Chủ Nhật, 11 tháng 2, 2018

Thư ngỏ: Đề nghị kiểm tra tư cách giáo sư của ông Phùng Xuân Nhạ



Tác giả: Nguyễn Tiến Dũng




———————


Đọc thêm: https://laodong.vn/su-kien-binh-luan/hai-cau-hoi-gui-bo-truong-phung-xuan-nha-590982.ldo






Thủ tướng chính phủ vừa có văn bản yêu cầu rà soát lại tư cách GS/PGS của đợt xét 2017. Tôi hoan nghênh quyết định đó. Nhưng nếu chỉ xét 2017 thôi thì có lẽ chưa đủ, mà cần xét cả những trường hợp gần đây nếu thấy có biểu hiện có vấn đề, thì mới là làm kiên quyết.


Một trong các trường hợp đó chính là ông Phùng Xuân Nhạ, tôi đề nghị hội đồng kiểm tra lại kỹ lưỡng trường hợp này. Lý do như sau:


Tra trên Scopus và Google Scholar tổng cộng chỉ có 02 bài báo của ông Nhạ đăng có trên danh mục Scopus, với tổng cộng 01 trích dẫn.


Có những điều vô cùng bất thường với hai bài đó:


1) Cả hai bài là viết chung và đăng cùng năm 2014, trên cùng một tạp chí, tên là Asian Social Science.


2) Tạp chí đó có trong danh mục Scopus trong các năm 2011-2015 nhưng từ sau 2015 bị loại đi







3) Đây là một tạp chí kiểu “nộp tiền là đăng bài”, do một công ty tư nhân for-profit lấy tên là Canadian Center of Science and Education mới thành lập từ năm 2006 tạo ra (tên như vậy nhưng là doanh nghiệp) trong phong trào “trăm hoa đua nở” (ồ ạt sinh ra các tạp chí mới trên thế giới để thỏa mãn nhu cầu đăng bài của những người không đăng được ở các tạp chí uy tín)


4) Bài của ông Nhạ có thể truy cập trên web. Tôi đọc qua thấy viết sai chính tả và ngữ pháp từ đầu đến đuôi, và bài gửi tạp chí chỉ 2-3 tháng sau đã đăng, nộp 3-400 đô la Mỹ, tỷ lệ được nhận đăng > 70%, chứng tỏ đây là một tạp chí không có biên tập và phản biện nghiêm túc.


5) Về chất lượng nội dung, nhường cho người trong ngành đánh giá cho chính xác. Nhận định của tôi (người không trong ngành) về bài của ông Nhạ mà tôi có xem là bài không có lý thuyết trong đó, giống một phân tích thống kê của một “phân tích viên” (analyst kiểu MBA) hơn là một công trình nghiên cứu khoa học của giáo sư.


Những điều tôi viết có lẽ chẳng làm thay đổi gì, nhưng các vị lãnh đạo cao cấp, ít ra là ông thủ tướng (người ra lệnh yêu cầu rà soát năm nay) và ông PTT phụ trách khoa học giáo dục nên biết thông tin này.


Trân trọng


Nguyễn Tiến Dũng

Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018

KHÍ VẬN NHÀ SẢN

Khí vận nhà Sản ngày càng u ám. Trong họ  chia năm xẻ bảy tranh giành quyền lợi, đánh nhau sứt đầu mẻ trán, đến mức cụ Tổng Chưởng- người có vai vế lớn nhất họ- dù tuổi già bóng xế vẫn phải trèo lên lưng cọp, nay Nam mai Bắc, cực khổ trăm bề chỉ mong giữ được bình ổn cả họ được nhờ. Thế nhưng, gia phong họ Sản từ năm mươi năm trước đã bị suy thoái, nên con cháu đạo đức suy đồi, ham ăn hơn ham làm, kẻ có tài thì thì cũng chết yểu, duy có mỗi cụ Tổng là còn có chút "Uy", được nhiều cháu chắt ủng hộ nên cụ quyết dùng chút hơi tàn còn lại mà "cải tổ " họ nhà.
Tiếc thay, cái đức họ nhà sản đã cùng dù cố lắm, cụ Tổng cũng chỉ "phế truất" được mấy cái thằng " trời đánh thánh đâm" lộ mặt. Việc đó, không làm cho  họ nhà Sản tươi sáng hơn, chỉ khiến những thằng "thánh đâm trời đánh" còn chưa lộ mặt kết lại với nhau, còn lôi kéo kẻ ngoài "âm mưu" chiếm quyền điều hành họ nhà sản của cụ Tổng.
Về tổng thể, các chi, nhánh con cháu họ nhà Sản đều "ăn lên làm ra", nhưng xét cho cùng là "ăn của bá tánh", chứ chẳng có tài cán gì ngoài cái việc " mua quan bán tước". Riêng chính họ thì nhà Sản thì nợ nần như chúa Chổm.
 Sau bao ngày đi Nam đi Bắc, sang Đông về Tây, cụ Tổng chưởng nhà Sản chẳng còn hy vọng nào ngoài việc phải cải " vận khí" cho họ nhà Sản. Nhớ chuyện Đinh Bộ Lĩnh, nhờ cải táng hài cốt cha ông mà sau dẹp loạn 12 sứ quân làm vua một cõi.
Cụ chuyên tâm hằng đêm khấn lạy Cao Biền. Một đêm, cụ mơ thấy Cao tiên sư hiện về báo mộng, chỉ cho Cụ khu đất Long mạch. Mừng quá, cụ liền triệu tập con cháu thân thích. Sau nhiều ngày bàn bạc, cả họ thông nhất ban hành "nghị quyết" thành lập cái nghĩa trang cho cả họ, kinh phí 1.4000 tỷ.
Số tiền chẳng phải nhỏ trong lúc túi tiền chung của cả họ thì chẳng có mấy đồng, nên Cụ đành quyết định "hy sinh "những  thằng " trời đánh thánh đâm " đã lộ mặt lấy tài sản của chúng làm " ngân sách "  xây dựng nghĩa trang họ. Cụ hô hào con cháu thực hiện phương châm " đánh một thằng mà cứu trăm thằng"!
Giờ Cụ có phần nào an tâm ra đi, dù sau cũng có "long mạch" mà nằm , cầu cho khí vận nhà Sản phục hồi thịnh vượng như xưa- cái thời loạn lạc, binh đao- 

Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2018

BẠN TÔI





Bạn bè lần lượt rớt rơi
còn dăm ba đứa chịu chơi hết mình
không tù, không tội chỉ có tình
sang hèn vinh nhục lưu linh với đời


Tóc xanh đã bạc mặn mòi
gặp nhau rượu uống mềm môi chưa về
bạn bè còn mãi đam mê
vui say trong chốn chân quê cội nguồn
quên đời toan tính thiệt hơn
ngoài da mặt giấy trong da mặt người

Đi rồi lấy nhớ ngậm ngùi
chỉ mong gặp lại còn vui hết đời
thương thầm bao đứa xa xôi
ở nơi chín suối cừ đòi về thăm


Thứ Bảy, 27 tháng 1, 2018

THẦN MAY MẮN ĐÃ MỈM CƯỜI VỚI U23 UZBEKISTAN




Đã lâu lắm rồi mới được xem một trận bóng hào hùng đến như vậy. Cứ như xem một bộ phim Mỹ về các cầu thủ là tù nhân phải chiến chiến đấu với các cầu thủ phát xít Đức. Ở trận đấu này, thì ông trời đúng là "phát xít" đối với các cầu thủ U23 Việt Nam và U23 Uzbekistan là những thiên thần . Sân bóng phủ đầy tuyết tưởng chừng như đó là sân bóng lơ lững giữa trời, mà các cầu thủ U23 Việt Nam chỉ là những người phàm mắt thịt.


Với cái lạnh đó, người ta chỉ có thể trùm áo ấm ở trong nhà nhất là các cầu thủ Việt Nam chưa một lần được cọ xát , nói chi đến việc phải phơi mình trong bộ đồ mong manh. Thế nhưng, các chàng trai U23 Việt Nam đã ngâm mình suốt 120 phút trong hầm băng tuyết và trình diễn với toàn thế giới không chỉ nghệ thuật Bóng đá Việt Nam mà cái chính là TÍnh cách Việt Nam : Kiên cường và Bất Khuất trước mọi thế lực, cho dù đó là " Ông Trời".
Thiết nghĩ, nếu trận chung kết U23 Châu Á không diễn ra tại Trung Quốc thì trong điều kiện thi đấu như thế này chắc chắn sẽ được hoãn trận đấu, không thì cũng sẽ được dời địa điểm thi đấu. Nhưng đó là Trung Quốc và các cầu thủ Việt Nam bị ép buộc phải chiến đấu trong điều kiện có thể " nguy hiểm " đến sức khỏe của mình.
Tôi thực sự khâm phục các chàng trai U23 Việt Nam và tự hào về họ. Họ đã khiến cho các Thiên thần Uzbekistan " sợ hãi" buộc phải nhiều lần phạm lỗi và nóng nảy, cáu giận.


Ba mươi giây cuối cùng của Hiệp phụ thứ 2, nếu Thần may mắn không mỉm cười với U23 Uzbekistan thì điều gì sẽ xảy ra trong loạt đá "luân lưu" ?( cho dù việc thay đổi người đổi người ở phút cuối cùng của trận đấu chứng tỏ tài năng của huấn luyện viên U23 Uzbekistan đánh đúng vào yếu huyệt khi mà sức lực của các cầu thủ U23 Việt Nam đã hoàn toàn cạn kiệt).


Bóng đá Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới với tài năng của các cầu thủ U23.
Cú đá phạt ngoài vòng 16m của Quang Hải vào góc chết khung thành Uzbekistan thật là tuyệt vời. Đó là cú sút phạt của một cầu thủ đẳng cấp quốc tế.
Cho dù trong điều kiện thời tiết thuận lợi, U23 Việt Nam có thể thua U23 Uzbekistan đi nữa, cũng không phải là điều quan trọng.
Quan trọng là nền bóng đá Việt Nam với các chàng trai U23 đã thay đổi thực sự. Một nền bóng đá có thể chơi " sòng phẳng" với bất cứ đội bóng nào của Châu Á và có thể ghi bàn chiến thắng!

Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2018

SÁU MƯƠI





Em hỏi tôi : sáu mươi tuổi anh sẽ đi đâu?
Tôi mỉm cười : Anh sẽ đến nơi em không thể đến
Em ngơ ngẩn nhìn bầu trời tư lự

Như hỏi tôi như hỏi chính mình :
- Sáu mươi tuổi em sẽ ở đâu?
Tôi bật cười:
- Sáu mươi em sẽ ở trong vùng đất lạnh!

Em quắc mắt nhìn tôi giận dữ
Mắng là tôi độc ác quá chừng
Tôi mỉm cười bảo em sao ngốc vậy
Bởi  sáu mươi đã hết đời người

Thứ Ba, 23 tháng 1, 2018

DÂN CHỦ -CỘNG HÒA VÀ NƯỚC MỸ



Hầu hết người Mỹ và khắp nơi trên thế giới hiện nay đã bị thuyết phục rằng hệ thống chính phủ của Mỹ là một nền Dân chủ, cái tên nền Cộng hòa đã bị rơi vào quên lãng và trở nên khó hiểu. Sự khác biệt giữa 2 hệ thống chính trị này là căn bản để hiểu được chủ nghĩa biệt lệ Mỹ (Americanism) và tại sao nước Mỹ lại có một lịch sử thành công nhất thế giới.


