Thứ Hai, 7 tháng 5, 2018

TRIẾT HỌC CUỘC TRUY TÌM Ý NGHĨA CỦA TỰ DO VÀ NGÔN TỪ







(Đọc Tư duy tự do của Phan Huy Đường, NXB Đà Nẵng, 2006)



Lương Xuân Hà



'Nó mang đến một cái gì mà đời sống văn hoá ở Việt Nam đang còn thiếu :

suy tư triết học thực sự và một kiểu mẫu vẽ một công trình triết học chân chính.'

Trích thư cho tác giả



◄◄ đọc thêm về Tư-duy tư-do




1. Khó có thể chối cãi, ngôn ngữ là một trong những vấn đề xuất hiện ở tiền cảnh của đời sống văn hóa hiện đại. Ngôn từ là cái làm nên tính người. Nó là sản phẩm của con người. Nó quyết định cách con người nhìn, thụ cảm và lý giải thế giới. Nó vừa có tính xã hội, vừa có tính lịch sử và vì có tính lịch sử nên nó cũng có một chu trình sinh thành và già cỗi. Trong mối quan hệ giữa con người và thế giới, người ta tiếp nhận thế giới xuyên qua trung gian mờ đục của ngôn từ[1]. Kinh thánh nói : Khởi thủy là Lời. Con người trở thành Người thông qua ngôn từ. Nhưng ngôn từ, đến lượt nó không tránh khỏi nguy cơ của sự tha hóa, của sự cạn kiệt ý nghĩa và khi đó, nó quay trở lại cầm tù chính con người. Một phần đời sống của chúng ta hiện lên như là những diễn ngôn. Nhưng cũng hiếm có một thời đại nào mà diễn ngôn bị phản bội như ở thời hiện đại của nhân loại. Tôi nhớ đến một đoạn tiểu luận mà A. Camus viết trong những năm 1950 : “(…) một xã hội đặt nền tảng trên những ký hiệu, ngay trong tinh túy của nó, là một xã hội giả tạo, trong đó chân thân của con người đã bị mê hoặc. Đến như thế người ta không lấy làm lạ khi xã hội đó đưa lên hàng tôn giáo một nền luân lý gồm những nguyên tắc quyết đáp khi nó viết chữ Tự do bình đẳng trước các khám đường một cách dễ dàng như trên những thánh đường tài chính (…)”[2]. Trong một diễn ngôn mang cảm hứng mác xít rất đậm nét như trên, có thể cảm nhận thấy linh cảm của Camus về sự sụp đổ và sự “mất giá” của ngôn từ trong thế giới hiện đại. Và tình hình không phải chỉ dừng ở những năm 50 của thế kỷ trước. Cho đến thế kỷ này, người ta cũng vẫn đang chứng kiến những cái mà Camus gọi thẳng tên là “sự đánh đĩ ngôn từ” : người ta nhân danh “chống khủng bố” để tiến hành khủng bố, nhân danh bảo vệ tự do để xâm phạm nhân quyền và nhân danh bảo vệ nền dân chủ để làm đảo chính quân sự… Đời sống văn hóa ở Việt Nam, không ít thì nhiều, cũng bị cuốn vào những vấn đề chung của thế giới. Quan sát những “hiện tượng” của đời sống văn hóa Việt Nam gần đây, có thể thấy cội nguồn của không ít “hiện tượng” là ở ngôn ngữ. Tôi muốn nói đến những phản ứng của giới phê bình và không ít bạn đọc với những thể nghiệm nghệ thuật mang mầu sắc hiện đại và hậu hiện đại của một số tác giả trẻ ở miền Nam (các nhà thơ nữ ở TP. Hồ Chí Minh và tập thơ Dự báo phi thời tiết). Có lẽ đằng sau những diễn ngôn về sự “suy đồi”, “phóng túng” hay “xa lạ với thuần phong mỹ tục”… mà nhiều nhà phê bình dành cho họ che dấu một phản ứng của một thế giới ngôn từ chống lại một thế giới ngôn từ. Người ta nói rất nhiều về sự “lệch pha” giữa giới phê bình và giới sáng tác. Phải chăng sau sự “lệch pha” ấy che dấu sự cầm tù của ngôn từ. Một kinh nghiệm nghề nghiệp nhỏ mang tính cá nhân. Khi các sinh viên năm thứ ba và năm thứ tư đến gặp tôi để làm luận thường niên hoặc luận tốt nghiệp, các em thường có khuynh hướng chọn các tác giả như Thạch Lam, Nam Cao, Bùi Hiển, Nhất Linh, … nghĩa là các tác giả thuộc chuẩn trước 1945. Các em có thể khá dễ dàng mở rộng diện trường nghiên cứu ra những tác giả như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu sau Cách mạng hay những tác giả mang mầu sắc “duy cảm” như các nhà văn nữ viết văn sau 1986. Nhưng các em thường “trơ” trước Trần Dần, Lê Đạt, hay những tác giả như Nguyễn Quang Thiều hay Nguyễn Bình Phương. Ngược lại, khi tôi thử làm một đối thoại nhỏ về một tác giả mà đa phần (tôi chắc phải đến gần 90%) các em đều say mê là Thạch Lam, với một truyện ngắn mà các em hết sức quen thuộc – Hai đứa trẻ - điều đầu tiên mà các em bật ra bao giờ cũng là một chuổi diễn ngôn liên quan đến cái tăm tối, u tối sau đó là bần cùng, bế tắc, mòn mỏi…Cái gì diễn ra bên trong các em? Phải chăng mỹ cảm của các bạn trẻ này được nhào nặn nên bởi một thế giới ngôn từ gồm những cực như thơ mộng, mơ mộng, lãng mạn, ngọt ngào, bần cùng, tối tăm, u tối, bế tắc, anh hùng, vĩ đại… Họ nhìn và cảm thế giới qua thế giới ngôn từ đó và họ bị chính thế giới ngôn ngữ đó cầm tù. Tình thế của họ tương tự như những nhà thơ Việt Nam những thập niên 20, 30 của thế kỷ XX, những người ở trước thềm Thơ mới như Trần Tuấn Khải hay Tản Đà. Họ là những kẻ đã cảm nhận thấy sự ra đời của một thế giới mới nhưng thế giới ngôn từ làm cho họ bất lực trong việc mô tả thế giới ấy. Tôi nghĩ ở đầu thế kỷ XXI, người Việt Nam đang ở trong một tình thế giống như cha ông chúng ta đầu thế kỷ XX. Không phải là vô lý khi mà đây đó, những tiếng nói về nhu cầu dịch thuật vang lên nhiều đến thế. Một thế giới ngôn từ đang khao khát sự đổi mới, những diễn ngôn đang đòi tái cấu trúc !

2. Trong một tình thế như vậy, tôi đã đọc Tư duy tự do của Phan Huy Đường. Cuốn sách mang lại một khoái cảm đặc biệt về ngôn từ. Tương tự như cảm giác được gặp một kẻ xa lạ mà quen thuộc. Bắt đầu từ những cái gạch ngang trong những từ ghép. Có hai lý do của cảm giác này. Thứ nhất, đó là tình trạng chung của văn chương di dân ngoài biên giới Việt. Di dân trước hết là một lưu đầy về ngôn từ. Người viết bị tách khỏi môi trường ngôn ngữ mẹ đẻ, anh ta mang theo trong ký ức ngôn từ của khoảnh khắc rời bỏ Tổ quốc và giống như một thứ “đồng hồ chết” anh ta viết bằng cái ngôn ngữ của khoảnh khắc rời bỏ đó. Ngôn từ luôn phát triển. Nhưng đó là một sự phát triển khác với sự phát triển trong môi trường quốc nội. Ở đây, tôi chỉ nói lên một hiện tượng, không bàn đến hơn kém. Nhưng điều thứ hai, quan trọng hơn, và cũng đáng trân trọng hơn : tác giả là một người có ý thức về sự tạo dựng một thế giới ngôn từ của riêng mình. Viết triết học, với ông, trước hết là tạo dựng một ngôn từ triết học mang dấu ấn cá nhân. Ông ý thức rất rõ rằng “trong triết học (…), không một khái niệm nào không đáng nghi ngờ ! Không một khái niệm nào có định nghĩa chung cho mọi triết gia vì không một khái niệm triết nào có thể chứng minh được bằng thử nghiệm. Khái niệm triết chỉ có định nghĩa và có ý nghĩa trong môi trường của một hệ suy luận triết học” và “muốn hiểu một khái niệm, một câu văn trong một tác phẩm triết, ta phải có sẵn trong đầu môi trường suy luận trong đó nó có nghĩa”. Cũng cần phải nhắc tới một thực tế. Trong nguyên tác Tư duy tự do được viết bằng tiếng Pháp, được xuất bản ở Pháp và sau đó được chính tác giả dịch sang tiếng Việt. Điều đó, tự bản thân nó đã có ý nghĩa trong việc làm giàu ngôn từ triết học của tiếng Việt. Một trong những hứng thú đặc biệt khi đọc cuốn sách là dõi theo những cước chú (footnote). Đó có thể là những suy tư bên lề lan man như một ngẫu hứng nhạc jazz, có thể là một mỉa mai nào đó hay nhiều khi là những ghi chú về một lối dịch. Và qua cái cách mà tác giả tự dịch chính mình, ông đem đến cho chúng ta những hiểu biết nhiều khi mới mẻ và thú vị về những điều đã bị tự động hóa đến mức trở thành chai cứng trong đời sống ngôn từ của chúng ta. Tôi đánh giá cao cách Phan Huy Đường dịch khái niệm “transcendant” và “intuition transcendantale” trong triết học Kant. Những khái niệm này thường được hiểu như là “siêu việt”, “siêu nghiệm” và “trực giác siêu nghiệm”. Tác giả đề xuất một định danh khác : “linh cảm biệt lập”. Ông hiểu cái “transcendant” của Kant là biệt lập nghĩa là “tự nó, không lệ thuộc bất cứ gì ngoài nó”. Theo tôi, cách hiểu đó là chính xác. Hay cách ông diễn đạt một trong ba quy luật quan trọng của phép biện chứng, quy luật mà chúng ta vẫn định danh là “quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Tác giả sử dụng một lối diễn đạt khác : “quy luật liên thể của các cực đối lập”. Lối diễn dịch đó là hữu lý. Còn rất nhiều những ví dụ khác về ngôn từ trong cuốn sách của Phan Huy Đường. Nó làm cho việc đọc cuốn sách trở thành một cuộc phiêu lưu ngôn từ đầy hấp dẫn.

3. Cuốn sách của Phan Huy Đường được chia làm ba phần : Những quan hệ cơ bản của con người với thế giới; Nền tảng của những ý tưởng; Những nền tảng của kiến thức. Phần thứ nhất của công trình giống như một nền tảng cho những suy tư ở hai phần tiếp theo. Tất cả những gì được viết cho phần này không phải là quá mới, tuy vậy, nếu thiếu nó, khó có thể có được sự tiếp cận đầy đủ những phần tiếp sau. Trọng tâm của phần này là vạch ra tính ba chiều kích (tridimensionnel) của tồn tại người (nghĩa là trong nó, đồng thời là con người vật thể, con người sinh vật và con người văn hóa, tính tổng hòa của nó không chỉ là sự tổng hòa những quan hệ xã hội mà còn là tính tổng hòa của chính những chiều kích này trong một thực thể); sự rạn nứt khoa học luận trong tư tưởng của Descartes; sự què quặt mang tính định mệnh của ngôn ngữ… Nếu như coi toàn bộ cuốn sách là một bài toán thì phần đầu tiên có vai trò như một hệ tiên đề mà bắt buộc, người ta phải nắm để giải bài toán đó. Phần thứ hai là một cuộc đối thoại với những tư tưởng làm nền tảng của tư duy Âu Tây hiện đại (Descartes, Kant, Hegel, Sartre, …) và đặc biệt là Marx và Engels, những người được coi là đặt nền tảng cho một nhân sinh quan mới. Những trang viết hay nhất, theo cái nhìn chủ quan của tôi, có lẽ là những trang viết về Sartre, “triết gia của tự do” và những trang có giá trị nhất là những trang về tư duy biện chứng của Marx và Engels, xuất phát từ 11 luận đề chống Feuerbach. Trên cơ sở những cuộc đối thoại của phần hai, cuộc phiêu lưu tri thức tiếp tục với sự truy tầm ý nghĩa đích thực những kiến thức nền tảng của con người hiện đại từ tiềm thức, cống rãnh của văn hóa; khoa học nhân văn, con nguời xẻ thành linh kiện;… đến chính trị, nghệ thuật làm người; nghệ thuật, bập bẹ làm người và văn chương, máu thịt của ngôn từ. Trong phần này, những phần đáng đọc nhất là những phần truy vấn ý nghĩa của nghệ thuật và văn chương, dẫu cảm hứng dấn thân chịu ảnh hưởng của Sartre là rõ nét.

4. Với một cái nhìn lướt qua như trên, có thể thấy Tư duy tự do là một tác phẩm mang mầu sắc Mác xít rất đậm nét. Nói theo chính ngôn từ của tác giả, ông là người “nhận nợ” từ Marx và Engels. Điều đáng trân trọng là sự tiếp nhận tư tưởng từ Marx và Engels của Phan Huy Đường là hoàn toàn phi giáo điều. Đặt trong lịch trình tư tưởng châu Âu từ thế kỷ XVII, từ “sự rạn nứt khoa học luận” của Descartes, tác giả chỉ ra tính cách mạng trong phép biện chứng mác xít thể hiện trong việc đặt lại vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức bằng cách thay thế nhị nguyên luận biệt lập vật chất – tư duy của Descartes bằng cách đưa vào giữa vật chất và ý thức những quá trình sống của con người – nghĩa là đặt một gạch nối giữa chủ thể tư duy và thế giới. Ông cũng nhận ra trong những bản văn được viết từ rất sớm của Marx và Engels linh thức thiên tài về con người với tư cách là một thực thể ba chiều kích (vật chất, sống, văn hóa). Từ xuất phát điểm đó, tác giả đề xuất một cách hiểu khác về ba quy luật nền tảng của phép biện chứng mác xít (quy luật lượng biến thành chất, phủ định của phủ định và liên thể của các mặt đối lập). Thay vì nhìn những quy luật này thuần túy mang tính bản thể luận (nghĩa là thuần túy mô tả sự vận động của thế giới hiện thực), ông tìm cách thống nhất chúng, coi chúng như “một thể thống nhất, đồng tự hiện thực trong mọi quan hệ giữa con người với thế giới, với chính mình”. Theo cách nhìn đó, quy luật lượng biến thành chất được nhìn như là quy luật phản ánh mối quan hệ giữa những biến đổi của thế giới vật chất và sự cảm nhận của con người (sự biến đổi của thế giới vật lý, đến một mốc nào đó, sẽ khiến một sinh vật cảm nhận nó một cách hoàn toàn khác về chất). Cũng như vậy, sự phủ định cần được hiểu như là quá trình chuyển hóa qua những chu trình của sự sống biến những hiện tượng của thế giới hiện thực trở thành những kinh nghiệm sống mang tính cá thể và từ đó, phủ định của phủ định chính là khâu cuối cùng chuyển hóa những kinh nghiệm sống đó thành những kinh nghiệm văn hóa. Không những thế, ông còn đẩy tiếp suy luận của mình khi cho rằng gốc của những “phạm trù đối lập” cần phải được tìm trong chính đặc điểm tư duy con người. Sự diễn dịch như trên ba quy luật của phép biện chứng có thể cho phép xây dựng một hình dung về mối quan hệ giữa con người và thế giới như một “tổng thể động”, như một “hành động vật chất có nhục cảm và tư duy của con người (người viết nhấn mạnh)” nó cho phép tạo ra những mệnh đề hết sức lý thú chẳng hạn như khi tác giả nhận định : “Điều ta gọi là chất không là thuộc tính của vật chất cũng không phải là một thuộc tính của sinh vật – trong óc làm gì có mầu xanh! – nó biểu đạt một loại quan hệ giữa một sinh vật với vật chất”. Điều độc đáo và sáng tạo của cách diễn dịch này là nó đặt lại vấn đề về vai trò của con người trong mối quan hệ với thế giới, tránh một hình dung mang tính quyết định luận nghiệt ngã về mối quan hệ giữa con người và thế giới, điều mà không ít diễn dịch mác xít giáo điều có thể sa vào.

