Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

Đặc Tính Lãng Mạn Trong Những Năm Đầu Của Cuộc Kháng Chiến Chống Pháp (1946-1954) và Thi Ca Việt Nam Thời Chiến




Phạm Cao Dương



Chiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, với súng gươm, với giết chóc, với gian lao, khổ ải, với tàn phá, hủy diệt, ... mà lại nói tới lãng mạn, hay dù hẹp hơn, tới thi ca lãng mạn là một điều hoàn toàn nghịch lý, khó có thể tưởng tượng được. Nhưng đối với những người Việt Nam đã từng sống trong cuộc chiến ba mươi năm vừa qua, đây lại là một sự thực, một sự thực có bằng chứng hẳn hoi mà người tìm hiểu khó có thể chối cãi. Nó hoàn toàn đúng ít ra là cho ba năm đầu của cuộc chiến nếu ta tính từ cuối năm 1946 khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới thực sự bùng nổ trên toàn quốc Việt Nam đến năm 1949 là năm Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản của ông làm chủ được Trung Hoa Lục Địa, Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy ra Đài Loan, biên giới Việt Trung trở thành biên giới giữa hai nước Cộng Sản Á Châu và Quốc Gia Việt Nam của Cựu Hoàng Bảo Đại được thành lập, mở đầu cho một giai đoạn mới cho cuộc chiến. Đây chính là ba năm cuối cùng của nửa đầu của thế kỷ hai mươi, ba năm đầu của thời kỳ độc lập hay tranh đấu giành độc lập dưới hình thức này hay hình thức khác, sau một thời gian dài sống dưới sự cai trị của người Pháp. Đây ba năm đẹp nhất của lịch sử chiến tranh của người Việt trong thế kỷ hai mươi, trước khi mọi chuyện đều thay đổi và thay đổi một cách bi thảm ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Câu hỏi được đặt ra là do đâu mà đặc tính lãng mạn này đã có thể tồn tại và lãng mạn đã được thể hiện ra sao trong thi ca của thời này?

 Lãng mạn trong thời gian này đã trở thành rất phổ biến trong sinh hoạt của giới thanh niên như là sự tiếp nối phong trào lãng mạn của những năm cuối của thập niên ba mươi và những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi

Ở thời điểm ba mươi của thế kỷ hai mươi người ta nói tới ý muốn thoát ly khỏi cuộc đời nhàm chán, dù cho là chẳng biết để đi đâu trong khi cách mạng hãy còn là một ý niệm mơ hồ và chế độ đô hộ của người Pháp có vẻ mỗi ngày một vững hơn. Sang đầu thập niên bốn mươi tất cả đã đổi khác. Lý do là sự bại trận của người Pháp ở ngay chính nước Pháp và sự thắng thế của quân đội Nhật và sự hiện diện của họ trên đất nước Việt Nam. Nếu vào cuối thập niên ba mươi người ta nói tới chuyện

Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang

hay ngồi trước lò sưởi trong một ngày mưa gió, hút thuốc lá, thở khói lên trần... thì vào đầu thập niên bốn mươi, ngưới ta lại sính hát Hòn Vọng Phu của Lê Thương hay tìm hiểu và ngâm những đoạn thơ và vẽ những cảnh diễn tả buổi chia ly tuyệt đẹp và vô cùng lãng mạn trong Chinh Phụ Ngâm:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.


Mọi người dường như chờ đợi và sẵn sàng để làm công việc này.

Khi chiến tranh toàn quốc bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946, tinh thần lãng mạn qua ý niệm thoát ly để đi làm cách mạng từ mơ hồ đến chỗ gần như bế tắc đã được thay thế bằng một thứ lãng mạn yêu nước cụ thể hơn. Người ta sẵn sàng từ bỏ gia đình, từ bỏ quê hương, ruộng vườn để ra đi và ra đi mà không ai trách cứ. Nhiều thanh niên đã hăng hái xung phong gia nhập Vệ Quốc Đoàn, nhiều người không được nhận vì thiếu sức khỏe đã khóc khi phải trở về nhà. Người ta đã ra di để cứu quốc một cách ngây thơ, tự nhiên, đơn giản, không cần biết ai là người lãnh đạo, nói như Phạm Duy ở một chỗ nào đó trong hồi ký của ông.

Trước đó, khi các mặt trận mới chỉ diễn ra ở các thành phố, các lực lượng Tự Vệ Thành đã thu hút một số lớn thanh thiếu niên nam nữ thuộc đủ mọi thành phần từ các sinh viên, học sinh đến những người làm nghề lao động.

Các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao qua những buổi cắm trại hay du ngoạn đã đưa giới trẻ đến chỗ có dịp thoát ra khỏi cuộc sống chật hẹp nhàm chán ở các thành phố hay các phủ hay huyện lỵ của thời bấy giờ để có thể vào rừng, lên núi, ra các miền quê hay bờ biển sống gần với thiên nhiên, tiếp xúc với dân quê hay người miền núi hơn, đồng thời thăm viếng các thắng cảnh hay các di tích lịch sử của đất nước mà trước đó họ chỉ có dịp tiếp xúc qua sách vở hay trong lớp học. Lãng mạn tính thể hiện trong tình yêu thiên nhiên, tình yêu thương quê hương, đất nước và đồng bào cũng như cái đẹp của quê hương, đất nước, và của những người dân quê hay miền núi, công lao xây dựng và bảo vệ đất nước của người xưa... của một thế hệ người Việt mới đã nẩy nở trong bối cảnh này.

Những năm đầu của thập niên bốn mươi cũng là thời gian xuất hiện của nhiều bài ca mang nặng tình cảm bình thường của con người cùng tình yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là những bài ca lịch sử. Bắt đầu những bài ca này được phổ biến ở thành thị, sau đã tràn về thôn quê do những cuộc tản cư thời phi cơ Mỹ ném bom các cơ sở của quân đội Nhật hay trong các cuộc cắm trại hay du khảo của các phong trào Hướng Đạo hay thanh niên.

Thi ca lãng mạn thời chiến

Bây giờ nói tới thi ca thời chiến, đúng hơn thi ca lãng mạn thời chiến hay đúng hơn nữa, thi ca lãng mạn trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của người Việt trong nửa sau của thế kỷ hai mươi, thời quân đội kháng chiến còn được gọi là Vệ Quốc Đoàn, chưa bị đổi tên là Quân Đội Nhân Dân, những năm tôi nghĩ đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của người Việt trong thế kỷ hai mươi, bất kể là do ai lãnh đạo, trước khi mọi chuyện thay đổi. Còn nếu so sánh với cả lịch sử của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là một trong những thời gian đẹp nhất như chính những người tham dự đương thời đã miêu tả như:

Ở thời nhà Trần:

Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong

................
Lính già phơ tóc bạc
Kể chuyện thuở Nguyên Phong

(Thơ Trần Nhân Tông, Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch)

và thời kháng chiến chống Pháp:

Buông tay gầu vui lại thuở bình Mông
Thơ Yên Thao, Nhà Tôi

Nếu người lính già của thời nhà Trần cứ thỉnh thoảng ngồi kể chuyện của thời Nguyên Phong thì những người đã từng là lính hay đã từng sống hay tham dự vào những sinh hoạt ở thời chống Pháp từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1950 cũng không bao giờ quên được những ngày kháng chiến của mình dù là sau này họ sống ở vùng Tề hay ở hậu phương, ở trong Nam hay ở ngoài Bắc, ở trong nước hay ở hải ngoại, dù là họ tiếp tục được sống trong vinh quang hay bị bỏ quên ở một góc phố hay ở một làng thôn hẻo lánh nào đó.

Có điều văn thơ của họ đã được phổ biến mỗi ngày một rộng, từ hình thức những bài chép tay nằm dưới đáy ba lô của những người lính Vệ Quốc Đoàn hay những cán bộ còn nặng đầu óc tiểu tư sản ở ngay chính thời chúng mới được làm, đến những bản in trong các sách vở, những bản phổ nhạc ở miền Nam hay được đưa lên sân khấu ở Hải Ngoại. Nhưng tên tuổi của Hoàng Cầm, Quang Dũng, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Yên Thao, Hữu Loan... đã được người ta nhắc tới.

Những tác phẩm như Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa, Bên Kia Sông Đuống, Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đồng Chí, Bao Giờ Trở Lại, Làng Tôi, Màu Tím Hoa Sim... của các tác giả này đã được nhiều người thuộc lòng dù là thuộc một vài đoạn, một vài dòng hay một đôi câu hay ít ra là có thể nhận ra được vì đã được nghe ngâm, nghe hát vào một dịp nào đó trong đời mình, kể cả những người chưa từng được nghe, được học về cuộc kháng chiến chống Pháp của thời cha ông họ.

Nhận xét về các tác giả này, người ta thấy đa số họ là những tên tuổi mới và hầu hết đều rất trẻ. Tất nhiên là rất trẻ cho thời kỳ các tác phẩm của họ được sáng tác. Đa số năm sinh của họ là vào đầu hay giữa thập niên hai mươi, tuổi của những người đã đóng vai trò chính trong cuộc cướp chính quyền của Việt Minh vào tháng 8 năm 1945. Họ cũng là những người có học, đã từng là cựu học sinh các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long.... Điều này cũng có nghĩa là họ đã có dịp tiếp xúc với văn hóa tây phương, trong đó có văn chương lãng mạn Pháp.