Từ Dân chủ – Democracy – có nguồn gốc từ 2 chữ tiếng Hy Lạp: Demos – người dân và Kratin – cai trị, Dân chủ có nghĩa là người dân làm chủ hay số đông cai trị. Điều này nghe thì rất hay, nhưng nếu số đông người dân muốn cướp lấy cơ sở kinh doanh, nhà cửa hay con em của một nhóm thiểu số thì sao? Quyền lực này rõ là cần phải có giới hạn. Thiếu sót của nền Dân chủ nằm ở chỗ số đông không bị kiềm chế. Trong nền Dân chủ, nếu có người thuyết phục được hơn một nửa số người dân muốn một điều gì đó, bất kể điều đó sai trái như thế nào, thì nó sẽ trở thành sự thực.
Khác với Dân chủ, từ Cộng hòa – Republic – đến từ 2 từ tiếng La-tinh: Res – điều, thứ và Pulica – của chung, công cộng. Hai từ gộp lại có nghĩa là điều của chung, trong nền Cộng hòa, điều của chung này chính là luật pháp. Một nền Cộng hòa thực sự là hình thức chính trị trong đó chính phủ bị giới hạn bởi luật và không can thiệp vào sự vụ của người dân. Những nhà lập quốc của nước Mỹ có một cơ hội kiến tạo hình thức chính phủ bắt đầu từ con số không. Họ hoàn toàn có thể lập chế độ Tập quyền, thực sự là có một số người đã muốn George Washington làm Vua. Nhưng những bài học từ lịch sử đã khiến họ lựa chọn cho người dân Mỹ một quốc gia cai trị bằng pháp luật trong một nền Cộng hòa, chứ không phải cai trị bằng số đông trong một nền Dân chủ. Tại sao lại như vậy?
Lấy ví dụ trong bối cảnh của miền Viễn Tây hoang dã: 40 chàng cao bồi đuổi một tên trộm có súng. Họ bắt được tên trộm và bỏ phiếu 40/1 để treo cổ hắn. Nền Dân chủ đã được áp dụng và chúng ta có ít hơn 1 người có thể bỏ phiếu. Bây giờ lấy cùng ví dụ này nhưng trong nền Cộng hòa, 40 cao bồi bắt được 1 tay súng. Cuộc bỏ phiếu được lập ra, kết quả 40/1 đồng ý treo cổ hắn ta. Nhưng cảnh sát trưởng đến và ông ta nói: “Các vị không thể giết ông ta, ông ta có quyền được xét xử công bằng trước một tòa án”. Do đó họ mang tên trộm về thị trấn, một Bồi thẩm đoàn từ công dân trong thị trấn được chọn ra, và họ được cho xem cả bằng chứng buộc tội cũng như lời bào chữa cho kẻ cầm súng, Bồi thẩm sẽ quyết định liệu hắn ta có bị treo cổ hay không. Quyết định của Bồi thẩm đoàn cũng không được đưa ra theo kiểu số đông quyết định. Tên trộm chỉ bị luận tội khi tất cả thành viên Bồi thẩm nói anh ta có tội, nếu không anh ta được tự do. Quyền của tay súng không do số đông chi phối, mà do pháp luật chi phối. Đây là cốt lõi của một nền Cộng hòa.
Những người nói Mỹ là nền dân chủ lớn nhất thế giới chưa bao giờ hiểu rõ lịch sử đất nước này. Thậm chí rất nhiều người Mỹ ngày nay sẽ ngạc nhiên khi biết rằng từ “Dân chủ – Democracy” không hề xuất hiện trong Tuyên ngôn Độc lập hoặc Hiến pháp liên bang Hoa Kỳ, hoặc trong bất kỳ hiến pháp của toàn bộ 50 bang. Những nhà lập quốc đã làm mọi thứ họ có thể để người Mỹ không tồn tại một nền Dân chủ. James Maddison, người được biết đến như là “cha đẻ” của Hiến Pháp Mỹ đã viết trong bài viết số 10 của cuốn Liên Bang Thư Tập (The Federalist Papers: “… các nền Dân chủ đều đã tồn tại trong những tình cảnh hỗn loạn và bất hòa, đã được phát hiện là không phù hợp với an toàn cá nhân hay quyền tư hữu và nhìn chung đều chết yểu trong những cảnh tượng bạo lực tại thời điểm cái chết của nó”.
Alexander Hamilton đồng ý với quan sát này và ông khẳng định:
“Chúng ta là chính phủ Cộng hòa. Tự do thực sự không bao giờ được tìm thấy trong chế độ chuyên quyền hay trong sự cực đoan của một nền Dân chủ”.
Samuel Adams, một người ký tên trong Tuyên ngôn Độc lập nói: “Nền Dân chủ không bao giờ tồn tại lâu dài. Nó sẽ tự phí phạm, kiệt quệ và tự giết chính mình”. Những nhà khai quốc này có lý do khi xem lại quá khứ để nhìn vào cái xưng danh nền Dân chủ với một thái độ ghẻ lạnh. Bởi họ biết những nền Dân chủ sớm của Hy Lạp đã tạo ra những chính phủ với quy mô thừa thãi không thể tưởng tượng được. Trong tất cả các trường hợp, các chính phủ này đều tiêu vong cùng với cướp bóc, hỗn loạn, vô chính phủ và cuối cùng là sinh ra một chế độ độc quyền của thiểu số. Trong thời gian đó tại thành Athen, có một chính khách tên là Solon, người đã vận động tạo ra một cơ quan pháp luật cố định, không bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng hoang đường bất chợt của số đông. Trong khi Hy Lạp không bao giờ chọn dùng lời khuyên khôn ngoan đó, người La Mã đã học theo. Dựa theo ý tưởng của Solon, họ tạo ra 12 Cột trụ của Luật pháp La Mã và theo đó xây dựng một chính phủ Cộng hòa với quyền lực giới hạn và không can thiệp vào quyền tự do của cá nhân.


