Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

Trí thức salon?




 Lê Thị Liên Hoan 



.Ngày hôm nay, tôi thấy ở ta, lại có một loại thành phần mới, mang tên mới là trí thức salon.

.Họ salon ở kiểu gì? Kiểu mới nhìn qua thì hiện đại. Họ bằng cấp đầy mình, và kinh ngạc thay đều là bằng thật. Rồi sao nữa? Rồi họ dùng bằng cấp này làm cơ sở để… lấy thêm bằng cấp kia.————



  

Nghĩa là, họ học suốt đời, và suốt đời tham gia các hội nghị này, các diễn đàn nọ, các khóa chuyên sâu khác. Ở đâu? Ở mọi nơi. Nhưng phần lớn ở… Tây mới “khiếp”.

Trong các hội thảo như thế, họ cũng chẳng phát biểu gì, mặc dù ai nói họ nghe cũng hiểu. Rồi họ đi từ hội thảo trở về, lập tức bắt tay vào công việc chuẩn bị cho hội thảo khác, vậy thôi. Họ trở thành một loại salon có học.

Cho nên, tôi mới giật mình khi thống kê, biết rằng ở ta có rất nhiều tiến sĩ. Nhưng những gì mà các tiến sĩ ấy làm lại khó biết vô cùng. Bởi lý do chúng vô cùng ít ỏi.




Hoá ra, nếu như có con đà điểu rúc đầu vào cát, thì cũng có con người rúc đầu vào khoa học, để làm một thứ duy nhất: trốn tránh cuộc đời.

Sẽ có người nói, trốn tránh không phải thói quen của người trí thức. Vâng, khi người ta trí thức thực sự. Còn ở đây, như tôi đã nói, người ta trí thức salon. Người ta có bằng cấp, thì với một niềm vui duy nhất là cho người khác ngắm và nhân thể tự ngắm mình.

Xã hội có biết điều này không? Xã hội ở bên Tây thì biết. Đã “chìm đắm” trong đại dương khoa học từ lâu, bên ấy người ta rất quen với các loại… bèo!

Chẳng hạn, nếu bạn ở các nước đó, bạn xưng là tiến sĩ, thì thiên hạ sẽ nhìn bạn với hai con mắt: một là kính nể, hai là nghi ngờ. Lý do họ nghi ngờ? Vì công chúng thừa biết những anh tốt nghiệp đại học không việc làm, chả có cách nào khác tiếp tục học thêm, và rồi cũng có đủ thứ bằng này nọ.

Chính vì vậy, ở bên ấy, khi phỏng vấn, người ta không thích đề cập đến bằng cấp, mà đến những việc đã làm. Đã từ lâu, những xã hội văn minh hiểu rằng khoa học cần phải được ứng dụng. Mất tính ứng dụng, kiến thức chỉ còn là một mớ trưng bày, và để… ngồi lên.

Nhưng trong xã hội ta, nơi khoa học chưa phát triển ở bậc cao, ánh hào quang của nó vẫn còn lấp lánh, thì vẫn nhiều anh nhanh chóng lợi dụng điều này.

Các anh đó tranh thủ biến kiến thức thành một thứ đệm hoặc chăn bông êm ái. Để ngủ ngon và để khỏi làm gì. Từ lúc nào, họ biến mình thành một thứ salon thực sự, họ vừa là ghế vừa là kẻ… ngự lên.

Chả lẽ, không ai phát hiện ra chuyện đó? Có chứ. Nhưng tâm lý người ta hay tha thứ. Bởi salon có nhiều kiểu không tiện lắm, nhưng vẫn cần có để cho sang!

-http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tri_thuc_salon.html

Từ 1-7, quan tham hạ cánh đừng mơ an toàn




Cù Tất Dũng (Ban Nội chính Trung ương)


.
——–

Ngày 1-7-2016, Bộ luật hình sự năm 2015 sẽ có hiệu lực với một số quy định mới thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước nhằm tăng cường đấu tranh chống tham nhũng, rõ nhất là việc các “quan tham” sẽ không còn được “hạ cánh an toàn”.


Trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm hai tội vào các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là: tội tham ô tài sản (theo khoản 3 và khoản 4, điều 353) và tội nhận hối lộ (theo khoản 3 và khoản 4, điều 354).

“Quan tham” sẽ 
không còn ung dung
Với điều luật đã được bổ sung thêm này, người phạm tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ nếu thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng sẽ không được áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.



Nghĩa là đối với tội phạm này, bất kỳ thời điểm nào phát hiện được tội phạm là có thể xử lý hình sự, kể cả khi người phạm tội đã về hưu, nghỉ việc.

Đây là một quy định mới, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước nhằm tăng cường đấu tranh chống tham nhũng. Thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp chỉ sau khi về hưu mới phát hiện được sai phạm.

