Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

Con đỏ & Con đen.





Ảnh minh họa lấy trên Internet.


Đại Nam Quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, Saigon 1895-1896:
- Con đỏ: Con mới đẻ, con thơ dại.
- Con đen: Con ngươi, tròng đen. Mượn màu son phấn đánh lừa con đen. (Tự vị trích dẫn câu thứ 1414 trong Kiều).


Việt Nam tự điển, Hội Khai Trí Tiến Đức, Hanoi 1931:

- Con đen: Gọi các hạng dân đen: Mượn màu son phấn đánh lừa con đen (K).

Không có từ "Con đỏ".


Tự điển Việt Nam, Đào Văn Tập, Nhà sách Vĩnh Bảo-Saigon 1951:


- Con đỏ: Con không chính thức (trái với Con đen). // (xưa) như Con ở.


- Con đen: Người thường: mập mờ đánh lận con đen. // Con chính thức: con đen thì bỏ, con đỏ thì nuôi.


Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội 1967:

- Con đỏ: 1. Con mới đẻ ra. 2. Người ở gái trong xã hội cũ.

- Con đen: Kẻ khờ khạo: Mập mờ đánh lận con đen, bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi? (K).


Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, Nhà sách Khai Trí - Saigon 1970:

- Con đỏ: dt. Con mới đẻ. còn đỏ lấm lói: Vua nhân từ thương dân như con đỏ.

Không có từ "Con đen".




Tranh minh họa truyện Kiều. Ảnh Internet.


Từ điển truyện Kiều, Đào Duy Anh, NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội 1974:

- Con đen: Chỉ người dân đen, người khờ dại (liên hệ với con đỏ hay xích tử chỉ người dân nghéo khổ trần trụi). Ví dụ. Mập mờ đánh lận con đen. 839, 1414.

Từ điển Văn liệu, Long Điền Nguyễn Văn Minh - NXB Hà Nội 1999:

- Con đen: Dịch "Kiềm lê" (黎, 黔: đen. : đông đảo, nhiều người). Nghĩa rộng là những dân ngu.


Mập mờ đánh lận con đen
Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi.

(KIỀU)

Không có từ Con đỏ.


Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học - 1997:

- Con đỏ: d. 1. Trẻ mới sinh. 2. (cũ: vch.). Dân thường, không có địa vị trong xã hội (gọi theo quan niệm phong kiến, hàm ý coi là yếu ớt, cần được bảo vệ).

- Con đen: d. (cũ: vch). Dân thường, không có địa vị trong xã hội ((gọi theo quan niệm phong kiến, hàm ý coi là khờ khạo). Đánh lừa con đen.

Ngữ liệu Văn học, Đặng Đức Siêu, NXB Giáo dục - 1999:


- Con đỏ:
1. Dịch từ "xích tử" (赤子), có nghĩa trẻ con mới lọt lòng, còn đỏ hon hỏn. Trong văn chương cổ, con đỏ (xích tử) được dùng để nói về dân chúng. Sách Thượng thư Thiên Khang cáo có câu: "Nhược bảo xích tử" (Chăm sóc dân như trông nom chăm sóc con đỏ).

2. Dân chúng, dân đen. Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu một phương con đỏ(Nguyễn Đình Chiểu).


Trên đây là ý nghĩa của từ "Con đỏ", "Con đen" trong từ điển tiếng Việt qua nhiều thời kỳ, ở những địa phương, với những nghĩa khác nhau. Trong những cách giải nghĩa, tôi chú ý tới Đại Nam Quấc âm tự vị với từ "Con đen", từ "Con đen" ở đây được giải nghĩa là "Con ngươi, tròng đen", kèm theo câu Kiều thứ 1414 "Mượn màu son phấn đánh lừa con đen".

Cách giải thích trong quyển tự vị tiếng Việt xưa này khác hẳn với những cách giải thích của từ điển tiếng Việt về sau. Có một điều lý thú là cụ Huỳnh Tịnh Của cũng lấy ví dụ từ câu Kiều thứ 1414 để thuyết minh cho lý giải trong tự vị. Cụ Huynh giải thích"Con đen" là "con ngươi, tròng đen" (con mắt của người). Câu "Mượn màu son phấn đánh lừa con đen" được hiểu là "Mượn màu son phấn để đánh lừa con ngươi, con mắt" và "con ngươi, con mắt" ở đây có nghĩa ám chỉ chung "khách thường lui tới chốn làng chơi" chẳng hạn như Mã Giám Sinh, Thúc Sinh... Trong khi trong câu này, cụ Đào Duy Anh, hoặc những từ điển khác giải thích từ "Con đen" là để"chỉ người dân đen, người khờ dại". Cùng một câu của Kiều, nhưng hai cách giải thích này cho nghĩa khác nhau.


Trong quyển "Cửa sổ tri thức", (PGS, TS. Lê Trung Hoa, NXB Trẻ - 2005), đã trả lời câu hỏi "Con đen có nghĩa là gì?" trong câu Kiều 839 "Mập mờ đánh lận con đen", phần trả lời PGS. TS. Lê Trung Hoa đã trích dẫn cách giải thích từ "Con đen" trong Đại Nam Quấc âm tự vị (Con đen là con ngươi, mắt người), Từ điển truyện Kiều (Con đen chỉ dân đen, ngưới khờ dại), và Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, giải thích "Con đen" như ý của Từ điển truyện Kiều). Tôi xin tóm tắt ý chính câu trả lời của PGS. TS. Lê Trung Hoa, ông nghiêng về cách giải thích trong Đại Nam Quấc âm tự vị hơn:

- Hai từ "dân" và "con" trong "dân đen", "con đen" đều mang thanh ngang, không bị luật thơ bắt buộc phải thay từ này bằng từ kia.

- Dân đen làm gì có tiền ăn chơi sa đọa nơi lầu xanh sang trọng.

- Dân đen được dùng theo nghĩa xót thương chứ không được dùng theo nghĩa "người khờ khạo".

..........


PGS. TS. Lê Trung Hoa hoàn toàn đứng về ý kiến của cụ Huỳnh trong từ "Con đen": (cũng xin tóm tắt mấy ý chính).

- Con đứng trước một số từ chỉ sự vật sinh động như động vật: con sông, con quay, con mắt... cho nên dùng con đen để chỉ tròng đen là hữu lý.

- Theo phương thức hoán dụ - lấy bộ phận chỉ toàn thể - dùng con đen để chỉ con mắt là có thể chấp nhận được.

- Cụ Huynh sống gần thời Nguyễn Du hơn cụ Đào và cụ Hoàng nên khả năng đúng của cụ Huỳnh lớn hơn.

.........


Tóm lại , theo ý chúng tôi (PGS. TS. Lê Trung Hoa)," Con đen" trong những câu Kiều 839, 1414 không phải là "dân đen" (hoặc kẻ khờ khạo, khờ dại), mà có nghĩa là "Con mắt".


Những nghiên cứu về cuộc sống sau khi chết


Tác giả: Tara MacIsaac, Epoch Times | Dịch giả: Phương Trân




(BestDesigns/iStock)

Có lẽ khoa học sẽ không bao giờ có đủ khả năng để chứng minh một cách thật rõ ràng liệu có tồn tại thế giới bên kia hay không.

Nhưng ít ra khoa học có khả năng xác định được bao nhiêu người từng trải nghiệm về thế giới bên kia.


59% số bác sĩ tin rằng tồn tại một số hình thức của thế giới sau khi chết

Các nghiên cứu cũng cho thấy nhiều người từng trải nghiệm về thế giới bên kia trước đó họ không phải là người tin vào thần linh hay tôn giáo. Mặc dù những kinh nghiệm này là chủ quan, nhưng có một vài yếu tố của những kinh nghiệm này cho thấy đây là những hiện tượng khách quan.

Quảng cáo
Giây phút lâm chung
Tiến sĩ Erlendur Haraldsson tại Trường đại học Iceland đã khảo sát 700 nhân viên y tế trong nước Mỹ và Ấn Độ về những gì họ nhìn thấy từ bệnh nhân trong giây phút sắp lâm chung.

Gần 500 bệnh nhân bị bệnh nan y đã kể lại những kinh nghiệm tương tự nhau về việc nhận được sự trợ giúp từ thế giới bên kia.


(Katarzyna Bialasiewicz/iStock)

Các cuộc điều tra ở Bắc Mỹ và Châu Âu đã phát hiện ra có khoảng từ 10% đến 40% số người được hỏi tin rằng họ đã từng tiếp xúc với người đã khuất.
Kinh nghiệm cận tử

Mỗi năm, khoảng 200.000 người Mỹ kể lại việc trải qua kinh nghiệm cận tử (Near-death experiences: NDE). NDE thường bao gồm cảm giác hồn lìa khỏi xác, quan sát những nỗ lực cấp cứu từ góc nhìn ngoài cơ thể và nhìn thấy cảnh tượng ở không gian khác.


Theo báo cáo có khoảng 200.000 người Mỹ trải qua kinh nghiệm cận tử (NDEs) mỗi năm

Trong một cuộc khảo sát năm 2005 về các bác sĩ người Mỹ, người ta thấy rằng 59% số bác sĩ tin vào một hình thức tồn tại nào đó của thế giới sau khi chết. Đây là “tỷ lệ cao hơn nhiều so với số liệu khảo sát ở những người thuộc ngành nghề khoa học khác”, Dinesh D’Souza đã viết trong cuốn sách “Bằng chứng về sự sống sau khi chết”.
Những sự nghiên cứu về bệnh mất trí nhớ (Alzheimer) ngụ ý linh hồn có thể tồn tại

Não bệnh nhân mắc chứng mất trí nhớ Alzheimer thường suy thoái đến mức hoạt động trí tuệ bình thường dường như là điều không thể, nếu như cho rằng tâm trí chỉ đơn giản là một chức năng của não và không có linh hồn.

Tuy nhiên theo nghiên cứu của Alexander Batthyany, tiến sĩ làm việc tại Đại học Vienna, Áo, trí não của 10% trong số 227 bệnh nhân Alzheimer trở nên minh mẫn lạ thường trước khi chết.



10% trong số 227 bệnh nhân Alzheimer trở nên minh mẫn lạ thường trước khi chết.


(Arda Savaşcıoğulları/iStock)

Tiến sĩ Batthyany lưu ý rằng chỉ có một số lượng nhỏ các nhân viên y tế mà ông đã phỏng vấn về các bệnh nhân của họ đã phản hồi với khảo sát của ông, do đó nghiên cứu có một số sai sót và còn cần được tiếp tục tiến hành nhiều nghiên cứu hơn nữa.

Nhưng tuy nhiên ông vẫn tò mò với ẩn đố về hoạt động tinh thần của những bệnh nhân này có thể trở lại bằng cách nào.
Những trải nghiệm ngoài cơ thể

Trải nghiệm ngoài cơ thể (OBE) là một dạng của NDE. Hiện tượng này cho thấy linh hồn hay tâm trí có thể tồn tại tách biệt với cơ thể.

Nelson Abreu, một kỹ sư, nhà nghiên cứu OBE, và cựu thực tập tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Kỹ thuật Dị thường của Đại học Princeton, Mỹ, là một trong những tác giả của cuốn sách công bố hồi tháng 2 với tựa đề “Ý thức ngoài cơ thể: Những bằng chứng và suy ngẫm”.