Nhà nước La Mã từng xây dựng được một nền Cộng hòa thịnh vượng.
Khi chính phủ giới hạn, người dân được tự do sản xuất với đảm bảo rằng họ được quyền giữ lại thành quả lao động của mình. Chẳng mấy chốc, La Mã trở nên giàu có và là sự ganh tị của thế giới. Nhưng qua thời gian, trong sự giàu sang của mình người La Mã lại quên mất cái giá của việc đảm bảo tự do do là gì, họ quên mất căn bản của tự do là phải giữ cho chính phủ ở một mức độ giới hạn phù hợp. Khi quyền lực của chính phủ càng lớn, tự do cá nhân càng thu hẹp. Khi người La Mã không đề phòng, những chính trị gia thèm khát quyền lực bắt đầu mở rộng vai trò của họ được quy định trong Hiến pháp La Mã. Một số người phát hiện ra rằng họ có thể bầu cho những chính trị gia để dùng quyền lực nhà nước để lấy tài sản từ người này chia cho người khác. Trợ cấp nông nghiệp được đưa ra, tiếp sau là các chương trình trợ cấp nhà ở và phúc lợi xã hội. Tăng thuế là không thể tránh được và nhà nước bắt đầu kiểm soát chặt chẽ khu vực tư nhân. Chẳng bao lâu sau những hộ sản xuất tại La Mã đã không còn đủ tiền trang trải, họ phá sản và gia nhập đội quân xin trợ cấp. Năng suất lao động sụt giảm, lương thực thiếu hụt và những băng nhóm bắt đầu tụ tập tràn ra đường phố yêu cầu chính phủ cung cấp bánh mỳ. Rất nhiều người đã đồng ý từ bỏ tự do lấy cái lợi trước mắt và cuối cùng cả hệ thống chính trị La Mã sụp đổ. La Mã đi từ một nền Cộng hòa tới Dân chủ và cuối cùng kết thúc là Tập quyền dưới chân Julius Caesar.


Chính vì thế Dân chủ cũng không phải là hình thức ổn định của một chính phủ, nó là sự chuyển tiếp lâu dài từ chính phủ giới hạn tới sự toàn trị của những kẻ độc tài tập quyền. Hiểu biết được điều này, người dân nước Mỹ chỉ có hai sự lựa chọn: Bảo vệ nền Cộng hòa hay cuối cùng sẽ phải sống dưới sự chuyên quyền của những kẻ đầu sỏ chính trị.


Nhật Minh/TrithucVN

Nhà văn và con đĩ










Chu Mộng Long: Chuyện thật. Một cuộc chat chit với người tự xưng là “con đĩ”. Xin được tường thuật lại thay cho trả nợ một yêu cầu giản dị của một con người bị đời xem là “con đĩ”.
Đêm qua có một ả gõ cửa Chu gia:
– Anh ơi…
Khi đang đọc hay viết trực tiếp trên FB, những cách gõ cửa như vậy thường hiện ra trong inbox. Quen biết thì tôi chat, lạ thì nhiều khi bỏ mặc, vì có lúc 2, 3 ô inbox hiện ra cùng lúc. Lần này liếc qua thấy dòng chữ “anh ơi…” hiện ra nhiều lần, có vẻ tha thiết và ngọt ngào như bưởi đường. Bưởi em ngọt thì cam anh cũng nỏ ai bì. Đành dừng viết, chat vài câu với em nó:
– Chào em… Rất tiếc là anh không nhiều thời gian để chat dài đâu đấy.
– Em biết anh đang bận chuyện mấy nhà văn. Em hỏi ngắn thôi – Nói vậy nhưng ả mừng quá, chộp lấy cơ hội và viết dài cả tràng – Em dốt văn nhưng đọc được hết những điều anh đã viết. Lẽ nào anh dành tâm sức cho nhà văn mà không dành được chút gì cho chúng em?
– Chúng em nào vậy? – Tôi trả lời nhanh.
– Không giấu gì anh, chúng em là những con đĩ – Bên kia trả lời thẳng ruột ngựa.
Tôi ngập ngừng một lát rồi trả lời:
– Con đĩ thì quan tâm đến chuyện nhà văn làm gì?
Phải thừa nhận tốc độ inbox của ả cực nhanh. Miệng mồm gái đĩ có khác:
– Nhà văn lớn thường quan tâm đến gái đĩ thì gái đĩ lớn cũng phải quan tâm đến nhà văn chứ ạ?
Tôi cũng hỏi nhanh:
– Có gái đĩ lớn và gái đĩ nhỏ nữa sao?
– Sao lại không? – Enter một câu, tôi chưa kịp trả lời, ả đã enter câu tiếp – Em tưởng anh phân biệt được nhà văn lớn và nhà văn nhỏ thì cũng phải phân biệt được gái đĩ lớn và gái đĩ nhỏ chứ ạ?
Tôi đáp:
– Nhà văn lớn xem chuyện bán nước cầu vinh là nhục. Nhà văn nhỏ, tức đê tiện, xem chuyện bán nước cầu vinh là vinh…
– Gái đĩ cũng vậy anh à – Ả tiếp lời ngay – Gái đĩ lớn xem chuyện bán trôn nuôi miệng là nhục. Gái đĩ nhỏ, tức đê tiện, xem chuyện bán trôn nuôi cả họ là vinh. Nhưng thưa anh, gái đĩ dẫu đê tiện cũng biết xấu hổ che mặt, che thân khi bị bắt. Còn nhà văn đê tiện thì lúc nào cũng tự hào phơi trần cái mặt, leo lẻo cái mồm trước công luận khi bị phát hiện… làm bậy.
Hay quá! Tôi từng nói chuyện với cả ngàn trí thức, lớn có nhỏ có, chưa bao giờ có cuộc chat thú vị như thế này. Tôi tiếp lời:
– Nguyễn Duy viết: Điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng/ Điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn. Tưởng hay nhưng chưa hay. Ông ấy hạ nhục bọn nhà văn đê tiện nhưng vẫn coi thường gái đĩ. Nay không ngờ chính gái đĩ đã khai sáng cho anh biết tầm cao thấp và nỗi vinh nhục ở đời.
Nàng chat tiếp:
– Gái đĩ lớn khi bị hiếp luôn thấy nhục nên chống trả quyết liệt. Gái đĩ đê tiện khi bị hiếp thường sung sướng ngửa lồw (xin lỗi anh em phải dùng chữ Buồi Hiền) cho hiếp thỏa thuê. Cho nên, anh đừng quá bận tâm khi thấy bọn nhà văn đê tiện vểnh mồm ngợi ca giặc cướp là anh hùng hảo hán. Em dám chắc với anh, cái đám nữ nhà văn rửng mỡ ấy đang mơ thổi kèn của cái thằng Thoát Hoan, nên chúng mới miêu tả thằng chả cứ như hotboy vậy!
Chat đến đây thì tôi thấy kinh quá, bèn kết thúc cho nhanh:
– Tóm lại là em cần gì ở anh? Anh không nhiều thời gian, cũng không nhiều tiền…
Ả cũng trả lời nhanh:
– Em không thuộc loại gái đĩ đê tiện moi tiền của anh đâu. Chỉ xin anh bỏ chút thời gian cho chúng em. Anh hãy viết một bài đòi sự công bằng cho gái đĩ. Rằng người ta hợp pháp hóa cho bọn nhà văn đê tiện hoạt động công khai, trong khi lại cấm triệt để tất cả các loại gái đĩ chúng em, bất luận là gái đĩ lớn hay gái đĩ nhỏ. Có bất công không?
Tôi nói, tôi hèn, tôi không dám viết ra điều yêu cầu giản dị nhưng rất nhạy cảm ấy. Nhưng tôi sẽ kể lại cuộc chat chit hiếm có này cho thiên hạ nghe.