5. Trong cuốn sách của mình, Phan Huy Đường đưa ra một hình dung về tự do : “Ở bất cứ chiều kích nào trong thân phận làm người, phủ định văn hóa đã khiến mình nên người là phủ định chính mình để sáng tạo … chính mình! Qua hành động và trong ngôn ngữ. Điều ấy gọi là tự do. Vì nó có khả năng tự phủ định toàn diện, con người thực sự tự do khi dám phủ định chính mình, dám biến hành động ấy thành tác phẩm hay thành lời nói. Xuất phát từ phủ định và phủ định của phủ định để nên người, nó biết phủ định nhân giới cũ ở nó để sáng tạo nhân giới mới ở nó và xuyên qua ngôn ngữ, ở mọi người, ở mình”. Trong ý nghĩa đó, cuốn sách của ông xứng đáng với tên gọi của nó. Nó là ngôn từ triết của chính ông. Nó là cuộc đối thoại với những triết gia mà ông “nhận nợ”, những triết gia “của riêng ông” (tất nhiên, nếu ở địa vị tôi, cái danh sách những nhà tư tưởng lớn nuôi dưỡng tư duy hiện đại sẽ phải thêm vài người như E. Husserl, như một vài nhà cấu trúc luận, như một số triết gia về ngôn ngữ). Nó là cách “đọc” Marx và Engels của riêng ông. Đọc cuốn sách của ông, có thể tìm thấy một sự quyến rũ của thế giới ngôn từ và một lời mời gọi suy tư đầy tinh thần dấn thân Mác xít. Với một cuốn sách triết, tôi nghĩ, thế cũng là đủ.

Lương Xuân Hà

10.2006








[1] Xin xem bài của Cao Việt Dũng giới thiệu một trong những công trình vĩ đại nhất của triết học thế kỷ XX – cuốn Từ và vật của Michel Foucault. Tạp chí Tia sáng, số 19 ra ngày 5.10.2006.


[2] A. Camus, Văn nghệ sĩ với hiện đại, trong sách Những bậc thầy văn chương, NXB Văn học, Hà Nội, 2002.

LỤC BÁT TẢN THẦN





Thơ: Nguyễn Hàn Chung




Liếc tiên Bùi Giáng báng dùi
liếc thần Nguyễn Đức Sơn ngồi vọc cu

Liếc Hoài Khanh Phạm Thiên Thư
Nguyễn Khắc Hiếu Nguyễn Tố Như họ Đồng

Lục bát à ! Dễ như không
dễ như gái nhảy trên chông gót trần

Ham chơi lục bát tản thần
cũng không liều lĩnh bỏ vần mê trai

Tân hình thức đã tam tai
hậu hiện đại lại bá vai côn đồ

Liếc gái gú liếc con bồ
thử chơi chiêu tự cởi đồ ra sao

Cho cùng dẫu có rớt ao
còn hơn tự trói mình vào nếp nhăn

Bây chừ gân cốt còn căng
không chơi lỡ cái đê hèn phản cung!

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2018

CUỘC XÂM LĂNG THẦM LẶNG CỦA NGƯỜI TÀU.


Nguyễn Thuỳ Trang

Mỗi tháng người Trung Quốc tới Nha Trang hơn 150 nghìn người và Đà Nẵng hơn 100 nghìn người. Chỉ nội 2 thành phố Nha Trang và Đà Nẵng đã có hơn 250 nghìn lượt du khách TQ sang VN mỗi tháng, vượt qua con số 2.7 triệu người TQ đến VN trong năm 2016.

Nha Trang và Đà Nẵng có gì đẹp để người TQ phải đến!
Trên thực tế, TQ có nhiều khu vực biển rất đẹp mà không cần phải tới VN để du lịch.Mục đích của Trung Quốc là di dân tới Việt Nam và đây là sự thật phủ phàng cho đất nước VN chúng ta.

Tại Nha Trang và Đà Nẵng, mỗi tuần có hằng chục người Trung Quốc làm thủ tục cưới vợ VN và con số này đang tăng nhanh đến chóng mặt.

Theo quy định Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân được coi là tài sản chung, do đó người Trung Quốc chỉ cần đưa tiền nhờ người vợ sắp cưới mua nhà, sau đó làm giấy hôn thú thì người Trung Quốc sẽ được quyền sở hữu căn nhà đó cùng với vợ ngay tại Việt Nam.

Đây là cách lách luật của người Trung Quốc qua mặt Nghị định số 99/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật Nhà ở.

Nếu tính đúng thì con số người Trung Quốc di dân sang Việt Nam từ năm 2012-2018 có hơn 100 nghìn người ở Nha Trang và 70 nghìn người ở Đà Nẵng – và toàn quốc VN tính chung có gần nửa triệu là con số chính thức.

Theo thống kê năm 2012 dân số VN có 90 triệu nhưng trong năm 2013 dân số tăng nhanh chóng hơn 1 triệu người với kỷ lục 1.16% hệ tăng, Và năm 2018 thì Việt Nam có hơn 5 triệu người so với năm 2012 tức hơn 96 triệu người.

Từ năm 1984 tới năm 2008 thì dân số VN chỉ có hệ tăng dân số tối đa là 0.95% nhưng từ khi người TQ di dân tới VN qua con đường hôn phối đã nâng số hệ tăng dân số VN lên tới con số 1.26% hệ tăng như hiện nay tức tăng hơn 5% mỗi năm so với dân số hiện tại.

Dân số bất chợt tăng 5% là con số khá rõ để nhìn thấy cuộc xâm lược không tiếng súng của người Trung Quốc.

Qua thống kê của nhà nước thì người Trung Quốc ở VN là 823,071 người, tuy nhiên con số người Trung Quốc sử dụng trong hôn thú là Trung Quốc gốc Tày, Trung Quốc gốc Thái, Trung Quốc gốc Mường, Trung Quốc gốc Khmer, Trung Quốc gốc Nùng, Trung Quốc gốc Mong … tổng cộng ở VN là 21 triệu người.

Với chiêu thức mập mờ đánh lận “dân tộc thiểu số” trá hình này thì người Trung Quốcvới sự tiếp tay của cán bộ tham nhũng địa phương đã di dân sang Việt Nam từ 2008-2018 có hơn 20 triệu người (không chính thức), bằng tổng số 1/5 người Việt Nam, tuy nhiên Tổng cục Thống kê vẫn không nhìn thấy được vấn đề này.

Nguyễn Thùy Trang

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2018

Đọc Tư-duy tự-do của Phan Huy Đường



Cảm hứng triết luận chủ đạo của công trình này có thể tóm tắt trong lời thuyết trình của tác giả định nghĩa thế nào là suy luận biện chứng:



"Con người chỉ có thể tự-do đối với những con người tự-do. Nó không tự-do đối với sỏi đá hay chó sói. Tự-do là một giá-trị trong quan-hệ giữa người với người. Khi nó khai triển xuyên qua ba chiều-kích của con người, nó tự-hiện-thực trong những quan-hệ mà con người trực tiếp hay gián tiếp thiết lập với nhau xuyên qua hành-động của họ vào thế-giới. Để thực-hiện điều đó, nó cần sự "chính xác" của khoa-học trong quan-hệ với vật-giới, cần yêu và tôn trọng sự-sống trong quan-hệ với sinh-giới, cần nhận thấy mình ở tha-nhân và tha-nhân ở mình trong quan-hệ với người khác, với chính-mình. Tóm lại, để giải-phóng ta một lúc khỏi ngôn-ngữ gỗ nặng khuynh hướng vật-thể-hoá này[1], ta càng hiểu-biết thế-giới vật-chất, ta càng yêu càng tôn trọng sự-sống dưới mọi hình-thái của nó, ta càng cảm-thấy đoàn-kết hay liên đới trách-nhiệm với người đời trong mọi hành-động của nó, kể cả những tội ác[2], thì ta càng tự-do. […] Trong quá-trình nên-người của mình, con người là gốc-gác, cứu-cánh và phương-tiện duy-nhất của con người. Nó nên-người bằng cách hành-động vào thế-giới và hành-động đó, để hoàn tất, đòi hỏi kiến-thức khoa-học, tình-yêu sự-sống và tình đoàn-kết giữa người với người. Suy-luận về quan-hệ vật-chất một cách chính-xác, về quan-hệ-sống một cách trìu mến, về quan-hệ tinh-thần như thấy tha-nhân ở mình và kêu gọi tha-nhân thấy mình ở tha-nhân, suy-luận về con người như thể thống-nhất năng-động của những quan-hệ đó, tôn trọng sự toàn vẹn vật-lý của nó, trìu mến sinh-tính cá-biệt của nó, biết ơn trí-tính phổ-cập ở nó, suy-luận như thế gọi là suy-luận biện-chứng."

Tự do là chủ đề trung tâm của công trình. Tự do của con người được tác giả xem xét trong quan hệ của nó với vật chất, trong quan hệ của nó với sự sống và trong quan hệ của nó với "tha-nhân và với chính-mình". Từ ba quan hệ này có ba hình thái của tự do. Hình thái thứ nhất đòi hỏi sự hiểu biết vật chất một cách chính xác, tức là kiến thức khoa học, hoặc nói một cách bao quát, đó là "tính tất yếu được nhận thức". Hình thái thứ hai đòi hỏi "tình-yêu sự-sống". Hình thái thứ ba đòi hỏi "tình đoàn-kết giữa người với người". Đoàn kết là "nhận thấy mình ở tha-nhân và tha-nhân ở mình trong quan-hệ với người khác, với chính-mình". Hiểu như vậy, "đoàn-kết là hình-thái tối cao, là chân trời của tự-do".





Chủ đề tự do và những vấn đề triết học khác trong công trình này được tác giả triển khai có sự tham chiếu những triết thuyết của những "nhà tư-tưởng lớn đã nuôi dưỡng tư-duy hiện đại" : Descartes, Kant, Hegel, Marx, Engels, Darwin, Freud, Einstein, Sartre… và dĩ nhiên bằng nghiệm sinh của chính tác giả. Đặc biệt "Sự rạn-nứt-khoa-học-luận do Descartes gây ra", những "mầm mống thiên tài của thế-giới-quan mới" được chứa đựng trong những luận đề về Feuerbach của Marx, công thức xuất sắc của Sartre "để biểu-đạt thể-thống-nhất giữa Thực-thể và Hư-vô xuyên qua cảm-nhận của ta về những vật-thể", sự "truy nã tiềm-thức" của Freud và quá trình "nhân-hoá thế-giới"…, những vấn này đã được tác giả phân tích sâu sắc, mỗi triết thuyết đã "được hiểu và vượt qua đúng theo lô gích nội tại của nó", được phê phán "để gạt bỏ khía cạnh hình-thức của nó nhưng vẫn giữ lại nội-dung mới mà nó đã đạt được" (xem Phần II).

Phần III chuyên bàn về những vấn đề văn hoá, nghệ thuật, văn học, ngôn ngữ. Về nhiều vấn đề cụ thể được nêu lên tác giả có những ý kiến sâu sắc.

Về đặc trưng của văn chương :

"Khi quan-hệ của một con người với đồ-vật, xuyên qua ngôn-ngữ biểu-hiện nó, chỉ lặp lại những quan-hệ xưa của con người với đồ-vật thì chỉ có chuyện tái-tạo những ý-chung, không có văn-chương. Khi, trên cơ sở đó, một cá-nhân tạo ra một quan-hệ nhân-tính mới với đồ-vật, ngôn-ngữ của người ấy trở thành văn-chương. Điều độc giả tiếp nhận, chính là quan-hệ đó. Độc giả có thể nhạy-cảm với nó vì quan-hệ đó khơi lại ở mình một nghiệm-sinh chưa thành lời của chính-mình hoặc vì nó mở ra cho mình khả-năng sống những quan-hệ mới với đồ-vật. Vì thế, độc giả không quan tâm tới đồ-vật được mô tả. Thường thường nó cũng không nhớ tới. Điều quan trọng là tác giả diễn tả như thế nào, là quan-hệ cá-biệt của tác giả với đồ-vật. Cái "thế nào" ấy, độc giả không bao giờ "tìm" được bằng cách phân-tích văn bản. Độc giả (tái) tạo nó xuyên qua quá-trình đọc của chính-mình…»

Về sự tạo cái mới trong văn chương :

"Văn-chương tạo cái mới từ cái cũ, thậm chí từ cái cổ, từ những ý-chung, ký-ức muôn đời của loài người. Nó thực-hiện điều đó bằng cách thay đổi quan-hệ hiện nay của ta với thế-giới trong hình-thái người đời đã dạy ta ý-niệm chúng. Làm như thế, nó đặt lại vấn đề đối với toàn bộ niềm-tin của những nền văn-minh. Vì nó là ngôn-ngữ nó có khả-năng tra hỏi ngôn-ngữ, tra tấn nó, biến nó thành vấn đề[3]. Nhưng nó không thể thực-hiện điều ấy nếu nó vứt bỏ khỏi ngôn-ngữ điều khiến ngôn-ngữ là ngôn-ngữ, loại bỏ ý-nghĩa của ngôn-từ và những gò bó cấu trúc của ngôn-ngữ : bỏ hết đi, chỉ còn lại những luồng âm-thanh vô nghĩa, hay một đống giấy rác. Nó thực-hiện điều ấy bằng cách xô đẩy ý-nghĩa mệt mỏi, thiếu máu, đông lạnh của ngôn-từ, xô đẩy sự trói buộc của cấu trúc câu, để tái-tạo cho chúng một nội-dung trọn vẹn. Nó chỉ có thể thực-hiện điều ấy trên cơ sở một quan-điểm khác, một cách có ý-thức hay không, về con người và thế-giới."

Tác giả đã tăng thêm chiều sâu cho thuyết cảm nhận qua sự phân tích chiều sâu mối quan hệ giữa tác giả và độc giả, qua linh thức về sự tương đồng kỳ diệu giữa sự giao cảm nghệ thuật :

"… bất kể hình-thái, kể cả lừa dối, che dấu, ngôn-ngữ văn-chương luôn luôn phô trương con người thầm kín ở nhà văn. Đọc là ve-vuốt ngôn-ngữ ấy. Nghệ-thuật ngôn-từ là nghệ-thuật kích thích độc giả ve-vuốt áng văn để tìm sự hiện-diện của một con người ở thế-giới. Sự hiện-diện của nó ở ta. Ta không thể ve-vuốt một áng văn mà không đồng thời tự-ve-vuốt mình ở nó, đón nhận trong cái ta cá-biệt sự hiện-diện cá-biệt của tác giả ở đời. Như thế, ta hiểu vì sao có lúc ta nhận diện một nhà văn ngay khi vừa đọc tác-phẩm của người ấy : trong tác-phẩm ấy có tất cả, ý-tưởng, cảm-xúc và cách thực-hiện chúng bằng ngôn-từ."

và sự giao cảm tình yêu :

"… Ta nói ta ve-vuốt một người đàn bà tuy bàn tay ta chỉ ve-vuốt được một bầu vú. Chính vì xuyên qua một quan-hệ vật-chất ta ý-thức rằng ta đang quan-hệ với "hai thực-thể", thực-thể vật-chất của một bầu vú và "thực-thể" sống của một người đàn bà. Xuyên qua động tác, ta ve-vuốt toàn bộ "thực-thể" sống và ta không thể làm được điều đó nếu ta không tự-ve-vuốt[4] qua nó, không hoàn toàn tan mình trong hành-động ve-vuốt của ta. […] Người đàn bà ta ve-vuốt cũng phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa ma sát ít nhiều ram ráp của một bàn tay với ve-vuốt ngộp tình-dục của người đàn ông. Hành-động ve-vuốt, một quan-hệ giữa sự-sống với sự-sống không thể tự-hiện-thực được nếu không có sự tương-tác cùng chiều-kích. Sống đổi lấy sống."



"Tôi chẳng có dạy điều gì cả. Tôi làm người ta suy nghĩ" (Socrate). Các độc giả trẻ, đặc biệt những sinh viên mới làm quen với triết học, đọc công trình này có thể học được nhiều điều, nhất là, ở đây, những triết thuyết, những tư tưởng và khái niệm cơ bản của những triết gia cổ điển được thuyết trình với một sự minh xác hiếm có, một diễn ngôn triết học tiếng Việt khúc chiết trong đó nhiều thuật ngữ triết chưa phổ cập trong nước đã được chuyển ngữ xác đáng và, đáng chú ý hơn, có những câu văn và lời lẽ diễn đạt của tác giả khiến ta nghĩ đến giá trị văn chương của văn bản triết. Tác giả đã sống nhiều năm ở Pháp, trong công trình có những trang sự sáng sủa Pháp đạt tới độ tuyệt vời.