(WGMBH/iStock)

Ông lưu ý trong cuốn sách rằng, nhiều khảo sát thống kê trong thế kỷ qua ở một số nước (trong đó có Hoa Kỳ, Australia và Brazil) trong bốn châu lục, đã tiết lộ rằng có hàng triệu người có trải nghiệm ngoài cơ thể (OBE).

Một ước tính thận trọng dựa trên các cuộc điều tra ước tính khoảng 70 triệu người trên toàn thế giới từng có trải nghiệm ngoài cơ thể (OBE).
Sự luân hồi

Jim Tucker, tiến sĩ tại Đại học Virginia, Mỹ, có cơ sở dữ liệu của 2.500 trường hợp trẻ em nhớ lại nhiều kiếp trước.

Trong một số trường hợp, các em nhớ lại chi tiết về cuộc sống quá khứ, chúng được xác minh trùng khớp với cuộc sống và cái chết của một người thực sự.



Jim Tucker, tiến sĩ tại Đại học Virginia, Mỹ, có cơ sở dữ liệu của 2.500 trường hợp trẻ em nhớ lại nhiều kiếp trước.


(Katarzyna Bialasiewicz/iStock)

Một ví dụ về phân tích dữ liệu của Tucker là phát hiện trong tất cả các ca chết bất thường được trẻ nhớ lại từ tiền kiếp thì có khoảng 73% rơi vào nam giới.

Điều này phù hợp với số liệu thống kê của nước Mỹ là trong số những người chết bất thường trong chu kỳ 5 năm thì có 72% là nam giới.

Để tiếp tục khám phá những bí ẩn cổ xưa và các lĩnh vực mới của khoa học, hãy theo dõi @TaraMacIsaac trên Twitter, truy cập trang Epoch Times mục Beyond S
cience trên Facebook, và đăng ký nhận bản tin Beyond Science! 

Thì ra nói chuyện cũng là một loại tu dưỡng!



Tác giả: Theo letu.life | Dịch giả: Minh Nữ

Vương Dương Minh là một nhà tư tưởng nổi tiếng đời Minh. Có một lần, ông cùng học trò ra ngoài du ngoạn. Bên đường có hai người đang cãi nhau kịch liệt. Một người mắng: “Ngươi thật không biết thiên lý là gì”. Người kia phản bác: “Ngươi mới thật là không có lương tâm”. Cậu học trò liền quay sang nói với Vương Dương Minh: “Thầy xem, họ đang giảng đạo lý kìa”. Vương Dương Minh đáp: “Không, là họ đang chửi mắng người khác”. Dùng thiên lý và lương tâm để yêu cầu bản thân mình thì mới đúng là giảng đạo lý; dùng nó để yêu cầu người khác thì chính là mắng chửi người ta.

Trong đối nhân xử thế giữa người với người, nói chuyện chính là một loại tu hành thực tế, lời nói tán dương khen ngợi cũng là một loại thiện hạnh. Chuyện thị phi thường có nguyên nhân từ cái miệng; người nói, người nghe, lại có thêm người thứ ba vô tâm bàn luận khuấy đảo thị phi, khiến sự việc xấu càng thêm xấu. Bởi vậy mới có câu: “Dao ngôn chỉ vu trí giả”, những tin đồn vô căn cứ truyền đến tai người thông minh thì không thể tiếp tục truyền được nữa.


Người với người gặp nhau đã khó, được cùng nhau tề tựu một nơi còn khó hơn, thế nên đừng vì lời nói nhất thời mà phá hỏng đi thiện duyên khó được. Ngôn ngữ vốn câu thông với cảm tình và là công cụ để truyền đạt tư tưởng. Nhưng nếu không dùng lời nói đúng mực hợp lý mà lại dùng những lời dư thừa vô bổ thì cũng sẽ dẫn đến thị phi, phiền não.

Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Socrates là một người cực kỳ giỏi diễn thuyết, ông thường dạy phương pháp diễn giảng cho người khác. Một hôm, có một cậu thanh niên đến xin ông dạy cho kỹ xảo diễn thuyết. Socrates chờ anh ta thao thao bất tuyệt một hồi, rồi mới bảo anh ta nộp gấp đôi tiền học phí. Anh ta rất ngạc nhiên hỏi Socrates lý do tại sao, Socrates trả lời: “Bởi vì ngoài việc dạy anh nói ra tôi còn phải dạy anh cách ngậm miệng nữa.” Cổ nhân dạy: “Nhất ngôn chiết tẫn bình sinh phúc”, một câu nói có thể làm hao tổn hết phúc đức một đời. Nói năng cẩn thận quả là một việc tu thân quan trọng.

Mục đích của nói chuyện là để truyền đạt cho nhau những lời chân tình thân ái. Thông thường trong khi nói chuyện, có rất nhiều ngôn từ và cách diễn đạt cần chú ý, chẳng hạn như: “Là tôi bắt hắn đến”, tại sao không nói: “Là tôi mời anh ta đến”. “Nghe tôi nói đây” thì tại sao không nói “Chúng ta trao đổi một chút nhé”. “Bạn đừng có hối hận đấy” thì tại sao không nói “Bạn không suy nghĩ thêm chút nữa sao?” “Bạn phải cẩn thận chứ” thì tại sao không nói “Có lẽ bạn nên cẩn thận một chút”. Cùng một ý nghĩa, tại sao không thêm vào những từ ngữ dễ nghe? Bằng không, không những khiến người nghe khó chịu mà còn gây ra những hiểu lầm không cần thiết.

Khi Tấn Vũ Đế mới lên ngôi không lâu, bèn xem bói xem có thể tại vị hoàng đế được bao lâu, kết quả được một quẻ có chữ “Nhất” (tức là 1). Vũ Đế vô cùng không vui, quần thần cũng sợ đến mặt mày trắng bệch, không ai dám hé răng nửa lời. Lúc này, viên quan Bùi Khải mới tiến lên và bảo: “Vi thần nghe nói, trời mà được chữ Nhất thì thanh minh trong sáng, đất mà được chữ Nhất thì an bình yên ổn. Bậc vương hầu mà được chữ Nhất thì nhân dân yêu mến ủng hộ”. Mấy lời ngắn ngủi như vậy nhưng cũng đủ khiến Vũ Đế từ buồn chuyển thành vui, quần thần trước những lời động viên thiện ý của Bùi Khải cũng vô cùng thán phục. Có thể thấy rằng, bất luận việc gì cũng không tuyệt đối. Nắm giữ nghệ thuật nói chuyện, lựa chọn thời cơ thỏa đáng thì có thể biến buồn thành vui, dở lại hóa hay!

Nước đến đường cùng thành thác nước, người đến đường cùng ắt hồi sinh!



Tác giả: Theo Letu.life | Dịch giả: Minh Nữ






Con đường nhân sinh không thể mãi mãi bằng phẳng, trên con đường ấy rất có thể bạn sẽ gặp phải những hoàn cảnh trớ trêu không biết phải làm sao, thậm chí đưa bạn đến bước đường cùng của cuộc sống.

Đường cùng không chỉ là một khoảng cách hay một lần thử thách, mà nó còn là một bước ngoặt, một lần tỉnh ngộ và thăng hoa, nó đến để khảo nghiệm sức chịu đựng và ý chí của con người. Một lần gặp nghịch cảnh là một lần hiểu thêm nhiều điều trong cuộc sống, một lần biết dũng cảm vượt qua. Bước ra khỏi đường cùng mọi thứ liền sáng rõ. Cũng giống như: “Sơn trùng thủy phục nghi vô lộ. Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn” (Núi cùng nước tận cứ nghĩ rằng hết đường đi. Qua rặng liễu tối, tới khóm hoa tươi, hiện ra một thôn làng).

Nhân sinh tựa như chén nước, muốn trọn vẹn thật khó lắm thay! Cùng một chén nước, có người thấy nó vơi một nửa, nhưng có người lại thấy nó đầy một nửa. Nếu bạn chỉ thấy chén nước vơi một nửa có nghĩa là bạn đã bóp chết niềm vui và đang tự dằn vặt mình rồi đó. Bí quyết của niềm vui và hạnh phúc nằm ở chỗ: nhìn thấy chén nước đầy một nửa và tận hưởng một nửa chén nước mà mình đang có.


Ảnh: Letu.life



Con người có đôi mắt để nhìn thế gian vạn vật, nhìn người khác nhưng lại không thấy chính mình; có thể thấy khuyết điểm của người khác nhưng lại không thấy khuyết điểm của mình, có thể thấy lòng tham của người khác nhưng lại không thấy sự nhỏ mọn của mình, có thể thấy cái xấu xa của người khác nhưng lại không thấy cái ngu dốt của mình. Chỉ chăm chăm hướng ra bên ngoài mà không biết tự nhìn vào bên trong để tu sửa chính mình, đó là khuyết điểm lớn nhất của con người. Người thường xuyên tu dưỡng bản thân ắt có nội tâm phong phú, người như vậy gặp phải đường cùng sẽ không dễ dàng mà bi lụy suy sụp.

Nhân sinh vốn không phải một màu hồng. Ai ai cũng mong muốn cuộc sống của mình được hoàn mỹ, nhưng những chuyện không như ý lại chiếm đến tám chín phần mười. Thái độ của bạn khi đối mặt với nghịch cảnh sẽ quyết định con đường mà bạn đi và cái đích mà bạn tới. Chỉ có lạc quan vào cuộc sống, tin tưởng vào chính mình, và không quên tu dưỡng bản thân, bạn mới có thể bước qua nghịch cảnh và tiến lên phía trước. “Vật cực tất phản!” (khi sự vật đi đến cùng cực thì tất yếu sẽ phát sinh biến hóa) vốn là đạo lý của nhân sinh. Bước qua nghịch cảnh và quay đầu nhìn lại, bạn sẽ phát hiện ra rằng: nước đến đường cùng thành thác nước, người đến đường cùng ắt hồi sinh!

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

THƠ LÀ GÌ?



HẢI BẰNG - HDB




Thơ xuất hiện trước Văn
Ở Trung Hoa, những bài thơ đầu tiên trong Kinh Thi có mặt vào khoảng thế kỷ 12 Trước Tây Lịch (TTL). Bộ văn xuôi đầu tiên là bộ Thượng Thư có mặt vào khoảng thế kỷ thứ tám hoặc bẩy TTL. Có hai khuynh hướng trong thi văn là “tải đạo” tức nghệ thuật vị nhân sinh, và “duy mỹ” tức nghệ thuật vị nghệ thuật. Chủ trương duy mỹ xuất hiện trong thể “phú”, một thể (ca) ở giữa văn xuôi và thơ, xuất phát từ nước Sở. Đó là thể văn ngắn với những từ ngữ hoa mỹ đầy âm điệu du dương, thường dùng tả tâm sự, cảnh vật, và ca tụng công đức. Sở trường về thể phú là Tống Ngọc (Chiến Quốc) và Tư Mã Tương Như (Hán).