Chu Mộng Long

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

Diễn.






Lưu Trọng Văn


Một đất nước mà đi đâu, ở đâu cũng thấy con người diễn thì đất nước ấy đang bị hủy diệt bởi sự dối trá.
Gã không muốn và cảm thấy ê chề xấu hổ nếu đất nước của gã là một Sân khấu vĩ đại với chỉ các màn diễn.

Gã không muốn và cảm thấy tận cùng đớn đau khi những đứa trẻ của đất nước gã lớn lên chỉ thấy sự diễn dối trá để rồi tin đó là thật, đến khi thấy sự thật, bộ mặt thật thì gào lên phản ứng bảo đó là sự dối trá chứ không phải sự thật.
Có nhiều ông quan, ông chúa của đất nước gã trước ống kính diễn bộ mặt đau khổ khi gặp kẻ bần hàn nhưng liền sau đó tưng bừng nâng ly cùng nhồm nhoàm sơn hào hải vị với các quan địa phương nơi có những kẻ bần hàn ấy.
Một nhà báo ở một tờ báo lớn viết chân dung một thượng thư nổi tiếng bình...dị, rằng ngài thượng thư chủ động tiếp nhà báo tại quán vỉa hè. Nhà báo xúc động khi ngài thượng thư kia kêu nóng, tuột chân ra khỏi đôi giầy mòn gót, một chiếc tất rách lòi ngón chân cái của ngài.
Gã bật cười vì sự ngây ngô đến... ngớ ngẩn của nhà báo kia vì gã thừa biết ngài thượng thư này ăn chơi thế nào và liên quan thế nào tới các doanh nhân bị lên thớt.
Một tối, lâu rồi gã nhận cú điện thoại của một nàng, lúc ấy nàng đang giữ một vị trí cao tại QH và bây giờ nàng đang là một trong ba người đàn bà quyền uy của hệ thống. Nàng khen một quan thượng thư rất xông xáo, nơi nào thiên tai, lũ lụt đếu có mặt. Gã cười bảo, ông ta diễn đấy, em ơi! Gã kể cho nàng nghe, cánh truyền hình khi đi theo ngài ấy, lúc nào ống kính chĩa về ngài, ngài bèn xắn quần lội bùn, mặt co rúm lại đau khổ trước thiên tai, mất mát của người dân.
Sau đó?
Tiệc tùng.
Hãy tưởng tượng đi các bạn của gã, nếu không bị ra tòa thì ngài phó chủ tịch tỉnh Trịnh Xuân Thanh có thể lúc này đang trên diễn đàn của tỉnh thuyết giảng về đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ nhân dân, về tình thương dân. Ngài sẽ to giọng lên án kẻ nào tham nhũng, ăn cắp của dân...
Diễn, và diễn. Đau khổ là các diễn viên đại tài đó diễn giỏi đến mức con cái họ cứ tin là thật và khi bố mình ra toà rồi vẫn đau đớn khóc thảm thương vì cho rằng bố mình bị oan.
Diễn.
Bao giờ ở đất nước của gã có một Đạo luật cấm diễn?

Thứ Tư, 17 tháng 1, 2018

THỜI TIẾT LÀNG VĂN...



TRẦN ĐỨC TIẾN


Như thường lệ, thời tiết làng văn vào dịp cuối năm lại trở nên khắc nghiệt. Năm nay đặc biệt khắc nghiệt. Những cơn bão hình thành chủ yếu từ hai loại áp thấp: giải thưởng và kết nạp hội viên. Có cơn mang yếu tố nước ngoài (Hội Nhà văn Hà Nội). Có cơn gây nguy cơ chết người (Hội Nhà văn Sài Gòn). Thật đau lòng khi viết dòng này. Ở Hội Nhà văn trung ương thì… “mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh”, nhưng không hẳn đã đảm bảo cho sự bùng nổ sẽ không xảy ra, vì cho đến giờ này vẫn chưa công bố chính thức danh sách hội viên mới và tác phẩm đăng quang giải năm nay.

Nguyên nhân của những sôi sục bất ổn đó, nghĩ cho cùng, cũng chỉ vì cái danh hão.