Nguyện vọng duy nhất của người viết bài giới thiệu này là công trình của Phan Huy Đường khơi gợi sự suy nghĩ của độc giả về những vấn đề đã được nêu lên cũng như về những điều chưa được đề cập trong cuốn sách.

Suy nghĩ và lắng nghe.

Với cách nhìn "tứ hải giai huynh đệ" tác giả lên tiếng cảnh báo "một cuộc khủng hoảng văn-minh khủng khiếp" trên toàn cầu :

"Ta đang sống trong đầu và thể-xác ta một cuộc khủng hoảng văn-minh khủng khiếp. Những mái nhà chung của con người đang tan nát dưới đòn áp đảo, đè bẹp của Thị-trường tư-bản. Ở đó, mỗi người chỉ bấp bênh đáng giá vài Đôla, Yen hay Euro. Mạnh ai nấy chạy. Những đứa thiếu ý-thức nhất kiên quyết dương cao niềm-tin vững chắc sáng lạn và ra tiền của chúng. Chúng bàn tán trong những ủy ban nho nhỏ với ngôn-từ lạ lẫm, khoa-học bí hiểm, phương-trình không ai hiểu được. Những đứa khôn khéo nhất độc chiếm media, trở thành thầy-cúng toàn cầu hoá, không thể vòng tránh, phủ-nhận được, nhưng luôn luôn có thể thay thế lẫn nhau."

Lời kêu gọi của tác giả vượt qua mọi biên giới quốc gia, dân tộc.

"Nào cha, mẹ, anh, chị, em, bạn, đồng đội, đồng chí, công-dân – nếu những ngôn-từ đó còn có nghĩa – xin đừng cam chịu. Ta có cả một thế-giới không thể để mất. Hãy từ chối mất nó, hãy đòi tự-do trong đoàn-kết giữa người với người của thế kỷ này, ta sẽ có một thế-giới để tái-tạo, do mỗi người làm cho mọi người. Người đời xưa, người đời nay và người của mai sau. Nào những ai làm thuê – những kẻ thất nghiệp tương-lai –, những ai đang thất nghiệp, đã bị loại khỏi xã-hội ở mọi nơi, hãy đoàn-kết lại ! Nhân-cách của ta ở đó.

Hỡi người nghệ-sĩ của các thế-giới nghệ-thuật, hãy nhập cuộc ! Nghệ-thuật của bạn tùy thuộc điều ấy.

Hỡi trí thức trong mọi lĩnh-vực kiến-thức và tư-duy, hãy nổi loạn, vùng lên ! Bạn nắm ngôn-ngữ, mái nhà chung hoàn-hảo nhất của con người, ngục tù tệ hại nhất của nó. Bạn có những kiến-thức, quyền-lực, sở-hữu để mất, nhưng bạn sẽ được cả một thế-giới để chinh phục, sáng-tạo, yêu.

Hãy cùng nhau tìm lại con đường nhân, sáng-tạo lại những nghệ-thuật làm-người" (xem Lời cuối sách)




[1] langue de bois chosiste.


[2] Những tội ác đó thuộc lịch-sử của nhân-loại, là một thời điểm của quá-trình nên-người hay trở thành phi-nhân của nó. Ta đã nghiệm-sinh thời điểm ấy thì ta trách-nhiệm nó, dù chỉ ở hình-thái ký-ức.


[3] Có văn-chương khi ngôn-ngữ bị đặt vấn đề. Il y a littérature quand le langage est en question. Paul Valéry.


[4] se caresser, không có nghĩa là thủ dâm !

© http://vietsciences.free.frhttp://vietsciences.org Hoàng Ngọc Hiến


Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018

Chuyện về “Út trọc” Đinh Ngọc Hệ



Tác giả: theo Fb Lê Hồng Hà
.








Ông “Út trọc” Đinh Ngọc Hệ (tên khác Đinh Ngọc Út) sinh năm 1971, quê xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Cư trú tại 68/210 Trần Quang Khải, phường Tân Định, quận 1, TP.HCM.


Sở dĩ Út có “hỗn danh” Út Trọc vì đầu… nhẵn thín, không tìm đâu ra một sợi tóc. Út có một biệt danh “Út bộ trưởng”, lý do là muốn gặp được Bộ trưởng một số Bộ thì tìm đến Út là có đường đi.


Út cũng nổi danh… ngông cuồng. Có lần, ở sân bay Đà nẵng, Út yêu cầu… máy bay phải khoan lăn bánh để chờ vì Út đến trễ.




Với quân hàm thượng tá quân đội, Út có đủ điều kiện để quan hệ với cán bộ cao cấp. Cách đây mấy năm, nhà Út có giỗ, những người có mặt đều “thót tim” khi thấy xuất hiện hai anh BCT.


Út chơi thân và liên kết làm ăn với Phùng Quang Hải 319. Út Trọc là chủ tich HĐQT, Tổng GĐ Công ty Đầu tư Thái Sơn có trụ sở tại số 32 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, quận 1, TP.HCM.


Là doanh nghiệp đa ngành, nhưng Thái Sơn thời Đinh Ngọc Hệ “nổi” lên nhất trên thương trường là các dự án liên quan đến BOT, BT và cả PPP, với nguồn vốn đầu tư lên đến hàng ngàn tỉ đồng nhưng tiềm ẩn rất nhiều khuất tất về tính chính danh trong liên danh thực hiện dự án. Những dự án Út trúng thầu, tham gia điển hình:


1. Dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Việt Trì, Bộ Giao thông vận tải phê duyệt tại Quyết định số 2932/QĐ-BGTVT ngày 25/9/2013 và chính thức khởi công xây dựng ngày 30/11/2013. Tổng vốn đầu tư: 1900,55 tỷ đồng.


2. Dự án đầu tư xây dựng công trình khôi phục, cải tạo Quốc lộ 20 đoạn Km123+105,17 – Km268+000 tỉnh Lâm Đồng theo hình thức hợp đồng BOT kết hợp BT , với chiều dài khoảng 134,64km. Tổng vốn đầu tư: 2451,31 tỷ đồng


3. Dự án nâng cấp và cải tạo Quốc lộ 1A đoạn Nha Trang – Khánh Hòa theo hình thức Trái phiếu Chính phủ; Tổng vốn đầu tư: 10.000 tỷ.


4. Dự án kéo dài và nâng cấp đường cất hạ cánh, đường lăn và sân đỗ máy bay – Cảng hàng không Pleiku. Đã hoàn thành 2015. Vốn đầu tư: 944 tỷ.


5. Tháng 2/2016, Công ty Thái Sơn và Công ty cổ phần tập đoàn Đức Bình (Liên danh Thái Sơn – Đức Bình) đã có tờ trình gửi Bộ Quốc phòng, Bộ GTVT, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xin tham gia đầu tư dự án cảng hàng không Vũng Tàu theo hình thức PPP. (dự án đã hoãn)


6. Tháng 5/2016, Liên danh nhà đầu tư Công ty Thái Sơn – Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 (Cienco 1) – Công ty cổ phần tập đoàn Đức Bình – Cái Mép đã đề xuất Thành ủy và UBND TP.HCM xem xét, chấp thuận cho phép được nghiên cứu lập đề xuất dự án đầu tư xây dựng cầu Cát Lái (nối Quận 2, TP.HCM với huyện Nhơn Trạch – Đồng Nai) theo hình thức BOT kết hợp BT. Tổng vốn đầu tư: ~ 5700 tỷ.


7. Tháng 12/2016, UBND TP.HCM còn giao Liên danh Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 (Cienco 1) – Công ty Thái Sơn – Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Tuấn Lộc nghiên cứu lập Đề xuất dự án Đầu tư xây dựng cầu Thủ Thiêm 3 và mở rộng, nâng cấp đường Tôn Đản, quận 4 theo hình thức đối tác công – tư (Hợp đồng BT).


8. Ngoài ra, Liên danh Thái Sơn – Đức Bình còn xin tham gia đầu tư vào khu “đất vàng” 621 Phạm Văn Chí. Khu đất 621 Phạm Văn Chí, phường 7, quận 6, TP.HCM có tổng diện tích hơn 230.000 m2, tầng cao xây dựng từ 2 – 30 tầng đã chứng kiến cuộc đua khốc liệt khi có tới 5 công ty xin tham gia đầu tư.


Các công ty luôn “như hình với bóng” với Thái Sơn trong các liên danh đầu tư:


1. Công ty TNHH Sản xuất thương mại dịch vụ Yên Khánh được thành lập từ năm 2005, có trụ sở tại 35-37 Ngô Đức Kế, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP Hồ Chí Minh; do Vũ Thị Hoan (sinh năm 1985), có hộ khẩu tại phường Bình An, Quận 2, Tp.HCM, làm Chủ tịch HĐQT. Vốn điều lệ hiện là 1.800 tỷ đồng.


Yên Khánh góp mặt ở loạt các dự án BOT như dự án cầu Hạc Trì, Yên Khánh hợp tác cùng Cienco 1 để đầu tư xây dựng dự án cầu Cổ Chiên có tổng mức đầu tư 2.308 tỷ đồng. Công ty Yên Khánh còn là cổ đông chiến lược của Cienco1 với 28,28% tỷ lệ sở hữu.


2. Công ty cổ phần tập đoàn Đức Bình, thành lập từ năm 2002. Trụ sở Địa chỉ: 20 Lê Lợi, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Hiện nay vốn điều lệ là 500 tỷ đồng. Đinh Ngọc Hùng, sinh năm 1982, có hộ khẩu thường trú tại Yên Khánh – Ninh Bình.


Cơ cấu cổ đông (đến ngày 18/06/2015): Với tỷ lệ nắm giữ: Đinh Ngọc Hùng 26% (57.200 cổ phần); Đinh Ngọc Liên 45% (99.000 cổ phần); Vũ Thị Hoa (em ruột Vũ Thị Hoan TGĐ cty Yên Khánh) 29% (63.800 cổ phần).


3. Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Tuấn Lộc, thành lập năm 2005. Trụ sở : số 362/14, Đường Ung Văn Khiêm, Phường 25, Quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Chủ tịch HĐQT của công ty là Trần Tuấn Lộc, sinh 1983 quên Nam Đàn, Nghệ an. Tháng 7/2017, công ty đã nâng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng.


Với Cienco 4, quyền chi phối đã thuộc về Tuấn Lộc. Cuối năm 2014, Bộ Giao thông vận tải đã thoái toàn bộ 35% cổ phần tại Cienco 4 cho CTCP Đầu tư Xây dựng Tuấn Lộc. Sau giao dịch này, Công ty Tuấn Lộc sở hữu 51,5% cổ phần của Cienco 4. Tuấn Lộc còn là cổ đông lớn nắm giữ 2,89% CII B&R –một công ty hạ tầng khác.


Tháng 3/2015, liên danh Tuấn Lộc – Yên Khánh – BMT – Thắng Lợi – Hoàng An – CII B&R, trong đó Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Tuấn Lộc là thành viên đứng đầu liên danh (tất cả các thành viên trong liên danh đều là doanh nghiệp tư nhân) đã trúng chỉ định thầu Dự án cao tốc Trung Lương có tổng vốn đầu tư lên đến gần 15.000 tỷ.


Điều đáng quan tâm là các dự án ngàn tỷ giao thông đường bộ, cầu… trên cả nước đều rơi vào tay các công ty này. Các công ty mà khi thành lập các ông bà chủ tuổi mới ngoài… 20(!)


Trở lại câu chuyện Út Trọc.


Út Trọc và Vũ Nhôm có nhiều điểm giống nhau. Cả hai đều không măc áo lính, không được đào tạo vả rèn luyện trong LLVT, mà nghiễm nhiên đeo lon… thượng tá. Phía sau họ là “bóng dáng” của các quan chức, cả trung cấp và cao cấp.


Ai bao che, dung túng cho Út và Vũ sẽ dần được “bóc băng”. Cả hai móc nối, hình thành “nhóm lợi ích” hòng chiếm đoạt công sản, tài nguyên quốc gia. Lợi dụng sơ hở trong chính sách để thâu tóm dự án, mua bán trái phép, chia chác đặc quyền đặc lợi có giá trị lên đến hàng ngàn tỷ đồng.


Dùng tiền để mua chuộc, câu kết ăn chia với những kẻ có chức quyền. Tiền bạc và tham vọng quyền lực đã gắn “nhóm lợi ích” trở thành công cụ và “chống lưng” nhau. Mượn văn bản và các cú phone của kẻ quyền lực cao cấp để làm “lá bùa” đe doạ và chiếm đoạt. Cả Út Trọc và Vũ Nhôm đều là những tay “mafia”.


Cả hai lợi dụng danh dự, uy tín của quân đội và công an để “làm mưa làm gió” từ nam ra bắc, lấy đó làm “khiên” che chắn cho hoạt động sai trái, lũng đoạn kinh tế, phá vỡ những nguyên tắc cơ bản của chính sách xây dựng kinh tế, tổ chức cán bộ.


Đó là hành vi bất chấp pháp luật, phá vỡ những giá trị đạo đức cơ bản trong thương trường và nền tảng luật pháp. Chúng lũng đoạn chính trị, âm mưu “phe nhóm” hòng can dự chính trường…


Ngày 11/10/2017, bế mạc HNTW 6 khoá 12, Tổng Bí thư nói: “Đề nghị từng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và mọi cán bộ, đảng viên, công chức cần thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, thường xuyên tự soi, tự sửa, tự răn mình, tránh xa những cám dỗ vật chất, tham vọng, tránh đi vào vết xe đổ, để tay nhúng chàm và nếu đã trót ít nhiều nhúng chàm rồi thì sớm tự giác tự gột rửa!”


Đến đây, những ai đã “chống lưng” cho Út Trọc và Vũ Nhôm, chia chác tiền bạc và tham vọng quyền lực, đi ngược với lợi ích của nhà nước và nhân dân nên sớm tự giác “gột rửa” trước khi tổ chức và cơ quan quản lý “gột rửa” giúp mình.

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2018

Cái âm điệu tủi thân, bi đát

ĐÁNG TIẾC LÀ GIỜ ĐÂY DÒNG ÂM NHẠC NÀY ĐANG TRỖI DẬY VÀ ĐƯỢC ƯA CHUỘNG.


"Âm nhạc là sinh khí của tinh thần. Hễ nhạc xuống là nước nhà xuống; hễ nhạc uỷ mị là con người tha hóa. Cái thối nát của con người khởi đi từ sự thối nát của âm nhạc. Âm thanh là logos của tâm thức. Chính vũ trụ này chẳng qua là một trường âm thanh của tạo hóa mà thôi. Mỗi cung điệu đại diện cho một cõi hiện hữu. Âm nhạc chính là nấc thang của tâm hồn. "



Nguyễn Hữu Liêm


Nếu có một sắc điệu văn hóa nào rất đặc thù cho người Việt hải ngoại, đặc biệt nhất là ở Mỹ, thì đó là cái bản chất âm nhạc. Cái thứ tân nhạc được đem theo từ miền Nam trước 1975 qua đây và vẫn cứ tiếp tục là một dòng âm nhạc bi đát, yếu đuối, trống rỗng và băng hoại.


Cứ nghe thử các giọng ca hàng đầu hiện nay của phái nữ: Khánh Hà, Khánh Ly, Ý Lan. Ðây là những giọng ca được ăn khách nhất hiện nay ở Mỹ. Nhất là ở vùng bắc California, hình như là tuần nào cũng có đại nhạc hội, nhạc thính phòng. Mà "đi vô, đi ra cũng thằng cha khi nãy" - cũng chừng đó ca sĩ, chừng đó emcees, chừng đó bản nhạc, và nhất là vẫn chừng đó cái âm điệu ai oán, bi đát của các cô cậu ca nhạc sĩ Việt Nam hải ngoại.
Cũng một bài ca đó, mà khi Khánh Hà hát lên thì mức độ não nùng bi đát tăng lên gấp bội. Có những đoạn không đáng gì bi thảm, nhưng Khánh Hà cứ nức nở hóa một cách quá trớn, thành ra như tiếng khóc, trộn lẫn với một chất điệu yếu đuối, não nề. Cái nồng độ nức nở này như là một thứ trade-mark, một gia vị đặc thù, một thứ nước dừa ngọt ngầy ngậy mà bất cứ món ăn nào cô ca sĩ sưng môi này cũng cứ quậy lên không cần phân biệt.