Trước đây, người có sai phạm thường cho rằng mình đã “hạ cánh an toàn”, đến lúc về hưu mới bung tài sản ra thì không ai làm gì được mình.

Khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực, những quan tham đã “hạ cánh” đang ung dung, nhởn nhơ ngồi hưởng thụ sau khi đã tham nhũng sẽ phải giật mình, sẽ như “ngồi trên đống lửa” với nỗi lo các “tay chân” của mình tố giác hành vi tham nhũng trước đây.

Quy định này cũng sẽ làm cho những người đang muốn thực hiện hành vi tham nhũng e sợ cho tương lai sau này của mình là đến khi đang an hưởng tuổi già, khi sức yếu mà vẫn phải ra đứng trước vành móng ngựa, để rồi họ không dám nghĩ, dám làm những hành vi mà xã hội gọi là “quốc nạn”, là “giặc nội xâm”.

Nói khác đi, việc một cá nhân về hưu hay dù ở cương vị nào, cao đến mấy mà vi phạm pháp luật cũng bị trừng trị nghiêm khắc sẽ đánh động, làm thức tỉnh những người khác để ngăn họ phạm tội.

Ông Cù Tất Dũng – Ảnh: T.G.


Thu hồi tối đa tài sản tham nhũng

Trong Bộ luật hình sự 2015 cũng có điều khoản khuyến khích người phạm tội tham nhũng bị án tử hình khắc phục hậu quả, nộp lại tiền cho Nhà nước.

Điều 40, khoản 3, mục C của bộ luật này quy định: người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết án và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.

Điều luật này đã được thông qua với tỉ lệ tán thành chưa đến 70% và như vậy là có đến hơn 30% số đại biểu Quốc hội không tán thành.

Bên cạnh đó, dư luận xã hội cũng còn băn khoăn với việc những kẻ tham nhũng vẫn giữ lại được 25% số tài sản chiếm đoạt được cho người thân thụ hưởng mà vẫn không mất mạng.

Tuy nhiên, mục đích mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra trong cuộc chiến chống tham nhũng là phải xử lý nghiêm kẻ tham nhũng, đồng thời phải thu hồi tối đa tài sản tham nhũng để trả lại nguồn lực cho đất nước phát triển.

Cuộc chiến chống tham nhũng bị coi là thất bại khi không thu hồi được tài sản tham nhũng. Chúng ta không nên xem việc chống tham nhũng chỉ như một biện pháp mang tính hình sự nhằm trừng trị người phạm tội.

Nếu tử hình để mất đi hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng của Nhà nước, của nhân dân thì chi bằng chúng ta tạo cơ hội để tội phạm tham nhũng có khả năng tự cứu bản thân khỏi án tử hình.

Việc giảm bớt án tử hình cũng phù hợp với truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, phù hợp với xu thế chung của thế giới và thể hiện được rằng xã hội ta đang văn minh hơn khi biết quý mạng sống của con người, ngay cả khi người đó đã gây tội ác.

Một xã hội văn minh sẽ dẫn đến các vấn nạn như tham nhũng, hối lộ, giết người, cướp của giảm dần. Còn về 1/4 số tiền tham nhũng còn lại, liệu vợ, chồng, con cái của những kẻ tham nhũng có ung dung hưởng lạc được không khi mà người thân của họ phải trả giá bằng mức án chung thân trong các trại giam?


Khuyến khích tố giác tội phạm
Bộ luật cũng quy định những người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, nhận hối lộ có sự hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn sẽ có cơ hội giúp thoát khỏi án tử hình.

Điều này sẽ khuyến khích được người phạm tội tố giác tội phạm tham nhũng vì thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy nhiều bị can, bị cáo thực hiện hành vi tham ô tài sản và nhận hối lộ không chỉ có một mình mà theo chỉ đạo, điều hành tập thể lãnh đạo đơn vị và có cả sự chỉ đạo của lãnh đạo ở cấp cao hơn.

http://tuoitre.vn/tin/ban-doc/20160627/tu-17-quan-tham-ha-canh-dung-mo-an-toan/1125412.html

Hàng về Vĩnh Phúc ( Kiên)


Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2016

Lời kêu gọi của nhạc sĩ TCS trên đài phát thanh SG ngày 30-4-1975



0:00

Sự tích miếu Phạm Nhan


Đại Việt.

Miếu thờ Phạm Nhan nay chỉ còn lại dấu tích trên núi Thổ Cu, thôn Cầu Quan, xã Tân Dân. 