Nghề văn có cao quý không? Có. Rất cao quý. Nhưng những nghề nghiệp lương thiện khác trong xã hội cũng cao quý không kém đâu ạ. Mình chúa ghét mấy tên nhà văn khụng khiệng, hoang tưởng, tự vơ véo cho mình những thiên chức cao siêu này nọ. Giá trị thực của con người không phải ở những cái nhãn mác vớ vẩn, mà tùy thuộc vào chất lượng công việc của anh ta. Lái xe hàng nghìn cây số an toàn, nấu được bữa cơm ngon cho chồng cho con, hoàn toàn không thua kém việc viết ra những trang văn hay. Tết năm nào mình đã từng kêu lên trong một bài báo: thật bất công, khi có những chiếc bánh chưng ngon lành bị mua bằng tiền nhuận bút của những bài thơ dở.

Thế mà các loại giải thưởng văn chương to nhỏ, cái thẻ nhà văn, cái danh hội viên hội nhà văn, vẫn tiếp tục làm cho nhiều kẻ chới với lên bờ xuống ruộng. Liệu có mấy ai trong số đó đủ tỉnh táo, đủ cảnh giác để vẩn lên nỗi nghi hoặc: mỗi giải thưởng có thể sẽ dìm anh sâu thêm một chút vào giấc ngủ, và giờ phút được ông chủ tịch hội trao cho cái thẻ nhà văn, chưa biết chừng cũng chính là giờ phút cáo chung cho cả sự nghiệp viết lách?

Một lần, cũng vào dịp kết nạp hội viên, mình đang ở Hà Nội. 4 giờ sáng. Chuông điện thoại réo. Choàng dậy nghe. Đầu dây bên kia, giọng phụ nữ não nùng: “Chiều qua em đến khách sạn tìm anh nhưng không gặp. Em biết sáng nay bỏ phiếu. Năm nay mà em không được thì không còn mặt mũi nào nhìn các con các cháu nữa anh ơi. Anh làm ơn làm phúc…”. Mình rất kém khả năng chịu đựng nước mắt phụ nữ (dù chỉ nghe chứ không nhìn), bèn gạt đi: “Thôi thôi thôi thôi! Chị khỏi phải nói thêm nửa câu. Tôi chắc chắn sẽ bỏ cho chị một phiếu”.
Đặt máy xuống. Ngồi thần ra hồi lâu. Tuổi đã cao, “thi” đã trượt nhiều lần, bẽ bàng ê chề quá đủ, giờ phải viện cả con cả cháu ra nữa, thì có họa là gỗ đá mình mới đủ gan từ chối!

Thú thật là cho đến hôm nay, nhiều năm đã qua, mình vẫn chưa biết mặt người mẹ, người bà thi sĩ ấy. Chỉ biết bà ở Hà Nội, và ngoài chuyện làm thơ, bà còn có trình độ chuyên môn rất cao để hành một cái nghề rất đáng kính trọng khác. Cái năm với những cú điện thoại đáng nhớ nọ (chắc chắn không chỉ gọi cho riêng mình), bà đã trở thành hội viên Hội Nhà văn VN. Nhưng cũng bắt đầu từ đó, tịnh không thấy thơ bà đăng báo hay in sách nữa.

Hỡi ơi! Danh hão! Danh hão! Liệu còn bao nhiêu người phải tiếp tục khốn khổ vì mày?

THI NHÂN VÀ THIỀN NHÂN




Nhụy Nguyên

Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng. Còn thơ thiền chính là lúc kẻ phàm phu nhón tay vốc được linh tự nơi chân như khi vọng tưởng bỗng nhiên chừng lặng.
Daisetz Teitaro Suzuki – người cố giải mã công án trong 3 tập Thiền luận nói rằng “Thông thường thiền sư cũng là thi sĩ”. Theo ông, “văn học Thiền hưng khởi từ thời Huệ Năng (638 – 713) và nay còn giữ đủ, vẫn đáng cho các nhà thông thái và người tìm chân lí bỏ công nghiên cứu”. Có khoảng 1.750 công án mà Thiền giả thường tham cứu như một hấp hực của hậu nhân học Phật. Công án thuộc hàng khó giải nhất có nội dung: “Ý chỉ của Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn sang Tàu là gì?” Riêng luận về cuộc Đông du của Tổ này, Suzuki đã dẫn ra nhiều lời giải của các thiền sư dưới dạng gần như thơ, ví như hai câu của Đại Đồng Tế đậm đầy thi hứng:

Ta nghe gió rì rào qua khóm
Biết bao ngàn ngọn trúc đong đưa.

Ở Nhật, nhiều thiền sư sáng tác thơ haiku. Thơ haiku là sản phẩm của tâm thiền, là thơ thiền đúng nghĩa. Suzuki thử dẫn bài thơ của Basho: “Một vũng lầy hiu hắt/ Một con ếch nhảy vào/ Và tiếng nước; ôi chao!”; và luận: “Đấy là cái tiếng thức tỉnh đạo lý của Phật giáo Thiền tông. Kinh nghiệm tự nó không thể tỏ bày bằng cách khác, thế nên bài thơ hài cú chỉ mô tả cơ duyên, không tâm tình, không biện giải”. Suzuki nhận xét chuẩn xác hồn cốt của thể loại haiku; đáng lưu ý là mấy chữ “không tâm tình, không biện giải”. Tuy nhiên ở bài thơ này, có thể do người dịch nên nó đã rơi vào “biện giải”. “Ôi chao!” là một dạng thán từ, tiếng reo, một cảm xúc ứ trào, thì chính “tâm tình”. Phật thuyết Kinh Viên Dung Thuần Khiết: “Cái không còn ý nghĩ phân biệt là cái không thể nắm bắt được. Vì sao? Bởi vì trạng thái không có ý nghĩ phân biệt, dù ngay cả tâm cũng đã không thể nắm bắt được, huống chi là những hoạt động tâm sở. Trạng thái tâm không nắm bắt được đó gọi là không thể nghĩ bàn”.

