năm.


THUYẾT ÂM MƯU "TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI "

Ngày 8/5/2018, tờ BLes của Tây Ban Nha có một bài viết gây chấn động giới báo chí toàn cầu, khi đưa ra phân tích khá thuyết phục về thuyết âm mưu có tên ‘Trật tự Thế giới mới’.
Triều Tiên, trật tự thế giới mới, iran, hạt nhân,
Sẽ ra sao nếu thuyết âm mưu “Trật tự Thế giới mới” được thực hiện thành công? (Ảnh: internet)

Tóm tắt bài viết
Theo tờ BLes, để có được ‘Trật tự Thế giới mới’, người ta phải tạo ra một kẻ thù chung, một kẻ thù khiến cho mọi người đều sợ hãi, và cảm thấy cần phải nhờ đến một ‘cường quốc thế giới’ để bảo vệ mình.
Có những dấu hiệu và bằng chứng cho thấy các chính quyền Mỹ trước đây từ thời Tổng thống George HW Bush đến Tổng thống Obama đã sử dụng Triều Tiên, Iran, và người ngoài hành tinh, để tạo ra sự sợ hãi và đe dọa thế giới.
Tuy nhiên, đến thời Tổng thống Trump, ông lại đứng lên chống lại âm mưu kinh hoàng này. Ông Trump, ông Putin và ông Tập có cùng mục tiêu, đó là chống lại âm mưu xây dựng ‘Trật tự Thế giới mới’ và tất cả những nỗi kinh hoàng mà họ đã và đang gây ra trong nhiều năm.
Cũng theo tờ BLes, với những nỗ lực của Tổng thống Trump, âm mưu Thế chiến thứ 3 qua chiến tranh hạt nhân với Triều Tiên chắc chắn sẽ thất bại.
Ngày 21/5/1992, phát biểu trong Hội nghị Bilderberg ở Evian, Pháp, ông Henry Kissinger ám chỉ đến một mối đe dọa từ bên ngoài về sự tồn tại của nhân loại, và vai trò của một Chính quyền Thế giới, theo tờ BLes.

Theo băng nghi âm do một trong những đại biểu Thụy Sĩ thực hiện trong Hội nghị này, ông Kissinger nói: “Ngày nay, người Mỹ sẽ cảm thấy bị xúc phạm nếu quân đội LHQ tiến vào Los Angeles để khôi phục trật tự, thì ngày mai họ sẽ biết ơn. Điều này đặc biệt đúng nếu như họ được bảo rằng có một mối đe dọa từ bên ngoài, cho dù có thực hay chỉ là phao tin, đe dọa sự tồn tại của chúng ta. Sau đó, tất cả mọi người trên thế giới sẽ cầu xin các nhà lãnh đạo thế giới cứu họ ra khỏi thảm họa này. Điều mà mọi người sợ hãi, là không biết được. Khi kịch bản này xảy ra, các quyền cá nhân sẽ sẵn sàng được từ bỏ để đảm bảo sự hạnh phúc và thịnh vượng mà Chính quyền Thế giới (World Government) ban cho”.

Theo nhà báo Tây Ban Nha Daniel Estulin, Hội nghị Bilderberg nhắm tới giấc mộng thống trị toàn cầu bằng cách tạo ra “Chính quyền Thế giới”, với thị trường toàn cầu duy nhất, do quân đội Chính quyền Thế giới quản lý, và được rót tài chính từ một ngân hàng trung ương toàn cầu với một dạng tiền tệ phổ biến chung thông qua IMF, WB và WTO. Một trong số những mục tiêu chính là tập trung hóa mọi chính sách đối ngoại và đối nội, xây dựng nhân dạng quốc tế chung và một bộ giá trị phổ biến; biến NATO thành sen đầm quốc tế… kiểm soát tư tưởng cũng như lối sống bằng truyền thông, internet và chủ nghĩa tiêu thụ…

Tạo dựng mối đe dọa bên ngoài

Theo tờ BLes, chiến thuật tạo dựng một mối đe dọa từ bên ngoài là thường thấy, luôn được các chính phủ trên thế giới sử dụng.

Chiến thuật này thường cần phải “thúc đẩy” mọi người, chuyển hướng sự chú ý của họ sang những vấn đề mà họ muốn nghe, hoặc khuyến khích một số loại cảm xúc v.v.