Cũng một bản nhạc đó, mà khi Ý Lan hát lên thì thành ra tức tưởi, bi ai - và đặc biệt là bi ai. Hễ đến đoạn nào thay đổi âm khúc thì Ý Lan lắc lư cái đầu, nức nở hóa tiếng ngâm, khàn vô cổ họng cái tiếng lớ để gia tăng cái bi kịch đầy tang thương của tiếng hát. Không như tiếng hát của Thái Thanh, mẹ của Ý Lan, vốn trong sắc và mạnh, tiếng hát của Ý Lan là của văn hóa Bolsa, đầy nhộn nhịp của bầy kiến nhiều thương tích, nhưng hoàn toàn trống rỗng và vô vị.


Cũng một bài hát đó, của Trịnh Công Sơn chẳng hạn, nhưng khi Khánh Ly hát lên thì nó trở thành mê muội, lạc lõng. Cái giọng lè nhè của Khánh Ly không được cân bằng với một âm sức cao và mạnh để cứu lấy âm điệu cho toàn thể âm cảnh.


Nhưng bách tính thiên hạ của người Việt ở Mỹ rất được thoả mãn với các giọng ca này. Vì sao? Vì tâm chất họ được thể hiện qua các giọng ca đó. Quần chúng nào thì âm nhạc đó; tâm thức nào thì ca sĩ đó. Khánh Hà, Ý Lan và Khánh Ly là những biểu tuợng âm thanh của một tập thể dân chúng muốn được ru mình bằng cái não nề, yếu đuối. Ðây là những bài văn tế cho những tâm hồn mất quê hương và mất nước.






Tôi về Việt Nam và có dịp nghe các ca sĩ trong nước sau 1975 hát - như Mỹ Linh, Trần Thu Hà, như Hồng Ngọc, như Thu Phương. Cái khác hẳn là tính mạnh và sắc sảo của thế hệ âm nhạc mới này. Và vắng bóng hoàn toàn cái bi đát, não nùng. Có phải chăng các ca sĩ này biểu lộ được tâm thức và ý chí của những kẻ chiến thắng - từ vô thức tập thể? Dĩ nhiên, đây không phải là một chính sách văn hóa của chính quyền. Cái mạnh và tự tin của các lời ca mới đại diện cho cái collective


unconsciousness của phe thắng cuộc. Hãy lắng nghe Hồng Ngọc hát nhạc Trịnh Công Sơn! Cũng một bài, có câu, "Ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương..." mà khi Khánh Ly hát thì người nghe chỉ thấy muốn ngồi xuống sàn nhà . Nhưng khi Hồng Ngọc cất lên những lời ca đó, nhạc họ Trịnh trở thành cơn giông cuồng nộ để làm cho người nghe muốn đứng dậy để làm cách mạng.


Cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm, hai nhà hiền triết Ðông Tây, Khổng Tử và Socrates, đã đồng lúc khuyến cáo đến cái tầm quan trọng của âm nhạc. Âm nhạc là sinh khí của tinh thần. Hễ nhạc xuống là nước nhà xuống; hễ nhạc uỷ mị là con người tha hóa. Cái thối nát của con người khởi đi từ sự thối nát của âm nhạc. Âm thanh là logos của tâm thức. Chính vũ trụ này chẳng qua là một trường âm thanh của tạo hóa mà thôi. Mỗi cung điệu đại diện cho một cõi hiện hữu. Âm nhạc chính là nấc thang của tâm hồn.
Nietzsche trong cuốn The Will to Power có nói tới cái tâm thức amor fati - cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ Truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay. Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miến Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nuớc mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc.


Cho đến lúc cái hệ luỵ bi đát này được vươn thoát, khối người Việt hải ngoại vẫn sẽ còn là một khối dân tộc không có quyền lực - và sẽ không làm nên lịch sử.


California 7/2003


Nguồn: Đàn Chim Việt số 44,
www.danchimviet.com/diendan/caiamdieutuithanbidat.shtml)
Theo: Talawas

Thứ Ba, 10 tháng 4, 2018

Điều gì thúc đẩy Việt Nam tái cấu trúc Bộ Công an?



Tác giả: Lê Hồng Hiệp
.




Bộ Công an (BCA) Việt Nam công bố hôm 02/04/2018 rằng Bộ Chính trị đã thông qua một đề án nhằm tái cấu trúc Bộ này. Kế hoạch chi tiết do chính BCA soạn thảo đề xuất bãi bỏ 6 tổng cục hiện có và giảm số đơn vị cấp cục từ 126 như hiện nay xuống còn 60. Cuộc cải cách lớn này ước tính có thể tác động tới khoảng 300 đến 400 tướng tá và quan chức cấp cao của Bộ. Các sĩ quan cấp dưới cũng có thể chịu tác động khi một số người có thể bị điều chuyển khỏi Bộ. Những cải cách cơ cấu tương tự cũng sẽ được áp dụng cho các sở công an tỉnh thành và các đơn vị ở các cấp thấp hơn.




Việc tái cấu trúc nhằm làm cho lực lượng công an trở nên tinh gọn và hiệu quả hơn. Với cấp tổng cục bị bãi bỏ và số lượng các cục giảm xuống, cơ cấu chỉ huy sẽ trực tiếp và nhanh gọn hơn. Ngoài tiết kiệm chi phí, việc tái cấu trúc cũng cho phép BCA chuyên nghiệp hóa các đơn vị công an ở cấp cơ sở bằng cách thay thế các nhân viên ít chuyên môn nghiệp vụ bằng những người được đào tạo tốt hơn từ các đơn vị cấp trên.


Nếu xét tầm quan trọng của BCA đối với an ninh chế độ và sự bất bình mà quá trình tái cấu trúc có thể gây ra cho một số quan chức bị ảnh hưởng, đợt cải cách này cho thấy ý chí chính trị mạnh mẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc cải cách bộ máy nhà nước. Để thấy được bức tranh chung, cần nhận thấy rằng Đảng và chính phủ cũng đang thúc đẩy các bộ khác tiến hành các biện pháp tinh giảm biên chế, sắp xếp và tái cấu trúc tương tự. Bản thân Đảng cũng đang thử nghiệm các cải cách thể chế khác nhau, đáng chú ý là việc hợp nhất hóa chức danh bí thư đảng với vị trí chủ tịch uỷ ban nhân dân ở một số cấp địa phương. Những cải cách này dự kiến ​​sẽ giúp giảm bớt sự chồng chéo giữa các hệ thống đảng và chính quyền, tiết kiệm chi phí, tăng trách nhiệm giải trình của các quan chức và nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị.


Một động lực chính cho quá trình cải cách này chính là áp lực xuất phát từ tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài của Việt Nam. Mặc dù BCA không tiết lộ tổng số nhân lực của mình, nhưng con số này ước tính lên tới hàng triệu người, đặt ra một gánh nặng lớn cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, việc tinh giảm lực lượng của BCA là một biện pháp quan trọng để cải thiện vị thế ngân sách của chính phủ.


Đồng thời, do BCA đã giành được quyền lực đáng kể và phình to nhanh chóng dưới thời của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, việc sắp xếp lại và giảm quy mô của BCA có thể được coi là một biện pháp nhằm tái lập sự kiểm soát của Đảng đối với Bộ và giảm ảnh hưởng của các quan chức được coi là thân cận với ông Dũng. Việc cải cách cũng mang lại một cơ hội tốt nhằm đề bạt các quan chức được xem là có năng lực, trong sạch và trung thành với ban lãnh đạo hiện nay. Sự thay đổi quan trọng này có được là nhờ sự kiểm soát của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với BCA thông qua sự tham gia chưa từng có tiền lệ của ông vào Đảng ủy Bộ Công an, cũng như sự ủng hộ đối với cải cách của bản thân Bộ trưởng Công an Tô Lâm, người được coi là gần gũi với ông Trọng.


Cuối cùng, tái cấu trúc BCA cũng có thể được xem như là một phần của việc tăng cường chiến dịch chống tham nhũng do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo. Để tiến hành chiến dịch một cách hiệu quả, trước hết Đảng cần một lực lượng công an trong sạch. Tuy nhiên, uy tín và phẩm chất của lực lượng này gần đây đã bị nghi ngờ do một số vụ bê bối tham nhũng. Ví dụ, vào tháng trước, Thiếu tướng Nguyễn Thanh Hóa, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao thuộc BCA đã bị khởi tố vì liên quan đến một đường dây cờ bạc và rửa tiền trực tuyến. Do đó, việc tái cơ cấu BCA sẽ là một biện pháp kịp thời nhằm giúp Đảng trong sạch hóa lực lượng công an và tiếp tục tăng cường chiến dịch chống tham nhũng của mình.

Thứ Hai, 9 tháng 4, 2018

Dân ghét cán bộ – Bi kịch từ đâu?





Tác giả: Hoàng Dân

Nhà báo Lê Thanh Phong viết trên trang cá nhân của mình rằng, bi kịch lớn nhất của quan chức thời nay là không được dân yêu. Không làm thì bị chửi vô tích sự, làm thì bảo mị dân hoặc làm để kiếm ăn. Không có bằng cấp thì bảo ngu dốt, có bằng cấp thì bảo lãnh đạo không cần giáo sư tiến sĩ.

Tôi nghĩ nhận định trên rất đúng. Nếu phân tích ra thì rất nhiều vấn đề để bàn, nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ nêu ra một vài khía cạnh để lý giải từ đâu và tại sao quan chức thời nay lại không được dân tin yêu và hay bị chửi, bị ghét.

Trước năm 1975, ở Miền Bắc và cả nước thời bao cấp dù cuộc cuộc sống khó khăn, thiếu thốn, gian khổ nhưng người dân vẫn tin vào Đảng, tin vào cán bộ. Bởi lẽ, cán bộ (quan chức) thời đó sống giản dị, trong sạch, ít tham nhũng và đặc biệt là gần gủi, gắn bó với dân.. Công bằng mà nói, thời đó ngay đến cả Chủ tịch, Bí thư tỉnh thậm chí kể cả lãnh đạo cấp trung ương khi đương chức hay về hưu tài sản cũng chỉ là căn nhà tập thể mấy chục mét vuông ở thành phố hay căn nhà cấp 4 ở quê nhà và cái sổ lương.

Nhưng kể từ khi đổi mới tới nay thì hoàn toàn ngược lại. Cán bộ trở nên giàu có, thậm chí là siêu giàu. Cuộc sống của họ tách biệt thậm chí là đối lập với dân và mâu thuẩn bắt đầu nảy sinh. Nạn tham nhũng, lạm quyền, hách dịch, mị dân, độc đoán, nói một đằng làm một nẽo, thất hứa, đạo đức lối sống suy đồi, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải…tràn lan. Nếu trước đây, cán bộ tham nhũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, thì ngày nay người thanh liêm, trong sạch khó tìm. Cho nên người dân không còn tin, không yêu cũng là lẽ đương nhiên.

Dân mình xưa nay quen với hình tượng cán bộ kiểu như anh chủ nhiệm “áo nâu bạc màu bay với gió”. Nay thấy giàu có, ở nhà lầu đi xe hơi thì sinh ra nghi ngờ, đố kỵ. Rằng tiền đâu, trong khi lương không đủ sống ?

Ông Nguyễn Trần Nam, Thứ trưởng Bộ Xây dựng nói, nếu chỉ trông vào lương, người nghèo đừng nghĩ đến nhà thu nhập thấp, vì “lương cỡ Bộ trưởng cũng phải 40 năm mới đủ tiền mua”. Vậy tiền đâu mà nhiều quan chức xây biệt phủ, mua xe đẹp, con cái du học ? Chỉ có thể là tham nhũng mà thôi. Thậm chí đến chủ tịch xã cũng xây được biệt thự thì nói gì cấp cao hơn. Cho nên, việc Tổng Thanh tra Chính phủ, Bí thư, Chủ tịch tỉnh, huyện, giám đốc sở, ban ngành… xây biệt phủ cũng không lấy gì làm ngạc nhiên.

Cuộc sống đã thay đổi, kinh tế phát triển, nhu cầu xã hội cũng khác xưa. Lương cán bộ công nhân viên chức lại quá thấp, mỗi lần tăng lương không đủ bù trượt giá. Đói thì đầu gối phải bò, từ đó sinh ra tham nhũng.

Và sở dĩ nạn tham nhũng trở thành quốc nạn cũng do cơ chế thiếu minh bạch, pháp luật có nhiều kẻ hở và xét xử sai phạm không nghiêm.

Đã có quá nhiều vụ việc không minh bạch, không xử lý nghiêm đúng người đúng tội, nói thẳng ra là bao che hoặc xử án theo kiểu “giơ cao đánh khẻ” khiến cho người dân bất bình, mất hết niềm tin vào chế độ. Chẳng hạn như: Những vụ thất thoát hàng ngàn tỷ đồng của các tập đoàn kinh tế, những sai phạm trong việc thu hồi đất biến nông dân thành dân oan, những cái chết oan trong đồn công an không được làm rỏ, những cán bộ dùng nhục hình bức cung gây ra án oan thế kỷ không bị trừng trị, những vụ lợi dụng cổ phần hoá để chia chác tài sản của nhà nước…có vụ nào xử tới nơi tới chốn đâu.

Chuyện cán bộ “bán không trừ thứ gì” và “ăn không trừ thứ gì” không còn là chuyện hiếm mà trở nên phổ biến, đâu đâu cũng có, mọi cấp mọi ngành: Cấp xã, ăn chặn từ gói mì tôm cứu trợ cho đến bò dê ủng hộ người nghèo, bớt xén phần khẩu phần ăn học sinh, rút ruột dự án nông thôn mới, lạm thu quỹ. Từ cấp huyện trở lên thì ăn dự án, bán đất, bán rừng, bán tài nguyên, bảo kê này nọ.…

Tham nhũng quyền lực, chuyện cả nhà, cả họ làm quan ở khắp nơi, cha bổ nhiệm con, chồng bổ nhiệm vợ, anh bổ nhiệm em…

Rồi nạn chạy chức chạy quyền, bằng cấp giả, bài bạc, đánh nhau, ăn mãi lộ, nhận phong bì, chạy án, nhục hình bức cung, quan hệ bất chính, hối lộ tình dục…

Xin lỗi chứ, Cán bộ xây biệt thự, đi ô tô mà nói rằng, tôi liêm khiết, tiền tôi xây nhà là do tôi buôn chổi, nuôi lợn, chạy xe ôm thì ai mà tin cho được. Tướng Công an, đứng đầu cơ quan chống tội phạm của đất nước mà tiếp tay, bảo kê cho tội phạm thì còn gì để nói ? Bí thư một tỉnh mà bổ nhiệm mấy chục người trong gia đình, họ hàng giữ các chức vụ chủ chốt thì sao dân không bất bình cho được ?

Quan chức đã tham nhũng, hoặc dính dáng tới tham nhũng thì nói dân không bao giờ nghe. Nhưng họ cũng không thể sống trong cơ chế thị trường với đồng lương tháng èo ọt mãi được. Không có sự thay đổi cơ chế, không cải cách tiền lương, luật pháp không nghiêm, thiếu dân chủ thì không thay đổi được gì cả.

———-

Nguồn: Tiếng Dân

HÔM QUA, HÔM NAY VÀ NGÀY MAI




Cuộc đời tôi ngày tháng rông dài
Nhặt hôm qua
Kiếm ngày mai.


Hôm qua bề bộn tìm hoài không thấy
Nên tôi chẳng nhặt được gì của hôm nay


Ngày mai mờ mịt mơ say
Nên tôi cầm hoài trong tay lỗi lầm hiện tại


Cuộc đời tôi cứ thế lượn bay
Hôm qua
Ngày mai


Cái không gian ba chiều cuồng quay
Chẳng bao giờ dừng lại.


Em đứng trong hiện tại
Nên tôi nào có thấy...

Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2018

Nguyễn Hoàng Đức - kẻ mộng du giữa đời thường


Nhà văn Sương Nguyệt Minh

Nguyễn Hoàng Đức có hai con người trong ông: Một thông minh, sắc sảo, hùng biện, tranh luận gắt chói đến tận cùng lý tính, với sống đời sống thường nhật rất đỗi thật thà, xuề xòa, hồn nhiên cảm tính. Hai, là kẻ mộng du, ảo tưởng khoác sau lưng nặng trĩu hành trang nguyên lý sang trọng sục sôi phiêu du đến những khoảng không “chân chẳng bén đất cật chẳng bén trời”. Tôi nghĩ: Chính cái chân trời của lý tính luôn ngự trị trong tư duy và cõi mộng tưởng kỳ vĩ của ông cộng với mặc cảm thân phận không được công nhận danh tính đã làm nên cái đặc sắc mang tên Dị nhân Nguyễn Hoàng Đức – kẻ mộng du giữa đời thường.