Một bài thơ khác:

Ngày ngày trên lá sen
Giọt sương rơi xuống
Nát tan hình hài

Ở đây tuyệt nhiên vắng bóng tâm tình và biện giải, nghĩa là hoàn toàn vắng cái “ngã”, cái “tôi” tác giả, chỉ có hình ảnh những giọt sương “nát tan hình hài” khi gieo xuống lá sen, trong sự cô đơn và nhẫn nhịn tuyệt vời! Hình ảnh cứ đeo bám, ám ảnh người đọc, nó khơi lòng từ bi, nó “mắc nợ” vào người đọc. Chính đó là tâm trạng của thể haiku; hay nói ngược lại, với bậc thoát lụy trần, tâm thanh tịnh mới gửi được cái vi diệu không sắc vào thể thơ kiệm lời bậc nhất này.

Có một câu chuyện thiền tường minh mối tương giao giữa thơ thiền và thiền thơ. Tiền thân của Tô Đông Pha vốn là Giới Diễn thiền sư, tu đến độ có thể tự tịch. Một hôm cùng với sư huynh Quang Huệ ngồi thiền; giữa thời, Giới Diễn bỗng khởi niệm ái sắc. Lúc xuất thiền sư huynh mới hỏi xéo “lúc nãy đệ nghĩ gì vậy”? Biết sư huynh đi guốc trong bụng, hổ thẹn quá Giới Diễn nhắm mắt tịch luôn. Quang Huệ tự vấn: “Bạn ta trong khi thiền định có niệm sắc ái, sau tất lụy về sắc; vì phiền ta mà thị tịch… lỗi ấy một phần do ở nơi ta”. Thế nên Quang Huệ cũng tịch mà đuổi theo hóa độ. Tô Đông Pha – hóa thân của sư Giới Diễn, sau này ông là nhà thơ trứ danh đời Tống. Cư sĩ Tô Đông Pha kết thân với nhiều nhà sư, trong đó có sư huynh của mình ở kiếp trước là thiền sư Phật Ấn. Một hôm để chứng tỏ công phu tu tập, ông làm một bài thơ tứ tuyệt; câu luận: Bát phong xuy bất động, (“Tám gió” tung hoành không lay động), ý nói tám ngọn gió thế gian không thể lay động được tâm ông. Tấm tắc ngâm ngợi suốt ngày, rồi họ Tô gửi lên chùa Kim Sơn cho thiền sư Phật Ấn. Sư xem xong phê dưới “đồ đánh rắm“, nhờ tiểu đồng mang trả lại. Tô Đông Pha thấp thỏm đợi chờ lời khen, ai dè…, liền nổi giận chèo thuyền bạt gió qua sông. Mới bước đến cổng chùa ông thấy dòng chữ treo sẵn: “Tám ngọn gió không lay chuyển được mi/ [Thế nhưng] một cái đánh rắm cũng đủ thổi mi sang đến bờ bên này”.

Mới hay tâm còn ngã chấp tiểu kiến, dẫu vi tế, thơ vắt ra không thể là thơ thiền, dẫu mỗi mỗi chữ đều khoác áo thiền. Đánh bóng chữ dán mác thơ thiền, đâu hay thơ thiền không dễ sinh từ trí mà chảy từ suối tâm. Cũng như nếu đem trí để soi Đạo chẳng những không thấy trời đêm ngàn sao mà dưới mặt nước (tâm) động kia vầng trăng cũng lấp lóa mờ nhòa. Xưa, sư Trí Bảo tự thấy mình dốt Đạo đã rời chùa tìm lối vượt thoát sanh tử. Cơ duyên gặp được thiền sư Đạo Huệ khai ngộ liền thốt lên chứng đạo ca:

Không nhờ gió cuốn mây trôi sạch
Đâu thấy trời xanh muôn dặm thu.

Khi thuyết pháp, Phật, Bồ tát và thiên nhân thường diễn ý thành kệ. Xuất khẩu thành kệ. Kệ ấy, ở mức độ mờ/nhòa nghĩa của ngôn ngữ, cũng xem là thơ. Bài Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông, theo tinh thần “thiền đạo”, nó là kệ nhưng bây giờ nghiễm nhiên thành một bài thơ. Kinh Thi có ba trăm bài; Bộ Hoa Nghiêm kinh nguyên khởi có hơn một trăm ngàn câu kệ; Trường Bộ Kinh được Giới lạc Mai Lạc Hồng chuyển thể thơ 3 tập với 1500 trang theo thể song thất lục bát; Cuốn luận về Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna Paramita Çastra) của Bồ tát Long Thọ (tổ Thiền thứ 14 của Ấn Độ, cũng là vị tổ trong Tịnh độ tông) in ra làm 3 bản; trong đó con số ước lượng, một bản gồm hàng trăm ngàn câu kệ; Kinh Pháp Cú nhắc người đời: “Tụng trăm câu kệ vô nghĩa/ Chẳng bằng một câu Pháp cú”. Kinh này cũng được tác giả Tịnh Minh dịch thành Thi kệ pháp cú kinh. Thử tụng câu 85:

Xem trong đám nhân quần
Ít người đến bờ kia
Còn bao nhiêu người khác
Quanh quẩn tại bờ này

Nghe qua có vẻ bình dân, song ai bước vào rừng kinh điển mới thấu lý bờ này, bờ kia, bao nhiêu người, quanh quẩn… Người sáng tạo thơ thiền thường phải khắc khắc nghiền ngẫm, vật lộn cùng chữ nghĩa. Luôn luôn trong tình trạng “nghi án”; và lạ thay, lúc người ấy thả lỏng mình trở về trạng thái vô nghiệm thì thơ thiền phát lộ. Có một đệ tử của ngài Qui Sơn Linh Hựu là Linh Vân, loanh quanh bên đời mãi vẫn đường đạo mịt mù, một lần chợt thấy hoa đào mà ngộ; liền làm thơ: “Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu/ Trực chí như kim bất cảnh nghi”. Hoặc như tổ Hoàng Bá từng viết bài kệ với hai câu kết:

Không chịu trời lạnh thấu xương
Hương thơm hoa mai sao tỏa!

Thiền sư Hư Vân thuyết về thành quả hành trì của người tu đã có nhắc: “Hoa mai nở bông vào mùa đông lạnh giá chớ không nở trong tiết xuân ấm áp, tràn đầy ánh nắng hồng. Hoa tâm khai nở không phải ở nơi vui buồn, thương ghét, hay đúng sai giữa mình và người”.

Thiền quan sách tấn chép về Mông Sơn Đức Dị (thuộc dòng Thiền của Ngũ Tổ Sơn Pháp Diễn) đã trải qua quá trình ngộ đạo hết sức gian nan. Ông ôm nghi tình chữ Vô hàng chục năm không khai tỏ, có đến hai năm ròng chỉ tu ngồi. Thỉnh giáo biết bao cao nhân, một lần gặp thầy Kỉnh, “thầy hỏi: “Ai đến đây?” Đáp: “Chẳng phải ta chẳng phải người”. Thầy bảo: “Chẳng phải ta chẳng phải người, thế là cái gì?” Đáp: “Đói thì ăn mệt thì ngủ”.

Đây là tinh thần thiền đạo của những bậc đã hòa vào cảnh giới an lạc tự tại. Chúng ta nhớ đến Cư trần lạc đạo của Phật hoàng. Ý này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong cuộc hội thoại của gia đình cư sĩ cùng chứng quả Bàng Uẩn. Chồng: “Khó! Khó! Khó! Đem hạt mè để trên đỉnh cây thật khó”; Vợ: “Dễ! Dễ! Dễ! Ý Tổ sư trên trăm đầu ngọn cỏ”. Con gái Linh Chiếu: “Không khó cũng không dễ. Đói thì ăn. Mệt ngủ liền”. Hoặc như với Tế Công Hòa thượng: “Người bảo Ngài điên, Ngài chẳng điên/ Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền”. Trần Nhân Tông thấm đẫm diệu lý “tùy duyên” từ Thiền tông: Người tu đạo chân chính là “sống với mọi cơ duyên của cuộc sống trần gian này. Buổi sáng, y lặng lẽ thức dậy, vận y phục và ra ngoài làm việc. Khi muốn đi dạo, y liền đi dạo, khi muốn ngồi, y liền ngồi. Y không làm Phật, không nghĩ tưởng xa vời. Sao lại có thể thế? Cổ nhân nói, nếu bạn chuyên tâm tinh tấn cần cầu Phật quả, Phật của bạn thực tình là căn nguyên của luân hồi” (Tổ Lâm Tế). Lý này khiến rất nhiều người đời sau tưởng dễ nhảy vào, buông thả sống, khiến thân còn sống mà tâm đã bị đọa đày trong tầng tâm linh ngột ngạt, mờ mịt, bán rẻ tương lai tiêu xài vào cơn mộng lợi danh siêu thoát. Đạt đến tùy duyên là Nhìn thấu – Buông xả – Tự tại – Tùy duyên; nghĩa là hết thảy vật tài, thân quyến cho đến vọng tưởng, chấp ngã mê lầm đều không dính mắc. Cái lý này với đời chừng như ngược, với đạo là xuôi. Xuôi theo đạo ấy mới là việc khó, nhân thế mấy ai!

Mãn Giác thiền sư cũng là người sống kỹ trong Đạo và học kỹ ngón thiền của các Tổ. Bài thơ nổi tiếng của ông, hai câu đầu: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai” (Xuân đi trăm hoa rụng/ Xuân đến trăm hoa nở), ta nhớ đến Sử Quảng Phúc Đam Chương trả lời một thiền tăng tham vấn về tâm pháp của Đạt Ma: “Xuân đến, cây cối trổ hoa” (Xuân lai hoa tự phát); “Thu đến, lá lay rơi rụng” (Thu chí diệp tiên điêu). Và hai câu sau: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một cành mai”, cũng là trên tinh thần lời Phật (thuyết kệ trong kinh Lăng Nghiêm): “Vi vi, thì không sinh, không diệt – Chẳng thật hư hoa đốm hư không”. Hoa nở hoa tàn ấy là “hoa đốm hư không”, do vọng tưởng hư diệu tạo thành, thực tế nhành mai là sự bất diệt của vạn pháp, là tự tánh trọn đủ hạt giống trong khiết; mai rồi lại nở vào những xuân sau.

Đức Thích Ca bảo “chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai”. Kinh điển chính là Phật. Người Tu mức cao sẽ thấy những câu kinh ấy vốn sẵn nơi chân tâm. Bậc triệt ngộ thì cả Đại tạng kinh cũng phơi ra như báu vật bao nhiêu kiếp vùi trong vọng tưởng chấp trước. Kinh Lăng Nghiêm: “Nếu chuyển được vật, tức đồng Như Lai”. Tu lại để tạp niệm làm chủ tức vật chuyển mình, vật lôi kéo, giật dây thành rối. Chân như tức tâm chuyển cảnh. Lúc đó muôn hoa nước trời cùng vươn nở chào mừng nói chi vạn vật nhân gian. Mối tương ưng giữa Phật và chúng sanh, là chân tâm. Thủ kiến dễ khiến người đời “giương án” cho những thiền sư làm thơ (và pháp sư thuyết pháp) – điều mà xưa nay trong giới chân tu chưa hề bỏ ra nửa lời. Thiền nhân hoát ngộ đề thơ chính là thi nhân, còn thi nhân một phen lạc thăng hoa tiết ra thơ thiền cũng chưa thể gọi họ là thiền nhân được; dẫu Thơ và Thiền muốn viên mãn phải đánh đổi danh lợi giữ tâm ý sáng trưng như kẻ phong lưu bước trên băng mỏng vậy.