Đó là lý do tại sao họ phải tạo ra một kẻ thù chung, một kẻ thù từ bên ngoài: kẻ thù khủng bố, mà mọi người đều sợ hãi, và cảm thấy cần phải nhờ đến một ‘cường quốc thế giới’ để bảo vệ cho mình, nếu như chính phủ của họ không thể bảo vệ được người dân.

Năm 1990, Tổng thống George HW Bush ủng hộ một ‘Trật tự Thế giới Mới’ (New World Order), với một chính phủ và một đức tin, dựa trên uy thế quân sự không thể tranh cãi, và sự thống trị kinh tế phương Tây, không có đối thủ. Dưới đế chế thế giới mới này, LHQ sẽ duy trì quyền kiểm soát. Trong thực tế, ông Bush tiết lộ lý do cho việc thành lập LHQ và tầm nhìn của ông trong việc giải quyết những xung đột quốc tế.



Theo tờ BLes, điều đó có nghĩa là quyền tự do và quyền tự quyết của các quốc gia có chủ quyền sẽ bị thay thế bởi Chính quyền Thế giới. Các khối khu vực sẽ phải quỳ gối trước ‘Chính quyền Thế giới’ độc tài này.

Do đó phát sinh lý thuyết âm mưu về một ‘Chính quyền Thế giới’, với tư tưởng nô dịch tất cả nhân loại, còn lại sau một thảm họa ‘bị quét sạch’ trong tương lai, khiến cho dân số thế giới khi đó bị giảm xuống “một mức độ bền vững và hài hòa với thiên nhiên”, với khoảng 500 triệu người, một con số mà ‘Chính quyền Thế giới’ có thể dễ dàng thống trị. Nhưng dân số thế giới hiện nay đã khoảng 7,5 tỷ người. Có nghĩa là vẫn còn rất, rất nhiều người phải loại bỏ, theo thuyết âm mưu.

Triều Tiên là một trong những kịch bản hoàn hảo, với những điều kiện cần thiết để tạo ra sự sợ hãi, và đe dọa thế giới bằng sức mạnh hạt nhân của họ. Nhưng Bình Nhưỡng đã có được vũ khí hạt nhân như thế nào? Họ không có đủ năng lực hay kiến thức, và liên tục bị trừng phạt nghiêm khắc trong nhiều năm. Vậy, ai đã giúp đỡ họ? Tờ BLes đặt câu hỏi.

Kể từ khi ông Trump lên nắm quyền, FBI và CIA đang bị xem xét kỹ lưỡng vì quyền lực quá mức mà 2 cơ quan này đã được các chính quyền của 2 cha con Tổng thống Bush, Tổng thống Clinton và Tổng thống Obama trao cho trước đây.

Theo các điều tra gần đây được chính quyền ông Trump tiến hành, vũ khí hạt nhân đã đến được Triều Tiên thông qua các công ty có mối liên hệ với CIA. Dưới thời các Tổng thống Mỹ trước đây, các công ty này có được rất nhiều tự do và quyền lực, tái đầu tư tiền từ thỏa thuận với Iran, để mua nguyên liệu hạt nhân, uranium và công nghệ cho Triều Tiên. Ngoài ra các công ty tư nhân, chẳng hạn như Space-X, đã từng chuyển giao công nghệ NASA, tên lửa, công nghệ thu nhỏ công nghệ hạt nhân. CIA có toàn quyền truy cập vào hệ thống hướng dẫn vũ khí. Tất cả kế hoạch này đã được thực hiện dưới thời ông Bill Clinton và ông Obama.

Năm 2009, ông Clinton tới thăm Triều Tiên, gặp gỡ với ông Kim Jong-il, cha của lãnh đạo Triều Tiên hiện nay Kim Jong-un. Không ai biết được ông Clinton đã trao đổi những gì trong cuộc họp, mà sau đó chính quyền Triều Tiên đã có một bước tiến đáng kể trong chương trình tên lửa của họ.


Tờ BLes cho rằng, có vẻ như khi đó ông Clinton đã chọn Triều Tiên và con trai của nhà lãnh đạo Kim Jong-il để sử dụng như công cụ chính cho kịch bản khủng bố, gây sợ hãi trên khắp thế giới. Trong giai đoạn này, các cuộc đàm phán và liên hệ giữa Mỹ và Triều Tiên đã giảm đi rõ rệt, cố ý khiến cho Bình Nhưỡng càng bị cô lập và tách biệt hơn nữa.