Hiện nay, có nhiều khái niệm về Thơ. Thơ thường được quan niệm là một bài văn có vần và điệu cấu trúc theo quy luật hay tự do. Ngôn ngữ của Thơ là những từ ngữ trong sáng, súc tích, và cô đọng, nên tác động của Thơ rất mãnh liệt và sâu xa, có thể tạo những chuyển biến toàn diện trong tâm tư con người. Nói chung, Thơ ra đời nhằm phục vụ nhu cầu của tâm linh con người muốn vươn tới Chân-Thiện-Mỹ, hoặc Đạo [Xem Thơ của Hàn Sơn (Đường); Vương Duy (Đường); Tô Thức (Tống)] và vì thế Thơ còn được coi như là tiếng nói của tâm linh.
Thơ xuất hiện ở khắp các nẻo đường của cuộc sống, phản ánh mọi khía cạnh đời sống của con người: vui, buồn, đau, khổ, yêu, thương, giận, ghét, ước mơ, và khát vọng, v.v. Thơ thường được coi như là cái gì đẹp -“đẹp như Thơ”. Nhưng muốn đúng là đẹp, từ và ý của Thơ phải không tầm thường, nghĩa là phải được chọn lọc. Vì vậy, có thể nói: Thơ là bức họa bằng những màu sắc chọn lọc; Thơ là bản nhạc dệt bằng những âm thanh tinh tế. Thơ giúp trí tưởng tượng người yêu Thơ bay bổng tuyệt vời tới những miền xa, đất lạ đầy kỳ hương, dị thảo, tạo bởi những lời, ý, vần, và điệu thơ được đan kết tài tình, và mang tính chất sáng tạo.


Thi Sĩ Hoa Kỳ James Russell Lowel (1819-1891) định nghĩa Thơ như là “ Một điều gì đó làm cho chúng ta tốt hơn và khôn ngoan hơn bằng cách liên tục biểu lộ những cái đẹp và sự thật mà Thương Đế đặt để trong linh hồn mọi con người.” (Something to make us better and wiser by continually revealing those types of beauty and truth which God has set in all men’s souls).
Maththew Arnold (1822-1888) viết trong Essays: “ Thơ giản dị là cách đẹp nhất, tạo ấn tượng nhất, và tác dụng rộng rãi nhất để nói mọi điều, và vì thế mà có tầm quan trọng của Thơ ”. (Poetry is simply the most beautiful, impressive and widely effective mode of saying things, and hence its importance).
T. S. Elinot (1888-1965) viết trong Tradition and the Individual Talent: “Thơ không phải là sự buông thả của cảm xúc, mà là một sự trốn thoát khỏi cảm xúc; thơ không phải là sự biểu lộ của nhân cách, mà là sự trốn thoát khỏi nhân cách. Nhưng, dĩ nhiên, chỉ những ai có nhân cách và cảm xúc mới biết ý nghĩa của trốn thoát những cảm xúc và nhân cách là cái gì.” (Poetry is not a turning loose of emotion, but an escape from emotion; it is not the expression of personality, but an escape from personality. But, of course, only those who have personality and emotion know what it means to escape from these things).
Samuel Taylor Coleridge (1772-1834) cho biết: “Thơ đối với tôi là một phần thưởng hết sức to lớn; thơ đã xoa dịu những nỗi sầu não; thơ đã làm tăng gấp bội và thanh lọc những niềm vui của tôi; thơ đã nâng niu nỗi cô đơn của tôi; và thơ đã cho tôi thói quen ao ước khám phá ra Thiện và Mỹ trong mọi điều hội ngộ và ở xung quanh tôi.“ (Poetry has been to me an exceeding great reward; it has soothed my affliction; it has multiplied and refined my enjoyments; it has endeared my solitude; and it has given me the habit of wishing to discover the Good and the Beautiful in all that meets and surrounds me).
Robert Frost (1875-1963, Address) nhận định: “ Viết câu thơ tự do thì giống như là chơi quần vợt trên sân không có lưới.” (Writing free verse is like playing tennis with the net down).
Jonathan Swift (1667-1745, Advice to a Young Poet) viết: “Câu thơ không có vần là một cơ thể không có hồn.” (Verse without rhyme is a body without a soul).
Như vậy, thơ không phải là dễ làm nếu không có hồn thơ, không biết cách gieo vần và sử dụng các loại từ. Thời xưa, Thơ đã từng được coi như là một trong bốn thú tiêu khiển “cầm, kỳ, thi, họa” dành riêng cho những lớp người phong lưu, quý phái.
Tuy nhiên, gần đây tại Hoa Kỳ, đã nổi lên khuynh hướng đại chúng hóa thi ca nhằm mục đích gieo những hạt giống thơ và nâng cấp thơ trong tâm hồn đại chúng vì thơ là một trong những phương cách hữu hiệu nhất để nâng cấp tâm hồn nhân loại cho một cuộc sống vị tha hơn. Hội Quốc Tế của các Thi Sĩ hàng năm có tổ chức đại hội vào khoảng đầu tháng Chín tại Washington, D.C. Năm 1998, có khoảng một ngàn hội viên từ khắp các nước trên thế giới đổ về họp mặt. Có đủ mọi lứa tuổi và từng lớp xã hội đã đăng đàn trình đọc và trao đổi những cảm nghĩ về thơ trong một bầu không khí thân mât, cởi mơ, bổ ích và đầy hứng thú. Điều này cho thấy Thơ là một cách giao cảm hữu hiêu nhất giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên, và giữa con người với thế giới tâm linh nhằm tạo môt hài hòa hoàn hảo nhất trong cuộc sống. .Chính trong những chiều hướng ấy, tôi muôn chia xẻ cùng quý bạn đọc vấn đề bản chất tinh thần sáng tạo trong thơ và cũng là quan điểm của tôi về Thơ.

Bản Chất Của Thơ

Bản chất của Thơ là vần và thể điệu để thơ có hình thức khác với văn xuôi và có thể ngâm nga được. Không ngâm nga được, sao gọi được là thơ? Cũng như, không ca hát được, sao gọi được là nhạc? Ngâm nga vốn là một thú vui tao nhã của người Việt. Đặc biệt tiếng Việt có năm dấu giọng: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, giúp âm điệu (tone) tiếng Việt có nhiều âm sắc (timbre), phô diễn trọn vẹn những sắc thái đa dạng của tình cảm với những tần số rung động khác nhau. Nhờ đó, Thơ Việt đã có sức truyền cảm thật mãnh liệt. Rất nhiều người dân ở thôn quê đã thuộc lòng và thường ngâm nga thơ Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Lục Vân Tiên, v.v.
Văn xuôi (prose) không đòi hỏi vần và điệu. Tuy nhiên, cũng có những bài văn viết rất khéo, khiến cho người đọc cảm thấy như có chất thơ trong đó như:
Than ôi! Một kiếp phong trần; mấy phen chìm nổi! Trời tình mù mịt; bể hận mênh mông; sợi tơ lòng theo gió bay đi; cánh hoa rụng, chọn gì đất sạch! Ta vốn nòi tình, thương người đồng điệu.
(Chu Mạnh Trinh viết về Kiều)

Cũng chính vì thiếu bản chất của Thơ, nên một số thơ như loại thơ tự do trước đây trong thập niên 1950 và 1960 ít được ưa chuộng.
Mặt khác, bản chất của Thơ còn thể hiện qua cái gọi là hồn thơ và khí thơ. Hồn thơ là sinh khí (vitality) của Thơ. Đó là một tinh tố (spiritual element) chứa đựng một chương trình (program) để con người có khả năng cảm nhận và làm Thơ. Khí thơ với mức tinh luyện của hồn thơ tạo ra một sức truyền cảm mãnh liệt phô diễn qua lời thơ, ý thơ, vần điệu thơ, và được toát ra qua giọng và điệu ngâm. Môi nhà thơ có một hồn thơ khác nhau, do đó có khí thơ khác nhau. Thật không lạ gì khi đọc những bài thơ của Nguyễn Khuyến, Dương Khue, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, v.v và tuy chung một đề tài nhưng khí thơ rất khác nhau.
Trong các loại thơ cổ như lục bát, song thất lục bát, thãt ngôn bát cú, tứ tuyệt, và ngũ ngôn v.và, khí thơ thường bị gò bó, khó phô diễn vì niêm luật và số chữ giới hạn. Trong khi đó, khi hồn thơ bừng tỉnh thì nhà thơ cần phải chụp bắt ngay những hình ảnh hoặc ý tưởng trước khi chúng tan biến đi, do đó cần phải những khung cảnh mới cho tình ý thơ được phô diễn trọn vẹn và chính xác. Chính trong chiều hướng này mà Thơ Mới đã ra đời để giải quyết nhu cầu đổi mới tư duy trong địa hạt thơ với những Nhà Thơ Mới tiên phong như Lưu Trọng Lư (1911-1991), Huy Thông (1926-1988), Nguyễn Bính (1918-1966), Hàn Mạc Tử (1912-1940), Xuân Diệu (1916-1985), Thế Lữ (1907- 1989), Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), Hữu Loan (1916- ), Tế Hanh (1921- ), Chế Lan Viên (1920-1989), Huy Cận (1919 -) và Vũ Đình Liên ( - ) v.v. Sau cùng là Thơ Tự Do: không bị quy luật cổ điển nào gò bó về vần, điệu, và số chữ .
Thế hệ hôm nay đang rất cần có những thay đổi về hình thức lẫn nội dung của Thơ, Văn, và Nhạc sao cho phù hợp với những tần số rung động cao độ trong những cảm quan của họ.Trải qua thời gian, cấu trúc các thể thơ và cách gieo vần đã có nhiều thay đổi để thích ứng với các chính lưu văn hóa của thời đại, trong đó, mỗi nhà thơ đã có những sáng tạo cho những cấu trúc thơ, cách gieo vần, và đặc biệt là tìm những nguồn cảm hứng mới trong bối cảnh mới đang diễn ra trong cuộc sống. Không lạ gì tại sao lớp trẻ hôm nay không mấy thích thú khi phải nghe những bài thơ, những khúc “nhạc vàng” của ngày hôm qua. Xã hội luôn luôn đổi mới. Mỗi thời đại có những “ước mơ” riêng của thời đại đó. Thơ cũng như văn và nhạc, thiếu tinh thân sáng tạo để đáp ứng những nhu cầu tinh thần của thời đại, sẽ trở thành những món ăn nhàm chán, buồn tẻ, và người đọc sẽ đành phải xa Thơ, dù rất yêu Thơ.

Tinh Thần Sáng Tạo Trong Thơ

Sự sống là một chuỗi không ngừng của sáng tạo. Như vậy, con người nghệ sĩ thực sự đã chêt khi không còn sáng tạo. Cho nên, với tinh thần sáng tạo trong thơ, tôi muốn nói tới những nỗ lực làm cho Thơ sống bằng cách luôn luôn tìm tòi những cái mới, lạ, phù hợp với trào lưu văn hóa tiến bộ của thời đại. Tinh thần sáng tạo thể hiện ở những nỗ lực:
(1) Đi tìm và khai thác những nguồn đề tài mới để thích nghi với môi trường sống mới. Thường mỗi một thời, một không gian, đều có những sự kiện, những hình ảnh, hoặc những khao khát để làm đề tài. Việt Nam trước đây đã có những khung cảnh đẹp của một cuộc sống thanh bình “gạo trắng, trăng thanh”; những hình ảnh cao quý của những bà mẹ hiền “sớm hôm tần tảo nuôi con”; những hình ảnh hồn nhiên, trong trắng của “Ao Lụa Hà Đông”; những mảnh tình thơ ngây của “Tuổi Ngọc”; những nhớ nhung tha thiết của “Tung cánh chim tìm về tổ ấm”, vân vân và vân vân. Những đề tài đó đã có những chỗ đứng. Muốn tiếp tục có chỗ đứng, các đề tài như vậy cần phải đổi mới. Chẳng hạn, hình ảnh của những người mẹ “một nắng, hai sương” có thể thay bằng hình ảnh của những người mẹ cố gắng lái xe nhiều buổi vất vả “làm hai việc hoặc làm quá giờ” để nuôi con tiếp tục đại học. Đó là môt trong những hình ảnh mới cho Thơ. Nguồn đề tài phong phú nhất vẫn là Tình Yêu. Nhưng, những thể hiện của tình yêu ngày nay hẳn phải là khác với ngày trước. Nhà thơ, do đo cần phải cố gắng lục lạo trong tâm trí để tìm ra những nét đặc thù để mô tả tình yêu của lối sống hôm nay.