Nhưng quan trọng hơn hết họ là những nhà thơ có thực tài, có cảm giác rất bén nhậy với những nhận định tinh vi và đã được sống trong thời kỳ sôi sục nhất của lịch sử dân tộc. Riêng Quang Dũng còn là một người rất tài hoa, phóng khoáng. Cái lãng mạn của họ do đó không phải chỉ khác hơn mà còn phức tạp hơn cái lãng mạn của những nhà thơ lớp trước. Lãng mạn của họ là lãng mạn kết hợp bởi không riêng tình yêu nam nữ mà luôn cả tình yêu gia đình, đặc biệt là tình yêu dành cho người mẹ, người vợ, cho đứa con còn bú, cho xóm làng, bờ sông, ruộng vườn, hình ảnh quê hương thuở còn thanh bình... và đương nhiên cả cuộc kháng chiến với những đồng đội, với đơn vị, với núi rừng, với bệnh hoạn, với cái chết kề bên, với những xóm làng đã đi qua... Chính vì vậy mà có nhà nghiên cứu chỉ xếp Hữu Loan và Quang Dũng vào loại những tác giả lãng mạn, còn các tác giả khác vào loại tranh đấu hay tuyên truyền cho kháng chiến dù là ở một mức cao về nghệ thuật.

Có điều dù xếp thơ của họ vào loại nào đi chăng nữa, người ta phải cũng phải công nhận rằng những thi ca này đã phát xuất một cách tự nhiên, từ tâm hồn của mỗi tác giả. . Chính vì thế mà mỗi người có một phong cách riêng tùy theo bản chất và hoàn cảnh của mình. Ngôn từ họ dùng cũng rất đơn sơ, giản dị, trong sáng, dễ dàng khiến cho người nghe, người đọc không đến nỗi phải cố gắng, phải căng óc ra để tìm hiểu. Âm điệu cũng vậy. Đa số những bài mọi người ưa thích đều là thơ tự do, nhưng dòng thơ rất tự nhiên, trôi chảy, nhẹ nhàng từ đó lôi cuốn người đọc khác với nhiều bài làm theo cùng thể về sau này.

Trong giới hạn của một bài báo, người viết không thể đi sâu vào từng tác phẩm, từng tác giả mà chỉ đề cập tới hai tác giả chính, được nhiều người ưa thích là Hoàng Cầm và Quang Dũng.

Hoàng Cầm và Quang Dũng, hai người cùng một tuổi, một người sinh ở Bắc Ninh, quê hương của dân ca miền Bắc, một người ở làng Phùng, một làng được người ta biết tới là vừa chăm chỉ làm ăn, vừa ham mê du hí, nói theo Trần Lê Văn, tác giả của một tuyển tập về Quang Dũng. Hai người cùng có trình độ học vấn cao ở thời bấy giờ và cùng dự tính vào nghề dạy học. Nhưng trong khi Hoàng Cầm ở lại với nghề trước khi tham gia kháng chiến thì Quang Dũng, mặc dầu đã ra trường sư phạm nhưng lại bỏ nghề, đi đánh đàn, kéo nhị cho một gánh hát, chỉ làm thày giáo dạy kèm để được đi đây, đi đó, kể cả lên Yên Báy làm ký ga, sau mới về Hà Nội, tham gia cách mạng rồi kháng chiến và kháng chiến thực sự trong đoàn quân Tây Tiến.

Sự khác biệt trong đời sống của hai người đã ảnh hưởng lớn tới thi ca. Thơ của Hoàng Cầm phát xuất từ quần chúng, từ đoàn thể, lấy quần chúng, đoàn thể làm đối tượng nên có lời lẽ bình dị, dễ dàng, lôi cuốn, hấp dẫn, khi thì mạnh mẽ, khi thì sôi nổi, khi thì nỉ non, kể lể, tha thiết..., điển hình là ba bài bài Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa và Bên Kia Sông Đuống. Cả ba đều là thơ ca tụng kháng chiến và cổ võ cho kháng chiến nhưng ca tụng và cổ võ với một nghệ thuật cao, một phong thái tự nhiên vững vàng, không sống sượng
Cả ba bài đều lấy đám đông hay người của đám đông làm khởi điểm với những bối cảnh, những tình tiết của đám đông hay những con người của đám đông, đám đông làm công việc chiến đấu để bảo vệ quê hương với những hình ảnh quen thuộc của quê hương được nêu lên trong truyện kể. Bài Đêm Liên Hoan theo Phạm Duy được làm để thay thế cho một vở kịch thơ mà Hoàng Cầm muốn dựng, hướng vào các Vệ Quốc Quân nhưng vì đội văn nghệ của ông có rất ít người nên cuối cùng ông chỉ có thể làm một bài thơ cho một hay hai người ngâm trên một sân khấu ngoài trời mà thôi. Chính vì thế ta không lấy làm lạ là khi trình bày bài thơ này người ta không thể chỉ có ngâm, chỉ có dùng lời nói để diễn tả mà thôi mà còn phải kèm theo những cử chỉ, những điệu bộ và kèm ngay khi ngâm mấy câu đầu:

Đêm liên hoan đầu người nhấp nhô như sóng biển ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn...






Hoàng Cầm





Phạm Duy



Cũng theo Phạm Duy, Phạm Duy đã cùng Hoàng Cầm diễn ngâm rất nhiều lần trước hàng trăm, hàng ngàn Vệ Quốc Quân với những lời lẽ vô cùng tha thiết và đầy hào khí như:

Trong tiểu đội của anh
Những ai còn ai mất?
Không ai còn ai mất
Ai cũng chết mà thôi!
Người sau kẻ trước lao vào giặc
Giữ vững nghìn thu một giống nòi!
Dù ta thịt nát xương rơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam!


Tâm Sự Đêm Giao Thừa kể chuyện người lính nghèo có vợ mới sinh con. Vì nghèo và đang chiến đấu ở chiến trường nên anh lính và cũng có thể chính tác giả không có gì để gửi về cho vợ con ăn Tết. Còn nếu có thì chỉ là ráng lập công để sớm được về. Trong khi đó thì người vợ ở nhà sinh sống bằng bán hàng ở một quán nhỏ, cuối năm ế khách, thiếu ăn, không đủ sữa cho con bú. Người lính tưởng tượng ra cảnh vợ mình đang đói ăn, không có sữa cho con bú, nhưng nghe tin chồng thắng trận thì vui mừng quá, máu bỗng chảy mạnh trong huyết quản, sữa bỗng căng trên đầu vú và đứa con được bú một bữa no trong niềm vui lớn của cả dân tộc.

Ta hãy đọc những đoạn chính của Tâm Sự Đêm Giao Thừa:

Đêm nay hết một năm
Phải gác tới giao thừa
Quê hương chừng rét lắm
Lất phất mấy hàng mưa
Tôi có người vợ nghèo
Đời vất vả gieo neo
Từ khi chồng đi lính
Nhà tranh bóng hắt hiu
Lần hồi rau cháo dăm phiên chợ
Tóc rối, thân gầy, quán vắng teo.


Đêm ba mươi gió thổi
Tôi lại nhớ con tôi
Vợ đói, con cùng đói
Khóc thét lặng từng hồi
Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa
Ngực lép con nhai đã rã rời...


với bốn câu kết luận:


À ơi! Cha con ăn Tết lập công
Cho sữa mẹ chảy một giòng nghìn thu
Cha đem cái chết quân thù
Làm nên cuộc sống bây giờ của con


Trong bài Bên Kia Sông Đuống Hoàng Cầm dùng lối kể chuyện để giải buồn cho người yêu. Ông đã dùng tất cả những hình ảnh tươi đẹp, hiền lành của quê hương thời thanh bình trước kia và mơ ước một ngày cùng người yêu trở về.

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì



Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

......

rồi Hoàng Cầm kể tiếp những hình ảnh hiền hòa dễ thương của cuộc sống ở quê hương ông như lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ, áo the đen, cô hàng xén răng đen, những cô nàng cắn chỉ môi trầu, những em bé xột xoạt quân nâu... mà chiến tranh đã làm tan hoang phiêu bạt, để cùng người yêu mơ ước một ngày về:

Bao giờ về bên kia Sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.





Quang Dũng



Thơ của Quang Dũng khác hẳn.

Quang Dũng không làm thơ hướng vào đám đông, để tuyên truyền, để cổ võ cho kháng chiến, để thúc đẩy mọi người hy sinh cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Ông làm thơ cho ông hay chia sẻ với bạn bè của riêng ông. Ông nhìn mọi chuyện qua con mắt riêng của ông, trình bày những cảm nhận của riêng ông, của một con người vừa tài hoa, vừa phóng khoáng, độc lập, không chịu sống gò bó, mà trước kia ông đã có dịp thể hiện qua hành động không ở lại với nghề dạy học sau khi đã tốt nghiệp trường sư phạm để đi theo một gánh hát kéo đàn nhị hay lên Yên Bái làm thư ký nhà ga.

Phong thái của ông đã hiện rõ nét trong thơ ông. Đi kháng chiến, theo đơn vị vượt biên giới sang Lào, trải qua nhiều gian lao, vất vả, hiểm nguy, bệnh tật, chết chóc... Nhưng qua thơ của ông tất cả đã trở thành nhẹ nhàng, rất lãng mạn, rất đẹp và rất thơ, không vướng vào những hạt sạn của tuyên truyền.

Ông viết:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Hiu hắt cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống...

hay

Chiêu chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người...

hay:

Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.


Những hình ảnh thật hào hùng khó kiếm được ở những nhà thơ khác đương thời. Cần để ý đoàn quân không mọc tóc không phải là đoàn quân trọc đầu vì theo kỷ luật của quân đội mà là bị sốt rét nặng mà những ai đã từng sống ở miền Bắc trong thời gian tản cư về các miền quê hay miền núi đều có kinh nghiệm.






Bản chép tay rất xưa cũ bài Tây Tiến



Với cái chết, Quang Dũng cũng nhìn với phong thái tương tự, một phong thái bình thản, có thể nói là hồn nhiên của trẻ thơ bởi vì đi lính là đương nhiên người ta phải chấp nhận tất cả dù là gian lao, nguy hiểm, chết chóc, dù là đi lính cho một mục tiêu vô cùng đẹp đẽ, vô cùng lý tưởng như Hoàng Cầm và các nhà thơ khác diễn tả. Nhưng Quang Dũng đã đạt tới một trình độ cao hơn. Ông cảm nhận được sự mong manh của cuộc sống ngoài chiến trận. Một phút trước người ta còn tồn tại, phút sau đã trở thành hư vô. Ông đã chấp nhận sự mong manh đó như người ta chấp nhận trò chơi hồi còn nhỏ. Chán, mệt thì không chơi nữa, không thèm chơi nữa, lúc khác sẽ chơi lại.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

hay

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

hay:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.


Thực sự thì ở đây chết là chết không có chiếu mà chôn.

Những câu thơ kể trên được trích từ bài Tây Tiến của Quang Dũng. Nhưng đó không phải là những câu hay nhất vì trong bài này câu nào cũng hay, cũng xúc tích, cũng gợi nên những cảm xúc sâu xa ở người đọc. Xen vào những câu này, là những câu đầy tình cảm, mang nặng bản chất hào hoa, tiểu tư sản thành thị. Đêm trằn trọc không ngủ được trên đường hành quân, Quang Dũng viết:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

hay ở một bài thơ khác, bài Đôi Bờ:

Khói thuốc khơi dòng thương nhớ xưa
Đêm đêm Sông Đáy lạnh đôi bờ.
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ.


hay trong Đôi mắt Người Sơn Tây:

Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương.

Ngay cả đối với những sinh hoạt mà các văn nghệ sĩ đương thời thường gặp hay tham gia trong những năm này ở vùng kháng chiến như các đêm liên hoan chẳng hạn, khác với Hoàng Cầm, Quang Dũng cũng tham dự nhưng tham dự như là một khách phong lưu, tài tử. Ông không gọi là liên hoan, tiếng thời thượng, ai cũng dùng. Ông dùng hai hai chữ đuốc hoa và kèm theo hai chữ xiêm áo của văn chương lãng mạn cổ điển:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.


và còn nhiều nữa nhưng bài đã quá dài, viết thêm nữa e làm loãng những gì người viết muốn viết hay muốn nói. Xin để cho người đọc suy nghĩ, tìm tòi tiếp.

Kết luận: Khi tham gia đoàn quân Tây Tiến vào năm 1947, một đoàn quân được nói để bảo vệ miền Thượng Lào và biên giới Việt Lào nhưng rất có thể chỉ là để thanh toán những thành phần tiểu tư sản trí thức còn lại của Trung Đoàn Thủ Đô và của Tự Vệ Thành Hà Nội sau khi họ đã làm tròn nhiệm vụ vì ai cũng biết chiến đấu ở các miền rừng núi đoàn quân này không thể nào so sánh được quân đội chính qui của Võ Nguyên Giáp mà để lại ở miền đồng thì nguy hiểm, Quang Dũng làm đại đội trưởng. Cuộc đời binh nghiệp của ông đã không lên cao được hơn nữa, có thể là vì gốc gác của ông cũng như bản chất con người nghệ sĩ phóng khoáng của ông.

Sau này khi về Hà Nội, ông đã được thấy những cảnh bi thảm của vợ con những tử sĩ của thời chiến và đã ghi lại trong bài Đường Chiều Thứ Bảy với những câu như sau:

Tôi đã gặp
Nhiều người vợ trẻ
Đàn ông đã ngã trên chiến trường
Vất vả nuôi con những ngày kháng chiến
Xót xa thương khóc bao ngày
Chiều thứ bảy hôm nay
Họ đi bên người chồng mới lấy
Và những đứa con
Bước còn bỡ ngỡ
Bên người cha mới hôm qua.
Ai biết được bây giờ
Tâm sự của những người
Ngậm ngùi cất kỹ ảnh chồng
Vào đáy hộp nữ trang
Bến nước đi thêm một bước nữa.

Bài thơ tả chân nhưng cũng có thể mang tính chất biểu tượng. Nó nói lên sự thê thảm, thật là thê thảm của những người được gọi là thắng trận, thê thảm như chính cuộc đời của tác giả, của Hữu Loan, của Nguyễn Hữu Đang và của nhiều người khác... , những người nửa đường đứt gánh. Có điều vì những ngày theo kháng chiến của họ đẹp quá, nên thơ quá nên họ luôn luôn tiếc nuối, bỏ không được, giữ không xong. 

Phạm Cao Dương

Chiều Cuối Đông



Hà Thiên Sơn



Ta cột ngựa bên hàng mận hậu
Chiều đã xuôi về phía chân đồi
Bếp lửa hồng em còn đó đơn côi
Mùi bắp nướng bờ môi tình tứ.

Ta bắt gặp mắt người thiếu nữ
Thoáng u buồn lữ thứ chưa phôi
Chiều cuối đông hoang dấu chân người
Vách đá dựng bên đồi cỏ úa.

Ta với em kề bên bếp lửa
Giọt rượu nồng một nửa chuyền tay
Sỏi đá hồn nhiên nép dưới đế giày
Cũng muốn được một ngày lấp lánh.

Trời về chiều núi rừng thấm lạnh
Em cho ta sức mạnh kẻ xa bầy
Có điều gì chưa uống đã say
Ngựa mỏi gối cuối ngày gõ móng.

Ở Hay Về ? (*)

Trịnh Y Thư

 

 Lâu ngày gặp lại người bạn văn, chưa kịp hỏi han nhau về sức khoẻ, đời sống, viết lách, có tác phẩm nào vừa mới ra mắt độc giả không, anh đã cho tôi cái tin làm tôi khá chưng hửng. Anh bảo tôi anh đang chuẩn bị về sống nốt quãng đời còn lại tại quê hương. Mọi chuyện suôn sẻ và chỉ vài hôm nữa anh lên đường. Anh cũng bảo tôi chỉ có cách đó anh mới tiếp tục viết được, anh thấy đời sống ở nước ngoài càng ngày càng mất ý nghĩa, càng vô vị đối với anh, anh không còn thấy điều gì ràng buộc anh ở ngoài này nữa. Nói chung, anh đã chán cuộc sống xa xứ sau gần ba mươi lăm năm và ở tuổi sắp về chiều anh muốn quay về cố hương, bản quán. Tôi tỏ ý vui mừng cho anh và bên tách cà phê tôi ngồi nghe anh nói về những hoạch định cho tương lai của anh khi trở về quê mẹ. Ở hay về? Đó là câu hỏi ít nhiều vẫn quay quắt trong tâm trí nhiều người chứ không riêng gì tôi. Tình cảm nhớ thương đau đáu của con người đối với nơi chốn mình sinh ra bao giờ cũng sâu đậm, khôn quên. Thời gian, không gian nào cũng thế. Như loài cá hồi, cá trích, khi sinh sống có thể bơi lội nhẩn nha kiếm ăn giữa biển khơi ngoài nghìn dặm, nhưng khi hạn kì đến thì bằng mọi cách và mọi giá, bất chấp gian nan, dù là lao vào chỗ chết, vẫn vượt trùng dương để về lại thượng nguồn nước ngọt nơi chúng sinh ra. Hơn nữa, chuyện hội nhập vào một xã hội Hậu Kĩ nghệ, hằng ngày va chạm với máy móc nhiều hơn là con người, là điều khó xảy ra một cách toàn vẹn đối với nhiều trí thức thấm đẫm dòng suối mẹ ngọt ngào của văn hoá quê hương, một nền văn hoá có truyền thống lâu đời với tất cả những cái đẹp thâm thuý, sâu sắc của nó. Ý thức trở về không hẳn chỉ bị vây hãm, bó rọ giữa những sự việc tủn mủn, vặt vãnh của đời sống. Nó là thái độ của con người đi tìm lại lai lịch, bản nguyên của chính mình (dù con người đó đã mấp mé ở ngưỡng cửa “thất thập cổ lai hi” như anh bạn văn vong niên của tôi). Lẽ đương nhiên, tôi tôn trọng quyết định của anh bạn tôi. Đấy là quyền của anh. Với anh, nó là chính đáng, nó có những lí do của riêng nó. Có thể sẽ có những quá âm chính trị dấy lên ồn ào quanh việc anh trở về bởi anh là nhà văn có tiếng trong cộng đồng, nhưng quá âm chính trị, như mọi câu chuyện thời sự khác, có tính nhất thời; nó đến, gây kinh động ồn ào rồi âm thầm lặng lẽ cuốn gói biến đi; tác phẩm để lại mới là điều quan trọng lâu dài, nó là lí do tồn tại, raison d'être, đối với nhà văn. Nhưng cũng có thể chẳng có gì xảy ra bởi người ta đã nói hết hơi sau việc trở về của nhạc sĩ Phạm Duy cách đây ít lâu. Nói cho cùng, chuyện trở về nước sinh sống bây giờ xảy ra “hà rầm”, thậm chí, bà vợ cũ nổi tiếng của một cựu Phó Tổng thống cũng về mở tiệm phở kinh doanh kiếm tiền. Để kiếm sống, người cạy cục xin đi, kẻ tất tả chạy về. Trong thế giới ngày càng thu nhỏ, co cụm, tất cả chẳng có gì đáng nói, và chẳng ai có thể nhân danh lí tưởng này nọ hoặc những điều cao cả, thậm chí đạo lí, để lên án người thực tâm muốn trở về với thiện ý bao dung, nhân ái. Điều đáng nói là câu hỏi : Việc trở về của một nhà văn tác động gì lên ý thức và thái độ hắn trong văn chương? Liệu hắn sẽ là người viết khác khi hắn trở về bản quán nơi hắn sinh ra sau thời gian dài sinh sống ở nước ngoài? Môi trường sinh sống; thổ ngơi chính trị; động hình xã hội; nhận thức chủ quan đối với người và việc; cảm quan và khí hậu nghệ thuật nói chung vốn ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ lên cảm nhận và thái độ tiếp nhận của người đọc; quy luật kinh tế thành văn cũng như bất thành văn; sự tự do của ngòi bút do áp lực chính trị lẫn kinh tế; và có lẽ quan trọng hơn cả, hắn có cảm thấy hắn vẫn là kẻ lạ ngay trên chính quê hương mình hay không. Tất cả là những yếu tố khách quan lẫn chủ quan định đoạt cho sự thành bại trong việc trở về. Xem ra sự trở về của nhà văn - khác với sự trở về để mở tiệm phở - là khá phức tạp, ngoại trừ trường hợp nhà văn về cũng để mở tiệm phở cạnh tranh với cựu Phó Tổng thống phu nhân. Ngày nay có khá nhiều nhà thơ, nhà văn Việt Nam trở về, nhưng tôi không rõ họ hài lòng hay thất vọng với quyết định ấy của mình, một quyết định mà tôi nghĩ không dễ dàng chút nào, bởi ngay cả nhiều nhà văn thành danh trên thế giới, sau một thời gian dài sống lưu vong, khi điều kiện trên quê cũ đổi khác theo chiều hướng thuận lợi, vẫn thường gặp ít nhiều khó khăn trong quyết định trở về. Nếu cần, tôi có thể đưa ra dăm ba trường hợp các nhà văn này. Trước hết phải kể đến Aleksandr Solzhenitsyn. Năm 1974 ông bị nhà nước Sô- viết tước bỏ quốc tịch Nga và trục xuất ra khỏi nước, nhưng sau gần hai thập kỉ sống ở nước ngoài (phần lớn trên một sơn trại thuộc bang Vermont, nước Mĩ), ông trở về. Ít ai ngạc nhiên hoặc thắc mắc chuyện ông trở về. Ông là người nặng lòng với quê hương và dân tộc. Sau khi chế độ Cộng sản Sô-viết sụp đổ, ông không có lí do gì không trở về. Hơn nữa, ông chán ghét cuộc sống Tây phương. Cánh hữu dùng ông như công cụ tuyên truyền cho chủ thuyết chống Cộng của họ; còn cánh tả thì lên án ông là người có tinh thần quốc gia cực đoan và nệ giáo (Chính Thống Nga). Văn hoá Tây phương vốn nghiêng nặng về mặt đại chúng, mang nhiều sắc thái tiêu thụ, cũng khiến ông cảm thấy bức bối, xa cách. Sau khi hồi hương, mặc dù được mọi người, kể cả Tổng thống Vladimir Putin, kính nể và trọng vọng, ông vẫn có cảm tưởng là kẻ đứng ngoài cuộc. Ông cho đăng vài truyện ngắn trên báo chí nhưng giới trẻ đã có con đường đi của họ và họ xếp ông lại như món đồ cổ đem trưng bày trong bảo tàng viện. Kì thực, trước đấy, ông đã làm tròn sứ mệnh và nhiệm vụ cực kì khó khăn của một nhà văn sống giữa kỉ nguyên của bạo lực điên khùng, với quê hương ông và với cả thế giới. Việc ông trở về giống như đoạn kết có hậu của vở bi kịch dài và đã nói hết những điều cần nói. Người thứ hai tôi muốn nhắc đến là nhà viết tiểu thuyết người Tiệp Milan Kundera. Bảy năm sau biến cố “Mùa Xuân Praha” năm 1968, ông chọn cuộc sống lưu vong ở Pháp. Sau cuộc “Cách Mạng Nhung” - một cuộc cách mạng lãnh đạo bởi giới văn nghệ sĩ và trí thức Tiệp mà người lên làm Tổng thống sau đó chính là bạn thân của ông, nhà viết kịch Václav Havel - thể chế dân chủ tái lập trên quê hương ông, nhưng ông không trở về sống hẳn trong nước mà chỉ về thăm viếng như người khách. Dân Tiệp (tương tự dân Việt mình) xem nhà văn là kẻ sĩ của thời đại. Họ ngước lên nhìn nhà văn như ngọn đuốc soi đường. Trong mắt họ nhà văn là lương tâm dân tộc, là chứng nhân của Lịch sử, là kĩ sư tâm hồn, trong khi ông đặt trọng tâm của tiểu thuyết vào tính nghệ thuật khai phá theo con đường kế thừa chung của tiểu thuyết châu Âu từ thời Rabelais, Cervantes… Ông xem Lịch sử chỉ như tấm phông cho tiểu thuyết. Câu nói nổi tiếng của ông, “Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu hạ sử gia” có lẽ nói lên điều này rõ rệt nhất. Bởi thế ông không có độc giả trong nước. Đó là điều nghịch lí khá oái oăm cho một nhà văn: được cả thế giới hâm mộ nhưng chính dân tộc mình thì quay lưng lại. Thờ ơ. Quên lãng. Thậm chí có kẻ không xem ông là người Tiệp. Tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông, cuốn Đời nhẹ khôn kham, mãi đến năm 2006 mới thấy xuất bản ở Cộng hoà Czech trong khi cả thế giới đã đọc từ lâu. Ngày nay độc giả của Kundera là thế giới chứ không phải người Tiệp. Và mặc dù không ai có thể nghi ngờ lòng ái quốc của ông, tôi nghĩ đấy là lí do chính khiến ông thấy không cần thiết phải trở về. “Hình phạt bi thảm nhất cho người cầm bút là phải sống lưu vong.” Nhà thơ lừng lẫy của nước Nga Yevgeny Yevtushenko có lần bảo thế. Ông ví người cầm bút sống ngoài quê hương mình như kẻ đánh đu trên cao mà không có lưới đỡ bên dưới. Cái lưới bảo hiểm ấy chính là đất nước, xóm làng, sông biển, núi đồi nơi mình sinh trưởng và những con người cùng chủng tộc, ngôn ngữ, tập quán, văn hoá chung quanh. Yevtushenko là một trong những nhà thơ kì vĩ nhất của văn học Nga vào nửa sau thế kỉ XX. Ông nổi tiếng nhờ những bài thơ đầy chất “lửa”, như bài Babe Yar viết dưới thời Sô-viết. Thơ ông đi sâu vào đại chúng Nga bởi nó có tính trình diễn, dễ tác động lòng người, gây cảm xúc mạnh lên một dân tộc yêu chuộng thơ ca. Nhưng khác với những nhà văn, nhà thơ phản kháng khác thời đó (như Joseph Brodsky), ông không chọn đời sống lưu vong. Tuy vậy, sau khi chế độ Sô-viết sụp đổ toàn diện thì người ta thấy ông dọn nhà sang bang Oklahoma, Mĩ quốc, nhận một chân dạy học nhàn nhã tại đó. Tại sao? Xã hội Nga hậu Cộng sản hết thử thách và hứng khởi cho ông làm thơ rồi chăng? Chẳng lẽ nhà thơ chỉ sáng tác được khi chính mắt chứng kiến bạo lực và bất công? Hay ông nhận thấy mình đã hoàn tất nhiệm vụ của một nhà thơ và ông lặng lẽ rút lui khỏi khán trường? Từ lâu, tôi không theo dõi nhà thơ này nữa nên nhận định của tôi có lẽ là không đúng đắn. Nhưng, cũng từ lâu, người ta không ngớt thắc mắc, đúng hơn, tranh cãi kịch liệt về con người cũng như thái độ sống của ông. Người thứ tư tôi nghĩ đến là Cao Hành Kiện. Từ năm 1988 cho đến ngày nay, ông sống lưu vong ở Pháp quốc. Ông là nhà văn đầu tiên của Trung quốc được trao tặng giải Nobel văn chương (năm 2000), một vinh dự không nhỏ cho nền văn học Trung văn đương đại. Thế nhưng, nhà nước Trung quốc trước sau duy trì thái độ thù nghịch đối với ông. Báo chí Hoa lục gọi ông là một nhà văn dở tệ và không tiếc lời bỉ báng chuyện ông được giải Nobel. Không cần nói nhiều, Cao Hành Kiện vẫn sinh sống ở Paris chứ không xách va li quay về quê cũ, mặc dù Trung quốc ngày nay đang trên đà phát triển vũ bão tiến lên thành siêu cường kinh tế và quân sự trên thế giới. Còn nhiều trường hợp khác nữa. Brandys, Gombrowicz, Brodsky... Gần như tất cả hoặc là nạn nhân hoặc không chấp nhận sống dưới những thể chế toàn trị của khối Cộng sản Đông Âu, nhưng không phải ai cũng xách va li xếp hàng lũ lượt nối đuôi nhau bước lên phi cơ trở về quê cũ sau khi các thế lực chính trị ấy suy tàn. Có sự nghịch lí nào ở đây chăng? Quả tình tôi không nghĩ thế. Ngọn suối nguồn cho sự sáng tạo của người nghệ sĩ thường bắt rễ rất sớm, từ những năm tháng của tuổi ấu thơ hoặc thời tráng niên mới trưởng thành. Sau khi lớn khôn, trải nghiệm sống và kiến thức của người nghệ sĩ có thể là phong phú, già dặn hơn trước nhiều, nhưng nền tảng cho sự sáng tạo của hắn vẫn nằm nơi tiềm thức, kí ức, tập quán và ngôn từ của tuổi ấu thơ. Bởi thế, dứt bỏ ra khỏi nền tảng ấy để thâm nhập vào một khí quyển mới, hoàn toàn xa lạ, đòi hỏi hắn phải vận dụng những nỗ lực phi thường mà không phải ai cũng có khả năng làm được. Thế rồi, sau một thời gian dài sinh sống nơi nước ngoài, cái đau hoài hương trong lòng người nghệ sĩ dần dà phai nhạt để nhường chỗ cho cái đau của sự lạ hoá. Sự việc biến thiên theo chiều nghịch đảo : cái thân quen biến thành cái xa lạ và ngược lại. Trở về thăm viếng nơi mình sinh trưởng sau một thời gian dài xa cách, gần như ai cũng cảm thấy nỗi đau này. Nó lạ lùng một cách tàn bạo. Dù cố gắng cách mấy người ta vẫn không thể tự đánh lừa được cảm giác xa lạ, lạc lõng, tách rời. Mảnh đất nơi mình sinh ra biến thành nơi chốn mới, không còn là của mình nữa. Lịch sử của mảnh đất đó không có chỗ đứng cho mình, nó tàn nhẫn gạt mình ra ngoài lề. Lằn ranh biên giới giữa nhớ và quên như bị xoá sạch, không còn cái gì đáng nhớ, sự lãng quên như bị sai khiến bởi vô thức. Kí ức vẫn còn đấy trong bộ nhớ nhưng nó như bị ảo hoá, trở nên không thực. Sự lạ hoá này cũng thật là tàn bạo bởi cùng lúc nó để hiển lộ khía cạnh hiện sinh của thế giới con người : con người là sinh vật không có bản nguyên, căn tính của hắn không là cái gì bất di dịch. Hắn bị ném ra ngoài thế gian này mà không hề biết tại sao. Hắn như nhà phi hành đi bộ ngoài không gian bị đứt dây buộc với phi thuyền mẹ và cứ thế dật dờ trôi giạt mãi về khoảng không gian huyền tẫn mịt mù. Trịnh Y Thư -------------------------------- (*) từ Tạp bút “Chỉ Là Đồ Chơi”, cùng tác giả, tạp chí Hợp Lưu (Hoa Kỳ) xuất bản

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

Hòn đá xấu xí





Trước của nhà tôi có một hòn đá xù xì. Nó đen sì nằm sấp như một con trâu, chẳng ai để ý đến nó. Mỗi mùa gặt hái, phơi rơm rạ trước cổng, bà tôi lại bảo: “Hòn đá vướng quá, phải vần nó đi mới được!”




Nghe bà nói vậy, bác tôi đang làm nhà muốn lấy hòn đá đó làm tường, nhưng khổ nỗi nó chẳng ra hình thù gì, không bằng phẳng cũng không góc cạnh, dùng búa đục đẽo thì tốn sức quá, thành ra hòn đá vẫn nằm chỗ cũ. Ngay cả bác thợ đá đến làm cho gia đình cái cối đá, bà tôi bảo ông ấy lấy quách hòn đá đi, ông ấy cũng ngắm nghía rồi lắc đầu.

Không ai đoái hoài, hòn đá xù xì vẫn nằm trơ ra đó. Nằm phơi nắng mưa lặng lẽ, bóng râm cũng không che được nó, hoa cũng không mọc được trên mình nó. Chỉ có cỏ dại và dây leo bao phủ lên nó. Bọn trẻ chúng tôi ghét nó tợn, đã cùng hè nhau vần đó đi nhưng không sao xê dịch được. Chỉ còn biết bực mình, mắng mỏ nó và cứ để hòn đá xù xì xấu xí nằm chết dí ở đó.

Ai cũng chê hòn đá vô dụng và xấu xí đến mức không thể xấu xí hơn được nữa. Chỉ duy nhất có nhà thiên văn tình cờ đi qua nhìn thấy nó thì lập tức bị nó cuốn hút. Ông dừng lại tìm tòi điều gì đó rồi sau đó có một tốp người kéo đến khám khám phá phá, sau đó kết luận đó là hòn đá rơi từ vũ trụ xuống đã vài ba trăm năm.

Nghe vậy, bọn trẻ chúng tôi tròn mắt ngạc nhiên. Hòn đá vừa xấu xí vừa lì lợm tai quái này hóa ra từ trời cao rơi xuống. Và theo như nhà thiên văn thì nó từng đã vá trời, từng tỏa nhiệt và tỏa sáng cho bầu trời và dĩ nhiên là cả mặt đất. Tổ tiên chúng ta có lẽ đã nhìn thấy nó và nó đã từng đem lại ánh sáng cho tổ tiên ta. Bà tôi thì bảo: “Chẳng thể nào nhận ra được, hòn đá thật không bình thường, ngay cả xây tường cũng không xây được, bậc lên xuống cũng chẳng thể lát được!”. Nhà thiên văn cười cười đáp lời bà: “Nó xấu xí quá mà!”. Bà lại hưởng ứng: “Phải, nó xấu xí đến mức không thể xấu xí hơn!”. Nhà thiên văn lại nói: “Nhưng đó chính là cái đẹp của nó. Nó đã lấy xấu làm đẹp!”. Bà tôi lấy làm ngạc nhiên: “Lấy xấu mà làm đẹp ư?”. Nhà thiên văn chậm rãi nói: “Đúng, với hòn đá này, xấu đến tận cùng chính là đẹp đến tận cùng. Chính vì thế nó không phải là thứ để xây tường hay lát bậc lên xuống, cũng không thể chạm trổ hay để giặt quần áo. Nó không phải là thứ để làm trò ấy, cho nên thường bị người đời dè bỉu chê bai”.

Nghe nhà thiên văn nói, bà tôi đỏ mặt ngồi im. Tôi cũng đỏ mặt. Tôi cảm thấy xấu hổ và cũng lờ mờ cảm thấy sự lạ thường lớn lao của hòn đá. Sự lớn lao đến mức vĩ đại ở chỗ, hòn đá đã âm thầm chịu đựng mọi sự chê bai và âm thầm bướng bỉnh là chính nó.

Sau đó không bao lâu, hòn đá đựơc nhà thiên văn và nhóm cộng sự đưa xe ô-tô đến đón đi. Thầy Đề (rút gọn)

GIẢ BÌNH AO (Trung Quốc)

Đặc điểm của người không đáng tin




KHÔI NGUYÊN 


Có người đáng tin với người này nhưng lại không đáng tin với người khác. Đó là điều bình thường vì cuộc sống muôn hình vạn trạng, và người cũng có muôn vạn kiểu người. Nhưng những đặc điểm sau làm một số người không đáng tin với tất cả mọi người.


1. Người bỏ con

Không còn gì để nói về người bỏ con, nhất là con thơ. Đến động vật, trừ một số loài đặc biết, cũng không làm điều đó. Có lẽ ai trong chúng ta cũng sẽ công nhận điều này. Người không yêu được con mình thì không yêu được ai khác.

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận đúng về bỏ con. Cuộc sống đôi khi có những tình huống éo le. Có những người rất yêu con, yêu hơn cả bản thân mình, nhưng vì điều kiện đặc biệt nào đó, họ phải xa con mình. Không có gì xót xa hơn. Bỏ con ở đây là tôi nói cho trường hợp dứt tình, không nhớ thương gì.

2. Người không coi trọng gia đình
Bạn quan hệ với một người, trong một mối quan hệ bình thường, nếu vài lần người đó mời bạn đến nhà chơi (hoặc dùng bữa) mà không thấy gia đình người đó đâu, thì bạn cũng đừng đặt niềm tin nhiều vào người đó.

Ngược lại, nếu mời một người đến nhà bạn chơi, vì lý do nào đó mà người thân của bạn đi vắng, mà trong ba câu đầu tiên người kia không hỏi về gia đình bạn, thì người đó cũng không phải là người đáng tin.



3. Người quá nhiều hoặc quá ít nguyên tắc

Ai cũng biết, sống với người nhiều nguyên tắc rất mệt mỏi. Nhà cửa ngăn nắp, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ, cẩn thận từng li từng tí. Đồng ý là nguyên tắc là cần thiết cho cuộc sống, nhưng nếu ai có quá nhiều nguyên tắc thì đang là nô lệ của nguyên tắc. Cũng như kỷ lục, nguyên tắc lập ra là để – đôi khi – chúng ta phá chúng.

Nhưng người ít nguyên tắc quá cũng không đáng tin. Sống vô tổ chức, vô kỷ luật… Bê tha bệ rạc, lôi thôi lếch thếch… Những người sống không có nguyên tắc thường là những người hoặc thiếu kiến thức, hoặc lười. Cả hai yếu tố này làm họ không chăm sóc được bản thân. Không chăm sóc được bản thân thì không chăm sóc được gia đình.

4. Người đến với bạn từ và vì lợi ích

Người đến với bạn vì lợi ích thì cũng sẽ ra đi vì lợi ích. Người có nhiều tiền rồi đến với bạn, hay người đến với bạn vì tiền đều vậy. Người nhiều tiền đến với bạn thì khi hết tiền, họ sẽ ra đi. Người đến với bạn vì tiền thì khi bạn hết tiền, họ cũng ra đi.

Tương ứng với đó là vàng, đôla, sắc đẹp, tình dục… Tuy nhiên, nếu bạn và người đó đều hiểu điều đó, đến với nhau bằng một mối quan hệ giới hạn thì không sao cả. Không ai bịp ai, khi chia tay cả hai đều vui vẻ.

5. Người quá nhiều hoặc quá ít tham vọng

Người quá nhiều tham vọng thì hay bận rộn. Bận rộn thì hay hối hả. Hối hả thì hay phụ người (vô tâm). Không đáng tin… ! Người nhiều tham vọng cũng dễ phụ người khác vì đường công danh của mình. Ý thức về các giá trị tốt đẹp như truyền thống, lễ nghĩa, tình cảm trong họ không nhiều. Họ dễ bỏ qua chúng.

Người quá ít tham vọng thì hay có xu hướng bỏ trốn để cầu an. Họ không muốn đấu tranh, không muốn sống chung với áp lực. Họ thấy tội lỗi khi không hoàn thành nhiệm vụ, và không muốn ai than trách mình, họ thường tìm cách rời bỏ.

Người không đáng tin với người tốt là người xấu. Người không đáng tin với người xấu là người tốt. Bạn như thế nào thì dựa vào đây mà tìm bạn!

Bảng chữ cái hình người Nude (18+)

Bảng chữ cái hình người Nude (18+)
A
B

C

D

E

F

G

H

I

J

K

L

M

O

P

Q

R

S

T

U

V

W

X

Y

Z

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

Sự Chết và Lãng mạn



Trịnh Lữ



Hồi còn là học sinh lớp 7, mình đã chép lại bức tranh này, bằng chì than, rất kỹ lưỡng, từ một phiên bản khổ A3 trong một vựng tập đặc biệt của bác Đặng Chấn Liêu tăng bố mẹ. Một người bạn cùng lớp đã nhất định xin bức chì than ấy. Nay thì cả bạn ấy và bức chì than kia đều đã mất.



“La Balsa de la Medusa”, 1818

Hôm qua ngồi bên thư viện làng, cách nhà nửa vòng trái đất, xem bộ sách khổng lồ của bảo tàng Louvre, in toàn bộ các tranh có ở đó, thấy bức tranh được in to, mà lại giới thiệu nhầm là của Eugene Delacroix, ngao ngán quá. Lou ơi là Lou!!! Lại phải tự nhắc câu cửa miệng của thiên hạ, đại khái rằng “human is error” – hễ là người là phải có lầm lẫn. Rồi thì ra ngoài trời châm điếu thuốc, như một nén nhang tưởng vọng người họa sỹ mà mình vẫn ngưỡng mộ từ thời còn niên thiếu: Theodore Gericault.

Năm 1819, khi bức tranh này ra mắt công chúng tại Salon ở Paris, nó đã bị giới phê bình chê bai thậm tệ, coi đây không phải là hội họa nữa, mà là một tuyên bố chính trị chống lại triều đình. Trong danh sách chính thức của Salon, bức tranh chỉ được đề là “Một cảnh đắm tàu”, chứ không phải là “Chiếc bè của tàu Medusa” như Gericault đã đăng ký. Công chúng và giới hội họa, vốn đã quen với những cảnh nhung lụa mông vú nõn nà đã “ru ngủ” giới quyền quý Pháp thế kỷ 18, kiểu như tranh của Boucher, đã hoảng sợ khi thấy sự chết khốc liệt trong bức tranh khổng lồ này – cao 5 mét rộng 7 mét, của một họa sỹ mới chỉ có hai bức tranh vẽ kỵ sỹ, và đến bức này là ba, được bày tại Salon – gần như một thứ triển lãm mỹ thuật toàn quốc đang có ở Vân Hồ bây giờ của mình. Không ai hỏi mua bức tranh ghê gớm này. Gericault đã mấy lần ngỏ lời bán rẻ cho Louvre, mà đều bị bảo tàng từ chối. Cho đến khi chết, ông vẫn không bán được bức này cho ai.

Vậy mà bây giờ, lịch sử hội họa gọi đây là kiệt tác quan trọng nhất khai sinh cho chủ nghĩa lãng mạn trong hội họa phương Tây. Không có bức này, mọi người bảo nhau, giọng thông thái, thì không có bức chị đầm ngực trần cầm cờ dẫn đường cho Tự do của Delacroix.


Eugène Delacroix, “Liberty Leading the People”, 1830

Mà quả thực, Delacroix đã là người từng coi Gericault là thầy, một lòng ngưỡng mộ tài năng và tinh thần tận hiến của Gericault cho hội họa. Delacroix đã có mặt cả trong bức tranh chết chóc này. Ông đã tham gia với nhóm người mẫu của Gericault, và đã làm mẫu cho thầy mình vẽ nhân vật nằm sấp trên sàn bè, ngay gần giữa tranh, quay đầu về phía người xem, tay trái dang rộng bám vào rầm gỗ vuông trên bè, đầu gục xuống như đã chết. Một chuyện thật hy hữu trong lịch sử hội họa.



Delacroix trong tranh

Khác hẳn với tất cả những tranh lịch sử cổ điển có đề tài lấy từ truyền thuyết hoặc kinh thánh, kể cả tranh tân cổ điển như bức “Lời thề của nhà Horatii” của David, tác phẩm có quy mô lớn mang dáng dấp lịch sử cổ điển này của Gericault có đề tài thời sự còn nóng hổi. Một bức tranh hiện thực đương đại, với một đề tài đang gây tai tiếng cho triều đình Louis XVIII lúc bấy giờ.

Năm 1816, một chiến thuyền của triều đình Pháp mang tên Medusa được phái sang Senegal, và nhà vua đích thân cử một thuộc hạ thân tín của mình làm thuyền trưởng chỉ huy hơn 150 sỹ quan và binh lính trên tầu. Do non kém về hàng hải, viên thuyền trưởng này đã khiến cho con tầu lâm nạn ngoài khơi. Thuyền trưởng thoát thân bằng xuồng cứu hộ, bỏ mặc 150 con người bám víu vào con tàu đang chìm. Với lòng dũng cảm và tài nghệ của số thợ có trên tàu, các nạn nhân đã dùng gỗ của con tàu vỡ nát ghép thành bè để cùng nhau tìm đường sống. 13 ngày sau đó, khi chiếc bè của tầu Medusa được một con tàu đi ngang cứu vớt, thì chỉ còn 15 người sống sót. Một trong số họ đã viết lại câu chuyện bi thảm này thành sách ngay sau đó. Cuốn sách lập tức trở thành best seller, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Dư luận Pháp rầm rộ lên án viên thuyền trưởng. Nhưng triều đình đã bịt miệng báo chí. Khiến cho câu chuyện càng trở thành tai tiếng.

Cuốn sách đã thôi thúc Gericault, khiến ông thoát khỏi tâm trạng bế tắc trong bi kịch đời tư lúc bấy giờ, vứt bỏ hết những phác thảo cho nhiều đề tài khác để dồn sức cho một bức tranh về tấn thảm kịch vừa diễn ra. Ông tìm gặp người thợ mộc sống sót, nhờ làm một chiếc bè gỗ đúng như của tàu Medusa, cỡ nhỏ, để trong phòng vẽ. Ông phác thảo bằng các tượng người nhỏ xíu bằng sáp với mô hình chiếc bè ấy. Ông lui tới hỏi chuyện những nạn nhân còn sống, trong đó có một bác sỹ đã giúp ông rất nhiều trong việc tìm hiểu mọi biểu hiện của sự chết trên cơ thể người. Ông xin cả những cái đầu của người mới bị xử tử bằng máy chém, những chân tay bị cưa cắt trong bệnh viện, mang về phòng vẽ làm mẫu nghiên cứu.


“Nghiên cứu sự chết” – phác thảo cho Medusa, 1818




“Nghiên cứu sự chết” – phác thảo cho Medusa, 1818

Một tác giả viết tiểu sử của ông đã chép rằng có lần ông để hai cái đầu người chết ở phòng vẽ đến hơn nửa tháng, đến khi bị phân hủy quá rồi mới dọn vứt đi. Chắc chắn không có họa sỹ nào bị sự chết lôi cuốn đến mức ấy. Gericault đọc không xót một tài liệu nào của tòa án về vụ Medusa này. Con tầu xấu số mang tên con ác quỷ trong thần thoại Hy Lạp, mặt người tóc rắn, ai nhìn thấy mặt nó sẽ lập tức hóa đá. Sau khi đã thấu đáo mọi sự về sự kiện ấy, Gericault gọi toàn bộ đội người mẫu chuyên nghiệp của mình đến, tự cạo trọc đầu để không nghĩ đến chuyện ra khỏi cửa nữa, và bắt đầu phác thảo với mẫu sống. Trong số người mẫu ấy có Eugene Delacroix.

Có nhiều phác thảo khác nhau còn lại của bức tranh này, mô tả những thời khắc khác nhau của 13 ngày đêm kinh hoàng. Trong đó có bức mô tả người đàn bà duy nhất có trên bè. Người đàn bà ấy, cùng với chồng, đã kiệt sức đến mức nhóm sỹ quan chỉ huy bè phải quyét định vứt cả hai xuống biển để đám người điên loạn còn lại không ăn thịt họ. Nhóm sỹ quan ấy là nhóm đã áp đảo được đám binh sỹ đói khát ăn thịt lẫn nhau. Cuối cùng, Gericault đã chọn giây phút mọi người bùng lên hy vọng khi nhìn thấy bóng dáng một con tầu xuất hiện ở mãi phía chân trời. Nhân vật còn khỏe mạnh tỉnh táo nhất, đứng vươn lên vẫy cờ, lại là một người da đen. Người mẫu da đen thân thiết của Gericault đã vào bức tranh này ở tư thế ấy.


Chi tiết tranh




Người mẫu da đen của Gericault, vẽ trong lúc phác thảo bức Medusa

Ông làm việc liền như vậy trong 8 tháng, thì vừa đến kỳ Salon 1819. Khi đem bức tranh vừa vẽ xong ra Salon, Gericault sững sờ phát hiện một sai lầm về bố cục của mình. Chắc hẳn là ở xưởng vẽ, ông không có đủ không gian để nhìn tổng thể bức tranh một cách trọn vẹn. Bức tranh mới đem ra Salon là theo bản phác thảo này:


.

Giải pháp của Gericault chỉ có thể là của thiên tài: ông mang đồ vẽ ra đó, gọi ngay một người bạn đến làm mẫu cho mình, và chỉ trong hai ngày, khi các họa sỹ khác vẫn còn tiếp tục mang tranh đến Salon, ông đã vẽ thêm vào một nhân vật nữa của sự chết:


.

Nhưng rồi chỉ để chứng kiến sự ghẻ lạnh và hắt hủi của cả giới phê bình và công chúng đối với kiệt tác của mình. Bài báo đầu tiên về sự kiện Salon năm ấy viết về Medusa như sau: “Tôi vào và thấy một bức tranh lớn tướng, và kích cỡ của nó là cái duy nhất khiến tôi để ý”. Nước Pháp chê bai bức tranh. Gericault chán nản. Ông bỏ sang London, chỉ mang theo những bản in đá của bức tranh, và được công chúng Anh hồ hởi đón nhận. Ông bán hàng trăm thạch bản của Medusa ở London, và được gọi là “họa sỹ và thi sỹ của hiện thực”. Ở bên ngoài vòng kiềm tỏa của triều đình Louis XVIII, Medusa được tiếp nhận như một áng thơ bi tráng tuyệt đẹp về bi kịch của nhân loại.

Cho đến tận bây giờ, Louvre vẫn còn xấu hổ không dám thông tin đầy đủ về sự kiện ra mắt của bức tranh tại Salon năm 1819. Và không hiểu có phải sự xấu hổ ấy đã thành một ẩn ức tập thể đến mức khi xuất bản một vựng tập khổng lồ, Louvre, cả một tập thể của bảo tàng và các bên tham gia biên tập nên ấn bản ấy, đã in giấy trắng mực đen rằng bức tranh này là của Eugene Delacroix!!!!


(Các bạn bấm vào hình để xem bản to hơn nhé)

Chắc mình nên đề tặng bài viết này cho các bạn họa sỹ nhóm hiện thực đang có triển lãm ở Hà Nội. Câu chuyện này đã khiến mình vỡ nhẽ nhiều điều về khái niệm HIỆN THỰC trong hội họa. Chả cần bộc bạch thì các bạn ấy cũng sẽ biết cả.

Đào xuống rễ mà tìm chữ căn



Cùng học tiếng Việt






“Rễ sen (liên căn – củ sen), lá sen, đài sen”, tranh Trung Quốc thế kỷ 17. Hình từ trang này

1. Căn có nghĩa là rễ

Căn là từ Hán-Việt, có nghĩa gốc là rễ cây, rồi từ đó phát triển nghĩa lên thành “nền tảng, cốt lõi”.

Chúng ta có nhiều từ ghép có chữ căn Hán-Việt này.

- Căn bản vốn có nghĩa là rễ cây và gốc cây (bản là cái gốc cây).
- Căn nguyên vốn có nghĩa là rễ cây và nguồn nước.
- Thâm căn cố đế có nghĩa là rễ cây thì sâu mà cuống hoa (đế hoa, đài hoa) thì vững, chỉ tình trạng một hiện tượng đã tồn tại lâu, khó lòng thay đổi.


Thu hoạch củ sen (liên căn). Hình từ trang này

- Căn cơ là rễ cây và cái nền nhà.
- Căn cứ có nghĩa là cái nền để dựa vào (cứ, như trong cứ điểm, cát cứ…). Trong tiếng Việt hiện đại, danh từ căn cứ có hai nghĩa, một là cái bằng chứng để dựa vào nhằm chứng minh một điều khác, hai là cái nơi chốn cụ thể tập trung lực lượng để làm việc gì đó (ví dụ chiến tranh).


Tại căn cứ hải quân đảo Askold. Hình từ trang này

Trong Phật giáo có thuật ngữ lục căn, tức là 6 cái cội rễ cấu tạo nên nhận thức và hành động là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

Trong Toán học, chúng ta gọi ký hiệu này √ là dấu căn. Đó là do chúng ta dịch từ tiếng Tây, tiếng Pháp là racine và tiếng Anh là root, đều có nghĩa là rễ cây. Nếu 23 = 8, thì ta gọi 2 là căn hay rễ (bậc 3) của 8. Trong lịch sử toán học, người ta gọi một số x là rễ của một hàm số f(x) khi x gắn vào f(x) cho giá trị bằng 0. Cách dùng chữ rễ theo nghĩa này đã được nhà toán học al-Khwārizmī dùng từ thế kỷ 8-9 trong tiếng Ả-rập, mà khi phương Tây mang về đã dùng chữ Latinradix (là rễ) để dịch ra.



Nhà toán học al-Khwārizmī


2. Thẻ căn cước?

Hiện đang xôn xao vụ sắp có thẻ căn cước. Nhân tiện đây chúng ta cùng tìm hiểu về chữ này xem. Chữ căn trong căn cước có nghĩa là cái gót chân. Nó là một chữ Hán khác với chữ căn rễ cây ở trên, thường hay được đọc là cân hơn là căn. Cước là cái cẳng chân. Căn cước là cái thẻ luôn đi kèm theo người như cái gót chân và cái cẳng chân.


Felix Nussbaum, “Tự họa với thẻ căn cước Do Thái”, 1943

(Chú thích: phần nói về chữ “căn cước” này dựa theo giải nghĩa của từ điển Nguyễn Quốc Hùng, xuất bản 1975, Khai Trí, Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có từ điển giảng chữ “căn cước” dùng chữ căn rễ cây, thậm chí bản thân từ điển Nguyễn Quốc Hùng cũng có hai mục chữ “căn cước” dùng căn rễ cây và căn gót chân.)

Nhân Sự Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam Khóa XII


Hoàng Hữu Phước, MIB


Như đã nói ở bài trước về “Tứ Trụ Triều Đình”, nội dung nhân sự lãnh đạo Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm bình thường, khác thường, và dị thường của thế giới, tùy vào chủ thể của sự quan tâm ấy là ai hay là cái gì. Bình thường đối với hàng tỷ người đọc báo xem tin trên toàn thế giới mà tờ báo lớn hay trang tin lớn đều tải đăng vô số chuyện, chuyện nào cũng quan trọng như nhau. Khác thườngđối với một số người như tỉnh ngủ, tiến từ giai đoạn ngủ đông trẻ thơ chẳng biết Việt Nam ở đâu trên bản đồ thế giới, sang giai đoạn trưởng thành có dư thừa kiến thức, có dư thừa bản lĩnh tài năng, và có dư thừa tiền bạc, quan tâm đến Việt Nam như miền đất hứa mình phải đến để đầu tư, để làm giàu, để lấy vợ Việt, để sống đế vương trong môi trường tuyệt diệu của ổn định chính trị và đầy đủ vắc-xin miễn nhiễm trước các suy thoái lụn bại kinh tế toàn cầu. Dị thường đối với dăm ba kẻ mông muội khi mừng rở thấy có dịp để tập viết tiếng Việt cũng như có tham vọng muốn có danh “nhà phê bình thời cuộc.” Bài viết này nói về cái phi thường rất đỗi bình thường ở Việt Nam, đối với người Việt Nam: nhân sự Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Gần đây tin tức chính thống Việt Nam cho biết vấn đề chuẩn bị nhân sự lãnh đạo nhân Đại Hội Đảng Cộng Sản XII năm 2016 đã được thực hiện như bao lần thành công trước đó. Tuy nhiên, đối với nội dung rằng có nhiều vị đã ở tuổi nghĩ hưu đã nộp đơn xin tiếp tục phục vụ Đảng, phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, tôi có các ý kiến sau về kinh nghiệm và yêu cầu.

Kinh nghiệm:

Thiên hạ tại các nước siêu cường, văn minh, hiện đại, thực tế thực dụng thực chất, đã từ rất lâu không còn bất kỳ ai rêu rao về tự do, ngợi ca cấp tiến, phất cờ đòi trẻ hóa. Tại tất cả các quốc gia siêu cường tư bản đó không có bất kỳ đảng phái chính trị nào dám đặt tên là Đảng Tự Do hay Đảng Cấp Tiến, vì rằng quốc gia càng cường thịnh, vị trí của Đảng Bảo Thủ càng vững chắc, vì rằng như đã nói trong bàiTranh Giành Ngôn Từ, “tự do” hoàn toàn kém về ý nghĩa chính trị so với “dân chủ”. Còn tại siêu cường Hoa Kỳ với nhiều trăm năm tuổi vẫn chỉ có sự lãnh đạo của một đảng chính trị duy nhất là anh em song sinh Dân Chủ với Cộng Hòa mà cả hai thì tất nhiên là cùng bảo thủ, tức trên nền tảng vững vàng đạt được từ xưa đến nay dứt khoát không cho phép bất kỳ một tên “tự do”, “cấp tiến” hay “trẻ nít hay trẻ quá hoặc trẻ hóa” nào lãnh đạo Hoa Kỳ. Tất cả mang ý nghĩa rằng việc trị quốc bắt buộc phải sau giai đoạn tu thân và tề gia vốn ngốn bao thời gian để một lãnh đạo quốc gia có thể bắt đầu trị quốc để bình thiên hạ.

Trị quốc rất khác với trị quốc để bình thiên hạ. Việt Nam đã trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo các địa phương, các ban ngành, đoàn thể chính trị, và nhiều nghị sĩ rất trẻ đã có mặt tại quốc hội. Đây là những người trẻ tham chính, tức tham gia trị quốc. Sau thời gian dài trị quốc, những chính khách thành công có thể trở thành nhân vật trị quốc để bình thiên hạ, nghĩa là lãnh đạo quốc gia (“tứ trụ triều đình”). Điều này nói lên một sự thật phải có – mà nói theo tiếng Anh là “it’s a must” – rằng kinh nghiệm là điều kiện tiên quyết của thời trị quốc bình thiên hạ, rất khác với thời chiến tranh vốn chỉ dành sự chiến thắng vẻ vang vinh dự cho bậc thiên tài ngàn năm có một. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp lãnh đạo quân đội thời chiến tranh như một thiên tài. Thời trị quốc bình thiên hạ đòi hỏi một vị tướng phải kinh qua nhiều cấp bậc, nhiều thời gian, nhiều thành tích, nhiều kinh nghiệm, nhiều kiến thức quân chính (quân sự và chính trị), nhiều xét chọn, nhiều thủ tục được lên một bậc tướng, khiến nhiều vị tá đại tài phải về hưu khi chưa kịp lên cấp thiếu tướng. Chính vì vậy, tôi hoàn toàn ủng hộ việc các vị đương nhiệm trong Bộ Chính Trị khi tự thấy vẫn còn sức khỏe để tiếp tục phục vụ Đảng, phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, nộp đơn xin ứng cử tiếp cho nhiệm kỳ XII. Đây là chuyện bình thường trên thế giới từ thời thượng cổ đến nay. Đây là chuyện quốc gia đại sự chứ không phải chuyện lãnh đạo một tỉnh ủy. Thiên hạ hay nói sai rằng người “già” nên nhường chỗ cho người “trẻ” như một khẩu hiệu chung, mà không phân biệt được chỗ ấy là chỗ nào, chỗghế lãnh đạo một công ty, ghế lãnh đạo một Bộ, ghế lãnh đạo chính phủ, ghế lãnh đạo Nhà Nước, hay ghế lãnh đạo tại Bộ Chính Trị. Không bất kỳ vị tổng thống một siêu cường nào muốn bắt tay chào một tổng thống trẻ măng của một nước khác nếu như đó không là nước đàn em trung thành. Không bất kỳ vị tổng thống một siêu cường nào muốn bắt tay chào một Tổng Bí Thư trẻ măng của Đảng Cộng Sản Việt Nam nếu như không đang nghĩ rằng có thể biến người đó thành một Gorbachev Việt Nam. Không bất kỳ vị tổng thống một siêu cường nào muốn bắt tay chào một Chủ Tịch Quốc Hội trẻ măng của nước khác nếu như đó không là nước đàn em trung thành. Và không bất kỳ vị tổng thống một siêu cường nào muốn bắt tay chào một Thủ Tướng trẻ măng của nước khác nếu như đó không là nước đàn em trung thành. Vì vậy, “trẻ hóa” chưa bao giờ là một “kế sách” được phát trên loa của các siêu cường. Đó là sự mặc định quá ư là rõ nét rõ ràng rõ rệt trên cả hiển nhiên.