Ông Kim Jong-il qua đời vào tháng 12/2011 mà không có lý do rõ ràng. Người con trai út Kim Jong-un đã kế thừa vị trí lãnh đạo của cha.

Sự “trẻ người’ và thiếu kinh nghiệm của ông Kim Jong-un, khiến cho việc thao túng [ông] trở nên dễ dàng. Để thực hiện kế hoạch nói trên, người chú Jang Song Thaek và anh trai Kim Jong Nam đã bị sát hại, được cho là theo lệnh của ông Kim, nhưng điều này chưa bao giờ được xác nhận.

Sau đó, thông qua các phương tiện truyền thông chính thống của Mỹ, thế giới có ấn tượng tồi tệ nhất về ông Kim Jong-un, được thể hiện như một người kín đáo, tách biệt; một tên bạo chúa, kiểm soát người dân của mình với tình trạng nô lệ và đói kém. Vì vậy, cả thế giới cảm thấy kinh hãi bởi nhà độc tài điên rồ, với sức mạnh hạt nhân này.

Mục đích của CIA trong việc vũ trang Triều Tiên là gì?

Vào đầu năm 2013, Giám đốc điều hành (CEO) Google Erich Schmidt cũng đến thăm Triều Tiên. Lý do cho chuyến thăm này, ngay sau khi ông Kim kế vị cha mình, là một điều khiến người ta phải suy nghĩ. Ngay cả báo chí Mỹ cũng cho rằng cuộc gặp gỡ này là kỳ lạ. Tại sao ông Erich Schmidt đích thân đến Triều Tiên? Nếu đó là cho công việc kinh doanh, thì có cần thiết cho một CEO của một công cụ tìm kiếm trên Internet phổ biển nhất trên thế giới, đi đến một đất nước nghèo như vậy, để lập kế hoạch đầu tư vào thị trường đó?

Theo tờ Bles, ngày mà ông Erich Schmidt đến thăm Triều Tiên trùng với ngày ông Obama tái đắc cử tổng thống. Chuyến thăm đến Triều Tiên của ông Schmidt có liên quan gì đến kế hoạch mà người cung cấp tin tức bí danh “Q” đã đề cập đến, kế hoạch tàn phá nước Mỹ trong 16 năm của đảng Dân chủ, theo mệnh lệnh của ông Obama [8 năm] và bà Hillary Clinton [8 năm tiếp theo nếu thắng cử]?

Do đó, với nhiệm kỳ thứ hai đã được đảm bảo của mình, ông Obama phải bắt đầu với kế hoạch gây ra Thế chiến thứ 3, để mở đường cho một Trật tự Thế giới Mới.



Ai sẽ tốt hơn Google để số hóa [vũ khí hạt nhân của] Triều Tiên? Tờ BLes đặt câu hỏi.

Với dữ liệu được xây dựng trong mã hóa của Google, Amazon Home, Facebook, Apple và các truy cập vệ tinh khác, CIA đã có thể truy cập vào hệ thống dẫn đường tên lửa hạt nhân của Bình Nhưỡng, để chuyển hướng chúng tới bất cứ đâu mà họ muốn.

Tờ BLes cho rằng với sự lãnh đạo của ông Erich Schmidt, các kỹ thuật viên của Google đã cài đặt mọi thứ cần thiết. Điều này có nghĩa là việc kiểm soát hoàn toàn thông tin liên lạc của Triều Tiên đã được CIA thiết lập. Điều đó là để nói rằng mỗi bước đi và chuyển động của ông Kim sẽ bị CIA theo dõi và điều khiển từ xa. Do đó ông Kim không còn có thể nói bất cứ điều gì hoặc giao tiếp với ai đó, mà không ai biết.

Đây là một sức mạnh tột cùng của CIA và những người được gọi là tầng lớp ưu tú. Với một quốc gia vũ trang hạt nhân thuộc sự kiểm soát của mình, CIA có thể ‘kín đáo’ xử lý Triều Tiên, yêu cầu những gì họ muốn đối với thế giới; đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân ở Triều Tiên để đảm bảo sự khuất phục. Theo cách này, với kho vũ khí hạt nhân “tư nhân” ở đất nước châu Á, cả thế giới bị bắt làm con tin. Và điều nghịch lý nhất là số tiền khổng lồ được sử dụng trong kế hoạch này lại đến từ chính tiền thuế của người dân Mỹ.