Hiện nay, con người đang có những nỗ lực phải thực hiện để nâng cao mức tiên bộ chung của nhân loại. Mục tiêu này đòi hỏi một sự cộng lực toàn thế giới phát xuất từ sự nâng cao trí tuệ và tâm linh của con người. Những nỗ lực đó là: bảo vệ môi sinh; bảo vệ loại người; bảo vệ nhân quyền; tự do và dân chủ; bảo vệ tính đa nguyên; bảo đảm an sinh xã hội; giải quyêt các tệ nạn xã hội, giải trừ vũ khí; chinh phục không gian, và tìm hiểu môi trường tâm linh. Tóm lại, đó là những bức xúc của thời kỳ văn hóa cao kỹ này cần được khai thác.
(2) Sáng tạo những cấu trúc mới cho phù hợp với mức nhậy cảm nhanh lẹ của thời đại mới. Người đọc hôm nay, nhất là giới trẻ, nếu không mấy thích thú gì đối với loại “nhạc vàng” ngày trước, thì với thơ, họ cũng không thấy hấp dẫn gì đối với loại “thơ xưa”. Họ đang trông chờ có những thay đổi mới trong địa hạt thơ, văn, và nhạc sao cho thích hợp tâm hồn của họ đang chịu ảnh hưởng sâu xa của cuộc sống văn minh điện toán. Văn học và nghệ thuật tây phương đã chuẩn bị cho sự thay đổi này từ lâu qua ca nhạc, phim ảnh, thi văn, và họa phẩm, và có những đường nét đăc biệt mới lạ.
(3) Sáng tạo trong kỹ thuật gieo vần và sử dụng từ để có những âm điệu mới lạ cho phù hợp với những cảm quan mới của người đọc. Sáng tạo những âm điệu mới tương tự như biến chế những món ăn mới của một nhà đầu bếp khéo tay để tạo cho mình môt tiếng tăm riêng biệt. Điều này nói lên biệt tài hoặc nỗ lực cao trong sự vận dụng tư duy hay là “động não” của nhà thơ, và kết quả là người đọc thưởng thức được đúng “thi vị” của Thơ.

Tóm lại, sáng tạo bài văn vần tuyệt vời trong cấu trúc có giới hạn của một thể thơ là một trong những công việc khó khăn của một nhà thơ. Viết bài văn xuôi hay thật đã là khó; làm chủ bài văn vần lại đặc biệt khó hơn. Vung bút thảo ra những chữ trong một hình thức có trật tự, điệu, và vần, thật sự đòi hỏi nhà thơ phải có một trình độ nghệ thuật được tôi luyện lâu dài.

Lục Bát

Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ, vội dời chân đi
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu!

Nguyễn Du: Truyện Kiều

Thất Ngôn Bát Cú
MÙA THU

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cầu trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

Nguyễn Khuyến (1835-1909)

Thơ Mới

HỔ NHỚ RỪNG

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
Nay xa cơ bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự

Thế Lữ (1907- )

Thơ Tự Do

GIÃ TỪ HUYỀN THOẠI

Tôi ngủ say trong đáy mắt
Trên bờ mi cỏ biếc
Long lanh giọt sương mai
Mắt em cười
Bờ môi cong còn chưa khép
Mùa Xuân tràn vào khung cửa hẹp
Em dục tôi
Lên đỉnh ngọn đồi...

Việt Bằng (CA)

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

Ảo Ảnh Của Tâm





Đào Văn Bình




... Thế giới càng văn minh, nhu cầu vật chất càng nhiều, con người càng sống với ảo tưởng. Ảo tưởng về sự giàu sang, về trí thức, về vẻ đẹp, về tài năng, về đức độ, về quyền uy, về chân lý, về sự thánh thiện.
- Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình thánh thiện nhưng thực ra họ chẳng thánh thiện gì cả.
- Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình giàu sang nhưng thực ra họ chỉ là thứ “trưởng giả học làm sang”.... (ĐVB)



Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngục là thiên đàng.
Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngục là địa ngục.

Cùng một thứ mà kẻ thì gọi là thiên đàng, người thì gọi là địa ngục.Vậy thì cung trời và địa ngục đều giả, không thực.

Cũng lại như thế. Một kẻ ăn chơi đàng điếm mà nhốt nó vào tu viện thì đúng là nhốt nó vào địa ngục. Nhưng sau một thời gian thấy quen, rồi yêu thích rồi cuối cùng nhận ra đây mới chính là thiên đàng.

Một vị tu hành đạo đức bị đưa vào chốn ăn chơi đàng điếm thì đúng là nhốt ông ta vào địa ngục. Nhưng sau một thời gian thấy quen, rồi yêu thích rồi cuối cùng nhận ra đây mới chính là thiên đàng.

Chính vì thế mà trong Kinh Viên Giác, Đức Phật đã giảng dạy cho Bồ Tát Thanh Tịnh Tuệ, “Này thiện nam tử: Trí tuệ, ngu si đều là Bát Nhã. Địa Ngục, Cung Trời đều là Tịnh Độ. Chúng Sinh, Quốc Độ đều đồng một pháp tính, Vô Minh, Chân Như không khác cảnh giới...”

Khi Tâm ở thể Chân Như tức nhìn vạn vật bằng Phật nhãn thỉ Thiên Đàng hay Địa Ngục - Chúng sinh hay Quốc Độ (đất Phật)…nói rộng ra vạn vật đều đồng nhất thể. Còn khi Tâm động và nhìn sự vật bắng “tục nhãn” thì thấy có sai biệt, tức thấy địa ngục, cung trời, chúng sinh quốc độ. Từ sai biệt này mà nảy ra Đúng-Sai, Thương-Ghét.

Bạn ơi,

Con người thường nhìn sự vật qua lăng kính của cảm xúc. Khi yêu thích thì gán cho nhãn hiệu thiên đàng, khi chán ghét thì gán cho nhãn hiệu địa ngục.

Muốn sống hạnh phúc thì cùng lúc phải chặt đứt hai vọng tưởng điên đảo về cung trời và địa ngục. Câu chuyện sau đây là bản minh họa rõ nét về những vọng tưởng điên đảo của Tâm mình:


"Đêm ấy là đêm rằm. Mặt trăng chiếu sáng lung linh cả một vùng. Tại nơi giang đầu, một đôi tình nhân yêu nhau lần đầu. Giữa đêm trăng sáng, họ đưa nhau ra đây tình tự, thề non hẹn biển. Còn đêm nào tình tứ hơn đêm nay? Người con trai khẽ nắm lấy bàn tay người con gái, âu yếm nói:

- Em yêu ơi ! Hãy nhìn ánh trăng kia, ánh trăng lung linh, mờ ảo. Đêm nay là đêm diễm lệ. Mảnh trăng đẹp tuyệt trần kia là nhân chứng cho mối tình bất diệt của chúng ta. Trăng đẹp như tình ta đẹp. Trăng xinh như mộng ta xinh !



"Cùng một ánh trăng". Ảnh Hồn Việt

Nhưng tại nơi giang hạ, ngay lúc đó, một đôi tình nhân vì tình đời ngang trái, ngày mai họ phải vĩnh viễn xa nhau. Họ ra đây để từ tạ nhau lần cuối. Người con trai đau khổ nắm lấy tay người con gái, nói:

- Em yêu ơi! Trăng đêm nay sao úa màu, tàn tạ? Dường như trăng đang lịm chết để chia xẻ với đêm chia ly vĩnh biệt của đôi ta. Trăng ơi, sao trăng ảm đạm thế? Trăng vương màu tang như cuộc đời lạnh giá, vô vị của anh từ đây phải vĩnh viễn xa em !

Cũng ngay lúc ấy, một bác nông phu, nhà ở gần mé sông, bước ra ngoài sân. Bác ngửa mặt lên trời, ngắm nhìn mặt trăng một hồi rồi chép miệng, nói:

- Chà, cái con trăng quầng sáng có pha màu hồng như thế kia thì năm nay coi chừng mất mùa đa!

Cũng ngay lúc ấy, tại một thành phố tương đối thanh bình, nhân mùa Trung Thu, các em bé vui vẻ rước đèn đi chơi và cùng nhau ca hát:

Ánh trăng trắng ngà


Có cây đa to.
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ.
Cuội ơi ta nói Cuội nghe …


bằng cả tâm hồn ngây thơ, trong trắng. Các em chẳng thắc mắc gì về Chị Hằng, Chú Cuội ngoại trừ lồng đèn và bánh kẹo.



Ảnh của tamnhin.net

Cũng ngay vào lúc ấy, tại một đài thiên văn, một khoa học gia đang dùng viễn vọng kính để quan sát mặt trăng. Ông chẳng hề có ý nghĩ mảnh trăng diễm lệ như đôi tình nhân ở đầu sông. Ông cũng chẳng thấy trăng úa màu như đôi tình nhân ở cuối sông. Ông cũng chẳng thấy dấu hiệu nào chứng tỏ năm nay sẽ mất mùa như bác nông phu. Dĩ nhiên già rồi, ông đâu còn đi rước đèn Trung Thu nữa cho nên đâu có quan tâm tới Chị Hằng, Chú Cuội. Ông đang lặng lẽ quan sát quỹ đạo của mặt trăng để tính đường bay chính xác cho chiếc phi thuyền dự tính phóng lên vào cuối năm nay. Mặt trăng đối với ông chỉ là một vệ tinh bay quanh trái đất và có thể có vị trí chiến lược trong cuộc Chiến Tranh Tinh Đẩu (Star Wars).

Vậy thì bạn ơi,

- Xin đừng vẽ rồng vẽ rắn thêm cho cuộc đời vốn đã rối ren.

- Xin đừng đeo kính màu để bàn tán về thiên nhiên phong cảnh của một bức tranh.

- Xin đừng bình luận thêm về những vấn đề đang làm nhức đầu thiên hạ. Xin hãy "Dẹp bỏ cổ họng, môi, lưỡi" (1) như một thiền sư đã nói nếu bạn muốn tâm hồn an tĩnh.

- Hãy nhìn đời như một tấm gương.

- Tấm gương nhìn người đẹp nhưng không nói gì.

- Tấm gương nhìn người xấu nhưng không nói gì.

- Xin đừng nhìn người xấu để nói rằng tâm hồn người đó xấu.

- Xin đừng nhìn người đẹp để tưởng rằng tâm hồn người đó đẹp.

