Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

thu



Lê Phước Dạ Đăng







hàng cây định giá bằng những bộ xương
đầu hẻm cạnh vườn
trơ trọi
cọng que lắc lư chiến thắng
khử trừ
sự dối trá
bất tử

ai oán gió chiêu hồn
rầm rập dấu âm binh

từ cội rễ bi thương nhựa ứa
mật của đất tích trầm ký gởi

"XÃ HỘI DÂN SỰ" CHỈ THEO LỀ TRÁI ?




Mấy năm gần đây, trên dư luận lề trái, cụm từ "xã hội dân sự" đã trở thành một mốt thời trang. Ngày nay, tuyệt đại đa số các tổ chức đấu tranh đã công khai tuyên bố rằng mình là một phần của xã hội dân sự. Không ít tiếng nói trong phong trào đã đồng thuận rằng tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam gắn liền với sự phát triển của xã hội dân sự, và chỉ có thể giành thắng lợi khi các tổ chức dân sự đủ lớn mạnh để vận động quần chúng xuống đường đấu tranh.

Mốt "xã hội dân sự" này hình thành vì hai lí do chính.

Thứ nhất, là tình hình quốc tế thay đổi. Chỉ mới vài thập kỷ trước, mọi chính phủ phương Tây đều quả quyết rằng chủ nghĩa Cộng Sản là xấu, các chế độ Cộng Sản phải bị tiêu diệt, hoặc ít nhất là bị tẩy chay. Thời đó, các đảng phái chống Cộng có thể được Mỹ rót những khoản đầu tư kếch xù. Tuy vậy, khi những quyền lợi thực tiễn về kinh tế và địa chính trị khiến "thế giới tự do" và "địa ngục Cộng Sản" ngày càng thân thiết với nhau hơn, thái độ cực đoan này không dùng được nữa. Càng ngày, chính quyền Mỹ càng khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng Hoa Kỳ tôn trọng thể chế chính trị hiện tại của Việt Nam, và muốn giúp chính phủ Việt Nam đạt được những bước tiến bộ về nhân quyền và pháp luật. Thế là chính quyền Cộng Sản trở thành đối tác chính trị của Mỹ, thay vì một đối tượng xấu cần lật đổ hoặc tẩy chay.

Trong tình hình mới, Mỹ không thể, và cũng không muốn công khai hỗ trợ những đảng phái đối lập chủ trương lật đổ chính quyền. Vì vậy, dòng tiền đầu tư chảy sang một xu hướng mới. Đó là những "tổ chức dân sự" được thành lập để "xiển dương nhân quyền, công bằng xã hội và thượng tôn pháp luật". Dù sao đi nữa, đường lối hoạt động trên danh nghĩa ấy cũng phù hợp với những tuyên bố mà hai chính phủ Việt Nam và Mỹ đã thỏa thuận với nhau. Thế là dù muốn hay không muốn, các nhà hoạt động cũng đành nói ít đi về thay đổi thể chế, và nói nhiều hơn về nhân quyền. Các chính đảng đối lập cũng kín tiếng hơn, và đảng viên thường chỉ hiện diện công khai trong lốt "xã hội dân sự".

Lí do thứ hai là lách luật. Nếu cứ tham gia các chính đảng đòi dân chủ theo lối cũ, thì khi bị bắt, người ta sẽ dễ dàng bị khép vào điều 79 Bộ luật Hình sự, là "Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân". Còn nếu tuyên bố rằng mình chỉ tham gia một tổ chức dân sự chuyên quảng bá những giá trị phổ cập mà nhà nước Việt Nam đã công nhận trước quốc tế, thì bản án, nếu có, sẽ nhẹ hơn nhiều. Thế là trong mắt các nhà đấu tranh, cụm từ "xã hội dân sự" đã trở thành một lá chắn và bình phong vô cùng hữu ích.
Mốt "xã hội dân sự" kể trên có cả cái hay lẫn cái dở. Dư luận đã đổ quá nhiều nước miếng để mô tả hết cái hay. Vì vậy, dưới đây, tôi chỉ xin điểm qua vài hạn chế của mốt này.