1. “Nhà triết học số 1 châu Á?”

Ngườita kể rằng: Nguyễn Hoàng Đức được ở bên Đức cha Nguyễn Văn Thuận (một trong nhữngngười được đề cử bầu Giáo hoàng) 4 năm. Qua 4 năm, ông Đức từ một cán bộ an ninh trở thành con chiên ngoan đạo của Chúa, được Chúa giao trọng trách khai sáng đám văn nghệ sĩ u mê. Ông Đức bỏ việc nhà nước, bỏ hết cả mọi danh hiệu hư vinh… chỉ làm mỗi một việc học tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc các trước tác Triết học,Thần học, Văn chương – Nghệ thuật và… viết. Từ dạo ấy, ông không còn là con người bình thường nữa. Ông nhìn mọi người bằng con mắt thương cảm như một bề trên nhìn chúng sinh đang lầm than, u mê cần phải khai sáng bằng Triết học, Thần học. Trong ông có một kho tàng tri thức của nhân loại được tích hợp từ các vĩ nhân: Aristotle, Descartes, Kant, Hegel, Nietzsche… và Kinh Thánh…Ông luôn lấy các vĩ nhân làm chuẩn và bỗng dưng thấy cái đám nhà văn Việt Nam thấp bé, mỏng manh, lọ mọ.

Tôi gặp Nguyễn Hoàng Đức lần đầu trong Trại viết tiểu thuyết Hội Nhà Văn cuối năm 2007 ở Quảng Bá, dù trước đó đã từng đọc nhiều triết luận văn chương của ông ở Tạp chí Sông Hương, Cửa Việt và những bài luận về đàn bà về tình yêu ở báo Phụ nữ và chuyên san “Hạnh phúc gia đình”.




Hôm ấy, tôi bỡ ngỡ, lạ lùng đến mức cảm thấy ông “đột ngột xuất hiện như một niềm kinh ngạc” giữa đời thường. Trong bữa cơm, tôi chứng kiến một trận thư hùng có một không hai về triết học giữa Nguyễn Hoàng Đức và nhà thơ Đỗ Minh Tuấn. Ông Đức xuất kho nhà triết học Aristote thì ông Tuấn dẫn ra Nietzsche. Ông Tuấn lôi Khổng Tử, Mạnh Tử dậy thì ông Đức bác luôn phương Đông không có triết học, còn tư tưởng thì lìu tìu không tính, rồi ông khai quật Descartes, Kant, Hegel…

Không khí tranh luận bỏng gắt hừng hực bốc hơi, Nguyễn Hoàng Đức hiên ngang tuyên bố: Ở Việt Nam không có đối thủ triết học để tranh luận cùng ông; có nghĩa là ông đẩy nhà thơ Đỗ Minh Tuấn xuống hàng sau ông và sau bao nhiêu bậc thì ông không nói rõ. Bữa ấy, tôi chêmvào: “Giáo sư Trần Văn Giàu nói rằng: Bản thân mình và đồng nghiệp chỉ là người nghiên cứu, giảng dạy triết học, ở Việt Nam chỉ duy nhất có Trần Đức Thảo là nhà triết học mà thôi”. Tôi dẫn ra các tác phẩm của Trần Đức Thảo tiên sinh như: “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật bịên chứng” và “Nghiên cứu nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức” được phương Tây công nhận đánh giá là kiệt xuất và đưa vào Từ điển triết học thế giới. Nguyễn Hoàng Đức liền lôi phắt chuyên luận triết văn “Ý hướngtính văn chương” dầy 640 trang của mình ra bảo: “Tôi đập nát bét. Tôi đập nát bét”. Sợ quá! Chẳng hiểu ông đập bét tôi hay đập nát nhà triết học Trần ĐứcThảo? Nghĩ nhanh mới biết mình dại, và tôi ân hận, lẽ ra cứu bữa cơm rượu ngon chỉ bằng cách dẫn các nhà triết học cổ đại Socrate, Platon…tầm nhân loại thì may ra “Nhà triết học số 1 châu Á” mang tên Nguyễn Hoàng Đức mới đối thoại.

Hôm đó, ông hùng biện phân tích“Ý hướng tính văn chương” bao gồm 6 chương. Ông đi từ bản tính sáng tạo của con người qua chân lý, đến Thượng Đế, rồi hạ xuống con người, đến siêu hình học, và văn chương cứu rỗi con người, đến phương tiện của tư duy và văn chương – chính là chữ nghĩa. Ông bảo vệ đến cùng luận điểm: ở Việt Nam ông không có đối thủ triết học, dù cơm có nguội, canh có lạnh thì mặc kệ canh cơm. Khi căng khi chùng, có lúc lớn tiếng đến mức các mâm bên cạnh tối tăm mặt mũi như gặp bom B52 trút xuống Hà Nội mùa đông đỏ lửa năm 1972. Ai cũng thấy kì lạ, dường như gác đũa, há hốc miệng nghe và rồi ù tai chẳng hiểu ông nói gì, và mình thu nhận được kiến thức gì trong cái mớ triết học mênh mông của ông. Ngay cả khi ấy, tôicũng nhận ra một nỗi buồn cô quạnh của ông khi ông nói mãi, giải thích mãi mà cái đám chúng sinh người trần mắt thịt chúng tôi không chịu hiểu ra, không nhìn thấy một Hy mã lạp sơn triết học đang ngồi lù lù trước mặt. Từ lúc đó, tôi cũngkhông gắp thức ăn được nữa, chỉ làm mỗi việc… châm tửu hầu ông mải mê thăng đồng chia cắt, định giá, so sánh văn hóa Đông - Tây và sắp đặt nền triết học thế giới một cách rất lành mạnh, đáng yêu, chân thành và nồng nhiệt.



2. Dâng hiến văn chương - nghệ thuật…cái gì cũng nhất.

Nguyễn Hoàng Đức coi thường ra mặt và chê ỏng chê eo nền thơ Việt Nam: “Thơ Việt có thể nói có đến 80% là giành cho các cụ già, tổ hưu, hay giám đốc đã làm xong công việc kiếm quyền kiếm tiền, giờ quay sang kiếm tí danh thơ”. Ông bảo: “Thơ Việt là lời hát ru à ơi của những hàm răng móm.” Ông mắng các nhà thơ: “Họ không có lý tưởng tự do, bình đẳng bác ái lại chui ra từ tem phiếu. Hơn 90% là vô thần! Tri thức công nông binh về tráng men văn hóa ở trạm cấp cứu Nguyễn Du, còn lại là các cụ tổ hưu đã hết sắc hương!” Ông không coi thơ Đường là hay, toàn là những bài tả cảnh tả tình, khá hơn thì nói được cái chí của người quân tử, và đặc biệt toàn những bài lẻ tẻ, ngắn tũn; không thể gọi là những binh đoàn chữ mà tác giả là thống tướng cầm cây gậy chỉ huy. Thơ với ông phảilà trường ca Illiad, và Odyssey của Homer, hay Thần khúc của Dante dài 100 khổ, gồm 14 226 câu thơ. Và ông đã đạt được những điều đó bằng tinh thần sục sôi,không mệt mỏi của mình. Nói có sách mách có chứng, Nguyễn Hoàng Đức nhễ nhại khuân ra xếp cả đống thơ, và chứng minh quyển nào cũng dạt dào tư tưởng: Kẻ hành hương từ đời đến thơ là trường ca mỹ học dài nhất thế giới. Trường ca Đợi... chuyến đò đã lỡ tất nhiên cũng là một bài thơ tình dài nhất thế giới.Điệu kèn cô đơn là tập thơ mang thông điệp tự do tư tưởng… dài nhất thế giới. Thế giới cũng chưa có Trường ca Thần học nào dài hơn Trường ca Thần học “Ngước lên cao” của ông.

Thơmới cũng chẳng là cái đinh trong mắt ông: “chỉ là một cảm xúc vừa phải” và ông gạt sang một bên. Còn đại thi hào Nguyễn Du thì ông cho là đạo văn của ThanhTâm Tài Nhân. “Không có “Đoạn trường tân thanh” thì có Truyện kiều không?” Ông hỏi tôi và ông truy bức tôi phải trả lời ngay: có hay không? và không được kèm theo chữ… nhưng. Vì theo ông câu trả lời rất dễ, cái cần thiết không chỉ trình độ mà còn phải có bản lĩnh to lớn nhất. Theo ông, nhà thơ là phải có nhiều bài, nhiều câu nhiều tập và phải biết viết Trường ca. Không biết viết trường ca coi như chỉ là nhà thơ hạng hai, cũng như nhà văn như Sương Nguyệt Minh chưa in tiểu thuyết thì trong mắt ông cũng chỉ đáng là nhà văn hạng hai hạng ba. Ông bảo: Một câu thơ hay, một bài thơ hay cũng chỉ là túp lều xinh xắn. Trường ca mới là lâu đài đá xanh uy nghi, hùng dũng.

NguyễnHoàng Đức chê văn xuôi Việt không có tư tưởng. Ông bảo: “Tắt đèn, Số đỏ, Chí Phèo, đều là những tác phẩm cóchuyện gay cấn.” Ông đọc Nguyễn HuyThiệp gần hết, nhưng Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu thì chưa. “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh thì ông mới đọc mấy chục trang. Còn tôi, ông hạ mình “ban phước lành” đọc cho một truyện ngắn Dị Hương đã là quá may mắn; tất nhiên đó làviệc làm bất bình thường đối với ông. Tôi bảo: Ông là “nhà lý luận phê bình hàng đầu thế giới” không đọc tác phẩm mà dám cả gan định giá nền văn học hiện đạiViệt Nam. Ông nói tỉnh bơ, chân thành, không có ý cao ngạo: “Nhìn cánh én là biết cả mùa xuân”.

NguyễnHoàng Đức viết một chuyên luận về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, và theo ông: Sau khi in chuyên luận ấy thì Nguyễn Huy Thiệp xệp như con dán, ông coi như làm xong nhiệm vụ vinh quang thay thời gian là lấp đất chôn xong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Ông Thiệp không còn lý do gì tồn tại trong tư duy của “nhà lý luận văn học hàng đầu thế giới” mang tên Nguyễn Hoàng Đức. Theo Nguyễn Hoàng Đức, ông đã giải huyền thoại Nguyễn Huy Thiệp và ông cũng quả quyết: “Sau bài của tôi, bữa tiệc của Nguyễn Huy Thiệp chỉ còn là bữa ăn tươi”. Tôi bảo: “Truyện ngắn ôngThiệp vẫn in đều đều, còn cái tiểu luận của ông đòi xóa sổ hộ khẩu văn chương ông Thiệp, thì chẳng ai nhớ và chẳng ai in”. Nguyễn Hoàng Đức bảo: “Không phải bây giờ mà sau này lịch sử văn học phải ghi công tôi đã xóa sạch văn chương Nguyễn Huy Thiệp, Trần Đăng Khoa và cả nền văn học mậu dịch tem phiếu”.

Nguyễn Hoàng Đức luôn bảo người tranh luận đề xuất một nhà lý luận giỏi nhất Việt Nam để ông thách đấu. Đưa ra người nào ông cũng bác thẳng thừng, coi họ là lọ mọ, lìu tìu. Ông bảo: “Gọi là có máu mặt như Trần Mạnh Hảo và Đông La hùng hổ ở đâu, chứ gặp tôi, tôi lừ mắt một cái là cóm róm ngay. Tung hoành ngang dọc gì cũng chỉ từ vĩ tuyến 17 trở vào, chớ dại có vượt sông bến Hải ra bắc”. Lúc nào ông cũng ngong ngóng mong Trần Mạnh Hảo, Đông La chạm đến ông là ông vác trùyra xới. Ở lĩnh vực triết học, đến như Trần Đức Thảo còn dưới cơ ông thì không còn ai đáng để ông đối thoại. Trong “Ký ức lộn xộn về nhà Triết học số 1 châu Á”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết: “Một lần gặp Trần Mạnh Hảo, nhà phê bình mà theo Nguyễn Hoàng Đức là nhà phê bình “cả vú lấp miệng em” nhất Việt Nam, Nguyễn Hoàng Đức chỉ tay vào mặt Trần Mạnh Hảo, tuyên bố: “Nếu ông bước vào sới triết học thì tôichỉ đập một nhát là nát bét đầu ngay”. Tôi đem chuyện này hỏi Nguyễn Hoàng Đức, ông gật đầu xác nhận với tinh thần bừng bừng thách đấu.

NguyễnHoàng Đức chê Mạc Ngôn không xứng đáng đoạt Giải thưởng Nobel và ông viết hẳn một bài dù chưa hề đọc Mạc Ngôn. Theo ông, Mạc Ngôn được Giải thưởng là do Trung Quốc chạy giải. Cả quốc gia chạy giải thưởng Nobel cho Mạc Ngôn. Vì Trung Quốc chưa hề có triết học, chưa hề có tư tưởng, văn chương thiếu hai điều đó thì văn chương không lớn. Nhìn hạt cát biết sa mạc, mùa xuân văn học Trung Quốc đã đì đẹt như thế thì cánh én Mạc Ngôn cũng không bay qua Vạn lý Trường Thành đến với tưtưởng nhân văn nhân loại.

Trongtư duy của Nguyễn Hoàng Đức, thước đo giá trị văn chương nghệ thuật trước hết là phải dầy dặn, đồ sộ. Sách in là phải có gáy dầy, sách đóng ghim mỏng tang dù hay, ông cũng không thèm để mắt. Hấp dẫn dở hay thế nào tính sau, cứ phải dầy, cứ phải dài, cứ phải đồ sộ đã. Sau đó là tư tưởng, không có tư tưởng chỉ là thứ bèo bọt mua vui ở chốn hề chèo. Gia tài văn học của Nguyễn Hoàng Đức khá đồ sộ, chỉ tính cuốn tiểu thuyết Xứ lưu đầy hơn 2000 trang, tiểu thuyết Ngưỡng cửa làm người 4000 trang chưa in, và sẽ rất khó in; nhưng ông đã nhận phần tiểu thuyết dầy nhất, dài nhất Việt Nam.

Có thể nói: Sang nhất, dầy nhất, dài nhất…, cái gì cũng nhất… cũng là nét đặc sắc mang tên dị nhân Nguyễn Hoàng Đức.



3. Cô đơn con người, cô đơn thi sĩ.

Nguyễn Hoàng Đức mắc một căn bệnh kỳ lạ, những ngày động trời, từ trường trái đất mạnh lên là máu tươi cứ tứa ra lỗ chân lông. Khi ấy, ông đau đớn vô cùng, cả đêm thức trắng không ngủ. Triết học, thần học, trường ca dài nhất thế giới… rủ đi hết, đêm đêm ông lặng lẽ ngồi vo những nắm bông trắng thấm máu trên cơ thể mình thả vào thùng rác. Chỉ một ngày sau, thùng rác đã đầy có ngọn bông máu đỏ. Khoảng một tuần thì khỏi, để rồi mỗi khi động trời ông lại chịu khổ nạn một chu kỳ mới. Hết ứa máu, da ông bắt đầu đóng vảy… như vảy rồng, sáng ngủ dậy vảy rụng đầy ga trắng những miếng á sừng hình dạng kích thước khác nhau, vun lại được cả nắm. Ông không đi bệnh viện, ởnhà cũng không uống thuốc và chưa bao giờ ông có ý định tìm thầy thuốc hay đến bệnh viện chữa cho mình. Tôi ái ngại bảo:

“Ông phải đi viện điều trị. Để mãi thế này khổ lắm.”

Ông lắc đầu, quả quyết, khôngmảy may đắn đo:

“Cái khổ của tôi không phải là cái khổ bình thường, mà là cái khổ tuẫn nạn! Tôi đang chịu sự hành xác vì Chúa”.