- Đừng nhìn người giàu sang mà tưởng tâm hồn họ thánh thiện.

- Xin đừng nhìn người ăn mày mà tưởng rằng họ không có Phật tánh (2)

- Xin đừng nhìn người giàu sang mà tưởng tâm hồn họ thanh cao.

- Xin đừng nhìn vào ngôi nhà tranh vách đất mà tưởng nơi đó không có tình thương.

- Xin đừng nhìn vào những nụ hôn nồng cháy qua phim ảnh, tài tử ci-nê, công chúa hoàng tử, người mẫu, đám cưới… mà cho đó là lâu đài hạnh phúc.

- Xin đừng nhìn một cậu thanh niên đẹp trai ăn nói ngọt ngào mà cho đó là người chồng lý tưởng.

- Xin đừng nhìn một cô người mẫu chân dài yểu điệu mà cho đó là người trong mộng.

- Xin đừng nhìn vào chiếc xe sang, bộ quần áo đắt tiền với những dự án đồ sộ mà tưởng nơi đó tín nhiệm để rồi bị lừa bạc tỷ.

- Xin đừng nhìn vào nơi thờ phượng Thần Linh huyền bí mà tưởng nơi đó thánh thiện.

- Xin đừng nhìn vào chốn vui chơi, ồn ào náo nhiệt mà tưởng nơi đó là hạnh phúc.

- Xin đừng nhìn vào nơi vắng vẻ thanh tịnh mà cho là buồn chán.

Chính Tham-Sân-Si khiến cái Tâm, cái Nhìn, cái Nghe, cái Thấy, cái Suy Nghĩ của người ta bị méo mó từ đó chỉ nhìn thấy ảnh ảo hay hình ảnh giả tạo mà không nhìn thấy thực tướng tức hình ảnh thật.

Chư Phật, chư vị Bồ Tát, A La Hán vì không bị nhiễm vào Tham-Sân-Si cho nên tâm không dao động. Vì tâm không dao động cho nên nhìn thấy thực tướng của muôn loài.

Hãy ghi nhớ lời Phật dạy:
- Hạnh phúc do nơi Tâm mình mà không do đời tô vẽ.



- Thanh thản do nơi Tâm mình chứ không do cảnh ở chung quanh.

- Thánh thiện và bợn nhơ do nơi Tâm mình mà không do thần linh ban tặng.

- Giải thoát do nơi Tâm mình mà không do nghi lễ.

- Trói buộc do nơi Tâm mình chứ không phải sợi dây.

- Tội lỗi do nơi Tâm mình chứ không phải do sự lên án của người đời. Bởi vì sự lên án của người đời nhiều khi do hận thù và thương-ghét.

- Không một ai - kể cả Thần Linh Màu Nhiệm - có thể làm cho người khác trở nên thánh thiện và không một ai - kể cả Thần Linh Màu Nhiệm - có thể làm cho phẩm hạnh người khác trở thành hoen ố. (3)

- Không một ai có thể làm cho mình trở nên có phẩm hạnh dù trên mình đeo đủ thứ kim cương, ngọc ngà, châu báu đắt giá nhất, hoặc các chức vụ, quyền thế cao nhất trên thế gian này. Phẩm hạnh cao quý nhất là đạo đức. Mà đạo đức cao quý nhất là làm việc thiện và trang bị tâm mình bằng tâm Phật.

Bạn ơi,

- Không một ai có thể đem lại hạnh phúc – trong khi chính mình lại không muốn kiến tạo hạnh phúc cho mình.

Bạn ơi,

Muốn sống với chân hạnh phúc xin hãy chặt đứt mọi vọng tưởng điên đảo. Khi vọng tưởng điên đảo chấm dứt thì Chân Tâm sáng tỏ.

- Khi Chân Tâm sáng tỏ thì sẽ nhìn thấy vạn vật ở thể chân như.

- Khi nhìn thấy thể chân như của vạn vật thì không còn ảo tưởng.

- Khi không còn ảo tưởng thì bạn sẽ không còn vọng động.

Bạn ơi,

Thế giới càng văn minh, nhu cầu vật chất càng nhiều, con người càng sống với ảo tưởng. Ảo tưởng về sự giàu sang, về trí thức, về vẻ đẹp, về tài năng, về đức độ, về quyền uy, về chân lý, về sự thánh thiện.

- Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình thánh thiện nhưng thực ra họ chẳng thánh thiện gì cả.

- Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình giàu sang nhưng thực ra họ chỉ là thứ “trưởng giả học làm sang”.

- Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình quý phái nhưng thực ra trên đời này chẳng có gì gọi là quý phái. Quý phái giống như chiếc áo khoác ngoải. Cửi ra thì mọi người đều trần trụi như nhau.

- Rất nhiều người mang ảo tưởng là mình đẹp nhưng thực ra họ chẳng có gì đáng để chiêm ngưỡng.

Khi không còn ảo tưởng hoặc “viễn ly” được điên đảo mộng tưởng, con người sẽ sống bình dị, khiêm tốn, không hoang phí, không đua đòi, không say mê quyền lực, không còn muốn đè đầu người khác. Đó là một cuộc sống vô cùng an lành.

Hãy ”hành thâm” tức nghiền ngẫm, dùng trực giác, trí tuệ để hiểu và thực chứng Bát Nhã Tâm Kinh thì lúc đó hành giả sẽ: “Vô hữu khủng bố. Viễn ly điên đảo mộng tưởng.” Khi đã “viễn ly" được điên đảo mộng tưởng thì Niết Bàn sẽ hiện ra tức thì như lời Phật dạy “chân thực bất hư”.

Vậy thì:

Một khi đã biết con người luôn luôn nhìn sự vật chung quanh mình bằng cái Vọng-Tâm-Thương-Ghét thì trước một biến động của thế giới, của đất nước, của cộng đồng và thậm chi của làng xóm - xin hãy để tâm mình lắng đọng, suy nghĩ cho chín chắn rồi mới hành động thì sẽ tránh khỏi sai lầm, gây khổ đau cho chính mình và cho người khác.

Thế giới ngày hôm nay đại loạn chỉ vì đã vô minh mà lại còn vọng động. Một trong những thảm họa của Vô Minh là, cho rằng mình tuyệt đối đúng, mình là chân lý, tôn giáo của mình là tôn giáo duy nhất, quốc gia mình phải bá chủ thế giới.

Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy rằng “Cái Vô Minh này không có thực thể”. Bằng thiền định, bằng trí tuệ Bát Nhã hành giả có thể phá vỡ màn vô minh.

Đào Văn Bình

(California ngày 26/ 3/2016)

____________________

(1) Thiền Luận của Đại Sư Suzuki, bản dịch của Trúc Thiên

(2) Kinh Pháp Cú
“ Chỉ có ta làm điều tội lỗi.


Chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm
Chỉ có ta tranh điều tội lỗi.
Chỉ có ta gội rửa cho ta.
Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch ”

(3) Mới đây nhất tại Hoa Kỳ, một người ăn mày sống vô gia cư (homless) nhặt được một cái ví trong đó có 3300 đô-la, đã đem tới sở cảnh sát trả lại vì ông ta thấy đây không phải tiền của ông.Hai nông dân nghèo ở Nghệ Tĩnh nhặt được 300 triệu đồng đã đem trả lại cho chủ nhân.

Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2016

CHUYỆN VỀ CÔ BÉ “CHIM CÁNH CỤT” ĐẦY NGHỊ LỰC Ở SÀI GÒN



DANIEL VŨ





Bụ bẫm, tinh nghịch và lúc nào cũng cười đùa vui vẻ, hồn nhiên, cô bé “chim cánh cụt” Nguyễn Hoài Thương khiến ai gặp cũng muốn ôm và nắm đôi tay, đôi chân cụt ngủn tròn trịa của em.


Em vẫn cười dù cuộc đời bất hạnh.

Nguyễn Hoài Thương (7 tuổi, ấp Cây Sộp, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP.HCM) là con gái thứ hai của vợ chồng anh Nguyễn Văn Lợi và chị Trần Thị Cẩm Giang. Em sinh ra đã không có chân tay do di chứng của chất độc da cam.

Giây phút nhìn thấy con, thay vì hạnh phúc, chị Giang đã gào khóc và nghĩ đến chuyện quyên sinh cùng với đứa con gái bất hạnh. Cả hai vợ chồng chị đều làm công nhân, sống trong căn nhà gỗ tạm bợ, rách nát, chỉ lo cho đứa con gái đầu ăn học thôi đã chật vật hụt trước, thiếu sau.

Thương chào đời, gia đình nhỏ đã khó lại càng khó. Chị Giang phải nghỉ luôn ở nhà trông con, rồi cực chẳng đã chị phải bồng bế con gái đi khắp nơi bán vé số. Thế nhưng nghèo mặc nghèo, tuần nào chị Giang cũng ôm con lên xe buýt vượt mấy chục cây số đi tập vật lý trị liệu ở quận 3. Bao công khó của hai mẹ con đã giúp Thương có thể cầm bút viết như các bạn bình thường. Bốn tuổi em đã tự làm được tất cả mọi việc: từ ăn uống, đánh răng, thay quần áo, soạn sách vở, đồ dùng.

Năm nay Thương cũng vào lớp 2 như các bạn và được chế một cái tay giả có đục lỗ tròn để đặt vừa cây viết. Những ngày đầu tiên của lớp 2 là những ngày cô bé vất vả viết những bài chính tả, làm những phép tính đầu tiên bằng cánh tay giả. Ba mẹ chế một cái bàn gỗ bốn bánh để em trượt qua trượt lại trong nhà trên sàn gạch bông. Đi đâu mẹ cũng mang theo để khi xuống xe Thương có thể tự trượt được. Nhưng Thương vẫn ao ước được đi lại.

Kỳ nghỉ hè vừa rồi, Hội Nạn nhân chất độc da cam hỗ trợ chi phí lắp chân nên hai mẹ con tha nhau ra tận Hà Nội để tìm chỗ đúc chân giả và tập cho Thương bước đi. Đến giờ, sau hơn một tháng tập luyện, Thương đã có thể di chuyển được 5 – 6 bước. Bác sĩ cho biết chân em bị cong, cần phải phẫu thuật.

“Nhưng đâu đã lo được tiền để làm tiếp. Từ khi con đi học, tôi cũng nghỉ hẳn bán vé số để đưa đón, chỉ tranh thủ mua mít về bán bên vệ đường kiếm chút đồng lời”, chị Giang cho biết.


Năm nay vào lớp 2, Hoài Thương mướt mồ hôi tập viết với cánh tay giả. Nhưng không sao, được đi học là niềm vui của cô bé.


Sau khi cẩn thận xếp hết sách vở vào hộc bàn, Thương tự dùng đôi tay “cánh cụt” của mình để đu vào ghế ngồi.


Đôi chân giả để tập đi trở thành trò giải trí của Thương giữa những giờ tập luyện vất vả.


Tập đi với đôi chân giả rất đau đớn, nhưng Thương chịu đựng được tất cả. Ngày nào cô bé cũng phải tập luyện theo thời biểu rất nghiêm ngặt của mẹ: sáng đi học, chiều tập đi từ 14h đến 16h30, tối học bài.


Tám chuyện với “hội bạn thân” trong giờ ra chơi.