Hạn chế đầu tiên là những "tổ chức dân sự" kể trên dường như chưa chính danh lắm.

Nhìn chung, xã hội dân sự bao gồm những tổ chức mà người ta tự nguyện gia nhập, độc lập với các nhà nước, và không được thành lập để tham gia tranh cử. Tôi quan ngại sâu sắc về tính độc lập của các tổ chức dân sự lề trái ở Việt Nam. Trong thực tế, đa số những tổ chức đó rất lệ thuộc vào dòng fund trực tiếp hoặc gián tiếp từ các chính phủ nước ngoài. Hầu như chẳng có "tổ chức dân sự" nào sống được nhờ môi trường dân sự Việt Nam, tức là bằng tiền của người dân trong nước. Vậy thì đâu có độc lập với các chính phủ. Thêm vào đó, trong những cuộc trò chuyện không chính thức, nhiều "nhà hoạt động dân sự" lề trái cũng hiếm khi che giấu mục đích lật đổ chế độ và giành chiến thắng cho chính đảng mà mình đang theo. Tôi không nói việc này là sai hay đúng, nhưng tôi tin rằng nó không chính danh lắm trong mắt người mình.

Hạn chế thứ hai là nạn độc quyền danh nghĩa. Cái danh "xã hội dân sự" thật béo bở. Khi phát biểu trong các cuộc gặp, hội nghị, hoặc trên truyền thông quốc tế, các tổ chức đối lập thường liệt kê danh sách mấy chục "tổ chức xã hội dân sự", hay "hội đoàn độc lập" ở Việt Nam. Họ làm như thể xã hội dân sự Việt Nam chỉ có mấy chục tổ chức này, và cái nào cũng bị đàn áp bởi chính quyền. Trong khi đó, hầu hết các tổ chức này có chung danh sách thành viên, nghĩa là nhiều tổ chức thực ra chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Ngoài ra, trong thực tế, xã hội dân sự Việt Nam không chỉ bao gồm những tổ chức đối lập. Hiện có hàng vạn tổ chức dân sự đã hoặc chưa được cấp phép, thuộc mọi địa hạt của đời sống, đang công khai hoạt động ở Việt Nam. Nếu thực lòng muốn phát triển xã hội dân sự và xiển dương nhân quyền ở trong nước, tôi nghĩ các tổ chức đối lập nên nhận xét công tâm hơn về môi trường dân sự mới mở ra này. Nếu cứ trình bày rằng Việt Nam chỉ có vài chục tổ chức dân sự, và phát biểu nhân danh toàn thể xã hội dân sự Việt Nam, tôi e dư luận cả trong lẫn ngoài sẽ có nhiều lời đàm tiếu.

Hạn chế thứ ba là quá lệ thuộc vào môi trường chính trị quốc tế. Bản thân cái mốt xã hội dân sự đã là một sản phẩm phụ của những thỏa thuận đối ngoại giữa chính quyền Việt Nam và các chính quyền phương Tây. Nhiều tổ chức dân sự đối lập dành hầu hết tâm sức để lên án chính quyền Việt Nam hiện tại trong cuộc gặp với những chính quyền khác mà họ cho là tốt bụng và chính nghĩa hơn, những mong nhận được sự cứu giúp của các vị này. Có lẽ để trở thành một phần của xã hội dân sự đích thực, các tổ chức đối lập nên dành thêm sự quan tâm cho các thành phần dân chúng ở Việt Nam, thay vì tiếp tục bị ám ảnh bởi các chính quyền đó.

Nhà dân chủ

Quan điểm hiếu hạnh trong “Mâu tử Lý hoặc luận”



 Ngộ Bổn




Uống nước nhớ nguồn” vốn là truyền thống đạo hiếu của người dân Việt Nam từ ngàn xưa. Đến khi nước ta bị giặc phương Bắc đô hộ, ảnh hưởng văn hóa của Nho giáo thì hạnh hiếu càng được xem trọng. Nếu cuộc sống và con người là thiêng liêng cao quý thì hiếu đạo là điều rất đáng lưu tâm. Hiếu hạnh cần được hiểu như là một đức tính cao đẹp trong hầu hết các nền văn hóa nhân loại. Đó là thái độ sống với lòng biết ơn, nhớ ơn và báo ơn công đức sinh thành dưỡng dục đối với cha mẹ.