Nguyễn Hoàng Đức đã là con chiên của Chúa hơn hai mươi năm nay. Không tuần nào ông bỏ sót đi lễ nhà thờ. Ở Trại sáng tác vănhọc Sầm Sơn, cuối chiều thứ 7 nào ông cũng gác bút, đi bộ đến nhà thờ quỳ lạy trước Chúa và nghe cha xứ giảng giáo lý. Lòng tin Chúa vững chắc đến mức ông tin Chúa sáng thế ra thế giới khổ đau này và nói điều gì, ông cũng bảo là “ý Chúa”. Trong tiềm thức kì bí mầu nhiệm, ông tin mình là một con chiên được Chúa yêu thương, chỉ có điều Chúa đang còn thử thách, thử thách cũng chính là hành trình được Chúa đưa ông đến đài vinh quang. Và ông tin, một ngày đẹp trời nào đó, ông sẽ khỏi bệnh, ông sẽ được Giải thưởng văn học Nobel. Chúa lòng lành nhìn thấu mọi sự cõi con chiên, Chúa sẽ không bỏ sót ông. Ngày đó không còn xa nữa, hoặc xa lắm cũng chỉ đến lúc cái thế hệ bạn văn, bạn đọc hôm nay tận vong,thay bằng một thứ bạn đọc, bạn văn khác thì mới hiểu nổi tư tưởng của ông. Vì vậy,ông ngồi viết những trang triết luận, những trang văn thơ trong những ngày máu tứa đầy mình một cách sục sôi, mà an lành.

Nguyễn Hoàng Đức luôn nói ông cô đơn nhất trong mọi nỗi, mọi người cô đơn. Ông bảo tôi: “Ông có cô đơn bên người thân, hay thất tình, hay cô đơn ngay chính trong ngôi nhà của mình thì vẫn chỉ là nỗi buồn nhỏ bé, lặt vặt, ông vẫn còn người để mà thấy, mà nhìn, mà nghe tiếng người”. Nguyễn Hoàng Đức cũng cô đơn trong thường nhật. Hơn 20 năm rồiông sống đơn lẻ một mình. Một mình một tượng Chúa. Một mình một nhà. Một mình một bếp. Một mình một cây đàn piano. Một mình… Cái gì cũng một… để cần mẫn viết nhữngtrước tác khổng lồ cho nhân loại. Chỉ riêng bát đũa là không một mình, bởi thỉnhthoảng ông đãi khách ở nhà. Thời bao cấp đói rách hàn vi, tết đến, điện đóm phập phù lúc có lúc không, ông chỉ đủ tiền mua một cây nến thắp đêm giao thừa, ônghiu hắt buồn cũng như ngọn nến liu riu thương ông mà cháy chậm lại chờ trời sáng. Năm sau, đời sống khá hơn, đêm giao thừa, Nguyễn Hoàng Đức thắp 7 ngọn nến cháy sáng nhảy nhót reo vui, ông cảm thấy mình đang ngồi trước bản đại giao hưởng ánh sáng, nhưng vẫn một mình, hào quang của giao hưởng không át nổi nỗi đơn độctrĩu nặng của người đàn ông bất lực trước hôn nhân.

Khác với người thường chúng sinh như tôi, ông còn một nỗi cô đơn rợp ngợp của kiếp người mang tên: Nỗi côđơn thời đại. Nghĩa thực dễ nhìn thấy là ông vào ra cả ngày đêm, cả tuần, cảnăm không có ai ở bên, đến ăn cũng một mình, ngủ cũng một mình, giao thừa cũng một mình. Võ võ. Đơn độc. Không đảng, đoàn, không hội, nhóm, không làm ở cơ quan nào, sống tự do và viết để sống. Nghĩa ảo là cả dân tộc này, cả thế giới này không ai hiểu được nỗi niềm, tình cảm, suy nghĩ, trí tuệ, tầm vóc khổng lồ của ông. Và đặc biệt, không ai hiểu hết giá trị triết học, thần học, văn thơ… của ông. Ông mang tâm trạng của người: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất. Không có chi bè bạn nối cùng ta”.

Ông luôn luôn cảm thấy mìnhkhông được công nhận, luôn luôn thiệt thòi, luôn luôn đứng ở hành lang. Ông viếtnhiều nhưng được in quá ít, như muối bỏ biển. Ông luôn cảm thấy văn tài bị vùi rập, bị dìm hàng; nhưng ông tin một ngày mai người đời không bỏ rơi ông. Chẳng lẽ ba bộ tiểu thuyết dầy gần 1 vạn trang, với những trường ca dài nhất thế giới phải chờ đến khi ông về với Chúa mới được loại người tối tăm chợt nhận ra và hân hoan đón nhận? Tôi nói với Nguyễn Hoàng Đức rằng: “Ông chót sinh ra bấtphùng thời. Chúng tôi tối tăm chưa nhận ra cái hay và vẻ đẹp kỳ vĩ tác phẩm của ông thì chính chúng tôi mới có khuyết điểm, mới thiệt thòi, chứ không phải làông”. Tuy nhiên, xuất bản tư nhân đang lấn át xuất bản nhà nước (mậu dịch quốc doanh như ông nói) vẫn không mặn mà với tác phẩm Nguyễn Hoàng Đức? Bạn đọc thích đọc các bài tranh luận trên internet của ông hơn là tìm đọc sách chuyên luận triết học, thần học và tác phẩm văn chương của ông. Song ông không lấy đó làm buồn. Số ít mới là số quý. Một nhà văn đọc tác phẩm của ông còn quý giá gấpnhiều lần hàng vạn người đọc ất ơ.

Nguyễn Hoàng Đức đọc “Sông Đông êm đềm” của nhà văn Solokhov.Rồi rút ra chân lý: “Thử so sánh, chúng ta thấy, mỗi người đàn ông xứ họ khi rakhỏi nhà đều nhảy lên lưng ngựa, khi hành động, ứng xử, hay tranh luận ngườita đều thể hiện sự trưởng thành, tính mã hiệp của mình”. Ông buồn vì xứ mình người ta ra đường lại nhảy lên lưngtrâu, trâu thì không thể so với ngựa về sự trưởng thành và mã hiệp. Vì thế, có người xa lánh ông, đến tranh luận người ta cũng lảng tránh, không tranh luận với ông, hoặc tranh luận thì “ăn gian”, nước đôi lập lờ, đuối lý thì đánh bài chuồn. Ông buồn. Ông đòi hỏi sự rõ ràng, minh bạch trong tranh luận, không ấm ớ hội tề. Ông đòi người đối thọai “Hãy chứng minh đi!” Cũng như ai đó nói cướp lời, ông bảo:“Tôi xin ông 1 phút”. Nói xong, ông bảo: “Giờ, đến lượt ông. Cho hẳn 10 phút.”

Ông luôn thách đố bất kỳ ai đặt câu hỏi khó nhất thế giới để ông trả lời. Nhưng, cho đến hiện nay, vẫn chưa cóngười đủ tầm tư tưởng và triết học đặt ra câu hỏi thử thách trí tuệ ông. Ông thèm có một sới văn chương cho ông so găng, ông khát một diễn đàn triết học để ông tranh luận. Có đêm mất ngủ, ông muốn dựng nhà triết học Trần Đức Thảo dậy để hỏi:“Từ điển các nhà triết học” đồ sộ dày 2715 trang tiếng Pháp, khổ lớn, giới thiệu thân thế, sự nghiệp các nhà triết học danh tiếng của nhân loại từ thời cổ đại đến nay. Có những tên tuổi lớn chỉ được dành cho dăm ba dòng, tệ hơn nữa là tôi - Nhà triết học số 1 châu Á Nguyễn Hoàng Đức thì không được chữ nào ở đó.Nhưng ông - Trần Đức Thảo lại được giới thiệu tới ba trang. Vì sao?” Ơ hay! Ông hỏi thì phải hỏi Bernard và Dorothee Rousset với Ban biên tập quyển sách vĩ đại ấy, chứ sao lại hỏi nhà Triết học Trần Đức Thảo đang dong chơi ở cõi Niết Bàn từnăm 1993!

Tranh luận với Nguyễn Hoàng Đức rất mệt. Đang ở vấn đề A thì ông lấy ví dụ ở mệnh đề B để chứng minh, đang ở mệnh đề B thì ông lấy dẫn chứng ở hệ quả C để giải thích. Ai không tinh ý sẽ bị ông dẫn dắt vào trận đồ bát quái, không có lối ra. Cuộc tranh luận nào, ông cũng là người nói câu cuối cùng. Hầu hết, người ta bỏ cuộc. Bỏ cuộc vì mệt quá, không lại với ông trường thanh đại sức. Bỏ cuộc vì không lý lẽ đấu lại với Đức. Bỏ vì Đức thừa thời gian chỉ để tranh luận, viết bài về một vấn đề triền miên hết thángnày qua năm khác. Bỏ vì… tức giận. Nhưng, bỏ thì bỏ vẫn cứ không ghét hay coi thường ông. Vắng ông là cuộc nhậu mất vui, lại nhớ, lại cầm điện thoại í ới mời ông ra làm… “món nhậu”. Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc bia rượu, món ăn trở thành thứ yếu, “món nhậu Nguyễn Hoàng Đức” mới là quan trọng và hấp dẫn.

Nguyễn Hoàng Đức có cái đàn piano cũ nhất Việt Nam, thảng hoặc ông lật nắp đàn lên ngắm, ông có cảm giácnhư đang nhìn trộm công chúa tắm. Đây là cảm hứng của các vĩ nhân cô đơn chơi đàn như một tâm sự, giống Khổng Minh trong Tam Quốc diễn nghĩa mỗi lần chơi đànthì mơ hồ cảm giác như có người nào đang lấp ló nghe trộm. Nguyễn Hoàng Đức yêucái đàn piano như yêu một người đẹp hoàn mỹ. Không ít lần, bần thần vuốt cácphím đen trắng, ông cảm giác được sự minh định phải trái, trắng đen rõ ràng, không mập mờ, giống như con đường chân lý. Ông gõ vào phím trắng là gõ vào tự nhiên, gõ vào đá, gỗ, sắt… Ông gõ vào phím đen bán âm là là gõ vào cái sự nhân tạo, chỉ do con người làm nên, tựa như gõ vào trí tuệ và trái tim để lay động sáng tạo ra văn chương nghệ thuật.

Nguyễn Hoàng Đức chơi đàn thường ngày, ngày nào cũng dành ít nhất là một tiếng đồng hồ ngồi dạo các ngón tay trên phím đàn piano. Cái đàn piano này ông mua từ thủơ hàn vi nghèo khó. Dạo ấy,ông đi phiên dịch cho dầu khí, được ít tiền, thay vì mua được cái nhà cấp 4 diện tích 30m2 thì ông mua đàn. Cũng là cách chia sẻ nỗi lòng khi không còn bầu bạnđược cùng ai thì gửi tâm sự vào âm nhạc. Chiếc đàn sẽ là người bạn thủ thỉ tâm tình cùng ông. Ông đạp cái xe đạp tòng tọc chở người nghệ nhân lên giây đàn giỏi nhất miền Bắc đi mua piano. Người chủ đàn trố mắt ngạc nhiên nhìn hai gã gầy gò, hốc hác và chiếc xe đạp bó lốp. Không ngã giá một câu, ông gọi hai bác cửu vạn mang đến cái võng và cây luồng, đằng trước buộc lên gác ba ga xe đạp, đằng sau buộc lên phốc tăng một cái xe đạp nữa. Dùng dằng vài tiếng đồng hồ rồi cũng võng cái đàn piano về đến nhà. Hai bác thợ cửu vạn nhận tiền công, còn được ôngchiêu đãi một bản nhạc “Phiên chợ Ba tư” trước khi ra về. Dọc đường bác nọ hỏi bác kia trả lời: “Mày nghe nhạc có thấy thích không?” “Không! Nhức đầu lắm. Cứnhư phèng la đám ma. Nể mà ngồi nghe cho hết bài”.

Nguyễn Hoàng Đức là kẻ dấn thân nghệ thuật. Dù nghèo, đi xe đạp ọc ạch bó lốp, nhưng cứ 6 tháng một lần ông mời nghệ nhân giỏi nhất miền Bắc đến tận nhà “lên giây đàn”. Những thanh đồng trong đàn piano được cân chỉnh chính xác, thanh âm chuẩn mới làm ông có cảm xúcngồi vào đàn. Dạo ấy, ông mới tập đàn, lúc bật bông, lúc như gõ phèng la. Thờibao cấp, mọi người đói, mặt xanh vêu vao, người ta đổ xô trên đường kiếm ăn,Nguyễn Hoàng Đức cũng kiếm ăn, nhưng bằng cách viết báo ngồi ở nhà. Nhọc mệt,thư giãn là lại mở nắp đàn piano tập. Hàng xóm lúc đầu tò mò, trẻ con sang xem,ông ân cần gần gũi tiếp khách, còn cho bọn trẻ nhấn ngón tay mấy cái, thanh âm phát ra, chúng cười ré lên sung sướng. Sau thì tiếng đàn cũng làm phiền họ. Đilàm suốt ngày, chiều tối muốn được thảnh thơi yên tĩnh thì lại bị tiếng đàn hàng xóm tra tấn. Bán rau dưa, cà muối, cá khô suốt ngày phơi mặt bị khói hondaxịt cay mắt… lại bị tiếng đàn của ông hành hạ. Nhiều người lặng lẽ bán nhà chuyển đi nơi khác. Gan dạ thi gan với tiếng đàn của ông nhất là một gã Tổng giám đốclắm tiền nhiều bạc không chịu chuyển nhà. Gã nghe nhạc qua loa thùng ầm ầm vẫnquen tai, nhưng cứ mỗi lần tiếng đàn piano vang lên bản nhạc “Đồng quê” dù lànhỏ nhẹ dìu dặt, gã vẫn cảm thấy như thanh âm xuyên qua tường, xoáy vào tai gã nhứcbuốt đến mức không chịu nổi. Gã sai con mở to loa thùng phóng nhạc rốc hiện đại sang phía nhà Nguyễn Hoàng Đức, chống trả lại cuộc xâm lăng của âm nhạc cổ điển.Mặc, ông không hề hay biết vẫn cứ đắm say mê mải với những tiếng nước chảy rócrách, tiếng vó ngựa dồn dập và những thanh âm cuồn cuộn như mây vần vũ, như bão giông cuồn cuộn… trong cô đơn, không chia sẻ cùng ai. Cuối cùng, gã Tổng giám đốc trọc phú cũng phải mua nhà chuyển đi nơi khác. Mới hay, sống chung đã rất khó,cùng hệ mỹ học thưởng thức cái đẹp lại càng khó hơn.

Có một chuyện thật 100%, khiông chưa mua đàn piano, cô bé nhà bên thường sang chơi thân mật chú cháu đến mức bá vai bá cổ, nhưng khi cứ chiều về, tiếng đàn vang lên trong khoảng không giancăn nhà chật hẹp lọt ra ngoài là cô bé xa lánh, dần dần không bén mảng đến chơi nhà ông nữa. Ông nghĩ rằng: Tiếng đàn đã làm ông sang trọng hẳn lên và cô bé cảm thấy thân phận mình nhỏ nhoi, mặc cảm nên khép mình, lùi xa rồi tránh hẳn. Tôi lại đồ rằng, ông chơi những bản nhạc tình yêu trữ tình lãng mạn nồng nàn như làlời tỏ tình, như là lời mời gọi khao khát khác giới… khiến cô gái mới lớn xaoxuyến e lệ lùi xa. Thêm một câu chuyện nữa 100%, gã thanh niên tóc dài lõa xõa bên nhà ông, tục tằn, chuyên nói tục với ông, nhưng từ khi cây đàn piano ngự trong nhà ông thì gã đằm tính lại, nói năng nhã nhặn và hết xả ra những lời thô lỗ.

Bây giờ, ông là tay pianist nghiệp dư cự phách nhất Việt Nam,chứ không phải gã gõ thùng tôn như thời mới tập đàn. Bây giờ, quây quần quanh nhà ông là những người hàng xóm tốt bụng, yêu nhạc, cứ vài ngày ông bị mệt hoặc đi chơi xa, vắng tiếng đàn là họ lại nhớ nhung, gọi vóng sang: “Chơi đàn đi, ông Đức ơi!”