Cô giáo bảo Thương tiếp thu tốt nhưng vì viết khó khăn nên thường chậm hơn các bạn. Vì vậy Thương phải nỗ lực nhiều hơn các bạn cùng lớp.


Thương thích đi lắm và rất chăm chỉ tập luyện nhưng vẫn không khỏi nhăn nhó vì đau đớn khi mẹ gắn đôi chân giả.


Ai gặp Thương cũng “yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên” bởi vẻ nhí nhảnh, tươi rói của cô nhóc.


Đây là cái máy tính được một nhà hảo tâm tặng. Bố mẹ chẳng biết dùng nhưng cô bé biết mở cả Google để tìm video học cách làm kem vì em rất thích ăn kem.


“Chim cánh cụt” rất thích ngồi xem ba chăm sóc chú chim bìm bịp nhỏ. Thỉnh thoảng còn vui vẻ đùa giỡn, nói chuyện với chú chim.


Bữa ăn nào Thương cũng ngồi “ôm nồi” giành phần xới cơm cho cả nhà.


Nụ cười sảng khoái của cô bé giờ tan học. Ở trường có bạn có bè rất vui.

Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Những định mệnh kỳ lạ





Lên đường, đối với chúng tôi là một tiếng nói định mệnh.

Hầu như chưa có một dân tộc nào mà lịch sử được chứng nghiệm một hành trình dài lâu đến thế. Dài lâu trong đêm tối máu xương.

Không phải chỉ cần một đôi chân rắn chắc, bền bỉ và một ý chí không hề mỏi mệt, mòn lụt mà một cái gì khác hơn, trên tất cả những thứ đó: Định mệnh.

Không phải từ những ngàn năm trước, mỗi một người dân nơi đây đã nhận lãnh “định mệnh đi lên” từ một bàn tay quyền uy nào đó như bây giờ những người lính trẻ nhận tấm thẻ bài và vũ khí để ra chiến trận. Định mệnh đó không biết từ một phép mầu quỷ quái và hiểm độc nào, đã hòa tan trong dòng sữa của những bà mẹ đầu tiên. Đã làm nên máu huyết và mỗi dòng máu chảy ngược về tim là từng nhát búa đánh mạnh vào chiếc cồng làm vang lên những bình minh rực rỡ.

Và như thế họ đã ra đi cùng với giấc mơ.

Bàn chân cha mẹ làm thành bàn chân con cháu. Núi cao thành đồng bằng. Đồng bằng thành nhà cửa, ruộng nương phố xá. Đất của mãnh thú thu gọn lại trong những biên giới khiêm nhường hơn. Những giống chân yếu đuối biến mất.

Hành trình đã được làm bằng máu xương và nước mắt. Bằng vinh quang và tuyệt vọng. Bằng hăm hở và hối hận. Tất cả những kinh nghiệm đã vót nhọn những cơ năng của con người. Và trong mớ tên sắc bén đó, mũi tên quí giá nhất: ý thức đi lên.

Đi lên! Không còn là một lời kêu gọi nữa mà chính mỗi chúng tôi là sự đi lên đó.

Cả một dân tộc lên đường rất hồn nhiên. Như những đứa con của sứ mệnh gian truân và cao cả.

Tôi đã từng qua nhiều nơi trên quê hương sau những trận đánh lớn. Không thể kể hết những tang thương của từng thành phố, từng quận lỵ, từng xóm làng, thôn ấp. Những gì là hình ảnh của đời sống đều biến dạng, rũ tan. Thoạt nhìn, không ai tin nổi về quá khứ của một nơi định cư phồn thịnh, huyên náo. Tất cả đã trở thành sa mạc gạch hồng cao nguyên tro than. Vốn liếng của một đời người tan ra thành tiếng khóc vắng lặng. Một vài nơi gần như không còn một cái gì được tha thức dưới sự tàn bạo khắc nghiệt của chiến tranh. Con người chỉ là trò chơi của một định mệnh rẻ rúng. Chỉ là những mẩu tàn của một người hút thuốc cuồng nhiệt, được vứt bỏ nhẹ nhàng, nhanh chóng.

Cái chết tự nó dĩ nhiên không biết thở than. Nhưng mọi sự rồi cũng qua đi rất nhanh. Một thời gian ngắn, trên những đổ nát kia đã mọc lên nhà cửa, trường học, bệnh viện. Trên đường đã khua vang những bước chân họp chợ. Tiếng cười nói tung vào đời sống như những thách thức không ngừng với định mệnh. Hồi sinh nhanh chóng. Những con người nhỏ bé, nghèo nàn kia đã thức dậy rất sớm từ cơn đau. Họ không tàn trữ lời thở than. Không cất giữ những xót xa. Họ là những nhà ảo thuật tài tử và tài tình. Họ đã biến những vết tích chiến tranh thành những phần hữu dụng của đời sống. Những hố bom sau cơn mưa là hồ nuôi vịt, cá. Những hố lớn hơn làm hồ tắm cho trẻ con. Những vỏ đạn làm đèn, thành lò bếp. Cuộc sống cứ như thế mà tiếp tục.

Dường như chúng tôi thoáng biết rằng còn có một cõi hạnh phúc ngoài những bất hạnh mỗi ngày phải biết sống cùng. Phải đi tới mãi và chờ đợi. Nhẫn nại và tiến lên không ngừng. Hai mươi ba năm. Ba mươi năm. Hơn thế nữa và hơn mãi thế nữa. Cho mỗi thế hệ. Đi, đi, đi. Trên mọi ngõ ngách, trên mọi làng mạc, đô thị, người dân chúng tôi, mỗi giờ phút, mang định mệnh trên vai và bước tới. Không quay nhìn lại bao giờ nữa. Đã từ lâu không muốn nhớ những bước chân đã bỏ lại. Phải đi lên. Nhìn về phía trước. Mỗi ngày đã ra đi. Ra đi và nuôi dưỡng hy vọng. Chúng tôi đã đi mấy ngàn năm. Và chưa biết sẽ còn đi đến bao giờ. Chúng tôi không là người thất vọng. Dù mỗi phút trong đời người là những con số mang tên thất vọng nhảy đều trên một chiếc máy. Chiếc máy thảm khốc của thời gian. Nó không ngừng làm chúng tôi hoảng hốt. Mỗi ngày trôi qua là một lời thúc giục. Những bình minh những hoàng hôn chớp nhanh như ảo ảnh bên cạnh những đổ nát và thây người càng ngày càng gia tăng. Mức độ hủy diệt to lớn quá đã gây nên khủng hoảng trầm trọng trên lương tâm chúng tôi. Dù ý lực được phân bón và chăm sóc từng giây, chúng tôi cũng không che giấu nổi sự phiền não hiện ra trong đôi mắt. Những đứa bé đã già đi quá sớm. Những nụ cười chúng tôi kém tươi.

Sau mỗi giai đoạn nguy nan và chết chóc, mỗi đứa bé là một kinh nghiệm đau thương. Chúng nó biết về địa ngục và vực thẳm như những đứa trẻ Tây phương biết về hạnh phúc. Sự khôn ngoan của chúng đôi khi làm xót xa những nhà hiền triết. Chúng đã sống tận cùng sự sợ hãi. Và cũng đã sống tận cùng cái chết của những người thân. Từ đó chúng tôi biết rằng chúng tôi sinh ra từ vựng thẳm. Và nếu không muốn bị hủy diệt, chỉ có con đường duy nhất là: Đi lên!

Hy vọng của chúng tôi thường nẩy mần sau mỗi cuộc tang thương. Chúng tôi chỉ có hai mùa để sống. Màu bão tố phải chống đỡ, vượt qua. Và mùa xuân, chúng tôi thổi lửa vào những gốc cây ẩm ướt để làm hồi sinh từng thớ gỗ. Bắt cây phải đâm chồi. Đó là mùa phục sinh của bao nhiêu tâm hồn tan nát. Chúng tôi không ngừng vá lại những rách nát, khâu lại từng vết thương. Và nhờ ơn trời, tất cả đều lành lặn và được bồi dưỡng kịp thời.

Sau mỗi giai đoạn bình phục chúng tôi lại lên đường. Tuy nhiên, mỗi khởi hành mới lại bớt đi một chút hăm hở. Chúng tôi ít nói về hạnh phúc trong những câu chuyện. Chân những đứa bé đã biết dè dặt hơn trên cách đồng chè, trên những ruộng mía. Những con trâu trên đồng lúa cũng được lèo lái thận trọng trên những vùng đất không đủ an toàn. Thận trọng cũng là một danh từ học được trong hành trình đi lên.

Có bao nhiêu lục địa trên trái đất này, con người thế giới không đi tới trong thể điệu của chúng tôi. Trên con đường đi tới tiến bộ, họ được chuyên chở trên những chuyến tàu êm ái, không nhọc mệt. Định mệnh họ là “hãy ngồi xuống thật thoải mái” và mệnh lệnh đi tới được chuyển qua đầu máy và động cơ của con tàu. Trong chuyến tàu mọi thứ đều được chuyên chở cùng một lúc. Người, thú vật, và thiên nhiên. Dĩ nhiên tôn giáo hay một cái gì tương tự như lòng sùng bái, đạo lý cũng được mang theo cùng với hành trang của họ. Mọi thứ đó đều có một bộ mặt sáng sủa và mới mẻ như nhau. Mỗi thứ đều được bảo vệ bởi một loại luật pháp riêng tư. Có cả sự bình đẳng và danh dự cho từng loại súc vật. Người ta cũng không quên sáng tạo ra cách cư xử tế nhị đối với chúng.

Ở đây, trên mặt đất khô héo này, chúng tôi tự chuyên chở đi tới bằng hai chân và bằng ý chí của chính mình. Đó là sự đi lên đầy khổ nhọc, cam go. Sự đi lên ngược chiều với dòng hủy diệt. Dòng hủy diệt chảy xiết như từ một bờ đê vỡ. Tàn phá, đánh chìm. Định mệnh của những con người nhỏ bé nơi đây là đi thẳng vào dòng hủy diệt để vượt qua bên kia đêm tối. “Phải sống còn” là mệnh lệnh tối yếu.

Có những kẻ may mắn sống còn để tiếp tục hành trình, có những kẻ bất hạnh đã bị cuốn đi. Nhưng tựu trung tất cả đã tranh đấu bằng ý chí siêu nhân. Và sự sống còn không phải là niềm kiêu hãnh mà là bổn phận phải hoàn thành một con đường đến nơi đến chốn do những kẻ chết tiếp sức qua kỷ niệm.

Đôi khi, bên những thảm cảnh xảy ra hàng ngày, chúng tôi có những phút giây đắm mình trong tuyệt vọng. Chúng tôi tự hỏi về nơi chốn cuối cùng của hành trình. Có thật một biên giới để dừng chân hay không?

Chúng tôi không còn thì giờ để mơ ước thiên đường hay niết bàn nữa. Đối với tôi đó là sự xa xỉ của những kẻ nhàn hạ vô tư. Mỗi giờ phút là một cuộc chạy đua cam go giành lấy sự sống. Cái chết nơi đây không có hạn kỳ. Tử thần không mang lưỡi hái tao nhã. Nó vồ chụp chúng tôi từ mọi phía, mọi giờ giấc, không bao giờ nương tay. Đó là một cuộc chiến đấu gian nan mà chúng tôi phải tìm đủ mọi cách để tự vệ.