Triều Tiên cũng được sử dụng để tiến hành các thí nghiệm không thể thực hiện được ở những nơi khác, ít biệt lập hơn và từ lâu đã có những hành động đáng ngờ, có liên quan đến buôn bán nội tạng và nhân bản người.

Vì vậy, người ta tin rằng đây là lý do thực sự mà ông Erich Schmidt là một trong những CEO đầu tiên từ chức đột ngột mà không đưa ra có lý do, ngay sau khi ông Trump ký sắc lệnh hành pháp, tịch thu tài sản của những kẻ lạm dụng nhân quyền (trong số những lạm dụng này là buôn bán ma túy, buôn bán người và trẻ em).



Sắc lệnh hành pháp này được ký vào ngày 20/12/2017. Một điều thú vị là ngay ngày hôm sau, 21/12/2017, đã có rất nhiều tin tức về việc từ chức sắp xảy ra của ông Erich Schmidt, với tư cách là CEO của Alphabet, công ty mẹ của Google.

Không tin vào các phương tiện truyền thông chính thống, các phương tiện truyền thông khác tiến hành điều tra riêng biệt một cách toàn diện, đã liên hệ sự từ chức của ông Schmidt là không chỉ dính líu đến việc thao túng thông tin liên lạc ở Triều Tiên, mà còn đến các tội phạm khác, và các công việc kinh doanh có liên quan đến lạm dụng nhân quyền được tiến hành ở Triều Tiên.

Phi hạt nhân hóa Triều Tiên


Khi nhậm chức, ông Trump tuyên bố sẽ giải quyết 4 vấn đề, bao gồm các vấn đề về Nhà nước Hồi giáo tự xưng (ISIS), băng đảng khét tiếng MS-13, Triều Tiên và Iran. Với 2 vấn đề đầu tiên, ông Trump đã hoàn thành lời hứa của mình.

Còn đối với Triều Tiên, một cuộc khẩu chiến đã nổ ra. Mọi người nín thở khi ông Trump gọi ông Kim là “người tên lửa”, “lùn và béo”, trong khi nhà lãnh đạo Triều Tiên phản pháo mãnh liệt, thậm chí đe dọa, gọi tổng thống Mỹ là “ông già lẩm cẩm”. Vào thời điểm đó, thế giới lo sợ bom hạt nhân của Triều Tiên, trong khi các phương tiện truyền thông chính thống thì chỉ trích ông Trump, cảnh báo ông cần ‘ngừng đùa với lửa” và rằng ông đã không khôn khéo.

Tuy nhiên, theo tờ BLes, Tổng thống Trump dường như biết rất rõ ông đang làm gì và nắm tất cả mọi thứ đều dưới sự kiểm soát của mình, trong khi tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề với Triều Tiên.

Tình hình đã thay đổi đáng kể sau khi ông Kim Jong-un đến thăm Bắc Kinh vào cuối tháng 3 năm nay, ông Trump đã nhận được sự giúp đỡ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Rõ ràng, cuộc họp này cũng giúp cho ông Kim thấy được những tiếng nói khác, làm sáng tỏ tình hình và giải phóng ông (và đất nước mình) khỏi sự thao túng của CIA. Kết quả của cuộc họp này dẫn đến sự khẳng định: “Bình Nhưỡng cam kết phi hạt nhân hóa”, và rằng ông Kim cũng sẵn sàng gặp ông Trump vào tháng 5 tới.

Ngày 28/3, ông Trump viết trên trang mạng Twitter: “Tối hôm qua, tôi đã nhận được một thông điệp từ ông Tập Cận Bình của Trung Quốc, rằng cuộc gặp của ông ấy với ông Kim Jong-un đã diễn ra tốt đẹp, và rằng ông Kim đang mong đợi cuộc gặp của ông ấy với tôi. Mặc dù và không may, các lệnh trừng phạt và áp lực vẫn phải được duy trì bằng mọi giá. Nhiều năm trước và trong nhiều chính quyền, mọi người đều nói rằng hòa bình và phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên thậm chí một khả năng nhỏ cũng không có. Bây giờ có một cơ hội tốt để ông Kim Jong-un sẽ làm những điều đúng đắn cho người dân của mình, và cho sự thống nhất. Tôi đang mong đợi cuộc gặp của chúng tôi”.