4. Nghi lễ tình yêu.

Nhà triết học số 1 châu Ámang tên Nguyễn Hoàng Đức yêu không dễ. Năm nay, ông đã gần sáu mươi tuổi,nhưng các nàng tuổi 40 rất khó lọt qua mắt ông để mở cánh cửa tình yêu nặng nhưcùm gỗ lim của ông, dù có là hoa hậu quý bà vừa sống đơn thân hay cô gái quá lứa nhỡ thì chưa một lần làm vợ. Vậy thì các bóng hồng tươi xanh tuổi 18 trở xuống mới là cái đích để ông ngắm? Không! “Trẻ ranh” nũng nịu suốt ngày, ông bảo: ở cái tuổi tri thiên mệnh, ông không thể vừa viết những trang triết luận bay bổng về anh hùng mỹ học, vừa dỗ người tình ăn socola; vừa đọc trường ca thần học đầutiên của nhân loại “Ngước lên cao”, vừa thay tã lót cho con. Mẫu hình lý tưởng tình yêu của ông là những cô sinh viên tươi trẻ, nới rộng thêm là các mỹ nữ đơn thân trên dưới tuổi 30, nhưng giới hạn không vượt quá tuổi 35. Tuổi là vậy, nhưng người tình của ông còn phải hiểu biếtthần học, triết học, yêu thích nhạc giao hưởng, biết chơi đàn piano càng tốt vàphải hiểu được công việc lao động văn chương nhọc nhằn cô độc của ông, ít rakhi ông đọc bài thơ vừa mới sáng tác thì lắng tai nghe chăm chú như nuốt từng lời, chứ thờ ơ là nàng đã giết chết cảm xúc sáng tạo của chồng, có nghĩa là hai tâm hồn vênh váo không đồng điệu. Yêu đương cái nỗi gì!

Bạn bè khuyên Nguyễn Hoàng Đứcđừng dây vào cảnh “cha già con cọc”, yêu nhau là đủ, hoặc kết hôn nghĩa chồng vợ tao khang là đủ, họ khuyên ông đừng đẻ con. Đẻ con, sẽ làm nhà triết học lấn bấn vào chuyện sữa bột tã lót bú mớm thì thơ không cất cánh, và tốn thời gian vàonhững việc tầm thường, được đứa con xinh xắn mà mất một cuốn thần học để đời, hay cuốn luận mỹ học tầm nhân loại. Ngược lại, Nguyễn Hoàng Đức coi ái tình phải cay nồng, bỏng gắt như phở có hạt tiêu và ớt, phải bê bết ngàu sủi tinh dịch và nước bọt hôn nhau. Tình yêu hôn nhân phải ngổn ngang, bề bộn tã lót, nhôm nhoam cứt đái và tiếng cười tiếng khóc trẻ con mới đã. Ông là triết học đại tài tầm châu Á, ông rất muốn yêu lấy vợ sinh con với ý nghĩa truyền giống tốt, giốngtinh hoa, giống thiên tài. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, ông vẫn chưa tìm được người phụ nữ của mình để gieo giống. Hỡi những người phụ nữ xinh đẹp vĩ đại! Sao lại bỏ dở một cơ hội vàng ngàn năm có một? Hãy hành động đi! Hãy đến với ông hoàng của văn học Việt, hãy đến với “nhà triết học số 1 châu Á” đi, kẻo các nàng sẽ rơi vào không gian u uất ân hận và tiếc nuối suốt đời.

Một lần tôi hỏi ông:

“Ông già rồi. Sao cứ chịu cảnh ế ẩm đời trai hiu hắt thế?”

Ông ngẫm nghĩ một lát, và thở dài:

“Tôi đã là ông hoàng của vănhọc Việt Nam, hoặc giả chỉ là cái bóng của ông hoàng thì cũng có nghĩa là tôi sẽcó cả ngàn cung tần mỹ nữ. Nhưng, tôi không muốn ái tình nhôm nhoam với hết người này đến người khác. Tôi chỉ chưa tìm được hoàng hậu của lòng tôi. Bởi vì Chúa đang thử thách tôi.”

Nguyễn Hoàng Đức là con ngườidư trí tuệ, thừa tài hoa, nhưng thiếu đào hoa. Ông đẹp trai, mũi cao to và gương mặt đẹp như nhà triết học Hy lạp cổ đại chúng ta thường thấy hiện diện đâu đó ở tranh tượng trong bảo tàng nghệ thuật. Ông cũng thuộc hàng nam tính, trí tuệ tài năng. Cái gì ông cũng hơn đám đàn ông bạn bè. Nhưng, ông không một cánh đào hoa. Các bạn ông đào hoa như rộn rã như máy gặt đập liên hợp, tình yêu cuồn cuộn như thác lũ. Còn ông như con cá trên cánh đồng khô cạn hớp hớp từng giọtsương tình yêu nhỏ xuống từ mái gianh nghèo. Nhưng ông vẫn cam chịu, không một mảnh tình vắt vai. Ông tin một niềm tin vững chắc và hi vọng rằng: Chúa đang sỉ nhục ái tình của ông, và khi Chúa sỉ nhục đến tận cùng con đường đào hoa của ông thì Ngài sẽ mở lòng, giải phóng cho ông khỏi cuộc hành xác chịu nạn thiếu hụt ái tình. Lúc đó, người đẹp bất ngờ xuất hiện như cổ tích, cánh cửa ái tình mở toang ra. Ông sẽ rực rỡ trong ánh hào quang hạnh phúc với người tình và hôn nhân chóng vánh, ông sẽ gieo giống vào hoàng hậu của lòng ông. Nhân loại sẽ đón chờ cuộc tình vĩ đại cũng y như đón chờ hạt giống triết học ông gieo xuống thế gian trở thành đứa con bất tử như sự bất tử của ông. Đó là niềm tin thành thật.

Dù vậy, tôi vẫn nghĩ: Người con gái nào chấp nhận yêu, lấy ông làm chồng sẽ là người phụ nữ vĩ đại nhất hành tinh, nàng hi sinh không phải vì hoàng đế văn chương khổng lồ Nguyễn Hoàng Đức mà chính là nàng hy sinh đời nàng cho một kẻ mộng tưởng đi giữa đời thường– một nhân vật văn học tương lai của nhân loại.

Nguyễn Hoàng Đức quan niệm: Từ tình yêu đến hôn nhân là phải có lộ trình, và vì tình yêu thiêng liêng chứkhông trần tục như tình dục, nên phải có nghi lễ. Cái nghi lễ của ông là câu chuyện thế này xin hầu bạn đọc:

Bạn bè thấy ông đơn thân, tìm hoài vẫn không đứng đầu đứng số, thương lắm vun quén nhiều nhưng chẳng hiểu sao mười cô gái đến thì chục cô đi. Bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ, giáo viên, nhà thơ, nội trợ… đủ cả, nhưng Nguyễn Hoàng Đức vẫn thân đơn bóng chiếc. Tôi cũng nhiệt tình giới thiệu một cô bạn vong niên 28 tuổi xanh là kế toán một công ty, rất say phim truyện tình yêu truyền hình dài tập của Hàn Quốc, đã bắt đầu vào thời đằm thắm. Tôi bảo ông: “Giới thiệu xong là tôi tìm kế “tẩu vi thượng sách” nhường lại không gian huyền ảo cho hai người tự do tìm hiểu. Lần này con cá to. Chớ để sểnh.”Ông Đức hân hoan, sướng lắm! Ông có mặt ở nhân gian nhìn ánh mặt trời trước nàng 23 năm. Có hề chi, nàng đã nghe danh chàng từ lâu, và lòng rất mến mộ.

Tôi đưa nàng đến nhà ông.

Quá bất ngờ! Chúng tôi choáng ngợp bởi không gian huyền ảo lung linh của hàng chục ngọn nến cháy sáng giữaban ngày. Tượng Đức Chúa Jêsus Christ đóng đinh trên cây thánh giá, ảnh Mẹ Maria,các loại ảnh và lịch Thiên chúa giáo, các tượng bán thân Nguyễn Hoàng Đức kích cỡ bằng người thực, và sách triết học, thần học trong tủ với báo chí chất ngổn ngang chung quanh. Tất nhiên còn có cả hoa tươi và cây đàn piano cổ kính phủ chiếc khăn màu hổ phách in hoa văn cách điệu có nguồn gốc từ xứ xở Ba Tư tạo nên không gian dị nhân Nguyễn Hoàng Đức.



Họ chào nhau khá thoải mái, cởi mở và xem ra ông cũng rất thích nàng. Tôi hào hứng:

“Xin giới thiệu với em! Anh Nguyễn Hoàng Đức đây là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà truyện ngắn, nhà biên kịch, nhà báo, “nhà lý luận phê bình văn nghệ hàng đầu thế giới…”

Gương mặt ông sáng bừng, nhưng dường như tôi chưa làm hết phận sự, ông hân hoan, trân trọng tự giới thiệu tiếp:

“Anh còn là nhà triết học, nhà thần học, nhà mỹ học…”

“Đúng đúng! Em thấy không, Nguyễn Hoàng Đức của chúng ta có duyên nhé, lại rất nam tính, đến anh là đàn ông mà còn mê…”.

Ông Đức cười tủm tỉm rất đángyêu bảo:

“Em đừng nghe Sương Nguyệt Minh. Hắn “dìm hàng” đấy.”

Đột nhiên ông tăng âm lượng giọng nói và hùng biện:

“Thước đo đàn ông là cái đầu triết học thông thái, em ạ. Chứ ông Minh khen anh nam tính là cổ vũ cho khả năng giỏi chuyện giường chiếu…, tình dục. Anh… không chấp”.

Đôi mắt cô bạn gái hơi bối rối,e thẹn. Tôi đưa mắt như muốn bảo Đức: “Ông dịu dàng, âu yếm một chút cho tôi nhờ.Hôm nay, việc trọng đại là… tình yêu, chứ không phải là triết học, thần học”.Nhưng, Đức không để ý đến cái nhìn của tôi, ông đứng phắt dậy, hùng dũng đi đến tủ sách lôi cuốn “Hiện tượng học tinh thần”của Hegel in bằng tiếng Pháp dầy gần 2000 trang và cuốn “Ý hướng tính văn chương” của ông, dầy như viên gạch vồ đặt ra bàn,nói với cô gái mới quen:

“Em thấy không. Đàn ông là phải trí tuệ, khen anh nam tính có họa bằng chê ngầm anh cơ bắp. Con người thằng đànông hơn nhau ở chỗ đẳng cấp trí tuệ, em ạ”.

Tôi nói:

“Ông ơi! Pascal bảo: Con ngườichỉ là một cây sậy yếu ớt trước tạo hóa vô biên.”

Ông Đức bảo:

“Nhà triết học Pascal cũngnói: Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ. Ông Pascal còntriết luận: Nếu cái mũi của Cleopatra dài thêm một chút thì cục diện thế giới sẽthay đổi…”

Gay rồi. Tôi đã vô tình thò bàn tay vào suối nguồn triết học của ông. Nguyễn Hoàng Đức giải thích ẩn dụ“cái mũi của Cleopatra”, ông phân tích tính từ “dài”, ông chứng minh “cục diện thế giới sẽ thay đổi”…Chết mất thôi! Hết triết học Pascal sang Hegel đếnNietzsche rồi quay về “Ý hướng tính vănchương”…

Tôi ngồi bên thò tay giật giật vạt áo ý nhắc nhở ông quay về chủ để tiếp bạn gái. Ông gạt tay tôi bảo với côgái:

“Anh Sương Nguyệt Minh là chúa… “dìm hàng” em ạ.”

Rồi Đức quay phắt lại bảo tôi:

“Bây giờ đến lượt ông nói đi.Cho ông nói về triết học… 30 phút đấy. Không nói được ấy gì. Chết chưa!”

“Ừ. Chết. Tôi đang chết đứ đừđây. Hôm nay là ngày của ông nói chứ không phải tôi.”

Tôi ghé tai Đức thì thào rằngtrọng tâm buổi gặp gỡ hôm nay là cô bạn gái, còn triết văn để hôm khác. Mặt ôngthộn ra, cười gượng gạo rất đang yêu. Tôi kiếm cớ chuồn và hẹn sẽ quay lạitrong thời gian ngắn nhất.

Đúng là Pascal rất có lý khi nhận ra "Con tim có những lý lẽ mà nhiều khi lý trí không thể hiểu nổi". Khoảng gần một giờ sau, tôi chưa kịp quay trở lại nhà Nguyễn Hoàng Đức thì cô bạn gái điện thoại:

“Anh Minh à. Em về rồi.”

Tôi sửng sốt:

“Chết thật! Sao về sớm thếem? Anh nói trước rồi mà. Cái việc tỏ tình thì Đức tồ lắm”.

“Em hết chịu nổi rồi, anhơi!”

“Là sao?”

“Ảnh ấy bảo: Hôm nay, em là khách quý đặc biệt, anh phải đón bằng nghi lễ đặc biệt. Em bảo: Anh đã thắp 28 ngọn nến giữa ban ngày làm nghi lễ đón em rồi. Anh ấy bảo: Đó chỉ mà nghi lễ giáo đầu. Bây giờ mới là nghi lễ chính thức. Nói rồi, anh ấy bước đến cây đàn piano, bảo: Anh sẽ dâng hiến em bản nhạc Sotana The moonlight của Beethoven…”

Tôi cướp lời người đẹp:

“Có phải trước khi đàn, ông ấy phân tích chương một giai điệu chậm rãi, tha thiết như lời than vãn, đánh thức hồi ức tình cảm dịu dàng êm như ánh trăng tan nhẹ trên mặt hồ mênh mông lặng sóng không?”

“Vâng!”

“Rồi ông ấy nói về chương hai ánh trăng chảy mải miết theo dòng sông dài bất tận, báo hiệu một điều khủng khiếp dữ dội sắp xảy ra không?”

“Vâng! Rồi anh ấy phân tích chương cuối ánh trăng tan vỡ trên mặt sóng giông tố, khơi gợi cảm xúc mãnhliệt, dữ dội như con người đang quay cuồng, vật lộn với bão giông đại hồng thủy, với nỗi buồn đau nhưng không tuyệt vọng…”

“Ôi trơ…ời!” - Tôi hét vào ống nghe.

“Đàn xong bản “Sonata Ánh trăng” thì 12h trưa, anh ấy không dừng lại mà dâng hiến cho em tiếp bản nhạc giao hưởng “Định mệnh”.

“Bảngiao hưởng ấy bốn chương đấy. Chơi hết thì… chết đói a?”

“Vâng!Vì thế mà em phải viết mảnh giấy chào rồi kẹp vào quyển triết học “Hiện tượng học tinh thần” của nhà triết học Hegel gì đó, rồi ra về khi anh ấy còn…đang mê mải đàn”.

“Ôigiời ơi là giời!”

Tôichỉ còn biết kêu lên thảng thốt, đầy bất lực vừa giận vừa thương ông. Quên cả ngườiđẹp đang đói bụng ở bên, qua phím đàn piano, ông thả hồn vào “Sotana Ánh trăng”để tỏ tình, nhưng ông mải miết đắm đuối theo dòng chảy âm thanh từ “Ánh trăng”sang “Định mệnh”. Định mệnh thì yêu đương cái nỗi gì!



5. Triết lý mang tên Nguyễn Hoàng Đức.

Nguyễn Hoàng Đức là một con người vừa đơn giản vừa phức tạp.

Sau cái dạo gặp nhau đầu tiênở Quảng bá, bẵng đi một tháng, Nguyễn Hòang Đức gọi điện thoại cho tôi mời đếnnhà riêng ăn tiệc. Hóa ra, “gần nhà xa ngõ”, mười năm chúng tôi ở gần nhau chưađầy 200m mà chưa một lần chạm mặt nhau.

Tôi rụt rè gõ cửa.

Rụt rè là bởi tôi đã nghe ngườita kể về những về những cuộc đón khách kỳ lạ của ông: cuộc linh thiêng, cuộc lộnglẫy, cuộc thần bí và cả những cuộc cười ra nước mắt. Ông gọi với ra, bảo tôi chờ tí. Thì ra, ông đang ghim cà vạt và nghiêng ngó trước gương. Ông mở cửa. Choántrước mặt tôi là một người đàn ông cao lớn lịch thiệp, đóng comple màu be ra dáng chính khách, nhưng cái đầu là của nhà triết học với vầng trán rộng, mũi to và cao, mái tóc hơi dài chải bồng về phía sau. Tôi ngỡ ngàng, nhìn thân mình tôi cao nghều với quần lửng, đi dép lê, mặc áo thun, tay cầm chai rượu quốc lủi Phát Diệm nút lá chuối.

“Ôi! Trịnh trọng quá. Ông vừa đi đâu về hả?” - Tôi ngơ ngác hỏi.

“Không! Tôi vừa sắp tiệc đãi ông”.

“Vẽ. Có hai người mà…”

“Ừ, nhưng ông là khách quý, lần đầu đến nhà nên tôi đãi yến tiệc triều đình...sang nhất.”

Sang nhất! Ôi. Lần đầu trong đời được làm vua.