Chúng tôi phải luôn luôn thay đổi những khuôn mặt. Sáng chế những nơi trú ẩn an toàn. Ngay cả trong giấc ngủ chúng tôi cũng không được nghỉ ngơi. Bóng dáng ác thú vồ chụp tâm não mỗi đêm. Và cuộc chiếc đấu bên trong này thường làm chúng tôi ngã bệnh một thời gian. Những sợi thần kinh dãn ra tệ hại như những sợi thừng tuyệt vọng. Với những lần có tình trạng khốn đốn đó, chúng tôi tự chế ngự và chữa lành bằng rượu. Rượu chính là một kinh nghiệm rất tốt để làm kích thích lại những giác quan tê liệt và cho giấc ngủ. Đó cũng là cơ hội để bằng hữu quay quần với nhau. Bên một dòng sông hay trong những quán vắng. Với rượu, chúng tôi được khôi phục dễ dàng trong chốc lát. Và trong ánh mắt đỏ rực buổi chiều, tiếng nước đá chạm vào ly thủy tinh luôn luôn tạo nên những âm thanh nhã nhặn.

Cũng không nên bỏ qua những ngày có thời tiết đẹp đẽ. Chúng tôi lợi dụng thiên nhiên tốt lành để làm những cuộc du ngoạn ngắn. Bên cạnh thực tế phũ phàng chúng tôi cần đôi phút thơ mộng. Tạo một chút ảo tưởng bình an và cứ cho là cuộc đời chưa đến nỗi nào. Hẳn nhiên đó không phải là một cuộc chiến chạy trốn thực tại. Chỉ là cách thế để làm trẻ lại tinh thần đấu tranh và để cho sự chịu đựng đừng bị mài nhẵn quá.

Có những giây phút, hốt nhiên thoái ra ngoài cảnh tượng đời sống chung, chúng tôi không khỏi bàng hoàng và kinh ngạc về chính mình và về những kẻ chung quanh. Phép mầu nào đã cho chúng tôi sự chịu đựng bền bỉ thế?

Chưa bao giờ chúng tôi từ khước sự hủy hoại. Không hề lẩn tránh. Lầm lì nhận chịu và nuốt cạn đắng cay, tủi nhục vào bên trong. Sự tàn phá của chiến tranh và của thiên nhiên chỉ đủ tạo nên một số ít người mất trí. Họ là những kẻ duy nhất đứng lại giữa hành trình. Hình ảnh họ thỉnh thoảng gợi lại trong chúng tôi về một giống nòi gian khổ. Họ là tiếng khóc của ngày đã qua. Cũng là lời than thở của những giọt máu để rơi lại sau những chuyến lên đường. Không đủ làm nhụt chí nhưng cũng là những vết buồn trên trang sử. Những ngày mùa đông rét mướt họ thường biến mất. Đến những mùa ấm áp hơn lại hiện ra với một khuôn mặt hoàn toàn biến đổi. Có kẻ đã móc mất đôi mắt của mình. Có kẻ vì sự hãi và thiếu ăn, đã mang hẳn khuôn mặt thú. Ở nơi khác, người điên có thể làm trò cười giải khuây thiên hạ. Nơi đây, thấy họ, không ai giấu nổi lòng ái ngại.

Chúng tôi đã học được những bài học lớn lao về trò dâu bể. Bao nhiêu triều đại đã qua đi. Bao nhiêu đền đài đã sụp đổ. Bao nhiêu mùa màng đã tan nát. Có lẻ nhờ thế dân tộc chúng tôi có những binh đoàn quá đông đảo về thi sĩ. Họ là những binh sĩ của một anh hùng ca dài bất tận. Có cả những thi sĩ trữ tình. Bởi lẽ bên những mộ phần thường có những bông hoa. Học đường chẳng dạy dỗ chúng tôi được bao nhiêu. Chỉ có cuộc đời đã giáo huấn chúng tôi về tất cả. Chúng tôi không tìm hiểu sự phi lý trong những cuốn sách. Chúng tôi sống chính sự phi lý đó. Không hiểu có cần phải bày tỏ sự khôn ngoan của chúng tôi hay không. Tuy nhiên khi đã thấm nhuần được cuộc biển dâu của đời người, chúng tôi đã vượt qua bên kia mọi triết lý.

Trên con đường đi tới, hành trang của chúng tôi đã nhẹ nhàng hơn thêm mỗi ngày. Không phải vì sự khôn ngoan của một chiến sĩ ở trên sa mạc mà vì sự khôn ngoan của định mệnh đã tước đoạt mất của chúng tôi. Tuổi thanh xuân của chúng tôi bị tát cạn. Ước mơ của chúng tôi bị cắt lìa. Chúng tôi phải đi lên bằng sự già dặn của những kẻ leo núi cao. Vào mùa xuân khi những tàng lá đã đổi màu, chúng tôi có cảm thấy hân hoan đôi chút nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy sự liên quan mật thiết nào giữa tuổi thơ và màu xanh non của lá. Vẻ đẹp của thiên nhiên một phần nào đã được cất ra khỏi chúng tôi những so sách đồng hóa với vẻ già cỗi của tâm hồn chúng tôi. Chúng cũng gian truân không kém. Tôi muốn nói về những cánh rừng tật nguyền, lở loét. Những đồng ruộng tràn đầy cỏ dại và sắt vụn. Mầu mỡ phì nhiêu của đất đai, nhiều nơi hỡi ơi chỉ để nuôi lớn hoang tàn. Điều này cũng xảy ra trên đời sống tinh thần chúng tôi. Những người dân quê dũng cảm hơn họ trung thành sắt son với chính họ. Không có gì lay chuyển nổi. Họ giữ được lòng trung tín với cuộc lên đường như một lời thề nguyền khắc ghi bằng máu. Riêng đám thị dân yếu đuối và hèn nhát hơn. Họ buông mình theo những chọn lựa dễ dàng mới để thủ lợi. Vì thế chúng tôi bắt đầu sợ hãi chọn lựa. Bởi vì mỗi chọn lựa mới thường là một cái bẫy đáng ngại đánh bật chúng ta ra khỏi con đường. Trong hành trình những ai ra khỏi con đường đương nhiên bị loại. Chúng tôi không coi họ là kẻ phản bội mà chỉ dành cho họ lòng thương xót.

Đã có nhiều biến đổi trong hành trình. Những bước chân của chúng tôi dần dà đã không còn thuộc về con đường nữa. Mỗi chúng tôi chính là con đường. Con đường cưu mang ý hướng đi lên. Trong mỗi người dù ý thức hay vô thức, đang thành tựu một con dốc cheo leo và hiểm nghèo. Con dốc nối liền vực thẳm và côi cao. Có thể đó là quê hương. Nơi chúng tôi phải trở về. Mọi người chúng tôi đang cần ngơi nghỉ.

Có lẽ chúng tôi sẽ không tìm thấy được gì ngoài chính mình. Nơi một quê hương sẽ có tên gọi. Cái tên đích thực của một giống dân đã soi tỏ được nguồn cội và đã hoàn thành sứ mệnh về nguồn.

Riêng tôi có lẽ sẽ không đến được. Sẽ không bao giờ giáp mặt được quê hương. Nơi đỉnh cao chờ mong kia, đứa con gian truân không trở về. Bởi một điều quá giản dị: tôi không còn thì giờ nữa.

Xin chúc phúc cho những kẻ còn đi.

Trịnh Công Sơn

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016

Vũ Khí Nhân Quyền Nguyên Tử Hay Nguyên Tử Nhân Quyền




Lời Cảnh Báo Cho Phương Tây

Hoàng Hữu Phước, MIB



Giống như bất kỳ đạo luật quan trọng nào tại bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh này, phần giải thích từ ngữ luôn được nêu lên không bao giờ ở phần cuối cùng.

Thời còn là sinh viên Đại Học Văn Khoa, thấy tôi dù làm thơ tiếng Anh hay tiếng Việt dù cho đề tài yêu đương vẫn luôn mang sắc thái cá tính riêng biệt không bao giờ gặp thấy nơi bất kỳ ai khác là sự dữ dội hừng hực nóng bỏng dung nham, những bạn thân khi cùng nhau uống cà phê vệ đường đã nói họ lúng túng không rõ tôi là một nhà thơ chiến sĩ hay lại là một chiến sĩ nhà thơ. Cấu trúc văn phạm tiếng Việt có thể cho rằng trong hai cụm từ trên thì phần đầu tiên là phần chính, và phần tiếp theo là phần bổ sung ý nghĩa. Như vậy, nhà thơ chiến sĩ có thể là một nhà thơ mạnh mẽ như một chiến sĩ, còn chiến sĩ nhà thơ có thể là một chiến sĩ thích làm thơ, theo ý tứ thuần Việt của Sách Đỏ hay Sách Trắng, trong đó “sách” là từ chính, còn từ theo sau là bổ sung ý nghĩa phân định riêng, tương tự Chữ Thập Đỏ vậy. Tuy nhiên, nếu là từ Hán Việt thì thứ tự lại không như vậy, vì Hồng Quân hay Hồng Thập Tự hoặc cường quốc thì chữ sau mới là chính còn chữ trước mang ý nghĩa một bổ sung từ. Đối với tiêu đề của bài viết này, dựa theo kiểu Hán-Việt thì nói vềNguyên Tử Nhân Quyền, song nếu lập luận rằng tuy là từ Hán-Việt nhưng do đã được sử dụng hòa trộn hòa lẫn vào tiếng Việt nên phải xem như đó là tiếng Việt không chút biệt phân thì bài này nói về Nhân Quyền Nguyên Tử. Để nói gọn lại thì tác giả bài viết chỉ muốn nói đến Nhân Quyền, và cái Nhân Quyền này có sức tàn phá như vũ khí nguyên tử.

Ngoài ra, Phương Tây không có nghĩa là ở phương Tây hay mang tính địa dư, mà là cụm từ chỉ tất cả các quốc gia tư bản thân Mỹ, nên Phương Tây bao gồm cả Úc và New Zealand.

Đã từ lâu, các nước tư bản thân Mỹ nào muốn chứng tỏ ta đây hùng mạnh như Mỹ thì luôn thể hiện qua hai cách truyền thống vững bền là (a) chõi lại Mỹ trên thương trường, trong văn hóa, và tại vài chính kiến địa chính trị; và (b) cùng Mỹ nhận ra sức mạnh hủy diệt của Nhân Quyền. Vì lẽ đó, Mỹ và các nước này hay sử dụng quả bom nguyên tử có sơn dòng chữ Nhân Quyền để bắn phá thành trì các nước cộng sản như Việt Nam hoặc các nước tư bản thân cộng sản như ở khu vực Nam Mỹ.