Người xưa, nhất là phụ nữ, rất sợ bị Phạm Nhan làm hại, bởi thế mà họ đã nghĩ ra không ít cách khác nhau để trừ Phạm Nhan. Nhưng Phạm Nhan là ai? Sách Công dư tiệp ký (quyển 3) của Tiến sỹ Vũ Phương Đề chép rằng:
“Miếu Phạm Nhan ở xã An Bài, huyện Đông Triều, nằm ngay bên bờ sông Thanh Lương. Tục truyền, thần của miếu này người họ Nguyễn tên là Linh. Cha của thần vốn người Quảng Đông (Trung Quốc), di cư sang nước ta, cư ngụ ở xã An Bài, lấy vợ ở đó và sinh được người con trai, đặt tên là Bá Linh. Lớn lên, Bá Linh lại về Trung Quốc, thi đỗ Tiến sỹ và làm quan cho nhà Nguyên. Y có biết chút ít phép thuật phù thủy nên được phép vào trong cung đình để chữa bệnh. Nào dè vào đó, y thông dâm với bọn cung nữ, bị khép vào tội phải chết. Khi y sắp sửa bị đem ra hành hình thì nhà Nguyên xua quân sang xâm lược nước ta, y liền xin được làm kẻ hướng đạo cho quân Nguyên để lập công chuộc tội. Nhà Nguyên chấp thuận. Nhưng rồi vì bị đại bại ở trận Bạch Đằng, Bá Linh cùng bọn Ô Mã Nhi... đều bị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn bắt sống. Bá Linh lại một lần nữa, bị khép vào tội phải hành hình. Lần này, y xin được về chết ở quê mẹ, vì thế Hưng Đạo Đại Vương cho đem hắn về chém tại xã An Bài rồi quăng xác xuống sông. Bấy giờ, có hai người đánh cá ở khúc sông này, kéo lưới lên, chẳng được cá mà được... cái đầu của Bá Linh, hoảng sợ, họ bèn cùng nhau khấn thầm rằng:
Nếu hồn ông có thiêng thì xin phù hộ cho chúng tôi đánh được nhiều cá, xong, chúng tôi sẽ xin mai táng hẳn hoi.
Họ vừa khấn xong thì lạ thay, kéo mẻ lưới nào cũng được rất nhiều cá, vì thế họ bèn đem đầu Bá Linh lên táng trên bờ sông. Từ đấy về sau, mỗi lần ra chợ bán cá, đi qua chỗ mai táng đầu Bá Linh, họ đều chỉ tay vào đó mà nói:
Mời bác cùng đi chơi cho vui.
Riết rồi thành thói quen, hồn ma Bá Linh cùng nhập bọn mà đi với họ, người đương thời gọi đó l�Tam hồn. Tam hồn phải thói hay chòng ghẹo phụ nữ. Hễ thích chòng ghẹo ai, họ chỉ cần đưa tay về phía người đó rồi gọi tên Bá Linh, người ấy nhất định sẽ bị ma ám ngay, vì thế, người trong vùng ấy phải lập miếu để thờ. Lại nói chuyện Bá Linh, trước khi bị đem chém, hắn có cầu xin Hưng Đạo Đại Vương rằng:
Tôi nay đã bị tội chém đầu, vậy trước khi chết, xin cho tôi được ăn một món lạ nào đó.
Hưng Đạo Đại Vương cả giận, mắng rằng:
Cho mày ăn máu của đàn bà đẻ ấy.
Bởi thế mà sau khi chết, hồn ma của y thường đi khắp nơi để tìm hút máu đàn bà, ai mắc phải đều bị bệnh liên miên, thuốc thang mấy cũng vô ích. Bệnh ấy gọi là bệnh Phạm Nhan. Ai mà sớm đoán biết được rằng mình mắc bệnh Phạm Nhan thì phải tới ngay đền thờ Vạn Kiếp (hay đền thờ Kiếp Bạc, nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn), đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ có sẵn ở đó, về nhà, thừa lúc người bệnh không để ý, lấy trải cho họ nằm, đồng thời xin thêm một ít chân nhang đem đốt thành than và hòa vào nước cho uống thì mọi chứng bệnh đều tiêu tan hết. Việc này nếu để bệnh nhân biết là không hiệu nghiệm. Điều đáng nói là chỉ những ai thực sự bị bệnh Phạm Nhan, dùng thuốc này mới nhân đó mà được khỏi hết mọi bệnh, bằng không thì chẳng ích gì. Thiên hạ tin như vậy nên cứ lũ lượt kéo nhau đến đó để đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ, chẳng lúc nào ngơi. Có người đem chiếu về, chưa kịp thay mà người bệnh đã khỏi. Đại để, sự ứng nghiệm là như thế”.
Lời bàn: Trong chỗ lênh đênh sông nước dặm dài, duyên kỳ ngộ giữa các thương nhân với những người con gái khác xứ cũng là sự thường, cho nên, Bá Linh có mặt giữa cõi đời cũng chẳng có gì là lạ cả. Giận thay, Bá Linh lại là… Bá Linh, trên thì đắc tội với đấng cao xanh, dưới thì đại ác với đất tổ của mẹ, sống một đời mà bị khinh ghét những muôn đời!
Để cứu lấy mạng sống của mình, kẻ thất đức thường bất chấp sinh linh của người khác. Nhưng, như Bá Linh kia, dám vì cứu lấy mạng sống của mình mà dẫn quân xâm lăng về dày xéo lên đất quê mẹ, tức là trong đại tội còn có thêm đại tội nữa, thì làm sao mà cầu được dung tha? Hắn đòi chết ở quê mẹ, tưởng thế là hay, dè đâu lại nhục đến muôn lần sự nhục.
Kẻ bi tử hình thường được ăn bữa ăn ngon cuối cùng, được nói lời trăn trối cuối cùng. Bá Linh bị chém, lòng những nghĩ rằng mình bất quá cũng chỉ là tên tử tù nên mới đòi ăn như vậy. Khốn khiếp thay! Hắn bị giết là bởi chẳng có cách trừng trị nào lớn hơn sự giết, chớ như hắn, làm sao mà có thể gọi là một tên tử tù như bao kẻ tử tù? Đấng đạo đức như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mà cũng buộc phải nói lời như ông đã nói, bởi vì có cách nói nào tương xứng với nhân cách của Bá Linh đâu. Đến món ăn khủng khiếp ấy, Bá Linh cũng không dễ để có được nên hắn lại làm càn để kiếm mà ăn.
Dân lập ra đền thờ Phạm Nhan chẳng phải để thờ Phạm Nhan mà là để nhắc nhở với muôn đời rằng, nếu không muốn sống cho đàng hoàng thì hãy coi chừng, hồn Bá Linh trong miếu Phạm Nhan còn đó, thối tha hơn mọi sự thối tha. Một mảnh chiếu cũ trong đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đủ để xua hết mọi nỗi lo sợ và bệnh tật, nếp nghĩ ấy, niềm tin ấy… đáng kính biết ngần nào.
Mỗi thời có một cách giáo dục rất khác nhau. Hương khói của ngàn xưa nào phải chỉ giản đơn là chuyện hương khói. La đà giữa những nơi thờ tự, chừng như hương khói cũng từng góp phần không nhỏ vào việc đề cao và tôn vinh cái tốt đẹp, khinh ghét và lên án cái xấu xa. Quả có vậy mà.