Tuy nhiên, cuộc sống có muôn hình vạn trạng và nền văn hóa của mỗi quốc gia cũng khác nhau, cho nên quan niệm về chữ hiếu và hình thức báo hiếu cũng có đôi nét khác biệt. Điều này ta bắt gặp rất rõ trong tác phẩm Lý hoặc luận của Mâu Tử.

Khi xử lý những điều sai lầm, Mâu Tử đã hóa giải thắc mắc về quan điểm hiếu hạnh của Phật giáo và Nho giáo thể hiện rõ nét nhất trong điều 9 của tác phẩm này:

“Hiếu kinh ghi: ‘Thân thể, tóc da nhận từ cha mẹ, không dám hủy hoại’. Lúc sắp mất, Tăng Tử bảo: ‘Mở tay ta ra, duỗi chân ta ra!’. Nay Sa-môn cắt tóc, phải chăng trái với lời của Thánh nhân, không hợp với đạo của người con hiếu?”.

Nho giáo cho rằng: Thân thể, tóc da là do cha mẹ ban cho, nhọc nhằn nuôi nấng, nên người con hiếu phải biết chăm sóc giữ gìn, không được hủy hoại hay để tổn thương. Thế nên, Tăng Tử biết mình sắp mất, bảo học trò: ‘Mở tay ta ra, duỗi chân ta ra!’, nghĩa là để lộ chân tay, biểu hiện cơ thể còn đầy đủ, nguyên vẹn, không trái với đạo hiếu. Vì vậy, thời đó ‘Sa-môn cắt tóc’, Nho giáo cho là vượt ngoài quy định lễ giáo của Thánh hiền, là trái với điều thiện.

Mâu Tử bác bỏ và quở trách: “Hủy báng Thánh hiền là bất nhân, bàn luận không đúng là bất trí. Bất nhân, bất trí thì lấy gì lập đức. Đức nếu không lập thì đó là hạng gian trá ngu muội. Luận bàn đâu phải dễ dàng như thế!”.

Để giải thích việc cắt tóc của các Tăng sĩ Phật giáo, Mâu Tử đưa ra ba trường hợp được các Thánh hiền thừa nhận.

Trường hợp thứ nhất, “Có người nước Tề đi thuyền qua sông. Người cha rơi xuống nước. Người con nắm tay xốc ngược đầu cha cho nước chảy ra miệng mà cứu sống được cha. Xốc ngược đầu cha thì còn bất hiếu nào lớn hơn? Nhưng vì bảo toàn thân thể của cha, nếu khoanh tay giữ đạo người con hiếu thì cha đã chết đuối rồi”. Ở trường hợp này, nếu người con một mực giữ hiếu đạo sẽ đưa đến hậu quả khó lường. Đạo hiếu như thế, tự thân đã mang nhiều hạn chế trong việc quy định lễ giáo.

Trường hợp thứ hai, việc “Thái Bá cắt tóc, vẽ mình, tự theo phong tục của nước Ngô, nước Việt, trái với nghĩa thân thể tóc da. Thế mà, Khổng Tử khen ngợi ông ta: Thái Bá đáng gọi là bậc chí đức vậy.” Rõ ràng Hiếu kinh đã mang tính mâu thuẫn qua nhân chứng thực tiễn là Thái Bá.

Trường hợp thứ ba, việc phá hoại một phần hay toàn phần thân thể: “Dự Nhượng nuốt than, sơn mình; Nhiếp Chính lột mặt, tự vẫn; Bá Cơ đạp lửa; Cao Hạnh hủy dung nhan”. Vậy mà “quân tử cho họ là dũng cảm và chết vì nghĩa, không nghe ai chê là tự hủy hoại”. Đến đây xem như quy định của Hiếu kinh đã “đánh mất hết mọi giá trị” [4, 411].

Kết thúc câu trả lời cho người chất vấn, Mâu Tử khẳng định: “Sa-môn cạo bỏ râu tóc, so với bốn người trên, đâu có cách xa”. Vậy có gì đáng để người đời chê trách và thắc mắc?

Lấy hiếu làm đầu trong nếp sống đạo đức và phẩm hạnh làm người, chương đầu của Hiếu kinh hết sức đề cao. Ngoài việc “thân thể, tóc da nhận từ cha mẹ không dám tổn thương là đứng đầu hạnh hiếu”, sau đó “lập thân hành đạo, nêu danh với đời sau để cha mẹ được rạng danh là cuối cùng của hạnh hiếu”, thì người con còn phải lập gia đình, sinh con để nối dõi tông đường. Quan điểm này được Mạnh Tử xiển dương mạnh mẽ qua câu: “Tội bất hiếu có ba điều, mà không con nối dõi là nặng nhất” [3, 1054]. Cho nên, không có gì ngạc nhiên khi Nho gia thắc mắc về vấn đề tu sĩ Phật giáo từ bỏ gia đình, sống không gia đình “sao trái với hạnh hiếu và phúc đức như thế?” (điều 10).

Mâu Tử lý giải: “Sa môn tu hành đạo đức để thay cho niềm vui thế tục, giữ tâm hiền thiện để thay cho lạc thú vợ con” (điều 10). Vì “vợ con, tài sản là vật thừa ở đời, giữ thân trong sạch vô vi là huyền diệu của đạo” (điều 10). Từ đó, Mâu Tử xác định quan điểm hiếu đạo trong Phật giáo rất rõ ràng qua điều 4: “Ở nhà có thể dùng thờ cha mẹ, làm chủ nước có thể dùng để trị dân, sống một mình có thể dùng để sửa thân”.

Quả thật, trên thế gian này, mang nợ ai, ta còn mong có ngày trả được, nhưng ơn cha nghĩa mẹ, ta không thể báo đáp cho cân, bởi đó là tim óc, máu lệ đổi bằng mạng sống của người. Lần giở những trang sách Thánh hiền, ta không khỏi bùi ngùi xúc động về tấm lòng hiếu thảo của các hiền nhân. Đó là lòng hiếu thảo của vua Thuấn cảm động đến trời, Hán Văn đế nếm thuốc rồi dâng lên mẹ, Tử Lộ đội gạo thuê để lấy tiền phụng dưỡng mẹ cha, Đổng Vĩnh bán thân để lo tang lễ cho cha, Đinh Lan khắc tượng thờ cha mẹ, Vương Thôi nghe sấm khóc mộ… Những bậc Thánh hiền thời xưa xem nhẹ bản thân để phụng dưỡng cha mẹ. Quả thật hạnh hiếu được xem là thứ tình cảm thiêng liêng tuyệt đối!

Thế nên, bàn về đạo hiếu, Khổng Tử đặt nặng trách nhiệm của người con đối với cha mẹ qua năm điều:

Ngày thường ở với cha mẹ phải hết lòng cung kính.
Phụng dưỡng thì phải làm cho cha mẹ vui.
Lúc cha mẹ có bệnh phải tỏ lòng quan tâm lo lắng.
Khi cha mẹ mất thì phải buồn rầu thương khóc.
Lúc tế lễ thì phải tỏ vẻ trang nghiêm.


Làm tròn năm điều trên, mới gọi là thờ phụng cha mẹ vậy. [5]

Tuy nhiên đôi khi, giá trị trung hiếu tiết nghĩa ngày xưa của Nho giáo đã đưa con người trong nhiều trường hợp đến chỗ bế tắc hay kết thúc bằng các hình thức bi thương, như trường hợp Quách Cự chôn con nuôi mẹ, Ngô Mãnh để mặc cho muỗi hút máu…

Đối với Phật giáo, nói đến ân đức cao rộng sâu dày của cha mẹ, Đức Phật dạy:

Có hai hạng người, này các Tỳ-kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỳ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm cho đến 100 tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện, đại tiện, như vậy, này các Tỳ- kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỳ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỳ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỳ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này” [2, 119].

Sự hiện hữu của người con trên quả đất này là một niềm vui vô hạn, biểu hiện công lao to lớn vô ngần của mẹ cha mà người con không sao đáp đền trọn vẹn. Thế nên, ngoài cách báo đáp như kinh Thiện Sanh trình bày, người con phải có trách nhiệm khuyến hóa cha mẹ hướng tâm đến đạo giải thoát, giác ngộ.

Trên phương diện căn bản, Đức Phật dạy bổn phận người con phải luôn hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ qua năm điều như kinh Thiện Sanh ghi:

Cung phụng hiếu dưỡng cha mẹ không để thiếu thốn.
Phàm làm điều gì trước phải thưa cho cha mẹ biết.
Cha mẹ làm điều gì mình phải kính thuận, không được chống báng.
Không trái với việc làm của cha mẹ.
Không ngăn cản việc lành của cha mẹ.
[1, 567]

Tuy nhiên, đền đáp ơn nghĩa sinh thành, dưỡng dục bằng của cải vật chất, tiền của và lòng thương kính, Phật giáo quan niệm sự đền đáp ấy chưa đủ. Người con chí hiếu phải biết hướng dẫn cha mẹ có chánh kiến, chánh tín, trợ duyên cha mẹ hướng đến sự giải thoát, giác ngộ:

“Đối với mẹ cha không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha” [2, 119-120].

Đến đây, ta gợi nhớ lại hình ảnh cao quý của Đức Thế Tôn và chư vị Thánh tăng đã thể hiện tâm hiếu như là một hạnh nguyện tu tập giải thoát đối với tự thân và cha mẹ. Đó là hình ảnh: Đức Thế Tôn hóa độ cha mẹ đắc quả Thánh, hưởng phước trời; Tôn giả Mục-kiền- liên làm lễ Vu-lan bồn, cứu mẹ thoát kiếp ngạ quỷ; Tôn giả Xá-lợi-phất độ mẹ đắc quả Thánh rồi mới nhập Niết-bàn; Bồ-tát Địa Tạng phát đại nguyện cứu mẹ thoát khỏi ba đường ác…

Hơn bao giờ hết, xưa cũng như nay, dù cha mẹ còn hay đã khuất, dù ở cương vị nào, người con hiếu vẫn luôn quý kính mẹ cha. Từ tâm hiếu ấy, tình người được giáo dục và phát triển, cũng từ tình người ấy mà có tình thương yêu nhân loại và tất cả chúng sanh.

Như vậy, “Hiếu” là nền tảng căn bản của đạo làm người, là nhân tố quyết định để hình thành lòng nhân của người quân tử, mẫu người lý tưởng của Nho giáo.

Việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều bắt đầu từ đức tính cao đẹp của con người. Đức tính ấy không gì khác hơn là hạnh hiếu.

Với đạo Phật, tinh thần hiếu hạnh không chỉ giới hạn đơn thuần như thế gian và cũng không gò bó khuôn mẫu như Nho giáo. Chữ hiếu theo đạo Phật có tầm nhìn xa hơn, vì nó không chỉ dạy con người đền trả công ơn cha mẹ đầy đủ về vật chất và tinh thần mà còn hướng cha mẹ đến con đường giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, đoạn tận mọi khổ đau ngay trong đời sống hiện tại và mãi mãi về sau. Hãy làm tròn bổn phận của người con hiếu theo tinh thần Phật giáo. Có như thế mới mong đền đáp ân đức lớn lao của hai đấng sanh thành một cách đầy đủ và trọn vẹn. Đây chính là điểm khác biệt căn bản về chữ hiếu giữa Phật giáo và Nho giáo. ■„



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kinh Trường A-hàm (1991), tập I, (Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm dịch), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
Kinh Tăng Chi Bộ (1996), tập I, (Hòa thượng Thích Minh Châu dịch), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
Chu Hy (1999), Tứ thư tập chú, (Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải), Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
Lê Mạnh Thát (2008), Nghiên cứu về Mâu Tử, NxbVăn Hóa Sài Gòn.
Đức Khổng Tử dạy về chữ hiếu, tham khảo tại: http://www.thegioivohinh.com/diendan/showthread. php?t=21993
Mâu Tử Lý hoặc luận, Hoằng Minh tập, quyển 1, Đại Chính tân tu Đại tạng kinh (牟子理惑論, 《弘明集》卷1, 大正新修大藏經, T52, No. 2102.

Mẹ tôi

 Võ Văn Lân




Cũng như phần đông phụ nữ nông thôn nước ta thời trước, mẹ tôi “chữ nhất là một” cũng không biết. Mọi thứ văn tự mua bán, vay mượn… mẹ phải điểm chỉ. Tuy nhiên, khi đụng đến con số, mặc dù mẹ chỉ tính rợ nhưng không một ly sai chạy. Và vì thế mẹ vẫn là “nội tướng” tài ba quán xuyến mọi việc đối nội đối ngoại. Mẹ tôi không hơn thua với ai nên chẳng bao giờ to tiếng nặng lời, kể cả với chồng con hay với bà con xóm giềng. Đến nỗi có lúc bọn tôi phải lên tiếng, “Mẹ nhịn mãi người ta lấn lướt!”. Mẹ chỉ cười: “Một điều nhịn chín điều lành, các con ạ!”. Có phải vì thế mà người quen kẻ lạ ai cũng mến, nhưng mẹ thì vất vả và nhà thì khó khăn thiếu thốn?