Trung Quốc cũng láu cá không kém. Hàng năm khi Mỹ tung ra Báo Cáo Nhân Quyền để đánh giá và cho điểm tất cả các quốc gia về lĩnh vực nhân quyền thì Trung Quốc cũng phát hành Báo Cáo Nhân Quyền đánh giá tình hình nhân quyền chỉ của Mỹ mà tôi trong một bài blog cách nay nhiều năm đã phân tích và ngợi khen Trung Quốc vì trong khi Mỹ viết về tất cả các quốc gia trong một báo cáo dày cộm thì Trung Quốc viết về Mỹ trong một báo cáo dày hơn gấp rưỡi bằng thứ tiếng Anh tuyệt hảo kèm chứng cứ thuyết phục từ chính các cơ quan thông tấn báo chí của Hoa Kỳ. Trong khi đó, dù bị đánh phá bằng vũ khí Nhân Quyền Nguyên Tử chính thức (qua các nghị sĩ Mỹ chống Việt và các tổ chức muốn có tiền chu cấp của chính quyền Mỹ và người Mỹ yêu Việt Nam Cộng Hòa) hay vũ khí Nguyên Tử Nhân Quyền buôn lậu (các nhóm ngoại kiều gốc Việt chống Việt), Việt Nam vẫn tỉnh bơ vì tổ tiên Việt Nam có lưu truyền cho cháu con người Việt lời dạy “đi đêm có ngày gặp ma” và “đừng đùa với lửa” hoặc đại loại như thế.

Trên thực tế, một hai Nguyên Tử Nhân Quyền đã có nổ. Khi nguyên tử nổ, sức tàn phá cực kỳ ghê gớm: nó giết chết con người, mọi sinh vật, mọi vật chất, và mọi môi trường. Tương tự, Nguyên Tử Nhân Quyền nổ thì xô sập một chế độ chính trị và giết luôn đất nước cùng dân tộc của chế độ chính trị ấy. Sạch sành sanh. Y như tại những quốc gia có các cuộc kách mệnh màu.

Trên thực tế, đa số Nguyên Tử Nhân Quyền bị tịt ngòi, nên các quốc gia bị Mỹ tố cáo vi phạm nhân quyền vẫn cứ tồn tại trơ gan cùng tuế nguyệt, thậm chí có kẻ tiếm ngôi Nhật trở thành đế chế kinh tài thứ nhì thế giới, theo bén gót Mỹ và Mỹ càng lúc càng thấy hơi thở nóng hổi gấp rút sát sau mông mình với nguy cơ đầu hàng để mất vị trí siêu cường kinh tế hàng đầu thế giới.

Trên thực tế, internet cung cấp đầy đủ các cách chế tạo bom nguyên tử nên ai cũng chế được Nguyên Tử Nhân Quyền, hậu quả là:

1- Hàng triệu người di cư ào ạt đổ vào Châu Âu dưới ngọn cờ Nhân Quyền làm cả Châu Âu náo loạn, bây giờ mới tỉnh ngộ đã dại dột ra rả suốt về nhân quyền, nay ra tay chà đạp nhân quyền bằng cách đóng cửa biên giới từng được ngợi ca là khối tự do nhân quyền tuyệt hảo khuôn vàng thước ngọc của nhân loại;

2- Thổ Nhĩ Kỳ đã sử dụng hơn một triệu người di cư đang tá túc ở Thổ Nhĩ Kỳ để đe dọa Châu Âu, khiến Châu Âu phải chu cấp nhiều tỷ đồng Euro cho Thổ Nhĩ Kỳ và khởi động xem xét đơn xin gia nhập EU của Thổ Nhĩ Kỳ, trước viễn cảnh Thổ Nhĩ Kỳ “xả cảng” mở tung biên giới cho hàng triệu người ồ ạt tràn vào Châu Âu dẫn đến sự trà trộn đột nhập của hàng vạn chiến binh thánh chiến cảm tử Hồi Giáo tiêu diệt Châu Âu; và

3- Không phải tự nhiên ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dõng dạc tuyên bố xây bức vạn lý trường thành suốt biên giới Mỹ-Mê.

Từ ba thực tế trên, dẫn đến ba tình huống đương nhiên là sẽ sớm trở thành sự thật sau:

1- Phương Tây sẽ không dám sử dụng vũ khí nhân quyền và thậm chí sẽ cấm dân chúng nhất là các dân nhập quốc tịch được phép nói về nhân quyền, không được phép “biểu tình” giương cao ngọn cờ nhân quyền chống chính phủ nước khác để tránh bị chính phủ nước khác ném bom nguyên tử nhân quyền đáp trả.

2- Các kẻ thù của Phương Tây ở vùng Trung Đông, Phi Châu, và Trung Quốc sẽ nghiên cứu phát triển bom nguyên tử nhân quyền thế hệ mới để liên tục tràn ngập bằng tay không để tàn phá tiêu diệt chiếm hữu Phương Tây.

3- Việt Nam, Ấn Độ và Úc phải thận trọng nếu Trung Quốc sử dụng Nguyên Tử Nhân Quyền. Thí dụ như 1 triệu dân Trung Quốc ở Trung Quốc cùng 1 triệu người Trung Quốc ở Campuchia và 500.000 người Trung Quốc ở Lào đồng loạt dắt díu vợ con, tay xách nách mang lủ khủ đồ đạc, hoàn toàn không cầm vũ khí, ồ ạt tràn qua biên giới Việt Nam từ mọi hướng, tiến hành cuộc chiến tranh nhân quyền nguyên tử tiêu diệt Việt Nam bằng cách “hòa bình” buộc Việt Nam phải nuôi ăn, cho ở, vì nếu đuổi xua kiểu Phương Tây đang hành xử với dân tỵ nạn Syria thì Việt Nam sẽ bị kết tội “vi phạm nhân quyền”; còn nếu dùng vũ lực vũ khí thì vừa bị kết tội “diệt chủng”, vừa xài hết sạch kho đạn dược, vừa không còn đất canh tác do phải chôn mấy triệu xác quân thù “xâm lược hòa bình” ấy khiến dân chúng đói khát, kinh tế kiệt quệ, và chế độ tự động diệt vong. Tương tự, các đoàn quân “dân sự” tràn vào Nga, còn tàu thuyền vượt biển công suất mạnh do Trung Quốc cấp cho quân đội giả dạng thường dân tràn ngập bờ biển Úc để “xâm lăng hòa bình” cũng sẽ đẩy Nga và Úc vào tình thế “lãnh thổ Trung Hoa kéo dài từ Cực Bắc đến Cực Nam địa cầu do hàng triệu người ra đi là do “chống Cộng”, “chống Trung Quốc”, “tìm đến thế giới tự do”, “tìm sự sống nơi nhân quyền được ca ngợi vinh danh”.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Không Quên Và Không Chê





Hoàng Hữu Phước, MIB



Cách nay hơn một phần tư thế kỷ, vợ tôi sinh khó phải mổ, lúc ấy vào tháng 12, trời Thành phố Hồ Chí Minh lạnh ngắt chứ không như bây giờ nóng quanh năm suốt tháng. Sau khi đưa vợ và con tôi về ngôi nhà nhỏ xíu ở Phú Nhuận mà tôi vẫn đang cư trú tại đấy cho đến tận ngày nay, tôi một mình lo toan mọi việc mà người đàn ông lập gia đình ra ở riêng nào cũng phải gánh vác trong hoàn cảnh tương tự.

Không quên và không chê lời dạy của Má tôi về chăm sóc sản phụ – đúc kết từ kinh nghiệm dân gian bao đời nay – tôi đã phối hợp với kiến thức Tây học để thực hiện việc sau:

Nếu kinh nghiệm dân gian nói về việc sản phụ nên “nằm than”, còn Tây học nói bếp than sinh ra khí carbonic cực kỳ độc hại cho sản phụ và hài nhi, tôi phối hợp bằng cách đặt bếp than hồng ngoài sân, đưa úp hai bàn tay của mình hứng lấy sức nóng của than, rồi chạy nhanh vào phòng trong, thử úp sơ bàn tay vào hai bên mặt của mình để yên tâm về độ nóng ấm vừa phải trước khi đặt hai bàn tay lên ngực vợ tôi, ôm từng bầu sữa một. Xong, tôi lại chạy ra chạy vào như thế, để ấp hơi ấm lên ngực vợ tôi, hai bầu sữa của vợ tôi, lên bụng vợ tôi, cũng như nhè nhẹ trên vết khâu đường giải phẫu. Sau đó, tôi lại tiếp tục việc chạy ra chạy vào để ấp ấm lên người, tay và chân của con tôi.

Má tôi đã truyền lại kinh nghiệm dân gian ấy mà Bà ngoại của tôi đã dạy Má tôi thủa sắp về nhà chồng, rằng khi sinh con, phải nằm than, không được nằm trước gió, không được tắm gội ngay cả tắm gội bằng nước ấm, mà nếu cần chỉ được lau mình qua loa bằng khăn thấm nước ấm, vì rằng nếu không thì sẽ thấy hậu quả nhãn tiền: chỉ cần vừa bước qua tuổi 30 là người phụ nữ sẽ phải luôn mặc áo ấm vì luôn thấy ớn lạnh dù trưa hè nóng bức, cũng như không thể chịu nỗi lúc trái gió trở trời. Còn việc ấp tay lên bộ ngực sản phụ để kích thích tiết sữa, lên bụng để vừa ấm bụng vừa săn chắc da bụng vừa ổn định tình hình dạ con đang bị tổn thương bên trong bụng.

Thế là sau khi cho vợ ăn sáng, cho con bú bình, ấp vợ ấp con xong, tôi chạy đi làm, để trưa quay về làm tiếp công việc y như sáng, và lại chạy đi làm đến chiều. Chưa kể, để vợ tôi ngủ yên, tôi đêm khuya bế con ra chốn thư phòng (tức nơi có một cái bàn, bốn chiếc ghế và một tỷ quyển sách) vừa cho con bú bình, vừa nói chuyện với nó bằng tiếng Anh, kể nó nghe tôi yêu nó biết bao, và mong muốn nó ngày sau hãy cố gắng hiếu thảo với mẹ, hãy là công dân tốt, và hãy thay tôi mà hết lòng chăm sóc mẹ của nó, người đã chấp nhận làm vợ một hàn sĩ như bố của nó để rồi phải trãi qua thử thách khắc nghiệt hiểm nguy để sinh nó ra đời.

Hơn nửa thế kỷ nay, Má tôi ở khu Bàn Cờ Quận 3 vẫn đánh gió cho các con cũng như cho hàng xóm. Còn tôi ra Hà Nội họp Quốc Hội bao giờ hành trang vẫn có chai dầu khuynh diệp và dụng cụ đánh gió, để khi trái gió trở trời nhức đầu mõi cổ tôi có thể tự mình đánh gió sau gáy. Ngay cả khi không cần đến cái gọi là dụng cụ đánh gió, tôi vẫn có thể dùng ngón tay cái thấm dầu khuynh diệp để miết tới miết lui sau gáy như một cách đánh gió massage.

Phóng sự quốc tế cho thấy nhiều người Âu Mỹ ngồi xếp hàng chầu chực ở các cơ sở y học dân tộc bên Hàn Quốc chờ đến phiên được vào để được đánh gió, giác hơi. Còn tại Việt Nam thì bác sĩ thay vì nói “đánh gió là một kiểu massage tốt, đặc biệt nếu các bạn không bị cao huyết áp”, thì lại nói “đánh gió rất nguy hiểm nếu bạn bị cao huyết áp”.

Quên hết và chê hết những tinh hoa của dân tộc gần như là một đặc điểm thường thấy nơi những con người Việt Nam hiện đại. Nhưng lẽ nào người Hàn Quốc không hiện đại hay sao?

Tôi không quên và không chê những gì đã luôn được dùng để chăm sóc hiệu quả cho các chiến binh Việt trên đường Phạt Tống, Bình Chiêm.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế