Thứ Năm, 8 tháng 10, 2015

VÌ SAO ĐOAN TRANG THÀNH CÔNG?




Những ngày này, khi cựu phóng viên Đoan Trang đã gần chạm đến ngôi minh chủ của phong trào đấu tranh, ta hãy cùng ôn lại đời cách mạng của cô, để hiểu bí quyết làm nên một nhà hoạt động thành đạt.

KỲ 1: NGƯỜI CHA ĐỠ ĐẦU

Nhờ đâu Đoan Trang có thể vừa chống nhà nước, vừa yên ổn ăn lương nhà nước suốt một thời gian dài? Nhờ đâu hết lần này đến lần kia, Đoan Trang có thông tin và sự đỡ đầu để thoát nguy trong đường tơ kẽ tóc? Nhờ đâu từ một cây bút chỉ biết đuổi theo những tin tức sự vụ, Đoan Trang tìm thấy chiến lược dài hạn để xây dựng hình tượng nữ kiệt, thâu tóm các đầu mối quan hệ - tài chính, loại bỏ các đối thủ chính trị, để từng bước độc chiếm phong trào đấu tranh?

Nhờ một người cha đỡ đầu: Nguyễn Trần Bạt.

Trong số những độc giả hâm mộ thần tượng Đoan Trang, ít ai biết rằng từ những ngày đầu, hình tượng này đã là con tò he mà Nguyễn Trần Bạt dày công nhào nặn. Chính Bạt đỡ đầu Trang trong làng báo chí, cũng chính Bạt hướng dẫn Trang thâm nhập và thâu tóm phong trào đấu tranh. Bạt đã đào tạo Trang thành một vai diễn lớn trong kịch bản chính trị nước đôi của phe cánh mình.

Để hiểu tại sao, phải nhìn toàn cảnh vở diễn.

Bên dưới lớp mặt nạ trí giả mà người trong cuộc dày công tô vẽ, Nguyễn Trần Bạt vốn là một tay cò kinh tế - chính trị trong thời chập chững mở cửa. Lợi dụng tình hình thông tin - pháp luật tranh tối tranh sáng, Bạt làm mưu sĩ và thuyết khách, đưa chính quyền bước vào quốc tế và ngoại quốc thâm nhập Việt Nam. Là kẻ đứng giữa, Bạt mưu lợi bằng cách nào? Đương nhiên, phí môi giới công khai chỉ là bức bình phong an toàn và nguồn thu thứ yếu. Cái quan trọng hơn là nguồn thu nhập ngầm, bằng cả tiền lẫn quyền, được chi ra từ các nhóm lợi ích muốn thao túng quá trình sửa đổi luật pháp, chính sách và cơ cấu chính trị - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.

Phe ủng hộ và chống chính quyền thường chửi nhau là bán nước, mà không biết rằng những nhà bán nước đích thực, như Nguyễn Trần Bạt, luôn biết cách để hiện diện lộng lẫy trong mắt tất cả các phe, và lèo lái dư luận của tất cả các phe.

Muốn việc kinh doanh được phát đạt, ông Bạt cần bốn điều.

Một, chính trị, xã hội và pháp luật Việt Nam không ngừng ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Bằng không, chẳng ai cần thuê ông tư vấn luật pháp và môi giới quan hệ.
Hai, trong tiến trình hội nhập, luôn có độ chênh nhất định, phiền hà nhưng không phải không thể giải quyết, giữa yêu cầu của quốc tế và khả năng đáp ứng của phía Việt Nam.
Ba, ông tiên đoán hoặc kiểm soát được một phần nước cờ của các bên khách hàng.
Bốn, trừ ông ra, không ai có thể bắc cầu nối hai bờ tranh chấp.

Ông Bạt, cùng những nhóm lợi ích liên quan, muốn chi phối phong trào dân chủ Việt Nam là vì như vậy. Ai cũng biết rằng thể chế chính trị là một trong những miệng vực lớn nhất chặn giữa quốc tế và Việt Nam. Ai cũng hiểu các phong trào đấu tranh vừa là cơ hội để đưa chính trị, xã hội và pháp luật Việt Nam thoát khỏi tình trạng tranh tối tranh sáng, vừa là một trong những căn nguyên của tình trạng sa lầy lúc này. Vì vậy, ai thâu tóm được phong trào đấu tranh, kẻ đó được lợi mọi nhẽ. Muốn nước yên thì nước yên, muốn nước loạn thì nước loạn. Muốn làm chậm một chữ ký của Mỹ, chỉ cần ném vài con tốt thí vào đồn công an. Mỗi lần Mỹ muốn Việt Nam nhượng bộ trên bàn đàm phán, người ta lại cần ông đẻ ra một vụ "vi phạm nhân quyền". Mỗi lần nội bộ không vui, người ta lại cần "phong trào dân chửi" đánh hội đồng một cá nhân quan chức. Muốn khuynh hướng bảo thủ được đề cao, cần phong trào đấu tranh tỏ ra cực đoan, dữ tợn. Muốn khuynh hướng cải tổ được khuyến khích, cần phong trào đấu tranh tỏ ra hòa giải, hợp tác vì tương lai. Đó là lí do Đoan Trang không an phận làm người cầm bút, như giới hạn thực lực cô đã thể hiện, mà hết lần này đến lần khác, vẫn tìm mọi cách xây dựng hình tượng, dần chi phối các nguồn lực quan hệ và tài chính, để từng bước thao túng phong trào. Dư luận chỉ té ngửa vì tham vọng này sau vụ Hiến Chương 2015, khi cô sồn sồn đòi thiết lập một trật tự bảo kê do mình cầm đầu cho toàn phong trào, và dọa trừng phạt những nhà hoạt động bất kham bằng tẩy chay và cấm vận

Ai theo dõi, sẽ thấy Đoan Trang áp dụng khá hiệu quả những chiến lược và bài bản được Nguyễn Trần Bạt truyền thụ. Về căn bản, cả hai đều xây dựng quyền lực của kẻ môi giới, khi làm cầu nối tài chính, quan hệ và luật pháp giữa quốc tế và Việt Nam. Trong khi Bạt tư vấn luật quốc tế cho các doanh nghiệp, Trang tư vấn luật quốc tế cho những người biểu tình. Trong khi Bạt hướng hướng dẫn quốc tế thâm nhập Việt Nam, Trang không bỏ lỡ một cơ hội nào để thuyết trình với chính giới phương Tây về cách xuất khẩu cách mạng đường phố. Cả hai đều cố tô vẽ mình thành một thần tượng trí thức, ôn hòa trong mắt giới trẻ. Nhưng trong mắt những người hiểu biết, cả hai đều là phường tiểu nhân cơ hội, ham trình diễn, thích làm minh chủ, tính khí hẹp hòi và làm việc theo lối mafia.

Nhưng dẫu sao, không có Nguyễn Trần Bạt, chắc chắn không có nhà hoạt động Đoan Trang bây giờ.

So với những nhà biểu tình chỉ biết làm tốt thí cho các phe cánh giật dây, kể ra Đoan Trang cũng hơn một bậc.


KỲ 2: NGÂY THƠ VÀ THIẾU HIỂU BIẾT?

Đoan Trang thâm nhập phong trào dân chủ thông qua blogger Người Buôn Gió, tức Bùi Thanh Hiếu. Thuở đầu, quan hệ song phương đặc biệt thân mật, Hiếu đưa Trang đi gặp hết người này đến người khác trong giới đấu tranh. Những cuộc gặp cùng Hiếu là viên gạch móng đầu tiên để Trang xây dựng đế chế quan hệ của mình.


Không rõ Trang nhẹ dạ cả tin, bị Hiếu lôi kéo, dụ dỗ vào phong trào, hay Hiếu và phong trào nhẹ dạ cả tin, bị Trang lôi kéo, dụ dỗ vào ván cờ chính trị nước đôi của Nguyễn Trần Bạt.

Cuối tháng 8/2009, Đoan Trang bị tạm giam 9 ngày, cùng đợt với Người Buôn Gió và Mẹ Nấm. Khi trả lời phỏng vấn, nói về lý do khiến mình bị bắt giữ, Trang cho biết cô "bị hiểu lầm là liên quan đến vụ in áo phản đối dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên". Dù phải thừa nhận bằng chứng của phía cơ quan điều tra, rằng mình đã thay Người Buôn Gió nhận khoản tiền in áo gửi từ ngoại quốc, Đoan Trang vẫn một mực phủ nhận sự liên quan của bản thân đến vụ việc này.

Đâu là uẩn khúc đằng sau? Là Đoan Trang đổ hết tội lên đầu đồng đội để thoát nguy, hay Đoan Trang bị Người Buôn Gió lừa nhận tiền thay mình, nghĩa là đẩy lên trước chết thay, làm con tốt thí? Cho đến nay, đây vẫn còn là một bí ẩn.

Chỉ biết sau vụ việc này, quan hệ ngầm giữa hai blogger nổi danh đảo chiều đột ngột, từ tình nhân thành cừu nhân.

Đầu năm nay, khi "tự thú trước đêm giao thừa", Đoan Trang đặc biệt nhắc nhiều về vụ tạm giam hồi 2009. Trang phân trần rằng vào thời điểm đó, cô chỉ là một cô gái trẻ hoàn toàn ngây thơ và nhút nhát, không biết gì về chính trị, luật pháp, nhân quyền, nên chỉ là nạn nhân tội nghiệp của cái bẫy sập mà cả hai phía đã giăng ra. Thấy vậy, nhiều độc giả động lòng thương xót, mà quên rằng năm đó Đoan Trang đã 31 tuổi, hoàn toàn không khớp với hình tượng một cô gái ngây thơ, nhút nhát và dễ lừa. Vào thời điểm vụ bắt giữ diễn ra, Trang đang là phóng viên mục Chính trị - Xã hội của VietNamNet. Tròn nửa năm sau, cô trở thành phóng viên báo Pháp Luật TP.HCM, nên khó có thể biện hộ rằng cô hiểu biết về chính trị và pháp luật. Chẳng rõ Đoan Trang sa bẫy những ai trong chính quyền và phe đối lập, nhưng hình như mỗi lần cô ăn vạ, nhiều độc giả đa cảm lại sa bẫy cô.

Trong mọi nhà nước pháp quyền, công dân phải có trách nhiệm hiểu biết về pháp luật. Trong mọi phong trào chính trị, các cây bút chính luận phải chịu trách nhiệm về kiến thức chính trị của bản thân. Khi phân trần rằng mình "ngây thơ, nhút nhát", lại "không biết gì về chính trị, pháp luật", liệu Đoan Trang có thiếu tôn trọng cả độc giả, phong trào đối lập, tư cách công dân, lẫn lý tưởng nhà nước pháp quyền mà mình thường nhân danh?

Muốn trở thành một nhà hoạt động thành công trong phong trào dân chủ Việt Nam, phải thành thạo chiến lược xây dựng hình tượng của cựu phóng viên Đoan Trang: luôn đặt mình vào vị trí nạn nhân tội nghiệp, cần được cộng đồng chở che và tha thứ.


KỲ 3: NGƯ ÔNG ĐẮC LỢI

Ngày nay, nhìn những thành công vang dội của Đoan Trang, nhiều nhà hoạt động trong phong trào dân chủ Việt Nam không khỏi nóng mặt. Lắm lúc ngà ngà say sau những trận bia dân chủ, họ lại hỏi nhau, rồi lại tự vấn: Đoan Trang là ai? Vì sao tiền tài trợ cứ đổ vào túi Trang mãi, trong khi họ, chính họ, mới là kẻ hô khẩu hiệu, căng biểu ngữ và cà khịa cớm mỗi tuần một lần? Vì sao một cựu phóng viên lề phải non choẹt, mới hôm rồi còn cúc cung tận tụy theo chân những vị lão thành lấy tuổi Đảng làm uy tín, giờ lại dám ngang nhiên trở mặt, ném một bản Hiến chương độc tài vào mặt lớp cha anh?

Người ta tự hỏi, rồi ấm ức, mà không biết Đoan Trang hơn hẳn họ ở hai cái tài. Ấy là tài diễn xuất, đóng vai ngoan hiền, vô hại để chờ thời cơ, và tài ngấm ngầm xây dựng tổ chức.

Tháng 5 năm 2011, giang hồ nổi sóng vì vụ sinh viên Nguyễn Anh Tuấn viết "đơn nhận tội". Với phong trào chống Cộng, một cộng đồng mà người luống tuổi chiếm đa số, một thanh niên cảm tử là một miếng mỡ mà chẳng con mèo nào bỏ qua. Các bậc cha chú, như thông lệ, tìm cách khai thác đến cạn kiệt cơ hội tuyên truyền này. Mãi về sau, họ vẫn vô thức gọi sinh viên này là "thằng Tuấn tự thú". Đoan Trang có lẽ là người duy nhất tiếp cận Tuấn một cách từ từ, để xây dựng mối quan hệ lâu dài cho những kế hoạch trong tương lai xa, thay vì cố biến cậu thành chất đốt truyền thông trong một sự vụ. Nhìn vai trò của Tuấn trong chương trình 258, UPR, rồi Luật khoa Tạp chí gần đây, có lẽ chẳng ai dám cho rằng Trang đã chi một khoản đầu tư lãng phí.

Mùa hè năm đó, giang hồ tạm nhả Tuấn ra để lao vào một cơ hội mới: biểu tình. Ban đầu, đây là những cuộc biểu tình chống Trung Quốc thực sự, được làm nên bởi đông đảo người yêu ngước vô tư thuộc nhiều chính kiến. Nhưng càng về cuối, nó càng bị thâu tóm về tay những nhóm chống Cộng cực đoan, do nỗ lực thao túng của các đảng chính trị hải ngoại. Dần dần, biểu tình chống Trung Quốc chỉ còn là vở kịch khiêu khích mà người ta diễn đi diễn lại hằng tuần để bôi xấu Cộng sản, một tấm bình phong để xây dựng lực lượng chống Cộng, và một cơ hội để quyên fund. Những người biểu tình "nghiệp dư", chỉ xuống đường vì lòng yêu nước bỏ đi dần, còn những người biểu tình chuyên nghiệp cứ dần đông lên, và dần yên vị trong các tổ chức.

Ban đầu, nhóm No-U, được thành lập bởi Phạm Chính và Xuân Diện, vốn không phải là một tổ chức. Nó chỉ như một cái chợ tình luộm thuộm, nơi giang hồ tụ họp để hẹn nhau đi biểu tình, đòi người, quyên tiền, lễ lạt, chửi chế độ, than thở thời thế và chia sẻ tâm tư. Tuy nhiên, một trong hai người sáng lập lại đặt vào cái chợ này một tham vọng rất lớn: biến nó thành một đội quân cách mạng đường phố chuyên nghiệp, đặt dưới quyền chỉ đạo và kiểm soát của mình. Người kia thì không nghĩ xa, chủ yếu muốn tận dụng No-U để xây dựng hình ảnh cho mình trên dư luận lề trái. Để tham vọng của thành hiện thực, No-U phải trở thành một tổ chức có đường lối nhất quán, kỷ luật vững và sự chỉ đạo tập trung của người đứng đầu. Tuy vậy, cả Chính lẫn Diện đều không dám công khai trở thành lãnh đạo của No-U và đưa nó thành một tổ chức.

Lí do đầu tiên: họ sợ. Cả hai đều muốn cái vinh quang và quyền lực của người lãnh đạo, nhưng cả hai đều sợ bị công an ghi nhận là người lãnh đạo nhóm No-U. Họ luôn miệng nói: "mình không làm gì sai, luôn hành động trong khuôn khổ pháp luật thì không có gì phải sợ", nhưng xưa nay vẫn vậy, chỉ kẻ đang sợ hãi lắm mới nói đi nói đi nói lại mấy câu phân trần như thế này.
Lí do thứ hai: họ muốn giữ cho mình cái hình ảnh của một vị nhân sĩ trí thức độc lập, khách quan, không màng công danh, chỉ lên tiếng vì chính nghĩa. Ở cái nước mà bọn hủ nho đạo đức giả đứng trên đầu trên cổ xã hội như Việt Nam, những mặt nạ phải đạo kiểu này rất được công chúng ưa chuộng. Vậy nên dù muốn làm lãnh đạo chết đi được, cả Chính lẫn Diện đều không dám công khai đứng đầu nhóm No-U.

Lí do thứ ba: họ muốn khoác cho No-U cái vỏ bọc của một nhóm người yêu nước ngây thơ, vô tư, không kế hoạch, không tính toán, không kẻ cầm đầu. Vỏ bọc này vừa giúp họ lách luật, vừa giúp họ tiện đóng vai nạn nhân để ăn vạ trước công chúng và quốc tế.
Thành ra vì những mục đích thực tiễn nêu trên, cả Chính lẫn Diện đều phải giả đò như No-U vô tổ chức, không lãnh đạo. Nhưng họ không cầm lòng được, và cứ tùy tiện hành xử độc đoán như thể mình là lãnh đạo nhóm No-U. Tình trạng thiếu chính danh ấy khiến sinh hoạt của No-U cứ loạn tùng phèo. Nhóm nhanh chóng chia năm xẻ bảy thành nhiều phe phái đấu đá nhau, thậm chí nhiều lúc chửi bới nhau, vì 4 loại mâu thuẫn chính:

_ Mâu thuẫn do tài chính nhập nhèm
_ Mâu thuẫn do tranh chấp tầm ảnh hưởng và tiếng tăm
_ Mâu thuẫn do tình tay ba và ngoại tình
_ Mâu thuẫn do khoảng cách thế hệ

Với Đoan Trang, mâu thuẫn do khoảng cách thế hệ là một mỏ vàng. Trong nhóm No-U, có một lượng lớn thanh niên đang bức xúc với ách thống trị bất thành văn của mấy bậc lão làng vừa tham quyền, vừa hèn và đạo đức giả. Chẳng hạn, Trịnh Hữu Long cực lực phản đối văn hóa hành xử cực đoan, chợ búa của nhóm người dưới trướng Chính - Diện. Dũng Aduku đòi minh bạch và chính danh. Nhóm Binh Nhì và Hà Còi đòi "quyền tự do ngôn luận" và tiếng nói lớn hơn cho lớp trẻ trong nhóm biểu tình. Tất nhiên, vì các bậc trưởng thượng chẳng đời nào từ bỏ ngôi vị tối cao, đám trẻ người non dạ này bị đàn áp dã man ngay sau khi thực hành quyền tự do ngôn luận. Trịnh Hữu Long bị đấu tố tập thể và tung tin đồn là hàng cài. Dũng Aduku bị kick khỏi group, rồi lại đưa vào, rồi lại kick. Binh Nhì và Hà Còi nói hỗn hơn, nên bị kick hẳn. Thế là để duy trì quyền lực và sự tôn nghiêm của người lớn, nhóm biểu tình mất gần hết thanh niên.

Số thanh niên này đi đâu? Hầu hết đầu quân cho Đoan Trang, hoặc hợp tác với Trang một cách chặt chẽ. Vì trong vòng cấm vận của No-U, ngoài Trang ra, họ chẳng còn cửa sau nào để giữ liên lạc với phong trào biểu tình và phát triển quan hệ với giới trí thức.

Nhưng nếu Đoan Trang đứng về phía thanh niên, thì vì sao Trang không trở thành mục tiêu công kích của các bậc trưởng thượng?

Nếu Đoan Trang đứng về phía các bậc trưởng thượng, thì vì sao sau cùng, chính Trang, chứ không phải ai khác, lại là người giành được lực lượng trẻ ít ỏi của phong trào dân chủ Việt Nam?

Cái khôn của Trang nằm ở chỗ này. Mỗi lần nội bộ bang hội lục đục với nhau, Trang đều biết cách phát ngôn sao cho làm hài lòng mọi phe phái. Phe nào cũng tưởng Trang hiểu chuyện, biết điều và ủng hộ mình, nên đều dành cho Trang cảm tình và đãi ngộ đặc biệt. Tuy vậy, trong thực tế, Trang chẳng ủng hộ phe nào khác ngoài chính Trang. Mỗi lần hội nhóm tan đàn sẻ nghé, Trang là người duy nhất được lợi, cả về lực lượng lẫn cảm tình.

Cần nhớ rằng ai giữ lực lượng thanh niên, kẻ đó giữ tương lai trong những hoạt động chính trị kiểu cách mạng đường phố.

Các trưởng lão biểu tình thất thố vì đã đổi tương lai của mình lấy quyền uy ngắn hạn. Trong khi đó, Đoan Trang được như ngày nay là nhờ biết săn đón lực lượng trẻ mà không làm mếch lòng các trưởng lão, rồi giấu nó để chờ thời cơ. Ngày nay, sau khi Đoan Trang lật sòng bằng vụ Hiến chương, nhiều vị trưởng thượng tức lắm, nhưng vẫn chưa chịu hiểu ra đạo lý này. Họ tiếp tục đấu đá nhau những trận long trời lở đất, vì những lí do nhỏ nhặt vớ vẩn, và để hở ra những cơ hội giúp Trang xây dựng lực lượng, tài chính và tổ chức cho bản thân cô.

Đoan Trang có bí quyết gì để tăng quân số cho lực lượng trẻ của mình? Và cô đã dùng lực lượng này thế nào để "cướp chính quyền" trong nhóm phản đối cây xanh Hà Nội?


KỲ 4: ĐÓNG KỊCH

Trong những năng lực làm nên thành công của Đoan Trang, tạo vỏ bọc có thể là cái tài quan trọng nhất.

Mỗi lần nhắc đến Đoan Trang, mọi người trong phong trào đều hình dung cô như một phóng viên, nhà báo và blogger kì cựu. Cho đến bây giờ, họ cứ gọi cô là "nhà báo Đoan Trang" suốt, dù cô chưa từng được cấp thẻ nhà báo, và đã ngừng phục vụ trong ngành báo chí từ lâu. Mỗi lần Trang gặp rắc rối với chính quyền, tuyệt đại đa số những người ủng hộ đều có ấn tượng sai lầm rằng chính quyền đang đàn áp thẳng tay một cây bút, một người lên tiếng nói ra sự thật, và điều đó cho thấy chẳng có tự do ngôn luận ở Việt Nam. Thế là họ kêu lên đồng thanh: "Nhà báo Đoan Trang bị đàn áp!".

Khốn thay, nếu bình tĩnh theo dõi từng vụ việc, người ta sẽ thấy Đoan Trang chưa bao giờ bị đàn áp dưới tư cách một nhà báo, hoặc bị bắt bớ vì những phát biểu của mình. Ngay từ đầu, tất cả những rắc rối mà cô gặp phải với chính quyền đều nảy sinh từ những hoạt động chính trị có viện trợ và có tổ chức. Nhưng thay vì đính chính những hiểu lầm của dư luận, Trang lại hào hứng diễn vai "tiếng nói khách quan, độc lập" để khiến dư luận hiểu lầm thêm. Bởi đương nhiên, hình tượng một cây bút trung thực, khách quan, bị đàn áp chỉ vì nói ra sự thật sẽ có lợi cho cô hơn là hình tượng một chính trị gia có bè cánh và được trả tiền, đầy lòng tham và mưu chước.

"Nhà báo Đoan Trang" chỉ là một hình tượng nạn nhân trong truyện cổ tích mà Đoan Trang kể cho phong trào dân chủ. Cái thật sự có thật, ẩn bên dưới lớp mặt nạ ấy, là chính trị gia Đoan Trang.

Giờ hãy quan sát những màn kịch nổi bật của chính trị gia này.

Tháng 8 năm 2013, báo lề trái tung tin một nhóm sinh viên bị công an tạm giữ, tra hỏi chỉ vì tham gia một... lớp học ngoại ngữ. Đọc tin đó, người ngoài cuộc tất phải ngớ người ra. Sao chỉ học ngoại ngữ mà cũng phải vào đồn? Chẳng lẽ ở Việt Nam, tự do bị bóp nghẹt đến nỗi thanh niên không có quyền học ngoại ngữ? Tất nhiên không phải. Ít ai biết rằng lớp học ngoại ngữ đó chỉ là một dây chuyền tuyển dụng nhân sự do ba phía cùng tổ chức: Đoan Trang, Hội Anh Em Dân Chủ của Nguyễn Văn Đài và Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên của Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Thanh Giang. Khi cấp tốc tuyển thành viên trẻ để xây dựng nhân lực làm "cách mạng đường phố", cả ba nhóm này cùng nhận ra một vấn đề. Đó là sinh viên Việt Nam bận việc riêng, chẳng mấy ai quan tâm đến đấu tranh chính trị. Không đủ sức tuyển người trực tiếp, công khai, họ đành lôi kéo thanh niên bằng một mồi câu lợi ích, và nấp sau một vỏ bọc. Ấy là lớp học tiếng Anh miễn phí, mà phân nửa số buổi được đứng lớp bởi Đoan Trang.

Lớp vỏ bọc này cùng lúc giải quyết nhiều vấn đề.

Thứ nhất, là tạo ra mồi nhử quyền lợi để lôi cuốn một thế hệ thanh niên không hứng thú gì với đấu tranh chính trị kiểu cách mạng đường phố.

Thứ hai, là tạo ra một không gian để trò chuyện thân mật và xây dựng mối quan hệ cá nhân với sinh viên. Khi đám trẻ này đã có thiện cảm và trở nên cởi mở, thì tuyên truyền để họ thấm nhuần tư tưởng chính trị cũng không khó gì.

Thứ ba, là trùm lên mình lớp vỏ bọc của một hoạt động dân sự vô tư, khiến chính quyền không tiện đàn áp. Khi bị chính quyền đụng đến, họ sẽ lập tức sắm vai những nạn nhân ngây thơ, vô tội, lu loa trên báo chí rằng chính quyền bắt người vô cớ, thanh niên Việt Nam mở lớp học tiếng Anh cũng không được phép, chứng tỏ nước này không có tự do, nhà nước thi hành chính sách ngu dân. Thế là dù có tuyển được người hay không, "lớp học" có bị dẹp hay không, và bọn sinh viên có bị bắt hay không, họ vẫn luôn được lợi khi đứng giật dây sau hậu trường.

Nhóm Vì Một Hà Nội Xanh, lực lượng mà Đoan Trang mới cướp được của Đào Thu cũng đang bị lợi dụng cho mục đích này. Thử hỏi từ cuộc đảo chính của Đoan Trang đến nay, nhóm này đã có bao nhiêu hoạt động thật sự vì mục đích trong sáng ban đầu, là bảo vệ cây cối? Nhìn nhóm này, bất cứ ai có kinh nghiệm hoạt động đều biết rằng bảo vệ cây xanh chỉ còn là cái cớ mà nó nêu ra để ăn vạ nhân quyền và ngầm tuyển dụng nhân lực chống Cộng. Ai thắc mắc, cứ nhìn xem những thành viên của nhóm đó có bao nhiêu kiến thức về môi trường đô thị và cây xanh, và dành bao nhiêu thời gian mỗi ngày để chửi đổng chính quyền trên Facebook.

Gần đây, dù các thành viên vẫn mù kiến thức về môi trường, và chuyện bảo vệ cây xanh vẫn dậm chân tại chỗ, nhóm Vì Một Hà Nội Xanh bỗng chuyển sang một hoạt động mới lạ. Ấy là ngồi xe jeep "nghệ sĩ" dạo phố và đi hát rong. Chỉ có thể mô tả những hoạt động này bằng ba chữ: "Chả liên quan". Khi bày ra chúng, Đoan Trang nhằm mục đích gì? Đơn giản là để chụp ảnh tự sướng, để đưa lên mạng và vào hồ sơ xin fund, nhằm chứng tỏ rằng nhóm người vô tích sự này vẫn đang có "hoạt động thực chiến", "hoạt động đường phố" sôi nổi, trong tinh thần trẻ trung, lôi cuốn thanh niên, và nhằm thực thi "quyền tự do biểu hiện". Nếu không có hoạt động lấp chỗ trống để kịp giải ngân, và để dư luận khỏi lãng quên, nhóm này chắc chắn giải tán trong một sớm một chiều.

Công thức hành động của Đoan Trang là như thế. Đầu tiên, Trang phải tạo cho mình một cái vỏ bọc chính danh, mà ai nhìn vào cũng cho là trong sáng, ngây thơ, vô hại và thánh thiện. Nấp sau vỏ bọc đó, cô sẽ tranh thủ được thiện cảm của đám đông. Từ đó, cô có thể lôi cuốn đám sinh viên thiếu kinh nghiệm thực tế về chính trị, hễ thấy lí tưởng, khẩu hiệu gì mới là lao ngay vào. Nhờ vỏ bọc này, cô cũng dễ dàng duy trì những hoạt động vô thưởng vô phạt để giải ngân và câu like trên Facebook. Quan trọng nhất, hễ bị chính quyền đụng vào, là cô có ngay vô số mĩ từ lung linh để đem ra ăn vạ. Chẳng hạn, mỗi lần chính quyền tóm Trang để điều tra về kế hoạch lật đổ bằng biểu tình mà cô đang thai nghén, báo lề trái sẽ phao vống lên rằng Cộng sản đàn áp một nhóm sinh viên bảo vệ môi trường, một nhóm bạn trẻ chơi nhạc trên đường phố, hoặc một nhóm học tiếng Anh.

Tôi không đánh giá lựa chọn của Trang là sai hay đúng. Tất nhiên, Trang vẫn có quyền dùng vở kịch dạy ngoại ngữ hoặc bảo vệ môi trường để che giấu tính toán chính trị của mình, rồi tố cáo Cộng sản vi phạm nhân quyền khi họ cấm cô diễn kịch. Tôi chỉ cảm thấy thủ đoạn này không sạch sẽ, và có phần lưu manh. Nói thẳng ra, bản chất của nó là nói dối.

Khi dùng khẩu hiệu "Vì Một Hà Nội Xanh" làm vỏ bọc để giải ngân, ăn vạ nhân quyền và lôi kéo người làm cách mạng biểu tình, Đoan Trang đã nói dối những độc giả, chính khách ngoại quốc, nhà tài trợ và thành viên nhóm thực sự tin cô.

Đoan Trang có thể trở thành một lãnh tụ biểu tình nhiều mưu mẹo và thành công, nhưng không thể trở thành một chính trị gia đứng đắn.

(còn nữa)

[Nhà Dân Chủ]

THƯỞNG THỨC KHIẾU ÂM NHẠC KINH KHỦNG CỦA "BAN NHẠC HÀ NỘI XANH":
https://www.youtube.com/watch?v=-VpmosO2E9Q
Nhà dân chủ độc tài

Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2015

Dòng sông yên bình


DÒNG SÔNG DÒNG ĐỜI

Bình yên nào của em tôi
sao đầy vơi nước mắt mặn môi
mảnh tim buồn của tôi ơi
dòng sông dòng đời bao giờ về với biển khơi

Trắng đêm uống cạn lệ tình
rơi trên vũng ngực cho mình xa nhau
xót chi giấc mộng vô thường
sông không về biển nỗi buồn quẫn quanh

Ngựa hoang một thời rong ruổi
chợ tình hằn những vết roi
bỏ thân một lần dâng hiến
trở về củng với thảo nguyên

Bình yên nào sẽ đến với em
hoa cúc xưa có nở bên thềm
dòng sông còn nhận chìm con sóng


khát khao tràn ánh mắt hồ thu

Lê Thiếu Nhơn với lối ngụy biện “kiểm dịch” đi ngược lại các giá trị nghệ thuật và nhân sinh




Lâu nay, giới văn chương xuất hiện những nhà văn, nhà phê bình, nhà báo văn hóa câu kết với nhau tạo thành một thế lực cát cứ, chuyên kéo quân đi “kiểm dịch” toàn thể giới văn nghệ sĩ Việt Nam. Trong đạo quân kiểm dịch viên mẫn cán này, anh Lê Thiếu Nhơn – Ủy viên Hội đồng Lý luận-Phê bình của Hội Nhà văn TP.HCM – thường được nhắc tên như một chiến sĩ tiền phong xông xáo nhất. Hôm trước, biết tôi có hứng thú với các nhà kiểm dịch, bạn tôi đưa tôi đọc một bài mà anh Nhơn viết hồi 2012. Trong bài này, mang tên “Ai đủ sức viết diễn từ Nobel?“, anh Nhơn khăng khăng phủ nhận quyền tự do sáng tác, và hằn học mạt sát những nhà văn yêu cầu quyền tự do sáng tác.

Dù nhìn từ góc độ văn hóa hay pháp luật, những phát ngôn như vậy cũng gây ảnh hưởng rất xấu tới môi trường sinh hoạt văn nghệ, trật tự xã hội và phẩm giá con người của chúng ta. Nên trước khi bàn sâu hơn về nạn “kiểm dịch” bừa bãi của giới kiêu binh văn nghệ nước mình, tôi xin phân tích bài của chiến sĩ Lê Thiếu Nhơn, để dẹp tan những lấn cấn của anh Nhơn về vấn đề quyền tự do sáng tác.

I- Trùng trùng ngụy biện

Nét nổi bật nhất nơi bài viết của anh Nhơn là nó nhiều ngụy biện.

Hãy lược bỏ mớ ngôn từ dẫn dắt và đánh lạc hướng, để nhìn rõ mạch logic chủ đạo trong bài viết của anh:

[Một nhà văn Trung Quốc giành giải Nobel] + [Trung Quốc không nới lỏng kiểm duyệt]

-> [Hệ thống kiểm duyệt xâm hại quyền tự do sáng tác không cản trở sự phát triển của các tài năng văn học]

-> [Những văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền tự do sáng tác đều bất tài, đòi quyền tự do chỉ là một lối “làm dáng” để câu khách]

Trong mạch logic này, có hai lối ngụy biện chủ đạo:
Biến cái cá biệt thành cái phổ quát

_ Giải Nobel là một giải thưởng để vinh danh cá nhân. Nobel Văn học được trao cho cá nhân Mạc Ngôn, chứ không phải cho dân tộc Trung Quốc. Theo lập luận của Lê Thiếu Nhơn, khi một công dân Trung Quốc được giải Nobel, ta đã có bằng chứng vững chắc để tin rằng nền văn học Trung Quốc rất phát triển. Áp dụng lối ngụy biện này, ai cũng có thể đi đến kết luận rằng Mỹ và Trung Quốc là hai nước yêu chuộng hòa bình nhất thế giới, chỉ vì giải Nobel Hòa bình được trao cho Lưu Hiểu Ba và Obama.

_ Mạc Ngôn chỉ là một case cá biệt, không thể dùng một case cá biệt để chứng minh “qui luật phổ quát” tồn tại nơi giới nghệ sĩ toàn cầu. Chế độ kiểm duyệt xâm hại các quyền tự do căn bản chưa giết chết tài năng Mạc Ngôn, nhưng không thể lấy đó để chứng mình rằng nó chưa từng, và sẽ không giết chết những tài năng khác. Trừ kẻ dốt nát, hoặc những kẻ giả vờ dốt nát ra, có lẽ không ai không biết hậu quả thảm khốc và đau buồn của những “văn tự ngục” trong lịch sử. Ấy là chưa kể nếu tài năng của Mạc Ngôn không bị “Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản” ném khỏi trường tiểu học, rồi tạm chôn vùi trên bãi chăn thả gia súc, thì nó sẽ còn nảy mầm sớm hơn, và đã vươn xa hơn.
Áp đặt nguyên nhân cho kết quả

_ Khi yêu cầu quyền tự do sáng tác, mỗi nghệ sĩ lại có nhiều lý do riêng. Cần lưu ý rằng vì quyền này nằm trong phạm vi của quyền tự do phát biểu, được đề cập đến trong các văn kiện thuộc Bộ luật Nhân quyền Quốc tế của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã ký thông qua, nên bất kể vì lý do gì, thì yêu cầu nêu trên cũng chính đáng. Tuy vậy, anh Lê Thiếu Nhơn lại vơ đũa cả nắm, khi tuyên bố rằng người ta yêu cầu quyền tự do sáng tác chỉ vì họ bất tài, hèn nhát và có nhu cầu “làm dáng” để trục lợi. Tôi nghĩ anh nên tự hỏi trong hội đồng chấm giải Nobel, những cây bút từng đoạt giải Nobel và lượng công chúng theo dõi giải thưởng ấy, có bao nhiêu người tin rằng quyền tự do phát biểu cần được xem như một quyền con người cơ bản và bất khả xâm phạm, ở mọi thời đại và mọi quốc gia.

Anh Nhơn, anh có nghĩ rằng họ đều bất tài? Anh có coi họ là “tầm thường và hèn nhát”? Anh có cho rằng họ chỉ đang “làm dáng” để trục lợi?

Nếu anh không dám chụp những lời mạt sát ấy lên đầu họ, thì sao lại một mực chụp chúng lên đầu giới nghệ sĩ Việt Nam?

Vì anh, cùng những “kiểm dịch viên” khác như Nguyễn Hòa, Chu Giang,… vẫn coi văn đàn trong nước như cái ao làng mà mình nắm quyền sinh quyền sát, thỏa sức kiêu binh lộng hành?

Vì khác với các cây bút xứ người, giới nghệ sĩ nước mình chưa biết mở mồm bảo vệ nhau, nên các anh mới tha hồ khôn nhà dại chợ như thế?

Hay đơn giản hơn, vì anh thiếu hiểu biết, nên không rành những chuyện nằm ngoài cái đáy giếng của giới văn công?



II- Thiếu hiểu biết

Nét nổi bật thứ hai nơi bài viết này là nó phơi bày sự thiếu hiểu biết của tác giả. Anh Nhơn dành một nửa bài viết để miệt thị những cây bút đòi hỏi “tự do sáng tác kiểu phương Tây”. Không thấy anh định nghĩa “tự do sáng tác kiểu phương Tây” là gì, và có gì khác tự do sáng tác “kiểu Việt Nam”. Trừ phi có những lí do bí ẩn khiến anh phải phát ngôn trái với hiểu biết của mình, tôi đành phải kết luận rằng anh hơi thiếu hiểu biết.

Về cơ bản, quyền tự do sáng tác thuộc phạm vi quyền tự do phát biểu. Đây là một quyền con người phổ cập, được quy định trong Bộ luật Nhân quyền Quốc tế mà Liên Hợp Quốc đã thông qua.

Điều 19 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:

“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.“

Điều 19 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị:

“Mọi người đều có quyền giữ vững quan điểm mà không bị can thiệp. Mọi người đều có quyền tự do thể hiện; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt thông tin và ý tưởng của tất cả các loại, không kể biên giới, bằng miệng, bằng văn bản hoặc ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác của sự lựa chọn của mình.”

Cả hai văn kiện này, Việt Nam đều đã ký. Một khi đã ký, phải có nghĩa vụ tuân theo.

Đã là quyền, thì phải được đảm bảo, bất kể mục đích của người đòi quyền.

Đã là phổ cập, thì phải có hiệu lực ở mọi nơi mọi lúc. “Quyền tự do sáng tác kiểu phương Tây”, suy cho cùng, là cụm từ vô nghĩa trên đầu môi những kẻ thiếu hiểu biết về chính trị và pháp luật.

Khi cho rằng chỉ người phương Tây mới có quyền tự do sáng tác, phải chăng các chiến sĩ “kiểm dịch” tin rằng người Việt không xứng đáng bình đẳng, bình quyền với người phương Tây?

Phải chăng dân tộc ta, nhân dân ta không xứng đáng được hưởng những quyền tự do, độc lập ấy? Và bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, cùng những máu xương mà nhân dân đã đổ để nó được thực thi, chỉ là một nhầm lẫn tai hại?

Nếu bản Tuyên ngôn Độc lập không nhầm lẫn, và nhân dân không nhầm lẫn, thì kẻ nhầm lẫn là nhà “kiểm dịch” Lê Thiếu Nhơn.

Chúng ta chúc anh Nhơn có sự can đảm tối thiểu để thừa nhận cái sai của mình. Và cũng chúc anh dành nhiều thời gian hơn để cải thiện tay bút.

Trong ròng rã nửa cuối bài, anh Nhơn sủi bọt mép ca thán về nền văn thơ nước Việt. Anh nhận định rằng các cây bút Việt đa phần bất tài và hèn nhát, chỉ loanh quanh viết vài thứ vuốt ve, mơn trớn để kiếm tiền và kiếm danh. Sau khi đọc thơ anh Nhơn cùng số bài vở mà anh đăng trên blog, tôi bắt đầu hơi đồng ý về nhận định này. Chẳng biết thơ anh có “giúp ích cho cuộc đời” không, nhưng tôi tin rằng nó tuyệt đối không “nâng cao thẩm mỹ của nhân loại”. Giá anh bớt thì giờ dành để đấu đá đua tranh, thì văn anh có khi đã đàng hoàng hơn một chút. Tôi không hiểu vì sao anh vừa chê cái thối của giới nghệ thuật Việt, vừa bỏ hàng năm ròng để nhai đi nhai lại cái thối này trên đầu môi chóp lưỡi, thay vì nhổ nó ra để tập trung cho việc sáng tác của bản thân.



Nguyễn Vũ Hiệp

Thứ Hai, 28 tháng 9, 2015

Đêm nay....



Hỗn loạn bóng
Hỗn loạn dao đâm
Hồn ma thức dậy
Chạm vào đêm, bàn tay của nước…

Vuốt qua
Mơn man
Chờ đợi
Ào ào đổ
Sẽ chẳng còn lại gì giữa cõi miên man

Chỉ còn đêm nay thôi
Chỉ còn đêm nay thôi
Đêm của những cơn điên
Lửa thiêng chỉ còn là ảo giác

Tiếng gầm gừ loài nhân sư đang kêu gọi
Còn có vĩnh viễn nào lâu hơn bánh xe luân hồi
Chỉ có đêm nay thôi
Bánh xe dừng lại

Không còn quá khứ
Chỉ có những bàn tay với lên từ hố đen vũ trụ
Nhưng chỉ nắm được vô hình vô ảnh

Vạn vật đều hư vô
Một cái chạm của anh với em
Lại là điều thật nhất

Hà Thủy Nguyên

Khúc ca quy ẩn

TƯỜNG LINH


Khúc ca quy ẩn


Bạch diện qua rồi, vẫn trắng tay
thư sinh buổi trước, gã cuồng nay
lạc đường, quay ngựa, vương tình bút
xa ruộng, lìa quê, nhớ luống cày
đọc sách nửa đời chưa sáng ý
bão bùng tơi tả cánh mơ bay
nghìn câu nguyện ước tan theo mộng
ráng đỏ mây phai nắng cuối ngày
hiên vắng ta ngồi đêm nguyệt tận
mắt buồn người hiện giữa cơn say

Khúc thu người tiễn ta chiều cũ
dương liễu đầu sông lá rụng đầy
không chén trường đình mà lảo đảo
không màng sự nghiệp cũng ngây ngây
sông Thu nào phải là sông Dịch
hai phía thầm đau nhạn lạc bầy
ta đã hẹn người ngày tái kiến
hội xuân đời ghép hội rồng mây
người không còn nữa, ta phiêu bạt
trở lại, còn ai gặp nữa đây?
quê cũ, cổng làng ai đứng đợi?
chiều xuân lạnh chiếu rượu xuân bày
sông xưa lở cả đôi bờ đẹp
hoang vắng, đò thôi cập bến này
trời mênh mông quá, vô tình quá!
không hận nhưng lòng tiếc lắm thay!
vốn nặng cưu mang tình cố lý
về nhìn hiên cúc gió thu lay
ta ngâm khe khẽ bài tương biệt
người trách thầm qua nét nhíu mày
nhân ảnh mờ chìm trong đáy cốc
rượu chiều sóng sánh bởi heo may
ta chờ nghe tiếng thân thương cũ
người gửi riêng ta thuở đọa đày
chiều bỗng tuôn mưa, trời nổi sấm
chén buồn còn lại chất men cay
bóng người mãi mãi là hư ảnh
mưa suốt đêm trường, gió lạnh vây
rượu rót chờ người không hiện nữa
bài thơ chiêu niệm ý hao gầy

Cố nhân! ta gọi tên bằng hữu
vạn nẻo trầm luân mất dấu giày
ta ngó lên nguồn, trông xuống biển
hỏi cùng nam bắc, hỏi đông tây…
lặng im, xẻ nghé tan đàn hết!
tiếp những mười năm hẹn đã chầy
mồ bạn lạc loài bao cõi lạ
nén hương chưa đốt tỏ lòng này
tri âm tri kỷ như sao sớm
chút nghĩa kim bằng cũng hiếm thay!

Cuối cuộc viễn trình đơn độc quá!
bơ phờ cánh hạc khép đường bay
gẫm bao chí lớn trong thiên hạ
chẳng được còn xanh với cỏ cây
thì ta một chấm nhân sinh nhỏ
mong mỏi gì hơn ở kiếp này?
cũng chẳng tính chi còn với mất
càng không than vãn chuyện riêng tây
đàn xưa trỗi lại bài lưu thủy
lắm nỗi niềm trao với nước mây
khúc ca quy ẩn đưa xa nhịp
khắc nét đời thơ chiếc bóng gầy
vang mãi dư âm triều hệ lụy
thơ chào tuyệt tích gửi ai đây?
Tân Tỵ - 2001



TẦN HOÀI DẠ VŨ


Quy ẩn, về đâu?

Kính tặng anh Tường Linh (nhân đọc “Khúc ca quy ẩn”)

Chiều xuống bên trời, mưa nữa đây
buồn như triều rộng sóng dâng đầy
phương xa đã thấm mùi lưu lạc
đã ngán chuyện mình mãi đổi thay
chẳng tiếc hư danh, đành phận mỏng
xoa tay mộng ngắn chẳng qua ngày
chiều nao soi bóng trong vinh hiển
để tối nay ngồi nhẫm đắng cay
thôi thế màu đời trăm sắc ảo
ngày về mây trắng trói hai tay

Nhớ xưa ta đến đời như mới
nuôi mộng sông hồ mắt đắm say
phơi phới tim vui lòng nhịp bước
buồn đau ngỡ đạp dưới chân giày
ta đi không nhớ người thương nhớ
không tiếc tình vương ở cuối mày
không hẹn đâu màng câu lỗi hẹn
cười khinh danh lợi thế gian này
đâu hay đời cứ cho gian dối
thế sự trêu người mưa bóng mây
lối cũ quay về sương khói lạnh
tuổi xuân che mặt khóc hao gầy
thì ra ảo tưởng là ta đấy
và cũng là ta kẻ trót vay
giấc mộng sông hồ tan bọt nước
cười mình trí cạn, chẳng cơ may
“gẫm bao chí lớn trong thiên hạ
chẳng được còn xanh với cỏ cây
thì ta một chấm nhân sinh nhỏ
mong mỏi gì hơn ở kiếp này?”(1)
biết thế mà không đành dạ thế
bụi đường trăm lớp giũ chưa bay

Tìm em cửa nhỏ mong tương ngộ
duyên muộn còn chăng một chút này
mỏi gối gan hùm thay lốt thỏ
gửi thân yếm thắm, óc chưa lầy
đêm đêm đối bóng thầm tâm sự
chẳng bắt trăng vàng trên gối say
chẳng hẹn người về chung lối mộng
chỉ mong dâu bể lấp mau đầy
nào hay nhân ngãi không đành phận
cuối cuộc tang thương để dấu giày
trong máu pha cung đàn tiễn hận
quạt mồ xanh nắm cỏ trên tay

Ai dẫn chân ta về xóm trúc?
am không xơ xác tấm thân gầy
nghe câu thuyết pháp lòng như đất
chẳng ngộ cho mình được mảy may
quay bước, làng xưa tìm lối cũ
mẹ cha già yếu bỏ bao ngày
về nương bóng hạc quên đời bạc
bất hiếu thôi đành con chắp tay
quê cũ dòng xanh sông chảy lại?
tuổi thơ khói bếp có sum vầy?
ngàn năm mảnh đất đan trong kén
lại hóa thành thơ cho bướm bay
bạn cũ đã xa ngoài vạn lý
tạ lòng ai hát bóng trăng lay?

Ai về cố quận cam quy ẩn
ta xót chi đời những lúc say
manh áo ân tình đành bạc thếch
sầu lòng mấy buổi chẳng ai hay
đời thôi xin cứ bay như khói
chẳng có ai về lau mắt cay
dẫu trốn được ra ngoài hữu hạn
hư vô cũng lạnh cuối chân mày!
2-12-2001

-------------
(1) Thơ Tường Linh - Khúc ca quy ẩn



NGUYỄN ĐÔNG NHẬT


Quy khứ - về đây

Kính tặng anh Tường Linh & anh Tần Hoài Dạ Vũ

Thì vẫn muôn trùng vẫn gió lay
Cay chua dâu bể bạc chân mày
U minh chìm nổi triền miên giấc
Trong trận cờ ma loạn dấu giày
Ai hỏi ngàn câu trên biển lớn
Can chi thân gởi chốn lưu đày
Đời soi huyễn mộng gương như chém
Chữ nghĩa tan theo nắng cuối ngày
Trí bạc xem ra đành phận mốc
Mờ mờ qua lối huyệt mù say.

Ra đi. Âm vọng đầu sông sáng
Khóc lịm hài nhi giập sóng lầy
Ta bước lên đường như phải bước
Từ vô lượng kiếp giạt về đây
Nặng cùng chín chữ thầm trong máu
Tát cạn sông đền chửa mảy may
Tóc trắng bên trời cha mẹ yếu
Mà lưu lạc rã cánh bèo mây
Đành cam bất hiếu lòng pha giấm
Hồn gởi điêu linh lệ thấm dày
Ngút ngút quê nhà sương khói nghẹn
Không về, ai đợi mỏn niềm tây
Lửa bom đã lấp biền dâu sém
Vườn cải hoa bầm lạnh dấu tay
Lịch sử cười điên cơn mất trí
Xé đời tươi máu có ai hay?
“Ngàn năm mảnh đất đan trong kén”(1)
Tàn nửa dòng thơ, lạc bướm bay.

Ra đi. Mơ dựng lời vui mới
Cho ngát mùa lên xanh sắc cây
Cho bếp nhân quần reo lửa ấm
Hát cùng giấc mộng khúc ca say
Đâu hay máu chảy ra ngoài máu
Dìm nát tim yêu cuộc thế bày
Ước nguyện phai màu tan ảo ảnh
Trách lòng chưa tỏ cuộc cờ ngây
Nghìn xưa rồi những nghìn sau nữa
Danh lợi cuồng tâm trái đất quay
Gió hú đêm trường trăng lạnh khóc
Ai đem xương trắng dựng lầu mây?
Ai cười xé lụa hờn sông núi?
Ai hỡi? Lầm chôn kiếp đọa đày!

Giận trời, mây cứ điềm nhiên trắng
Tiếng chó tru ma rợn óc lầy
Được mất còn chi ngoài rách nát
Thôi đành che mắt ướt trong tay
Đời ơi? “… một chấm nhân sinh nhỏ
Mong mỏi gì hơn ở kiếp này ”(2)
Biết thế nên vui cùng nước mắt
Ơn người mong trả giữa niềm cay
Thời gian. Xin giữ đền tơ tóc
Vinh - dự - tang - thương một cõi này
Trái đất già nua mà mới mẻ
Âm thầm ngậm đắng vết thương vay
Ra đi, ngày chật vô tình rộng
Lá hát rung đều nhịp nước mây
Ra đi. Thiên địa trầm ngâm thức
Câu hỏi không lời dạt cỏ cây.


----------------
(1) Qui ẩn, về đâu? Thơ Tần Hoài Dạ Vũ.
(2) Khúc ca qui ẩn. Thơ Tường Linh.

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

mê tín dị đoan và tín ngưỡng


Nguyễn Nhân Trí





Đại Ý:

– Mê tín dị đoan là những niềm tin hay ý niệm phát xuất từ lòng dễ tin không dựa trên lý lẽ hay kiến thức – nhất là khi những niềm tin hay ý niệm nầy không cần có bằng chứng vững vàng và đầy đủ.

– Nếu so sánh về nguồn gốc và bản chất thì sẽ thấy mê tín dị đoan và tín ngưỡng khác nhau rất ít.

– Nếu một hiện tượng không giải thích được xảy ra trong một tôn giáo, người theo tôn giáo ấy cho đó là một “phép mầu”. Nếu một hiện tượng giống như vậy xảy ra trong tôn giáo khác, theo họ đó là “điều huyễn hoặc”.

– Mỗi tôn giáo đều tự cho rằng tôn giáo mình không mê tín vì họ có “bằng chứng” để hỗ trợ cho những lễ nghi, giáo điều, tín ngưỡng, v.v. của họ. Và “bằng chứng” duy nhất và tối quan trọng nhất là “đức tin” của họ.

Nói về “mê tín dị đoan” là người ta nghĩ ngay đến thầy pháp, đồng cốt, bùa ngãi, bói toán, xin xâm, xủ quẻ, coi tướng số, cúng sao, đốt giấy tiền vàng bạc, v.v. và v.v.

Định nghĩa

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về “mê tín dị đoan”. Chỉ cần google “mê tín dị đoan” hay “superstition” là sẽ thấy hàng trăm cách nhìn về mê tín dị đoan. Phần đông các cách nhìn nầy đều có những điểm tương tự với nhau nhất là khi diễn giải chữ “mê tín dị đoan” theo nghĩa từng từ đơn của nó: từ Hán âm Việt “mê” có nghĩa là “thiếu sáng suốt” hay “lầm lẫn”; từ “tín” có nghĩa là “tin” hay “không ngờ vực”.

Theo Wikipedia thì “mê tín dị đoan là những niềm tin hay ý niệm phát xuất từ lòng dễ tin không dựa trên lý lẽ hay kiến thức – nhất là khi những niềm tin hay ý niệm nầy không cần có bằng chứng vững vàng và đầy đủ”.

Collins Discovery Encyclopedia, 1st edition HarperCollins Publishers 2005 đi vào chi tiết kỹ càng hơn và định nghĩa mê tín dị đoan là:
1. “Những niềm tin vô căn cứ dựa trên sự thiếu hiểu biết hay sự sợ hãi và tiêu biểu như sự sùng bái cực đoan các điềm gỡ, bùa phép, v.v.”
2. “Những ý niệm, hành động hay nghi lễ phát xuất từ các niềm tin kể trên”.
3. “Bất cứ những niềm tin vô căn cứ nào, nhất là niềm tin về vấn đề huyền bí”.

Theo một định nghĩa khác, mà tôi thường dùng, thì “mê tín dị đoan là niềm tin cho rằng một hiện tượng xảy ra vì là hậu quả của một hiện tượng khác, trong khi thật ra không có mối liên hệ nguyên nhân hậu quả gì giữa những hiện tượng nầy”.

Nguồn gốc và bản chất

Mê tín dị đoan sinh ra và tích lũy lại từ sự thiếu hiểu biết của con người trong những niên đại mà khoa học chưa được lập thành hay phát triển.

Bản năng tự nhiên, và nhu cầu sinh tồn, của con người thúc đẩy họ phải tìm ra những giải thích “thỏa đáng” cho chính họ về những hiện tượng xảy ra chung quanh. Tại sao khi thì săn bắt được nhiều thú rừng, khi thì không? Tại sao năm nay cây trái mùa màng lại thấp kém hơn những năm trước? Tại sao nếu sáng nào bà X vào mua hàng đầu tiên ở cửa tiệm của mình rồi thì suốt ngày đó sẽ buôn bán ế ẩm? Tại sao cái computer trong văn phòng của mình lại hay bị hư khi mình mặc áo màu đen đi làm?

Sự sợ hãi về các hiện tượng thiên nhiên và “siêu nhiên” vẫn còn tác động mãnh liệt trong tiềm thức con người ngày nay không khác gì trong ông cha họ lúc còn ăn lông ở lỗ. Những người có nghề nghiệp càng nguy hiểm, càng bấp bênh, càng tùy thuộc vào thiên nhiên thì thường càng có nhiều thủ tục mê tín gắn liền vào cách thức, lề lối sinh sống hàng ngày của họ.

Khi một đứa trẻ mới sinh ra, trong người của nó không có sẵn một chút mê tín dị đoan nào cả. Nhưng khi lớn lên, đứa trẻ dần dần học được những hành động, những phản ứng, những cách suy nghĩ nầy qua gia đình và xã hội chung quanh. Đại đa số những tập tục mê tín trong gia đình của cha mẹ sẽ được truyền qua gia đình của con cái trong tương lai, cộng thêm (hay trừ bớt) một số những mê tín khác mà những đứa con nầy thu lượm từ bạn bè, thân quyến chung quanh.

Phân loại và thí dụ

Nói chung các mê tín dị đoan có thể được chia ra làm bốn dạng sau đây.

Dạng thứ nhất là những nghi thức, cử chỉ xuất phát từ truyền thống hay thói quen. Thí dụ như đi xin xâm, hái lộc trong ngày Tết, bói bài, xem chỉ tay, xem tướng, tử vi, cúng sao giải hạn, đốt giấy tiền vàng bạc trong tang lễ, nấu cơm canh mời ông bà tổ tiên về dùng, v.v. Tất cả những điều nầy đều được truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, cha mẹ dạy con cháu làm theo, người nầy bắt chước người khác và được thực hành một cách máy móc không có sự suy nghĩ chính đáng. Đa số những mê tín dị đoan dưới dạng nầy thường được ẩn núp sau danh nghĩa “phong tục cổ truyền” hay ngay cả “tín ngưỡng dân gian”.

Dạng thứ hai là những điều tốt lành cũng như những điều kiêng cử. Nhiều người tin rằng nếu họ làm (hay không làm) những điều nầy thì sẽ có ảnh hưởng đến sự thành công (hay thất bại) của những chuyện khác (mặc dù những chuyện nầy không hề có một liên quan gì đến những đìều trên cả). Thí dụ như nếu cử hành cưới hỏi, khai trương tiệm quán, xuất hành đi xa, v.v. trong những ngày “xấu” (mùng năm hay mười bốn hay hăm ba âm lịch) thì cuộc hôn nhân sẽ lận đận, tiệm quán sẽ ế ẩm, cuộc du hành sẽ gặp trắc trở, v.v. Trái lại nếu lựa ngày “hạp” và giờ “tốt” (như “giờ hoàng đạo”) thì vợ chồng sẽ hạnh phúc, làm ăn phát đạt, chuyến đi sẽ an toàn dễ dàng, v.v. Những thí dụ tương tự khác như cất nhà phải theo đúng phép phong thủy, lựa người “mở hàng” buổi sáng, vợ chồng cần phải “hạp” tuổi, không được mở dù trong nhà, v.v.

Dạng thứ ba là những điềm tiên báo: điềm gở cũng như điềm tốt. Thí dụ nhiều người tin rằng có chim cú đến nhà là điềm sắp có người chết, gương vỡ sẽ xui xẻo 7 năm, mắt trái giựt là sắp có chuyện đáng lo, gặp mèo đen đi ngang trước mặt sẽ gặp tai nạn, nằm mộng thấy quan tài là sắp có tiền, chó lạ đến nhà là điều thành lợi trong khi mèo đến nhà là điềm thua mất (“mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”), v.v.

Và dạng thứ tư là sự tôn thờ sùng bái những cá thể siêu hình vì họ tin rằng những cá thể nầy có thể làm ảnh hưởng đến sức khỏe hay diễn tiến sự việc hay kết quả thành bại trong đời sống họ hoặc có thể cứu vớt họ vào một thế giới trường cửu nào đó sau khi chết. Thí dụ như thần cây đa, ma xó, ông Địa, Thần Tài, v.v.

Vài thí dụ khác:

Nhiều chủ tiệm, chủ cửa hàng rất tin vào việc "đốt phong long": họ tin rằng nếu đốt giấy tiền vàng bạc (có khi với nhang đèn hay có khi chỉ cần đốt vài mảnh giấy trơn) trước cửa hàng khi buôn bán ế ẩm thì sẽ xua đuổi được sự xui xẻo và khách hàng sẽ đến.



Nhiều vận động viên tin rằng nếu họ mặc một quần áo nào đó trong người hay làm một cử chỉ gì đó trước khi hay trong khi tranh giải hay tham dự cuộc đua thì họ sẽ được may mắn và chiến thắng (Ngôi sao bóng rỗ lừng danh Michael Jordan luôn luôn mặc một chiếc quần lót cũ mà anh đã từng mặc từ khi chơi cho đội banh trường của anh ở North Carolina bên trong đồng phục chính thức để được may mắn; tay quần vợt quốc tế Bjorn Borg không bao giờ cạo râu nếu anh đang trên đà thắng trận trong các cuộc tranh giải). Thí dụ nầy cũng tương tự cho vô số những người lính trong thời kỳ chiến tranh: hiện tượng phổ thông nhất là việc họ đeo đủ loại bùa để hy vọng súng đạn không phạm vào người họ.

Vài tính chất chung

Hầu hết các mê tín dị đoan đều mang một số tính chất chung.

1/ Đặc điểm chung và nổi bật nhất của các loại "mê tín dị đoan" là người ta thường làm (hoặc tránh làm) một hành động gì đó để mong muốn cho một sự việc gì khác xảy ra (hoặc không xảy ra) trong khi thật sự thì hành động đi trước không tạo thành hay gây ra sự việc theo sau.

2/ Mê tín dị đoan được truyền bá sâu rộng trong mọi tầng lớp, mọi chủng tộc, mọi thời điểm trong lịch sử con người.

Không có dân tộc nào, không có xã hội nào không chịu ảnh hưởng bởi mê tín dị đoan. Một số xác suất thống kê cho rằng không dưới khoảng 2/3 dân số của hầu hết bất cứ quốc gia nào trên thế giới từ Đông sang Tây nhìn nhận rằng họ ít nhiều tin và thực hành một số điều được định nghĩa là mê tín dị đoan.

Tôi cho rằng số người thật sự tin và thực hành những điều mê tín dị đoan lớn hơn 2/3 rất nhiều. Phần lớn những người không nhìn nhận họ mê tín dị đoan vì họ cảm thấy ngượng ngùng khi làm việc nầy. Họ ngượng ngùng vì ngay chính họ cũng nhận thấy rằng những điều họ làm là vô cớ, vô lý và không dựa vào một cơ sở lý luận hay nguyên cớ chính đáng nào cả.

Nhiều người khác không nhìn nhận họ mê tín dị đoan vì một số những gì họ tin và làm đã trở thành một phần quá quen thuộc trong cuộc sống của họ nên họ không thể nào còn có thể phân biệt và nhận thức chúng là mê tín dị đoan nữa.

Tôi tin rằng không ai hoàn toàn không mê tín dị đoan cả. Nhất là khi dựa vào định nghĩa trên: "mê tín dị đoan là niềm tin cho rằng một hiện tượng xảy ra vì là hậu quả của một hiện tượng khác, trong khi thật ra không có mối liên hệ nguyên nhân hậu quả gì giữa những hiện tượng nầy".

3/ Nhiều tập tục mê tín dị đoan bắt nguồn từ các lý do cần thiết thực dụng nhưng dần dần đều biến dạng và mất hết ý nghĩa lẫn mục đích ban đầu.

Thí dụ như nhiều người miền nam Việt Nam cho rằng nếu bị cây "đòn vông" của bất cứ nhà hàng xóm nào xỉa vào nhà họ thì trong gia đình sẽ bị nhiều điều xui xẻo (loại nhà Việt Nam cổ truyền phổ thông thường có một gian hai mái và cây "đòn vông" là cây đà ngang nằm ở trên đỉnh cao nhất của nóc nhà và theo chiều dài căn nhà).

Người ta không hiểu rằng trong các thành thị hay làng xóm thời xưa một trong những cách để giúp cho đường xá nhà cửa được ngay hàng thẳng lối thì nhà cầm quyền ra lệnh khi cất nhà phải cất thế nào mà cây đòn vông không được xỉa vào các nhà lân cận. Nếu thực hiện điều nầy thì tất cả căn nhà lân cận đều nằm tương đối song song với nhau và như vậy xóm làng phố xá sẽ trật tự ngăn nắp và dễ dàng có chỗ giao thông đi lại. Nếu ai cất nhà mà đòn vông không song song với hàng xóm thì sẽ bị láng giềng làng xã phiền hà cho rằng làm như vậy không tốt. Sự kiện nầy được truyền miệng từ người nầy sang người khác, từ địa phương nầy sang địa phương khác, từ thế hệ nầy sang thế hệ khác.

Quan niệm đòn vông xỉa vào nhà từ chỗ "không tốt" vì mất trật tự dần dần trở thành "không tốt" cho công việc buôn bán làm ăn và sức khỏe của gia đình. Ngày nay không còn mấy người nhớ và biết cái tục lệ nầy đã phát xuất từ đâu.

Thí dụ như theo phép phong thủy thì nếu một căn nhà mà cửa trước ăn thông suốt một đường với cửa sau thì “tiền bạc làm ăn được trong gia đình sẽ trôi tuột đi mất cả”. Người ta không thấy rằng các lý do thật sự để tránh lối kiến trúc nầy rất thực tế. Đó là vì nó không an toàn dễ bị kẻ trộm cắp nhòm ngó, là vì gió lạnh dễ thông luồn vào nhà gây ra bệnh hoạn do đó hao tốn tài của, v.v. Tuy vậy, cái quan niệm “cất nhà với cửa trước ăn thông suốt thẳng đường với cửa sau là không tốt" trên dần dần mang thêm những ý nghĩa huyền bí liên quan đến tình trạng tài chính và sức khỏe của gia đình.

4/ Mê tín dị đoan nầy có khuynh hướng sinh sản ra mê tín dị đoan khác.

Thí dụ như từ quan niệm "đòn vông" kể trên, dần dần các thầy địa lý, thầy tướng, thầy bùa lại bày vẻ thêm là nếu bị cây đòn vông của hàng xóm "chiếu" vào nhà thì cần phải "thỉnh" (có nghĩa lả "mua") một tấm kính mang hình bát quái đồ treo trước cửa để "phản chiếu" những chuyện rủi ro ra khỏi nhà! Từ đó sinh ra sự tin tưởng rằng mỗi nhà cần phải có một tấm kính treo trước cửa để tránh chuyện xui xẻo bất kể là nhà có bị đòn vông của hàng xóm xỉa vào hay không.

5/ Khi nói về “mê tín dị đoan” là nhiều người nghĩ rằng “những người mê tín mới làm những chuyện vớ vẩn kể trên chớ tôi thì không bao giờ…”

Voltaire cho rằng một người mê tín cũng như một kẻ nô lệ bị trói buộc bởi những nỗi lo sợ vô cớ do chính mình áp đặt lên cho mình. Theo ông thì trên thế giới có hai nhóm người rõ rệt: một nhóm không mê tín, một nhóm mê tín; và ai cũng nghĩ là mình thuộc về nhóm thứ nhất.

Tùy một người là ai mà họ thấy cái gì là mê tín, cái gì là không.

Một người Pháp chẳng hạn, khi đi qua nước Ý sẽ thấy hầu như mọi thứ chung quanh ông ta đều có dính dáng đến mê tín dị đoan. Như đã thấy ở trên, khi một người Á Đông đọc về những mê tín của Tây Phương chẳng hạn, họ sẽ cười mà cho rằng những dân tộc nầy quả thật là chậm tiến và mê muội. Ngược lại một người Tây Phương cũng có các phản ứng tương tự khi đọc về tín ngưỡng Đông Phương.

6/ Nhiều hiện tượng, nhiều sự kiện trong đời sống hàng ngày thường được người ta dựa trên mê tín dị đoan mà diễn giải khác nhau (có khi hoàn toàn trái ngược hẳn nhau) tùy vào văn hóa, phong tục địa phương.

Theo tập tục Việt Nam thì chim cú mang đến điềm gỡ lớn (gia đình sắp có người chết) trong khi theo người Tây Phương thì con cú mèo biểu tượng cho sự thông thái minh mẫn (vì đôi mắt to lớn kèm với nhãn lực siêu việt có thể nhìn thấy mọi sự việc).

Ảnh hưởng

Vài ảnh hưởng của mê tín dị đoan lên đời sống hàng ngày là:

– Mê tín dị đoan có thể đem đến hy vọng và hỗ trợ tinh thần trong hoàn cảnh khó khăn, bấp bênh.

– Mê tín dị đoan thường tạo ra những sự sợ hãi, lo lắng không cần thiết.

– Mê tín dị đoan có thể làm cho công việc bị đình trệ hay hủy bỏ vô ích.

– Người mê tín dễ bị lạm dụng để làm tiền hay kềm chế, điều khiển.

– Những điều tai hại từ mê tín dị đoan của một người thường làm ảnh hưởng đến những người khác chung quanh họ.

Lý do mà mê tín dị đoan thịnh hành và trường tồn

Đó là vì người ta tin rằng những niềm tin nầy đem lại kết quả họ mong muốn.

Họ cho rằng nhờ tác động A của họ mà sự kiện B xảy ra (bất kể là tác động A và sự kiện B có một liên quan hệ quả gì trên bất cứ phương diện gì hay không).

Thật ra chỉ cần dựa trên nguyên tắc xác suất thống kê cơ bản thì ai cũng có thể thấy rằng trung bình số lần họ đạt được kết quả mong muốn sẽ là 50%. Có nghĩa là bất kể tác động A có xảy ra hay không thì số lần sự kiện B xảy ra thông thường cũng vẫn sẽ ngang ngữa với số lần sự kiện B không xảy ra. Tuy nhiên, bản năng tâm lý tự nhiên của con người làm cho họ chỉ nhớ đến những lần họ thành công, còn số lần còn lại khi thất bại thì họ có khuynh hướng hoặc không kể đến, hoặc tự đỗ thừa cho rằng vì các lý do khác nào đó mà họ không thành công, hoặc chỉ giản dị quên mất chúng đi trong tương lai.

Sẽ có những lần sau khi người chủ tiệm đốt phong long mà vẫn số khách hàng đến cửa hàng vẫn không nhiều hơn. Nhưng cũng có những lần sau khi đốt phong long thì có đông khách hàng hơn (vì lý do gì khác không biết). Người chủ tiệm sẽ có huynh hướng nhớ đến những lần có khách đông nầy và cho rằng việc đốt phong long có hiệu nghiệm trong khi họ sẵn sàng quên mất hay không kể đến những lần không có được thêm khách gì cả.

Dựa trên những lần mà một người cho rằng niềm tin của họ “hiệu nghiệm”, trong tương lai họ lại càng có khuynh hướng tin tưởng thêm nữa. Họ cho rằng ngay cả nếu niềm tin gì đó của họ dù chỉ có hiệu nghiệm một vài lần mà thôi thì cũng vẫn đáng để tiếp tục làm nữa.

Nhiều người tuy không tin tưởng hoàn toàn vào một số điều nằm trong phạm trù “huyền bí” hay “khó giải thích” nhưng họ vẫn thực hành những điều nầy để cho “chắc ăn”. Nếu làm một động tác gì đó tuy không chắc sẽ mang đến kết quả mong muốn nhưng nhiều người cũng vẫn sẽ làm phòng hờ vì họ e ngại “nếu lỡ nó có hiệu nghiệm thật sự lần nầy thì sao!?” Khi vào khách sạn nếu có dịp lựa chọn giữa hai căn phòng y hệt nhau về mọi mặt chỉ trừ việc một trong hai phòng mang số 13 thì đa số sẽ tránh không chọn căn phòng mang số 13.





Mê tín trở thành những thói quen phiền toái, tốn kém. Tuy vậy đây là những thiệt thòi người ta sẵn sàng đánh đổi để cho họ cảm thấy an tâm và “an toàn” hơn. Người ta tin tưởng một cách nghiêm cẩn và chăm chỉ về những hiện tượng huyền bí “nho nhỏ” nầy, tuy rằng không ai thật sự hiểu rõ nguồn gốc hay cách vận hành của chúng ra sao.

Mê tín dị đoan khác tín ngưỡng thế nào?

Nếu so sánh về nguồn gốc và bản chất thì sẽ thấy mê tín dị đoan và tín ngưỡng khác nhau rất ít.

Một số mê tín dị đoan ngày nay rất có thể là dấu tích của những tín ngưỡng tôn giáo trong thời xa xưa.

Thí dụ như nhiều người tin rằng Thứ Sáu mười ba là một ngày rất xui xẻo. Một trong những cách giải thích là theo Kinh Thánh, ngày thứ Sáu là ngày Eva dụ Adam phạm tội, cũng như là ngày trận Hồng Thủy bắt đầu, cũng như là ngày Jê-Su bị đóng đinh; kết hợp với việc trong buổi ăn cuối cùng của Giê-Su có 12 người tham dự, với người thứ 13 là Ju-da, kẻ đã phản bội Giê-Su.

Một thí dụ khác là người Tây Phương ngày nay vẫn thường buột miệng nói “Xin Chúa ban ơn!” (“bless you!”) sau khi thấy một người nhảy mũi. Vào thế kỷ thứ 6, người ta tin rằng khi nhảy mũi thì cánh cửa thông thương giữa linh hồn trong người với thế giới bên ngoài tạm thời mở ra và do đó dễ bị ma quỷ nhập vào ám hại. Về sau, khi có bệnh dịch lan tràn, nhiều người bị nhảy mũi dữ dội khi bị nhiễm bệnh, Đức Giáo Hoàng đương thời ra lệnh phải xin Chúa độ ơn khi thấy một người vừa nhảy mũi (vì với trình độ y khoa sơ đẳng của thời ấy, rất nhiều người sẽ chết khi bị nhiễm dịch).
Theo tôi, nếu nhìn về một phương diện khác thì mê tín dị đoan và tôn giáo đều được bắt đầu từ một nguồn gốc chung. Cả hai đều có những đặc điểm rất tương đồng với nhau như sau:

– Cả hai đều được thành hình từ nhu cầu cần thiết để cố gắng giải thích về những hiện tượng khó hiểu chung quanh con người.

– Cả hai đều gán ghép những liên hệ nguyên nhân hậu quả vào một số hiện tượng mà không hề chứng minh rõ ràng được về những mối liên hệ nầy.

– Cả hai đều dựa lên một nền tảng chung để truyền bá và vận hành, đó là sự sợ hãi.

– Cả hai đều chỉ có giá trị giới hạn trong một tập thể, một địa phương nào đó. Bên ngoài biên giới của những tập thể hay địa phương nầy, cả hai đều có thể bị coi là vô căn cứ, chậm tiến hay thậm chí mê muội, mù quáng.
Một nhận xét khá lý thú là ngay chính tôn giáo cũng nhìn nhận sự hiện hữu của mê tín dị đoan, và phần lớn công khai bài bác những tập tục “mê muội, mù quáng” nầy. Có điều là chữ “mê tín” trong tôn giáo thường được dùng đồng nghĩa với “những lễ nghi, giáo điều, tín ngưỡng, v.v. của các tôn giáo khác”.



Nếu một hiện tượng không giải thích được xảy ra trong một tôn giáo, người theo tôn giáo ấy cho đó là một “phép mầu”. Nếu một hiện tượng giống như vậy xảy ra trong tôn giáo khác, theo họ đó là “điều huyễn hoặc”.

Mỗi tôn giáo đều tự cho rằng tôn giáo mình không mê tín vì họ có “bằng chứng” để hỗ trợ cho những lễ nghi, giáo điều, tín ngưỡng, v.v. của họ. Và “bằng chứng” duy nhất và tối quan trọng nhất là “đức tin” của họ. Như đã nói ở trên, với ý niệm “đức tin” thì tín đồ không cần phải giải thích được bằng kiến thức khoa học hiện thời về bất cứ điều gì dù là huyễn hoặc và phản khoa học hay phản thực tế bao nhiêu.

Phương cách nầy rất tiện lợi và hữu dụng, nhưng lại có một khuyết điểm rất lớn. Đó là hầu như mỗi tôn giáo đều có một đức tin khác nhau, và nhiều khi hoàn toàn đối nghịch nhau. Tín đồ Thiên Chúa Giáo nhìn người Ấn độ thờ "Linga" (hoặc Lingam) tức là Dương vật là biểu tượng của thần Shiva, thì cho đó là mê tín. Và người Ấn độ xem người Công Giáo rước bánh thánh chỉ là một mẫu bánh mì chay mà gọi là ăn chính thịt Chúa họ thì cũng cho rằng đó là một hành vi mê tín.

Ngay cả những nhóm phái trong cùng một tôn giáo cũng bất đồng ý kiến với nhau về mê tín dị đoan. Điều nầy gây ra sự chia rẽ trong hàng ngũ của nhiều tôn giáo.
Trong Thiên Chúa Giáo, ngay những nhóm người cùng coi mình là con chiên của Giê-Su cũng luôn có những quan điểm khác nhau khi nói về mê tín. Voltaire viết "mê tín dị đoan phát sinh từ tục lệ trong nhân gian hoặc những đạo đa thần, nhập vào Do Thái giáo rồi lan truyền sang toàn thể Thiên Chúa Giáo ngay từ thời buổi ban đầu. Tòa Thánh luôn luôn chê trách pháp thuật, nhưng lúc nào cũng tin vào phép mầu. Tất cả những linh mục trong Tòa Thánh, không ngoại trừ bất cứ ai, đều tin vào huyền lực của phép mầu".

Voltaire cũng nhận xét thêm rằng ở thời ông ấy thì "Ngài Tổng Giám Mục của địa hạt Canterbury cho rằng Ngài Tổng Giám Mục của địa hạt Paris là mê tín, nhóm Tin Lành cho rằng Ngài Tổng Giám Mục của Canterbury là mê tín trong khi chính họ cũng bị những người Quakers cho là mê tín. Trong khi đó, nhóm Quakers lại bị coi là những người mê tín dị đoan nhất bởi mọi nhóm khác trong Thiên Chúa Giáo".

Tình trạng đó cũng vẫn không khác gì mấy ngày nay. Đạo Tin Lành vẫn cho rằng những thánh vật, sự hiện thân của Đức Mẹ Đồng Trinh, sự cầu nguyện cho người chết, nước thánh, v.v. cũng như hầu hết những nghi lễ của Công Giáo đều là mê tín dị đoan. Đối với họ, mê tín là lấy những việc không cần thiết mà thực hành như những việc tối cần thiết.



Ngay trong Công Giáo cũng có những nhóm đã gạt bỏ bớt đi nhiều hình thức rườm rà mà nhiều người Công Giáo khác cho là thiêng liêng và cần thiết. Tuy vậy, nhóm nầy thường không công khai đả kích những người vẫn đeo giữ những thủ tục cổ hủ, vì theo họ thì những lễ nghi nầy "cũng không có gì nguy hại hay tội lỗi cả".

Trong cái gọi là Phật Giáo ngày nay, tôi có một danh sách dài bất tận về những thủ tục, nghi lễ nằm đúng hoàn toàn trong cái định nghĩa của mê tín dị đoan ở trên. Tôi sẽ trình bày chi tiết về vấn đề nầy ở một bài tiểu luận khác.

Tôi tin rằng nhận xét trên cũng có thể áp dụng cho tất cả các tôn giáo Đông Phương khác từ Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo cũng như những tôn giáo nhỏ như Cao Đài, Hòa Hảo, v.v. Những tôn giáo nầy (trừ Hồi Giáo) thường không kình chống lẫn nhau công khai và có khi đầy tính cách bạo động như trong trường hợp của Thiên Chúa Giáo. Tuy vậy trong nhóm tôn giáo Đông Phương, các nghi lễ, phương cách tụng niệm, hình tượng của một tôn giáo cũng vẫn thường bị xem là mê tín dị đoan bởi người trong những tôn giáo khác.

Có người cho rằng nhóm phái nào có ít nghi lễ nhất thì có lẽ là ít mê tín nhất. Nhưng theo tôi thì nói như vậy đâu có khác mấy với nói rằng "con mèo nào có đuôi càng ngắn thì càng có ít tính chất ‘mèo’ hơn".
Khi phân tích những thí dụ ở trên, chúng ta thấy rõ ràng là trong tôn giáo, người ta làm (hoặc tránh làm) những hành động gì đó chỉ vì để được tưởng thưởng (hoặc không bị trừng phạt) bởi một đấng Tối Cao. Trong khi đó, người ta thật sự không có cách nào biết rõ về sự hiện hữu của nhân vật Tối Cao nầy, chớ đừng nói gì đến có thể giải nghĩa thích đáng được về sự liên hệ giữa những hành động và sự thưởng phạt nầy. Yếu tố nầy chúng ta đã thấy nằm trong trường hợp của mê tín dị đoan.

Khi áp dụng cái định nghĩa của mê tín dị đoan ở trên vào những tính chất đặc thù của tôn giáo và từ những nhận xét trên, nhiều người không khỏi đi đến kết luận rằng tôn giáo chỉ là những tập hợp của một số mê tín đã được hệ thống hóa lại với nhau.

Nói chung, tôn giáo thường là các tổ chức có chính sách truyền bá với kế hoạch và quy củ chặt chẽ trong khi mê tín dị đoan thường chỉ là những “kiến thức” truyền miệng trong dân gian. Yếu tố khác biệt nầy làm cho nhiều người trong chúng ta không thấy được là cả hai đều liên quan rất mật thiết với nhau từ nguồn gốc cho đến cách vận hành.
Tôn giáo thay đổi với thời gian. Những thay đổi trong tôn giáo thường cần thiết để đáp ứng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, với nhu cầu đời sống của xã hội, và có khi với áp lực chính trị bên trong cũng như bên ngoài tổ chức tôn giáo. Nhờ có luật lệ, quy củ rõ rệt, những thay đổi trong tôn giáo thường xảy ra tương đối nhanh chóng.

Thí dụ như sau nhiều thế kỷ truyền dạy theo lời Kinh Thánh rằng địa cầu là trung tâm của vũ trụ, khi phải đối diện với bằng chứng khoa học không thể chối cải được, giữa năm đầu thập niên 1960 đến năm 1979 Tòa Thánh đã phát hành những văn bản mang hàm ý ân xá Galileo. Đến tháng 10 năm 1992 thì Đức Giáo Hoàng John Paul 2 chính thức xin lỗi về vụ Galileo cũng như công nhận quả địa cầu không phải là trung tâm của vũ trụ như lời Thánh Kinh dạy mà chỉ là một hành tinh trong Thái Dương hệ.

Thí dụ như hôn nhân đã từng được coi là một giao kèo bất di bất dịch giữa hai người trước mặt Thiên Chúa; sự ly thân của hai vợ chồng, bất cứ vì lý do gì, là một tội nghiêm trọng không thể tha thứ được. Ngày nay, với lề lối sinh sống và quan niệm tình cảm hiện đại của đa số tín đồ, Tòa Thánh cũng đã phải sửa đổi cái nhìn về vấn đề nầy; nhờ vậy mà ly dị không còn là một tội lỗi đáng bị trừng phạt bởi Thiên Chúa nữa. Một thí dụ gần đây nhất, đầu tháng Mười 2014, Tòa Thánh Vatican sau 2 tuần hội thảo đã phát hành một công văn tuyên bố rằng mối quan hệ giữa những người đàn ông đồng tính luyến ái có các “phẩm chất và giá trị tương tác lẫn nhau” và bày tỏ thái độ chấp nhận sự việc nầy (tuy nhiên vấn đề hôn nhân đồng tính vẫn chưa được đề cập đến); đây là một sự thay đổi giáo điều lớn lao sau 2000 năm cực lực nghiêm cấm và trừng phạt.

Mê tín dị đoan, trên mặt khác, thường ít thay đổi; hoặc nếu có thì cũng chỉ với một tốc độ rất chậm.

Như đã nói, mê tín dị đoan thường chỉ được thực hành ở lãnh vực cá nhân hơn là ở môi trường đoàn thể, công khai, với văn bản, luật lệ hẳn hoi như trong trường hợp tôn giáo. Người ta thường dễ dàng chấp nhận hơn nếu một mê tín không chạy theo kịp kiến thức khoa học kỹ thuật hay quan niệm xã hội. Vì không có tổ chức, cơ cấu, ban điều hành, v.v. như tôn giáo, mê tín dị đoan thường không cần lo lắng đến việc có thể bị chỉ trích công khai bởi báo chí, dư luận, nhà cầm quyền, v.v. Vì không có những áp lực chính trị nầy, mê tín dị đoan tương đối được “bỏ lơ” để tồn tại không thay đổi mấy từ thế kỷ nầy qua thế kỷ nọ.

Mê tín dị đoan có thể gây ra phiền phức, tốn kém cho cá nhân và xã hội. Những phiền phức, tốn kém nầy thường tương đối nhỏ hẹp và giới hạn. Tuy nhiên, vì tôn giáo thường có tổ chức công khai, cơ cấu chặt chẽ, hàng ngũ rõ rệt, tài chính dồi dào, uy quyền to lớn nên ảnh hưởng của tôn giáo có thể nghiêm trọng và sâu rộng rất nhiều cho cá nhân và xã hội.

Có người nói rằng “tôn giáo vô hại cho đến khi có kẻ trở thành mù quáng vì nó”. Rất ít trường hợp một cá nhân hay đoàn thể tàn sát một cá nhân hay đoàn thể khác vì họ bất đồng ý với nhau về ý nghĩa của một điều mê tín gì đó. Tuy nhiên, lịch sử đã có biết bao nhiêu trang đẫm máu chỉ vì những bất đồng ý kiến về cách giảng giải khác nhau về vài chi tiết trong kinh sách tôn giáo.

Nói chung, tùy một người tin vào những gì mà một hành động, một hiện tượng đối với người đó có thể là mê tín dị đoan hay là tín ngưỡng chính đáng. Trình độ giáo dục, bằng cấp văn hóa, kiến thức kỹ thuật không chắc có thể đem đến khả năng chống cự lại ảnh hưởng của mê tín dị đoan. Chúng ta đã từng thấy bác sĩ, kỹ sư, bác học, triết gia, v.v. cũng vui vẻ tuân theo các điều mê tín không khác gì những người buôn bán, chạy xe ôm hay ăn xin ngoài đầu chợ. Viên chức cao cấp trong tổ chức chính trị hay lãnh tụ quốc gia cũng không miễn nhiễm trong vấn đề nầy. Cứ nhìn vào Việt Nam thì sẽ thấy một thí dụ điển hình. Tất cả đều ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp công khai thi hành những thủ tục “cần thiết” của mê tín dị đoan hàng ngày mà không hề thắc mắc.

bầy người hoang tưởng



Huỳnh Lê Nhật Tấn







Tôi tạo hình hài pho tượng lay động
rải từng hạt bụi trôi đi
Rớt xuống mắt phố phủ đôi chân
mỗi bước đi dài vạn dặm

Thời gian hủy diệt lại tái sinh
Tôi đi theo ánh sáng

Nhân loại tạo ra mọi vật. Họ muốn mọi thứ
cái ghế ngồi đến lúc phải đứng lên
giường nằm bỗng thân thể ngồi dậy miệng mở
tự tình nói nhau nghe
dao búa súng ống để đôi tay gây bề tội ác
giết chúng đi
Thụ tinh thành người gỗ để bày điều hoang tưởng

Não căng rêu móc ý nghĩ tàn lụi
Tôi như tờ giấy trắng để gió thổi bay

Phía sau người dân đang sinh sống
Họ đã có mặt mọi nơi
sau lưng chúng ta

Họ mơ ước sẽ đến ở ngôi sao lạ
xa tít trên bầu trời rộng
bay vi vu nói điều mơ tưởng
Xem trời đất mọi hướng đi
Tôi phải yêu đất nước trong cơn tán loạn

Phía trước sợi dây treo hành hình
Buộc nó sáu điều tặc ác
Tôi phải tránh xa mọi giáo điều