Ngày 21/4, Triều Tiên đã ngừng các cuộc thử nghiệm tên lửa và hạt nhân. Ông Kim Jong-un cũng thông báo đóng cửa địa điểm thử nghiệm hạt nhân. Ngày 26/4, cuộc gặp lịch sử giữa Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in và lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un, đã diễn ra tại Khu phi quân sự phân chia hai miền Triều Tiên.



Nhiều người không tin rằng Thế chiến thứ 3 sẽ xảy ra, tờ BLes nhận xét.

Báo động về việc một tên lửa nhắm vào Hawaii vào ngày 13/1/2018, được cho là Triều Tiên phóng ra, được đưa ra đúng trong giai đoạn căng thẳng giữa Washington và Bình Nhưỡng. Tại thời điểm đó, ông Kim đang tiến hành thử hạt nhân và tên lửa đạn đạo liên lục địa, trong khi tuyên bố tên lửa có thể vươn tới lục địa Hoa Kỳ.

Sau đó, tiếng còi báo động được tuyên bố là do lỗi của con người. Nhưng các nguồn tin nói rằng nó không thực sự đúng như vậy. Một tên lửa đã được phóng lên, nhằm vào Hawaii, nhưng đã bị bắn hạ. Nếu nó không bị đánh chặn, Mỹ có thể đã phản ứng quân sự giống như sự kiện Trân Châu Cảng, và có lẽ một cuộc chiến tranh hạt nhân đã bắt đầu, tờ BLes nhận định.

Ngoài ra còn có những thông tin lan truyền trên Internet cho rằng, việc phóng tên lửa là thực sự có thật, và nó đã bị đánh chặn. Nhưng chiếc tên lửa này được phóng ra từ một chiếc tàu ngầm, bị chiếm đoạt từ Hải quân Argentina. Đó là tàu ngầm ARA San Juan, mất tích ngày 15/11/2017 năm 2017 ở Nam Đại Tây Dương. Tín hiệu cuối cùng nhận được từ tàu ngầm là gần đảo Rothschild và lâu đài Rothschild Island.



Theo tờ BLes, Triều Tiên hiện đang yên bình, không có sự kiểm soát của CIA, một tổ chức đang bị ‘chìm đắm’ trong một làn sóng sa thải và bị điều tra do chính quyền ông Trump tiến hành. Ít nhất kế hoạch sử dụng chế độ của ông Kim như một kịch bản để bắt đầu Thế chiến thứ 3 đã thất bại. Nhưng, những người theo chủ nghĩa toàn cầu hóa phải có những kế hoạch khác, nhằm đạt được mục tiêu của họ, sắp đặt một cuộc chiến tranh thế giới mới, để tuyên bố một Chính quyền Thế giới.

Vậy, tiếp theo là gì? Điều gì sẽ là kịch bản tiếp theo? Tờ BLes đặt câu hỏi và cho rằng Iran đã xuất hiện nhiều lần như một vấn đề ông Trump phải giải quyết sau Triều Tiên. Quốc gia Ba tư này cũng bị xúi giục ‘để đóng vai’.

Tờ Guardian (Anh) cho biết thông qua một chiến dịch mang tên Chiến dịch Merlin, chính CIA thời Bill Clinton đã bán các bản thiết kế vũ khí hạt nhân cho Iran.

Thỏa thuận mà cựu Tổng thống Obama ký kết, có nghĩa là những biện pháp trừng phạt kinh tế đã bị loại bỏ và hàng triệu đô la đã được cấp cho Tehran để đổi lấy việc Iran hạn chế chương trình hạt nhân của mình. Theo các nhà phê bình, số tiền đổ vào kho bạc của chính quyền Iran đã được tài trợ cho tham nhũng và khủng bố. Vì Iran không có hệ thống ngân hàng, các phương tiện thông tin rằng tiền mặt đã được chuyên chở bằng máy bay. Có nhiều câu hỏi về việc có bao nhiêu chuyến máy bay đã được thực hiện, và liệu tất các các máy bay đều đến cùng một đích. Số tiền mà Obama đã trao cho Iran theo cách này là đáng báo động.

Các báo cáo và bằng chứng cho thấy sự tham nhũng của chính quyền Mỹ trước đó liên quan đến thỏa thuận Iran, liên tục được tiết lộ. Người ta nghi ngờ về việc Iran đã hạn chế chương trình hạt nhân của mình đến mức độ như thế nào, bởi vì có bằng chứng rằng Iran vẫn làm việc về các tên lửa đạn đạo, được thiết kế để mang các đầu đạn hạt nhân.

Trong bối cảnh này, tờ BLes cho rằng không quá bất ngờ khi ông Trump tuyên bố hôm 8/5 về việc Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân với Iran, và áp dụng trở lại các biện pháp trừng phạt kinh tế với mức độ cao nhất chống lại Iran. Chỉ cần nhìn thấy khả năng này, Thủ tướng Pháp Macron và Thủ tướng Đức Merkel đã nỗ lực rất lớn, trực tiếp đến Washington trong tuần cuối cùng của tháng 4/2018 để thuyết phục ông Trump tôn trọng thỏa thuận này. Tại sao các nước này, bao gồm cả nước Anh, gắn tầm quan trọng đến vậy cho việc duy trì thỏa thuận Iran có hiệu lực? Lợi ích hoặc lợi nhuận của họ là gì? Tờ BLes tiếp tục đặt câu hỏi.

Nếu kế hoạch của Triều Tiên thất bại, Iran có vẻ là lựa chọn thứ hai cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân, gây ra sự khởi đầu của Thế chiến thứ 3.

Sự lo lắng của ông Macron và bà Merkel khi đích thân đến Mỹ để thuyết phục Tổng thống Trump không rút khỏi thỏa thuận hạt nhân với Iran để lại rất nhiều điều phải suy nghĩ về lý do thúc đẩy họ làm như vậy. Tuy nhiên, kịch bản ‘trong bóng tối’ này không bao giờ đến được công chúng, bởi vì các phương tiện truyền thông chính thống không đưa tin về điều này.

Theo tờ BLes, có rất nhiều âm mưu, nhưng thông tin không bao giờ đến được công chúng. Tuy nhiên có một điều chắc chắn: Ông Trump sẽ không để cho Iran được lợi dụng để tiến hành một cuộc chiến tranh thế giới.

Mối đe dọa của “người ngoài hành tinh”?

Nếu ông Trump cũng can thiệp vào kế hoạch sử dụng Iran như một mối đe dọa bên ngoài, thì quân bài cuối cùng hay ‘quân át chủ bài’ là gì? Những gì còn lại của trận chiến này là một “cuộc tấn công ngoài hành tinh”. Cả thế giới sau đó sẽ yêu cầu bảo vệ bởi vì đó sẽ là một cuộc tấn công vào toàn bộ trái đất, chỉ có thể được giải quyết bởi một liên minh các lực lượng, ví dụ như LHQ.

Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều báo cáo xuất hiện về người ngoài hành tinh, mà nhiều thập kỷ trước đã được giữ kín như bí mật quốc gia. Nhưng có nhiều báo cáo và dấu hiệu rằng các chuyển động dường như không giải thích được của đĩa bay (UFO) và ánh sáng trên bầu trời, phần lớn là nhân tạo, vì đã có kỹ thuật để chiếu ra loại hình ảnh này.

Không hề nghi ngờ khi có nhiều người có thể tin rằng người ngoài hành tinh đã đang quan sát trái đất, và thậm chí chúng sống giữa con người, nhưng nếu họ chưa từng làm gì trước đó, tại sao họ sẽ tấn công loài người bây giờ? tờ BLes nêu câu hỏi.

Các nhà lý thuyết âm mưu nói rằng khi có một tai nạn của một chiếc đĩa bay, được cho là vào tháng 7/1947 ở Roswell, New Mexico, nhiều nhân chứng cho rằng các xác chết ngoài trái đất đã được tìm thấy bên trong con tàu, nhưng mọi thứ đều được giữ bí mật. Rõ ràng là các chính phủ suy luận rằng người dân chưa sẵn sàng đối đầu với tin tức gây sốc, rằng con người không đơn độc trong vũ trụ, do có sự tồn tại của người ngoài hành tinh.

Tuy nhiên, sau nhiều thập kỷ im lặng, tất cả các tin tức và thậm chí cả hình ảnh và video đột nhiên xuất hiện trong những năm gần đây, tất cả về các loại người ngoài hành tinh xuất hiện trên bầu trời, kèm theo những âm thanh kỳ lạ v.v. Đây có phải là bước đầu tiên để mọi người quen với sự tồn tại của người ngoài hành tinh, và để truyền bá cho người dân ý tưởng rằng chúng rất mạnh, với những gì chúng đã thể hiện trên bầu trời? Liệu chúng có phải là kẻ thù?

Ngay cả cựu Tổng thống Mỹ Obama cũng đã nhiều lần úp mở về người ngoài hành tinh, mặc dù trên thực tế chính sách của chính phủ Mỹ luôn giữ bí mật vấn đề này.

Ví dụ như trong năm 2015, trong chương trình Talk Show do người dẫn chương trình Jimmy Kimmel chủ trì, ông Obama đã trả lời ông Jimmy Kimmel câu hỏi liên quan đến người ngoài hành tinh, theo đó cho rằng người ngoài hành tinh đang kiểm soát chặt chẽ loài người, không cho phép loài người tiết lộ bí mật của họ. Mặc dù câu trả lời của ông Obama có vẻ không rõ ràng, đối với một số người, nó được ông Obama nói với ý định để lộ sự tồn tại của sinh vật ngoài trái đất thông minh, và dự đoán một kịch bản của sự thù địch.

Hay trong một dịp khác, trong chương trình truyền hình Ellen DeGeneres Show, ông Obama, người đã hoàn thành 8 năm làm tổng thống vào tháng 1/2017, đã được phỏng vấn bởi một cô gái 6 tuổi. Bé Macey, chắc chắn được chỉ dẫn trước, đã hỏi ông Obama có thông tin về sự tồn tại của người ngoài hành tinh hay không. Ông Obama đã trả lời rằng chưa bao giờ liên lạc trực tiếp với người ngoài hành tinh, nhưng không nói rõ có liên lạc gián tiếp hay không.

Bà Hilary Clinton cũng đã hứa trong chiến dịch tranh cử năm 2016 của mình rằng bà sẽ tiết lộ tất cả thông tin về người ngoài hành tinh nếu được bầu làm tổng thống. Việc tiết lộ và một “cuộc xâm lược ngoài hành tinh” sau đó rốt cuộc đã có thể xảy ra nếu bà Hillary chiến thắng cuộc bầu cử tổng thống, và khi bà cần một “mối đe dọa bên ngoài”. Nhưng bà Clinton đã không chiến thắng.

Vì vậy, đây vẫn còn là một điều chưa được rõ liệu sức mạnh tiềm ẩn của Trật tự Thế giới Mới có thể tạo ra một “cuộc xâm lược của người ngoài hành tinh” hay không?.

Cuộc chiến không chỉ cho nước Mỹ, mà còn liên quan đến toàn thế giới

Theo tờ BLes, ông Vladimir Putin và ông Tập Cận Bình bằng cách nào đó đã trở thành đối tác của ông Donald Trump, không phải vì tình bạn mà vì lợi ích chung, nên họ cần lẫn nhau. Mỗi quốc gia này phải đối mặt với cái gọi là “nhà nước ngầm” (Deep State), mà chưa hoàn toàn có khả năng chống lại chúng.

Tất cả các nhà nước ngầm đều kết nối với nhau trong lý tưởng của một ‘Trật tự Thế giới Mới’, thao túng kinh doanh quốc tế, tài chính, ngân hàng và những tội ác tồi tệ nhất, như buôn lậu vũ khí, ma túy, con người và trẻ em.

Các nhà lãnh đạo của 3 đất nước hùng mạnh nhất thế giới là hoàn toàn chống lại những người theo chủ nghĩa toàn cầu hóa, muốn chấm dứt những thảm họa này. Nếu bà Hillary thắng cử, ông Putin có lẽ sẽ không ngồi một cách nhàn rỗi, xem ‘sự tiến bộ’ của chương trình nghị sự toàn cầu hóa. Trước cuộc bầu cử ở Mỹ, ông Vladimir Zhirnovsky, một đồng minh của Tổng thống Nga Vladimir Putin theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đã nói với hãng Reuters rằng ông Trump là người duy nhất có khả năng giảm những căng thẳng nguy hiểm giữa Moscow và Washington.

“Những người Mỹ, bầu cho tổng thống vào ngày 8/11 sẽ nhận ra rằng họ đang bỏ phiếu cho hòa bình trên hành tinh Trái đất nếu họ bỏ phiếu cho ông Trump. Nhưng nếu họ bỏ phiếu cho bà Hillary, đó sẽ là một cuộc chiến tranh. Đó sẽ là một bộ phim ngắn. Sẽ có Hiroshimas và Nagasakis ở khắp mọi nơi”, ông Zhirnovsky nhận xét.

Tờ BLes cho rằng mặc dù ông Tập Cận Bình có quyền lực tuyệt đối trong một chính quyền tập trung quyền lực, tuy nhiên ông Tập vẫn chưa có khả năng quét sạch hoàn toàn nhà nước ngầm của Trung Quốc, với quyền lực trong tay cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân.

Tờ BLes cũng lưu ý ông Giang có một lý lịch đẫm máu về ngược đãi nhân quyền, khét tiếng bằng việc khởi xướng cuộc đàn áp chưa từng thấy đối với các học viên Pháp Luân Công, môn khí công theo nguyên lý Chân Thiện Nhẫn, trong đó có việc mổ cướp nội tạng sống từ những tù nhân lương tâm này. Việc mổ cướp nội tạng từ những người trưởng thành và trẻ con còn sống, là để cung cấp nội tạng cho ‘tầng lớp tinh hoa’ trên thế giới.

Do đó, sự biến mất của trẻ em trong các cuộc chiến tranh và thảm họa tự nhiên cũng có thể là nguồn cung cấp các nội tạng khỏe mạnh. Nhiều hành động tàn bạo sẽ bị phơi bày ra ánh sáng khi chính quyền độc tài, kết nối với giới tinh hoa trên thế giới, và với những người có thể trả tiền cho những thực tiễn tàn nhẫn và ghê tởm này, sụp đổ.

Tương tự, ông Putin cũng đã không thể hoàn toàn quét sạch các thành viên của nhà nước ngầm ở ở Nga, nơi chúng vẫn có quyền lực ảnh hưởng, và vẫn còn kiểm soát trong các lĩnh vực khác nhau .

Cho đến bây giờ, rõ ràng các nhà lãnh đạo Nga và Trung Quốc đang hợp tác với ông Trump, hy vọng bước tiến của ông Trump trước tiên ở Mỹ, sẽ tạo ra lợi thế cho những nỗ lực của họ trong việc quyét sạch nhà nước ngầm.

Nếu 3 nhà lãnh đạo phối hợp những nỗ lực, những gì mà ông Trump đạt được trong việc tiêu diệt nhà nước ngầm, thì nó cũng sẽ giúp Trung Quốc và Nga. Ngoài ra, ở cấp độ quốc tế, các nguồn tiền và những doanh nghiệp thông thường cũng sẽ bị ảnh hưởng, và sức mạnh [của thế giới ngầm] sẽ được giảm bớt.


Mọi người thường thấy rằng ông Trump, ông Tập và ông Putin đồng ý về các vấn đề cụ thể, đặc biệt là trong cuộc chiến chấm dứt toàn cầu hóa.

Đúng là có những cuộc chiến công khai giữa họ, với những ngôn từ ‘gay gắt’ và chỉ trích. Nhưng tất cả chúng đều đúng? Hay chỉ là một phần trong kế hoạch của họ? Phương tiện truyền thông chính thống và đối thủ của ông Trump luôn luôn chỉ trích ông là ‘không đúng về mặt chính trị”, nhưng ông Trump chắc chắn là một chuyên gia trong việc sử dụng “màn hỏa mù”, được ông thường xuyên tung ra mỗi dịp, tạo ra sự bối rối cho những đối thủ của mình.

Tất cả những điều này có vẻ là một cuốn tiểu thuyết gián điệp hấp dẫn và thú vị. Tuy nhiên, đây là một thời điểm quan trọng của nhân loại, bởi vì nó đang đe dọa, không chỉ sự suy giảm dân số xuống 500 triệu người, mà còn có thể kết thúc sự duy linh của loài người.

Ông Trump, ông Putin và ông Tập có cùng mục tiêu. Đó là loại bỏ những người toàn cầu hóa và tất cả những nỗi kinh hoàng mà họ đã đang gây ra trong nhiều năm; hay nói theo cách khác, để cứu người dân bằng cách thức tỉnh họ.

Ông Trump và ông Putin thường không bao giờ quên đề cập đến Chúa và ám chỉ đến sự giúp đỡ [của Chúa]. Chắc chắn sẽ không có Thế chiến thứ 3.

Như vậy, một ngày nào đó, trong tương lai, mọi người sẽ nhìn lại, và xem xét giai đoạn lịch sử hiện tại, và phản ánh về cách mà nhân loại gần như bị tiêu diệt. Chúng ta là câu chuyện, là lịch sử cho nhân loại tương lai

– tờ BLes kết luận.



Theo ĐKN