Ăn cũng phải sang nhất. Ông coi món ăn Việt là lìu tìu, không có món nào ra hồn, không có quốc hồn quốc túy về ăn uống. Ở Nga có rượu Vốt ca, ở Ba Lan có rượu cỏ, ở Pháp có vang booc đô, ở Nhật có sakê…; ở Việt nam thì… quốc lủi, mà rượu làng Vân, rượu Phát Diệm, rượu Bầu Đá, rượu Sán Lùng… cứ lọan lên chẳng có loại nào đại diện cho quốc gia. Còn ăn uống thì rau luộc, thịt luộc, luộc cả con lợn…, chỉ có luộc với chấm. Chả lẽ lại đem mắm tôm,hay dưa khú làm quốc yến?

Tương tự, đàn bầu ngũ cungcũng không thể thi thố với đàn piano của thiên hạ. Ông rất dị ứng với những gìtranh tre nứa lá như sáo, nhị, hồ. Với ông, tất cả phải kì vĩ, hoành tráng,mênh mông, lộng lẫy và… đặc biệt. Đặc biệt như cây đàn ghi ta phải là loại gỗthông mọc trên triền đá chịu khô hạn, bị gió bão, mưa tuyết đánh tơi bời…thìlàm bầu đàn, cần đàn mới tốt, không bị cong vênh, âm thanh chuẩn bốn mùa xuân hạthu đông.

Triết lý “Thành La Mã khôngxây trong một đêm” luôn chỉ đạo tư duy và hành động Nguyễn Hòang Đức. Vănchương thì trước hết phải lấy số lượng làm đầu. Một câu thơ hay, một bài thơ hay… không tính là nhà thơ. Một tập thơ hay mà không có gáy đóng ghim ông cũngcho là mỏng manh yếu ớt lìu tìu. Đã là nhà thơ phải viết trường ca, đã là nhà văn phải có tiểu thuyết, không phải 1 cuốn mà nhiều cuốn, phải lấy thước mét đểđo. Văn thơ phải có tư tưởng chứ kể và tả chỉ là mua vui giải trí, mỹ học thấpbé lọ mọ tăm tối như túp lều tranh tre nứa lá… không chấp. Ông hiên ngang đi giữađường thơ vác cây thập giá triết học, đeo túi cỏ thần học đến lâu đài văn chương kì vĩ bằng đá xanh, bỏ qua mọi ngôi nhà tranh, nhà gỗ chỉ một trận hỏahoạn là thành tro.

Trongcon mắt Nguyễn Hoàng Đức, người Phương Tây nhất là dân du mục đi khỏi nhà là nhảylên mình ngựa nên tính tình phóng khoáng, mã hiệp. Bây giờ, ông đi ra khỏi nhà, không nhẩy lên mình ngựa mà nhẩy lên…ô tô. Ông Đức mua ô tô và đãi bạn (còn gọilà khao) bằng cách mời tôi ngồi lên để ông chở đi 1 vòng quanh nội thành Hà Nội.Ông cảm thấy tự tin vô cùng, bảo: “Từ nay tôi hết lọ mọ rồi, ông ạ”. Tôi phấnchấn chia vui: “Tôi không nghĩ thế, mà đã tính đến cái chuyện ông lấy được vợ từcái xe ô tô này”. Triết lý của ông là: từ cái xe đạp lên xe máy, dù là xedyland hơn 200 triệu đồng thì cũng chỉ là xe hai bánh, chẳng khác gì nhau.Nhưng, xe ô tô, dù là xe cỏ mua rẻ 14 triệu đồng ngang với đồng nát thì vẫn làxe ô tô, nó sang hơn vì nó có… 4 bánh, và bỏ tay lái nó vẫn đứng, chứ xe máy,xe đạp bỏ tay ra là… đổ kềnh.

Nguyễn Hoàng Đức dù là một “triết gia vĩ đại”, một “nhà văn khổng lồ”, một “anh hùng mỹhọc” vác thập giá đi chinh phục đám văn nhân lìu tìu chúng tôi thì ông vẫn phải sống như một con người bình thường. Có nghĩa là: ông phải ăn uống, phải mặc, phảiđi lại, phải mưu sinh. Hàng tuần, ông viết 1 bài báo cho báo Phụ nữ… đủ sốngcho cả tuần, nhưng thiếu tiền đổ xăng, ông lại phải viết 1 bài nữa cho báokhác. Cứ ngừng viết là ông ngừng có tiền tiêu vì ông không có lương. Ông là vĩ nhân, là người theo Thiên Chúa giáo, trước lúc ăn phải làm lễ trịnh trọng. Khicao sang thật cao sang, khi xuề xòa thật xuề xòa đáng yêu. Ông ăn salat Nga, thị thun khói, thịt cừu chiên, thịt ngỗng trời quay, uống rượu mạnh Chivas hũ sàng21 năm…, nhưng ông cũng xài được đồ ăn Việt thứ gì ăn cũng thấy ngon: Lòng lợn mắm tôm. Thịt chó. Chân gà nướng. Đậu phụ luộc…Khi ăn món ăn Tây, ông trịnh trọngkính cẩn làm nghi lễ thưởng thức văn hóa ẩm thực. Khi ăn đồ ăn Việt ông chỉ coilà… nạp năng lượng, đánh no bụng để đủ sức hành trình sáng tạo.

Nhàthơ Đỗ Minh Tuấn gọi Nguyễn Hoàng Đức là: “Anh hề triết học, chàng Đông-ki-sốt văn chương” có lẽ khôngsai. Tôi đã đọc đi đọc lại những dòng chữ ông Tuấn viết: “Đức còn khoe khi Nguyễn Huy Thiệp mời Đức đến nhà dự khánh thành bứctượng Phật của Hồng Hưng, Đức được ngồi mâm giữa cùng các bậc cao nhân như Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến và Hồng Hưng. Đức tự hào: “Thiệp là chủ nhàmà cũng không ngồi mâm giữa. Tôi còn trẻ măng, chưa là gì cả mà đã được ngồingang ngửa với Hoàng Ngọc Hiến…”. Đó là cái triết lý mang tên Nguyễn HoàngĐức: “Tôi phải là người như thế nào thì mớiđược… như thế”. Cũng như ông khoe với tôi: “Ông Minh đã được Hữu Thỉnh gọilà thầy chưa?” “Chưa! Tôi chẳng là gì để ông Thỉnh gọi là thầy”. Ông Đức lôitập thơ Hữu Thỉnh có lời đề tặng: “TròHữu Thỉnh thân tặng thầy Nguyễn Hoàng Đức”, rồi ông bảo: “Tôi phải là người như thế nào thì Hữu Thỉnhmới gọi là thầy chứ.” Vâng! Thưa bạn đọc! Chả là có dạo Nguyễn Hoàng Đứcmột tuần hai buổi đến nhà riêng dạy nhà thơ Hữu Thỉnh học Anh ngữ.

Nhàthơ Nguyễn Quang Thiều có lấy cho ông Đức một vé mời đi dự Ngày thơ quốc tế ởIndonexia. Ông về tặng tôi một cái bấm móng tay và khoe:

“Cảhội trường như chết lặng nghe tôi đọc Trường ca thần học “Ngước lên cao” bằngtiếng Anh, ông ạ”.

“Còngì nữa?” – Tôi hỏi và mừng cho ông.

“Ởsảnh đường có đặt chiếc đàn piano. Không có nhà thơ nào dám mó vào, ông ạ.”

“Gìnữa?”

“Cảsảnh đường như chết lặng nghe tôi đàn piano, ông ạ”

“Còngì nữa?”

“Tôi phải là người như thế nào thì mới được như thế chứ.”

Nguyễn Hoàng Đức có một khát vọng cháy bỏng là được đọc thơ ở chốn đông người như Maiacopxkiđọc Trường ca Lê nin trên Quảng trường Đỏ nước Nga. Ông vẫn chờ đợi một ngàynào đó, và ông hi vọng đứng trên bục vinh quang ở Quảng trường Ba Đình, hay Sânvận động Mỹ Đình đọc Trường ca mỹ học “Kẻ hành hương từ đời đến thơ”. Chờ đếnngày Nguyễn Hoàng Đức hiên ngang đứng ở quảng trường lâu quá, bạn bè thương,các ông họa sĩ Lê Thiết Cương, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều bèn tổ chức cho ôngthực hiện khát vọng đáng yêu của mình. Rượu vang Chi lê và rượu mạnh Chivastrong không gian mỹ học đặc sắc tại galery họa sỹ Lê Thiết Cương, ông đắm đuối,da diết thăng đồng cùng trường ca Thần học “Ngước lên cao”. Hôm sau, ông hỏitôi cảm nhận về buổi đọc thơ, tôi bảo: “Mọi người rất vui. Ông Thiều, ông Cươngđã dành cho ông một món quà quý giá. Ông phải là người như thế nào thì mới đượcnhư thế chứ!” Nguyễn Hoàng Đức cười, nụ cười thỏa mãn chảy dài trên mặt.

Nhà văn Nguyễn Đình Chính đọc xong truyện ngắn “Công lý và trái tim di trú” củaNguyễn Hoàng Đức, ngạo nghễ nói trước mặt cả đám nhà văn ở Trại viết: “Văn chương các ông quanh quẩn chỉ là cái cổng làng, con trâu với bến nước, bụi tre.Còn lâu mới có hòn đảo cô đơn và mặt trời công lý như thằng Nguyễn Hoàng Đứcnhé.” Lạ thay! Chẳng có ai tự ái. Chỉ có người thì lặng im, và kẻ cười ruồi.

Nhà thơ Lương Tử Đức nói về ông: “Nguyễn Hoàng Đức đã dấn thân và cô đơn trên con đường lý trí để thực hiện sứ mệnh của bản thân mình chochân lý sáng tạo văn học nghệ thuật.”

Một lần tôi bảo Nguyễn Hoàng Đức:

“Ông ạ. Ông rất nhiều “nhà”: Nhà triết học, nhà thần học, nhà văn…Ai phong cho ông hay tự ông nhận? Ai gọi ông là “Nhà lý luận phê bình văn họchàng đầu thế giới?”

“Chính ông! Ông đã phong cho tôi. Còn Nguyễn Quang Thiều viết trênVietimes khẳng định tôi là “Nhà triết học số 1 châu Á”.

“Tôi phong ông là “Nhà lý luận phê bình văn học hàng đầu thế giới”hay không thì tôi không còn nhớ. Nhưng, tôi nhớ như in, bài viết “Nguyễn HoàngĐức – Nhà triết học số 1 Châu Á?” có dấu hỏi (?) ở sau cùng tít bài. Như vậy,người ta còn nghi ngờ, đặt dấu hỏi là ông có thực như vinh danh không, chứ đãkhẳng định đâu.”

ÔngĐức bảo:

“Ngay cái việc manh nha đặt dấu hỏi về tôi thì tôi cũng phải như thế nào, người tamới đặt dấu hỏi chứ. Ông có biết nhà văn Cao Hạnh - Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt không?”

“Có.Tôi chơi thân với anh ấy.”

“So với các Tổng biên tập các tạp chí Văn nghệ các tỉnh thành, ông Cao Hạnh thếnào?”

“Ôi. Ông lại bắt tôi định giá ư? Ừ thì ông Cao Hạnh cũng là một tay Tổng biên tậpcứng cựa”

“Đấy! Ông Cao Hạnh cũng phong tôi là “Nhà lý luận phê bình văn học hàng đầu thế giới”nhé. Tôi phải là người như thế nào thì một ông Tổng biên tập mà ông khen, mới phong “thánh” cho tôi chứ. Cũng như tôi phải là người như thế nào thì cỡ NguyễnĐình Chính, Nguyễn Quang Thiều, Lê Thiết Cương. Đỗ Minh Tuấn, Lương Tử Đức, vàông với nhiều người khác khen và viết bài… khen chứ”.

Nguyễn Hoàng Đức nói có lý quá. Dường như, ông là kẻ nhà văn duy nhất ở Việt Nam luôn luôn tự định giá, tự sắp đặt vị trí của mình ở làng văn, vị trí của mình trongxã hội. Kể ra thì cũng là một đức tính tự tin đáng yêu, dám sống và chịu tráchnhiệm với những gì mình sống, mình khẳng định, mình phát ngôn.

Nguyễn Hoàng Đức là một kẻ liên tài. Viết xong chuyên luận “Hành trình tâm linh nhânloại”, ông tự phong thánh cho mình là “Nhà Thần học”. Tuy vậy, ông không hề đố kị trong đời thường và văn chương. Ông hết lời ngợi ca Ngô Bảo Châu được Giảithưởng Fields về Toán học. Ông viết: “Với thành công được quốc tế công nhận, GS. Châu hoàn toàn xứng đáng là một bậc thầy củadân tộc. Vì vậy khi muốn tham vấn ông, hơn thế là một chút muốn đối thoại, thấphơn là chia sẻ hay trao đổi, chúng ta nên tự biết mình là đang kiến diện một bậcthầy. Và buộc phải tôn trọng ông như một bậc thầy. Ông là một đẳng cấp cao,không thể như cành lá bên đường ta cứ muốn hái là với. Có một phương ngôn rằng“Văn hóa cao nhất là biết chấp nhận người khác”. Đúng vậy,chấp nhận người khác là biết vượt qua đố kỵ, đặc biệt là đố kỵ hiền tài. Vì thếkhi ta biết đặt người khác và chính bản thân mình vào đúng chỗ đó là một khảnăng văn hóa.”

Thêm một triết lý mang tên NguyễnHoàng Đức, ai là thầy ông đồng nghĩa với là thầy của cả dân tộc. Ông đang coigiáo sư Ngô Bảo Châu là thầy, dù giáo sư chưa một lần dạy ông nửa chữ. NguyễnHoàng Đức cũng có những khuyết điểm, sai lầm bởi những điều cả tin, tự tin, huyễntưởng; nhưng tôi tin rằng: ngay cả những sai lầm của ông cũng là sai lầm tự tinchân thành.

Có phải Nguyễn Hoàng Đức là nhà triết học số một Châu Á? Có phải ông là nhà thần học, nhà mỹ học, nhà tiểuthuyết, nhà truyện ngắn, nhà thơ, nhà viết kịch tầm cỡ nhân loại? Có phải đặc biệt ông là “Nhà Lý luận Phê bình hàng đầu thế giới” không có đối thủ tranh luận?Người ta tự vấn như thế và mỗi người đi tìm lời đáp cho riêng mình; cũng có lúcngười này hỏi và người khác trả lời, đôi khi có kẻ cười khẩy và lảng tránh.

Mặc, Nguyễn Hoàng Đức vẫn đang vác cái thánh giá nguyên lý đi chinh phục nhân gian và mong chờ đến ngàyChúa lòng lành không bỏ rơi ông. Ông có niềm tin của ông, một niềm tin thánh thiện, ngây thơ chân thành tiếp thêm cho ông sức mạnh sục sôi viết trong nhữngtuần máu ứa đầy mình mẩy, nhưng chính cái niềm tin kỳ vĩ ấy cũng dắt ông vào cõi mộng du, và đôi khi mù màu bởi những đám mây ngũ sắc che mất đôi mắt vừamang cái nhìn soi chiếu của vĩ nhân vừa mang ánh sáng của người trần mắt thịt.Nguyễn Hoàng Đức sẽ cứ mãi mãi cô đơn và sáng tạo trong cõi mộng du của mình,và người đời vẫn cứ vừa thương, vừa giận, vừa cười ông, để rồi một ngày không buồnkhông vui, đột ngột nhận ra: Ôi! Vắng dị nhân Nguyễn Hoàng Đức thì văn chươngvà cuộc sống… mới nhạt nhẽo làm sao!

Vĩ thanh:

Tôi viết bài này xong, in ra giấy đưa tận tay Nguyễn Hoàng Đức. Ông đọc chăm chú và cầm bút sửa cả lỗi morat. Tôi im lặng trong tâm trạng chờ đón cơn nóng nẩy tức giận, trách móc hoặc lạnh lùng quẳng vào sọt rác, nhưng ông mừng ra mặt bảo:

“Chết chưa! Từ trước đến nay, chưa bao giờ ông chịu công nhận tôi. Bài này coi như lá cờ trắng báo hiệu sự thất trận, ông là người cuối cùng đầu hàng tôi và đầu hàng trong oanh liệt. Chân lý bao giờ cũng chiến thắng nhá”.

Tôi dở cười dở mếu, chỉ còn biết nói:

“Ừ, chân lý bao giờ cũng chiến thắng”.
Nguồn:Thế Giới Mới