Việt Nam là một đất nước có hai vấn đề miên viễn (thậm chí cho đến sau cả ngày tận thế) sau:

1) luôn là mục tiêu phá hoại sự ổn định chính trị của các thế lực thù địch, và

2) luôn có đa số người dân dễ “lờn mặt” với lãnh đạo “trẻ”, dù ở góc độ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài, hay cơ quan hành chánh công quyền.

Vì hai vấn đề miên viễn trên, với thực tế là nhiệm kỳ 2011-2016 trải qua những biến động cực kỳ to lớn trước ngưỡng cửa chiến tranh với hay từ Trung Quốc, những biến chuyển khác thường về an ninh địa chính trị trên thế giới, và những nắm bắt được các vận hội cực kỳ quan trọng cho nhiệm kỳ tiếp theo, các lãnh đạo Bộ Chính Trị đã có đầy đủ năng lực, kinh nghiệm, cùng uy tín với thế giới cũng như sự nể trọng của thế giới, và do đó, nếu tình trạng sức khỏe cho phép và nếu không phạm các quy định nghiêm ngặt của Đảng về nhân sự, sự có mặt của các vị vẫn là một bảo đảm tốt hơn cho Việt Nam ở thời gian 2011-2021 tiếp theo, vừa tiếp tục đại cuộc mà các vị đã hình thành, nắm bắt, vừa hòa vào đội ngũ các vị kế thừa cùng được bầu vào Bộ Chính Trị để thực hiện phát triển đại cuộc ấy. Đây luôn là sự lành mạnh của trọng tâm trị quốc để bình thiên hạ: lực lượng lão luyện tài ba đang hay đã qua ngưỡng tuổi hưu phối hợp với lực lượng lão luyện tài ba còn nhiều năm mới đến tuổi hưu.

Yêu cầu:

Việt Nam vẫn còn tồn tại một thực tế về sự vô tâm vô tình vô cảm vô lý vô trách nhiệm của các lãnh đạo Đảng ở các địa phương, dù cố ý hay vô tình. Các thành viên Thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh như Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Nguyễn Thị Quyết Tâm hay Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Lê Hoàng Quân vẫn bị một người dân cho rằng các yêu cầu đối thoại với các vị này để giải quyết các khiếu tố đã kéo dài quá nhiều năm của người ấy đã chưa từng được đáp ứng trong suốt nhiệm kỳ 2011-2016 của các vị, dù bởi trực tiếp vị lãnh đạo ấy hay gián tiếp với trợ lý của chính vị lãnh đạo ấy, thậm chí không có bất kỳ thư phúc đáp cụ thể nào của vị lãnh đạo ấy trong ngần ấy năm. Thành phố Hồ Chí Minh ắt không là ngoại lệ, nếu tính theo số lần có các vụ khiếu tố đông người từ các tỉnh đổ về Thành phố Hồ Chí Minh.

Các lãnh đạo tái cử và mới trúng cử của Bộ Chính Trị nhiệm kỳ mới do đó phải bảo đảm chấn chỉnh các cơ sở Đảng, giám quản các lãnh đạo Đảng ở địa phương bằng kỷ luật sắt, để giải quyết xong và dứt điểm tất cả các vụ khiếu tố đã kéo dài nhiều năm qua của người dân, nội trong nửa đầu nhiệm kỳ mới, và dứt khoát không để có sự dây dưa bất kỳ đối với vụ việc khiếu tố mới nào được kéo dài qua nhiệm kỳ sau đó (2021-2026). Đó mới là trị quốc để bình thiên hạ để thay thế cho trị quốc bây giờ còn bình thiên hạ là chuyện của nhiệm kỳ sau.

Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam gánh trên vai trọng trách (a) xây dựng Việt Nam dứt khoát thành cường quốc, (b) dứt khoát không để một nắm đất hay một hạt cát nào của Việt Nam bị chiếm đoạt bởi bất kỳ nước nào dù là man di quốc hay siêu cường quốc, (c) dứt khoát dùng trí tuệ và sự sáng suốt cùng sức mạnh để tái lập chủ quyền thực tế đối với các vùng lãnh thổ đã bị ngoại bang lấn chiếm trong lịch sử cận đại, và (d) dứt khoát dùng sức mạnh của Đảng để bảo đảm Đảng có đội ngũ kế thừa thực chất thay vì kế thừa danh xưng kiểu “Đoàn là đội ngũ kế thừa của Đảng” để chủ động đưa người giỏi trẻ tuổi ngoài Đảng vào Đảng mà không qua chuyến xe trung chuyển của Đoàn.

Bộ Chính Trị Việt Nam là một thực thể quyền uy mà Tông Thống Mỹ cũng như lãnh đạo các cường quốc phải công nhận và kính trọng như đã thể hiện trong những lời mời Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam sang thăm chính thức nước họ trong nhiệm kỳ qua.

“Tứ trụ triều đình” là một thực thể uy quyền, trong đó Tổng Bí Thư Đảng là một cột trụ cùng với ba cột trụ Chủ Tịch Quốc Hội (Lập Pháp), Chủ Tịch Nước, và Thủ Tướng (Hành Pháp và Tư Pháp) đều là thành viên của Bộ Chính Trị, thực hiện các kế sách chủ trương đối ngoại và đối nội của Bộ Chính Trị, tinh hoa của Ban Bí Thư Trung Ương Đảng và Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Nhân sự lãnh đạo Bộ Chính Trị, do đó, không dựa theo tuổi để nói là đến tuổi hưu, quá tuổi hưu, hay còn trẻ tuổi; không dựa theo giới tính để cho ra tỷ lệ bao nhiêu phần trăm nam, bao nhiêu phần trăm nữ; không dựa theo sắc-tộc-chủ-nghĩa để cho ra tỷ lệ dân tộc bất kỳ. Tất cả chỉ dựa vào kinh nghiệm, uy tín, năng lực, trí tuệ, sự kiên định chính trị hiến định, và lòng ái quốc cao nhất. Sẽ là đại phúc của quốc gia nếu có những nhà lãnh đạo còn rất nhiều năm mới đến tuổi hưu nhưng đã hội đủ tất cả những tiêu chí quan trọng mang tính “đầu óc” này.

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải là cường quốc kinh tế để hiện thực hóa hiện đại hóa quân đội để trở thành thủ lĩnh của ASEAN.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

a) Ghi chú:

Với tư cách nhà quản trị nhân sự học, tôi từng tư vấn cho các tập đoàn nước ngoài về đặc điểm số 2 ở trên để các tập đoàn này đừng bao giờ vướng phải do không hiểu biết về sự thật mang đặc tính dân tộc ấy, để rồi gặp khó khăn trong điều hành chi nhánh tại Việt Nam; nghĩa là dù dùng người ngoại quốc, Việt Kiều, hay người Việt cũng phải trên cơ sở ưu tiên chọn người đã đứng tuổi mới tránh được thất bại. Là người luôn giữ chức vụ lãnh đạo khi vẫn còn “trẻ” và dù luôn tạo điều kiện cho các nhân viên thuộc quyền còn trẻ lên nắm quyền trong các kế sách kế thừasuccession plan, tôi vẫn khẳng định rằng sự già dặn là cực kỳ quan trọng, mà sự già dặn đến từ kinh nghiệm tích lũy phong phú dồi dào bất kể tuổi tác của người đó, nghĩa là người lớn tuổi hơn có nhiều cơ may có nhiều kinh nghiệm hơn còn người trẻ tuổi hơn buộc phải nỗ lực tối đa để có nhiều kinh nghiệm sớm hơn như đã nêu trong bài Định Tính Và Định Lượng Tuổi Trẻ.

b) Kính mời tham khảo:

Hoàng Hữu Phước. 26-10-2013. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.https://hoanghuuphuocvietnam.wordpress.com/2013/10/26/dai-tuong-vo-nguyen-giap/

Hoàng Hữu Phước. 12-9-2014. Định Tính Và Định Lượng Tuổi Trẻ.https://hoanghuuphuocvietnam.wordpress.com/2014/09/12/dinh-tinh-va-dinh-luong-tuoi-tre/

Hoàng Hữu Phước. 03-12-2015. Tranh Giành Ngôn Từ.https://hoanghuuphuocvietnam.wordpress.com/2015/12/03/tranh-gianh-ngon-tu/

Hoàng Hữu Phước. 16-12-2015. Nhân Sự Lãnh Đạo “Tứ Trụ Triều Đình” Tại Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam XII.https://hoanghuuphuocvietnam.wordpress.com/2015/12/16/nhan-su-lanh-dao-tu-tru-trieu-dinh-tai-dai-hoi-dang-cong-san-viet-nam-xii/