Nguyễn Khắc Thuần

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=78&NewsId=122577

Khế Nhật- 400k

Khế Nhật- 400k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh



GỬI CÔ NHÂN TÌNH BÉ NHỎ


Nồng Nàn Phố


GỬI CÔ NHÂN TÌNH BÉ NHỎ

Người tình của anh!
Về với chồng đi em... kệ anh ở đây với những điều sốc nổi
Về hàn gắn những vết thương cho lành, cho lên sẹo, cho bình thường trở lại
Anh đốt thuốc nhìn đời ngang trái
Nhìn mình vô dụng không che chở nổi cho em


Về làm dâu thảo và vợ hiền
Chồng em đó... vẫn là người cưới em, đeo nhẫn cho em, hôn em, đứng bên cạnh em trong tấm hình cưới
Con em đó... vẫn là cục máu đỏ em rặn ra, em nuôi bằng sữa ấm
Còn anh... chỉ là thằng đàn ông cả đời rong ruổi
Thử ướm chân mình lên dấu chân cũ người ta
Để khi nào đó mọi thứ đi qua
Anh mới nhận ra mình đang chết mòn vì thương nhớ!

Về đi người tình của anh... đừng sợ
Mọi đớn đau, nhục nhã, đớn hèn anh đã giấu kín hết rồi
Anh thẳng bàn tay lên chỉ trời
...quá phũ!
Trời nhắm tịt mắt ngủ để hai đứa mình khổ thế này
Để anh chỉ là một thằng đàn ông... biết người mình yêu sắp rơi vào tâm bão mà giả vờ say
Giả vờ bình thường như một thằng không óc
Đừng khóc em! Về thôi

Về đi em ơi
Kệ anh mang tiếng cướp vợ, cướp mẹ, cướp bình yên nhà người khác
Kệ anh mang tiếng ác
Vô tâm...

Về đi... xin lỗi em vì ngay bây giờ anh phải điếc, phải câm
Không ngăn em lại như ngày đầu ôm em và hứa với em những điều ong mật
Không chạy tới nghiêng vai cho em dựa, cho em tủi hoàn trút vạn điều được mất
Anh đớn hèn quá phải không?

Người tình ơi... về ôm con và thương chồng
Lo bữa cơm ngon cho người gọi em là vợ
Dành cho con em nụ cười và hơi thở
...nhưng chỉ có duy nhất một điều anh xin...đừng quên anh!

Riêng anh sẽ thề với trời xanh
Đời này đã quá nhiều sai trái
Chỉ duy nhất một điều anh tin là lẽ phải
Gặp và yêu em như thể máu thịt mình
Hãy tin....đó là điều đúng duy nhất, gia tài duy nhất anh có được
Nhưng anh chỉ là thằng tập xỏ chân vào dấu chân người đi trước
.... Không vừa vặn chân mình nên anh tự chết trong lặng câm

Về đi em yêu của anh! Mai trời mưa lâm thâm
Em dựa vai chồng để biết anh đang buồn hơn mưa đó
Anh đốt điếu thuốc rực đỏ
Thiêu lòng mình thành tro...
Đời anh như con đò...
Em ngồi lên rồi ra đi để chòng chành toàn sóng dữ

Về đi cho anh nhắm mắt ngủ
Giả vờ!

P/s: Những điều lãng mạn, những câu thề sâu đậm... Tất cả đều đúng và thật lòng... Nhưng có lẽ đó là thật lòng và đúng vào một khoảng khắc nào đó... Mà cuộc đời thì dài, cần chăng những khoảng khắc thoáng qua để làm đau lòng mình và người khác...

Tiểu cảnh mini(Kim giòn)

Tiểu cảnh mini(Kim giòn)- giá 200k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2016

Trang hồng (giống mới) - giá 250k

Trang hồng (giống mới) - giá 250k-ĐT 0974548883. STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh



Chưa hiểu hết cha ông thì đừng tính chuyện " soán ngôi" thơ mới



Nguyễn Trọng Bình

1. Thật buồn cười khi biết rằng hiện nay người ta đem chuyện “thơ đương đại khó hay độc giả quá khắt khe” với nó ra mà bàn tán rôm rả. Sao lại đặt vấn đề như thế nhỉ? Không phải mọi người luôn bảo nhau rằng dù muốn dù không; dù “thơ khó hay độc giả khó” gì thì “thơ vẫn sống”, vẫn “tồn tại” đó sao? Thế thì bàn chuyện này cuối cùng sẽ mang lại kết quả gì? Lẽ ra, ở chỗ này nên luận xem thơ đương đại đang “sống” ra sao, “sống” như như thế nào; “sống” với bộ phận công chúng nào; “sống” tới bao lâu; và những người làm ra nó có thể cùng “sống” với nó để lưu danh hậu thế như cha ông thời trước không? Hay là thật sự nó đang“chết trong lúc sống” như cách nói của Nam Cao trong tiểu thuyết nổi tiếng Sống mòn viết cách đây hơn nửa thế kỷ?… Những vấn đề như thế này lẽ ra phải được “mổ xẻ” thì có khi là “hợp tình hợp cảnh” hơn chăng?

Chưa hết, càng buồn cười hơn nữa khi có không ít những người làm thơ đương đại hiện nay còn “úp mở” rằng đã đến lúc làm một cuộc “thay máu” cho thơ ca kiểu như các nhà thơ Mới thế hệ 1932-1942 đã từng làm trong lịch sử thơ ca dân tộc nữa chứ? Làm gì mà phải thống thiết đến mức ảo tưởng và ngô nghê khi van nài rằng:“nên chăng độc giả hãy cho thơ đương đại cơ hội được đọc, được hiểu như thơ Mới, tới lúc đó thơ đương đại không còn khó nữa”?[1]. Trời ạ, có ai cấm cản chuyện này bao giờ đâu mà bảo “cho hay không cho”. Tuy thế, nếu chỉ dẫn ra vài trường hợp thơ đương đại viết theo lối rất tự phát hiện nay để so sánh với cả một trào lưu thơ Mới rồi yêu cầu công chúng “ban phát cho một cơ hội” thì rõ ràng chưa phải lúc nếu không muốn nói là quá ảo tưởng?!

2. Đến nay phong trào thơ Mới 1932-1942 đã trở thành quá khứ, trở thành truyền thống thơ ca của dân tộc. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết rằng để làm nên “một thời đại trong thi ca vừa đúng mười năm chẵn” này (theo cách nói của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam) thì cha ông ta đã mất đến 1000 năm để “chuẩn bị” (nếu làm tròn những con số kể từ khi chúng ta có nền văn học viết (thế kỷ X) đến thời thơ Mới – thế kỷ XX). Trong cái nhìn so sánh, nếu lấy mốc 1945 đến nay thì với khoảng trên dưới 70 năm thử hỏi những người làm thơ đương đại hiện nay đã có những bước “chuẩn bị” gì và chuẩn bị như thế nào mà đòi làm cuộc “nổi loạn” nhằm “tống tiễn thơ Mới” như kiểu các nhà thơ Mới trước đây đã tống tiễn thơ Cũ (thơ ca trung đại)? Hay nói cách khác, trong khoảng hơn nửa thế kỷ này, chúng ta đã hiểu cha ông ta chưa, hiểu như thế nào, hiểu đến mức nào… mà đòi làm cuộc “thay máu”?

Công bằng mà nói thì chúng ta có hiểu nhưng vẫn chưa hiểu hết hoặc có những chỗ hiểu nhưng hiểu rất mơ hồ hoặc có khi là vẫn không thể hiểu nổi cha ông ta thời thơ Mới đâu. Thảo nào mà chúng ta chưa kịp hiểu hết cha ông, hoặc không hiểu cha ông nên mới đưa ra những cách so sánh ấu trĩ và buồn cười thế này:

“Nếu cái tôi thơ mới chỉ dừng lại là sự khẳng định cá nhân trong nỗi cô đơn, lạc lõng giữa thế giới:“ta là một, là riêng là thứ nhất/ không có chi bè bạn nỗi cùng ta (Hy Mà Lạp Sơn – Xuân Diệu) thì cái tôi cô đơn trong thơ đương đại lại là sự khẳng định cái cô đơn ngay giữa những người thân yêu nhất:

Bố
Mặt trời nóng rực và ồn ã
Con muốn gần … lại sợ …
tan ra…
Mẹ
Mặt trăng xa
Con ngần ngại cận kề
Con
Vì sao lạc giữa
Lớn lên và sáng bằng nước mắt
Bầu trời không ngừng bão tố
Sấm, sét chớp rạch đấy…

(Những đối lập – Vi Thùy Linh)” [2]


Có thật là “cái tôi thơ Mới chỉ dừng lại” ở “sự khẳng định cá nhân trong nỗi cô đơn, lạc lõng giữa thế giới” như cách nói của tác giả đoạn trích này không? Hơn nữa, nếu lấy cái tôi thơ Mới “cô đơn lạc lõng giữa thế giới” so với cái tôi của thơ đương đại “cô đơn ngay giữa những người thân yêu nhất” (mà cô nàng “thi sĩ ái quyền” Vi Thùy Linh đang làm “đại diện”) thì cái tôi nào đáng thông cảm và chia sẻ hơn? Một đằng là lạc lỏng giữa vũ trụ khôn cùng; một đằng chỉ là sự lạc lỏng trong phạm vi của một gia đình thì liệu sự lạc lỏng nào đáng thương hơn?

Nên nhớ rằng, suy cho cùng sự ra đời của thơ Mới nói chung hay các trào lưu văn học giai đoạn 1930-1945 về sâu xa đó còn là nỗi “bức xúc” của cha ông nhằm thoát ra khỏi sự “nô lệ văn hóa” (văn hóa Trung Hoa suốt 1000 năm Bắc thuộc) bên cạnh một nỗi “bức xúc” khác đó là sự nô lệ về cương vực, lãnh thổ” (sự cay trị của thực dân Pháp). Cho nên, sự khẳng định “cái tôi” ở thơ Mới ở góc nhìn văn hóa, đó là một bước ngoặt cực kì quan trọng đối với vận mệnh dân tộc ở phương diện trình độ tư duy và nhận thức của mỗi cá nhân. Trong cái nhìn này, có thể nói các cây bút thơ đương đại chưa làm được những điều mà các nhà thơ Mới đã làm trước đó. Bằng chứng là các cây bút thơ đương đại nhìn chung vẫn viết theo lối tự phát (tôi muốn nói đến sự “tự phát” ở nghĩa rộng của từ này). Vì thế, tiếng nói của họ chưa đủ “sức nặng” để thuyết phục công chúng vì một lẽ rất đơn giản đó không phải là “tiếng nói chung của một thế hệ”. Trong khi đó, với thơ Mới tuy mỗi nhà thơ là một phong cách nhưng gần như tất cả họ đều cùng chung một “chiến tuyến” (cùng tham gia “bút chiến” với thơ Cũ), chung một mục tiêu là hướng đến việc thay đổi nhận thức nhằm “cải tạo văn hóa”; dẫn dắt dân tộc hòa nhập với những nền văn hóa khác trên con đường hòa nhập với xu hướng thế giới mở.

3. Bây giờ chúng ta thử bàn thêm một vài nét cơ bản để xem cha ông ta thời thơ Mới đã có những bước đi và chuẩn bị gì về văn hóa như thế nào trong 1000 năm để đến năm 1932 mới bắt đầu chính thức làm cuộc lật đổ “thành trì” thơ ca trung đại trước đó?

Thứ nhất, làm nên thời đại thơ Mới là những tên tuổi cụ thể như Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Kiêm, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp, Huy Thông, Đoàn Phú Tứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính… Tuy nhiên trước đó, để có được thành công của thơ Mới thì không thể không kể đến những người đã cất công “dò đường”, cất công “tiền trạm” tiêu biểu như “ông thần ngông” Tản Đà – người mà Hoài Thanh đã thành kính tri ân bằng việc rước “anh linh” về chứng giám trước khi cho “khai mạc Hội Tao Đàn thơ Mới”. Đó là nói về những người có công tham gia trực tiếp vào cuộc “nổi loạn” của thơ Mới còn như nói về những bước “chuẩn bị” sâu xa hơn nữa ở các phương diện như văn hóa, giáo dục, nghệ thuật… có lẽ khó mà kể hết ra đây những tên tuổi đã gián tiếp ít nhiều góp phần vào cuộc cuộc “nổi loạn” này. Chúng ta hãy nghe học giả Lưu Trọng Lư phát biểu về vấn đề này trong bài diễn thuyết ở Học hội Quy Nhơn năm tháng 6/1934 để hiểu rõ hơn sự thay đổi mang tính bước ngoặt về nhận thức và trình độ tư duy của cha ông ta như thế nào:

“Các cụ ta ưa màu đỏ choét, ta lại ưa màu xanh nhạt…các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta thì ta cho là mát mẻ như đứng trước một xanh đồng xanh. Cái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gụi cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…” (Dẫn lại từ Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân).

Thứ hai, nhận định về các khuynh hướng của thơ Mới, Hoài Thanh viết: “Mỗi nhà thơ Việt Nam hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”. Tôi muốn nhìn nhận vấn đề ở đây với ý nghĩa tích cực của nó đó là sự tác động, ảnh hưởng của sự giao thoa văn hóa – một thực tế đã diễn ra có tác động trực tiếp đến các nhà thơ Mới. Ở góc nhìn này, tôi cho rằng; để có thể hiểu cha ông – để hiểu, để “giải mã” những phong cách thơ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương… dứt khoát chúng ta cần phải được “trang bị” về văn hóa Pháp nhất là ở phương diện triết học. Bởi với các nước phương Tây, hầu như những trào lưu văn học của họ bao giờ cũng được “dẫn dắt” bằng một triết thuyết nào đó! Ở góc nhìn này, chúng ta cần nên thành thật với nhau là đến nay ta thật sự vẫn chưa hiểu hết những gì gọi là “thơ điên”, “thơ loạn” ở Hàn Mặc Tử, ở Chế Lan Viên….; hay chúng ta tuy cũng có nói đến “thơ tượng trưng”, nói đến “thơ siêu thực” trong phong trào thơ Mới nhưng để nói cho tường tận, cho “ra ngô ra khoai” thì hầu như vẫn là vấn đề còn đang được các nhà nghiên cứu trao đổi, bàn bạc. Đó là chưa nói, một thời gian dài chúng ta bị “ức chế” vì thơ Mới bị loại bỏ ra khỏi đời sống văn học những năm cả dân tộc tiến hành “hai cuộc chiến sống còn” để thống nhất bờ cõi. Sự “ức chế” này không đơn giản chỉ là sự “ức chế” vì không được phép đề cập, không được bàn, không được ca ngợi thơ Mới mà quan trọng hơn nó là sự “ức chế triết học”; “ức chế về quan điểm và xúc cảm thẩm mỹ” vì đường hướng cách mạng dân tộc chỉ chấp nhận duy nhất một con đường, một hướng đi chung cả về “lý luận” lẫn “thực tiễn”. Và chỉ từ khi sau đổi mới (1986), chúng ta mới bắt đầu tìm lại, xem lại, đọc lại, đánh giá lại thơ Mới cũng như những hiện tượng văn học khác mà một thời vì “hoàn cảnh” mà chúng ta coi đó là những trường hợp “phức tạp”. Thế nhưng, như đã nói với chừng ấy năm sau đổi mới, thử hỏi chúng ta liệu đã đủ thời gian để giải tỏa hết những nỗi “ức chế triết học” chưa; liệu chúng ta đã hiểu hết cha ông ta thời thơ Mới chưa? Rõ ràng, chúng ta chỉ hiểu ở một vài phương diện; hoặc có khi là vẫn chưa hiểu, không hiểu, hay hiểu rất mơ hồ… Như thế, thì liệu chúng ta làm sao đủ “vốn” để mà làm những “cuộc bạo động chữ nghĩa” hay “cách tân” gì đó?

Ngoài ra, tiện thể cũng xin nói thêm, đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa hiểu và khai thác hết cái di sản văn học nghệ thuật nói chung hay thơ ca nói riêng của cha ông ở “khu vực” mà các nhà nghiên cứu hiện nay vẫn gọi đó là “văn học đô thị miền Nam” những năm đất nước còn bị chia cắt (– một di sản văn học được đánh giá là rất phong phú và đa dạng). Trong cái nhìn cầu thị và chân thành nhất, riêng ở chỗ này chúng ta cũng lại chưa kịp hiểu hết những tâm tư, tình cảm, những trăn trở của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc trên dãy đất hình chữ S thống nhất. Một lần nữa có thể nói, chúng ta vẫn chưa kịp hiểu hết cha ông mà đã vội hát câu “ví dầu tình bậu muốn thôi/bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra” rồi!

4. Có thể nói, để làm nên phong trào thơ Mới cách đây hơn nửa thế kỷ, cha ông ta đã có những bước đi và những sự “chuẩn bị” về rất kỹ về văn hóa. Nói cách khác, cha ông ta thời thơ Mới đã hiểu rất rõ cha ông ta thời trung đại trong suốt 1000 năm và họ thấy đã đến lúc phải làm cuộc “thay máu” và thực tế là họ đã đúng và đã làm được. Cha ông ta thời thơ Mới đã hiểu rất rõ cha ông thời trung đại bằng một con mắt tinh đời luôn “nhìn xa trông rộng” với một tinh thần tự giác và rất có trách nhiệm. Trên cơ sở ấy, họ mới dám tự tin làm nên cuộc “nổi loạn” nhằm giải tỏa những nỗi “bức xúc về văn hóa” ở “địa hạt” văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng.

Còn với chúng ta ngày nay – thử hỏi những nhà thơ đương đại đã hiểu cha ông ta (thời thơ Mới) đến đâu trong khoảng trên dưới 70 năm qua (tính luôn những 41 năm bị gián đoạn từ 1945 đến 1986) mà đòi làm cuộc “soán ngôi” thơ? Thực ra, thì chúng ta vẫn đang sống, vẫn đang được sưởi ấm bằng ngọn lửa âm ỉ cháy của cha ông ta từ thời thơ Mới mà có khi ta đang cố tình tự lừa dối mình để không chịu thừa nhận đó thôi. Những cái mà chúng ta gọi là “thơ khó”, thơ “tân hình thức”, “thơ hậu hiện đại” … gì đó hiện nay thì cha ông ta thời thơ Mới đã thử nghiệm hết cả rồi. Những phát ngôn theo kiểu “tôi viết những gì thuộc về chính tôi, viết cho riêng mình tôi” thì cha ông ta đã nói rồi. Thơ của Xuân Thu Nhã tập đây này:

“Lẳng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đái đĩa mùa đi nhịp hãi hà”

Chúng ta không hiểu hoặc chưa kịp hiểu cha ông đó là một cái tội. Mặt khác, không hiểu hay chưa hiểu cha ông ở phương diện nào đó cũng tức là ta không hiểu hay chưa hiểu chính bản thân ta. Mà ta không hiểu chính ta thì làm sao làm việc có hiệu quả? Cho nên, trên thực tế có khi không khéo chúng ta cũng giống như chú khỉ Tôn Ngộ Không dù có lộn đi lộn lại trăm ngàn vòng đi nữa vẫn không thoát ra khỏi bàn tay của Phật tổ?

***

Cuộc đời vốn rất công bằng, ai có tài năng và tâm huyết nhất định cuộc đời sẽ vinh danh. Chúng ta không bi quan vào sự vận động và phát triển của thơ ca dân tộc ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Tuy nhiên, có lẽ cũng không nên quá nôn nóng nghĩ đến chuyện phải làm cuộc “soán ngôi thơ” gì đó trong lúc này. Hãy dũng cảm nhìn vào một sự thật là chúng ta vẫn còn đang nợ cha ông ta rất nhiều. Bởi những di sản cha ông để lại chúng ta vẫn chưa “xử lý”, chưa “tiêu hóa” nổi. Rồi đây chắc chắn sẽ có một cuộc “thay máu” nữa thơ ca cho dân tộc. Nhưng đó là chuyện của tương lai có thể rất gần mà cũng là rất xa (vì với những gì đang diễn ra có lẽ lịch sử đã không chọn thế hệ chúng ta hiện nay để gánh vác cái “sứ mệnh thay máu” cho thơ ca dân tộc rồi). Cho nên, theo thiển ý cá nhân, người viết cho rằng nếu thật sự có trách nhiệm với thơ, thật sự yêu và kính trọng thơ, nên chăng chúng ta cần có những bước “chuẩn bị văn hóa” (chữ dùng của nhà phê bình Nguyễn Hòa) thật tốt cho con cháu mai sau. Biết đâu khi ấy cuộc đời sẽ lại vinh danh chúng ta như một người có đã công “tiền trạm” kiểu như thi sĩ Tản Đà trước đây. Được như thế, thiết nghĩ cũng đã là may mắn lắm rồi.

Tóm lại, vấn đề ở đây không phải là chuyện“thơ khó hay độc giả khắt khe” (mà dẫu nếu có chuyện này đi chăng nữa thì đây cũng là chuyện rất nhỏ) mà vấn đề là tất cả chúng ta (cả người làm thơ và người thưởng thức thơ) đã chuẩn bị gì cho thơ, đã “thay nghén” và “nuôi dưỡng” thơ như thế nào để thơ được “sống”, được can dự vào sự tiến hóa chung của con người trong thời đại toàn cầu hóa?


Ghi chú:

[1]; [2]: Bài viết “Thơ đương đại, thơ khó hay người đọc khắt khe” của Trần Thư được chúng tôi dẫn lại từ báo Văn nghệ Trẻ số ra ngày 26/2/2012