Gà vừa gáy canh tư trong cái giá rét cắt da những ngày đông xứ Huế, tôi còn mơ mơ màng màng với giấc ngủ ngon về sáng, chợt hao gầy dáng mẹ xiêu xiêu vách đất đã đánh thức tôi dậy. Ánh lửa rơm bập bùng, một bên bếp nồi cơm, bên kia nồi cám heo, ấm nước chè kê ở giữa… Khi mọi người thức dậy cơm đã lên mâm, nước đã vô bình. Lúc ai nấy đã ngồi vào ăn sáng để kịp người nào việc nấy thì mẹ lại quày quả vào chuồng heo, tay bưng nồi cám. Thấy bóng mẹ, mấy con heo đang kêu réo lập tức im re. Đàn gà vịt đang tha thẩn ngoài sân cũng ngẩng đầu đón mẹ. Xong việc, mẹ vừa ăn qua quít vừa tranh thủ thu dọn và chuẩn bị bữa lỡ bới ra đồng. Thời buổi gạo châu củi quế, bà mẹ quê nào chẳng thế! Tuy nhiên để “sắp nhỏ” chúng tôi có chén cơm vun mà ít phải độn khoai hay sắn lát… thì đó là cả một sự khéo léo khi ghế, khi xới và đơm cơm. Lại còn phải tính toán làm sao để ai cũng no và có chút đồ ăn mặn miệng… chứa chan tấm lòng mẹ! Bí quyết nào đâu, mà chỉ đơn giản là mẹ tiện tặn phần mình bù cho chồng con sự no đủ để mọi người đủ sức làm việc nắng nôi cực nhọc… Bao nhiêu việc lo gần tính xa đặt lên đôi vai gầy gò thân mẹ. Chuyện học đứa này vừa xong mẹ lại tính chuyện làm đứa khác. Dựng vợ gả chồng con trai con gái, đứa nào cũng công ăn việc làm, nơi ăn chốn ở mẹ mới yên. Mẹ còn vươn tay dài đến tương lai con cháu! Chị cả tôi lấy chồng xa, mẹ ngày đêm trăn trở “Không biết có ăn ở phải đạo trên thuận dưới hòa?” Nhưng có tính gì cũng không qua số trời, ăn ở với nhau chưa được bao lâu vợ chồng bất hòa chị quay về. Chị khổ một, mẹ lo hai ba và lại dang tay bảo bọc. Chị đi thêm bước nữa và có hai con với một dân quân du kích. Tưởng đã êm ấm ngờ đâu anh bị Tây bắt. Đôi tay gầy gò của mẹ chị nương; mẹ trông cháu để chị ngược xuôi tần tảo nuôi con và bới xách cho chồng. Hết rể đến lượt anh tôi bị Tây bắt, mẹ lại mất ăn bỏ ngủ chạy ngược chạy xuôi. May mà anh trốn thoát trở về nhưng sợ bị dòm ngó… mẹ tìm cách gởi anh xuống phố học nghề. Ra nghề kiếm được ít tiền anh đòi cưới vợ phố. Nhà gái đòi hỏi “duyên con gái, lễ vật phải đủ tiền neo tiền cưới, không cau lồng rượu ché cũng cau buồng rượu hũ, nữ trang giản tiện cũng đôi bông tai, chiếc vòng, đôi xuyến!”. Thấy không kham nổi, ba tôi khuyên anh lui nhưng mẹ thì nhất quyết “dù chi cũng là duyên là nợ” và xoay xở vay mượn lo đám cưới! Rồi lần lượt ba năm hai đứa con ra đời, vợ chồng anh làm lụng tất bật. Mẹ thấy thế không đành lòng vẫn động viên, “Có phước mới con đàn cháu đống” và không tiền bạc mẹ giúp công! Thấy mẹ vất vả, bọn tôi tỏ ý lo lắng. Mẹ bác: “Mấy đứa bay ăn chưa no lo chưa tới trời cho mẹ khỏe mạnh để chi mà không giúp con cháu!”. Thấy thế chị cả đòi ra riêng, mẹ một hai “đói no có nhau không đi mô hết!”. Hết rể và con trai bị tù, đến lượt ba tôi bị Tây bắt giam ở lao Văn Thánh. “Họa vô đơn chí” mẹ chạy đôn chạy đáo, nghe ai bày cha xứ nhà thờ có thế lực với Tây, mẹ đánh liều gõ cửa nhờ can thiệp. Cha hứa nhưng giúp thế nào mà mẹ đi mòn gót chân và bao thứ của ngon vật lạ, buồng chuối thanh tiêu chín cây, trái mít ngự chín bói chưa bao giờ dám bỏ vô miệng mẹ đều đem biếu, mà mấy năm trời ba vẫn chưa được thả.

Năm 1954 hòa bình lập lại, ba được thả về, do bị tra tấn nên không lâu sau ba mất. Mọi việc một tay mẹ gánh vác, tuy thế chuyện đơm quảy giỗ chạp bên nội bên ngoại không bỏ sót, việc phải trái xóm giềng mẹ chu tất. Đôi bàn tay sần sùi, gót chân nứt nẻ, ngón chân quắt queo… vết hằn năm tháng dãi dầu nắng mưa! Nhưng có bao giờ mẹ nửa lời than vãn! Bọn tôi lắm lúc vô tình chê mẹ xuề xòa và ăn mặc lằng xằng. Mẹ luôn chịu thương chịu khó vì chồng con, ham lam ham làm có lúc nào rảnh để phiền hà, trách cứ ai!

Mấy năm trung học trọ học xa nhà, tôi luôn trông đến cuối tuần để về nhà. Chị Hai tôi kể lại: “Mới sớm thứ bảy mẹ đã đi ra đi vô, hết sân đến bếp, luôn tay luôn tay chân dọn cái này dẹp cái kia!”. Tôi về nhà thì “chục bữa như một” được thỏa thuê với nồi cơm gạo mùa, đọi canh chuối nấu rau sân lá lốt bốc khói thơm lựng. Ngồi một bên, mẹ phành phạch chiếc quạt mo, xua mấy con muỗi vo ve cho con ăn ngon, lâu lâu phất một cái về mình! Và sáng thứ hai tờ mờ sáng tôi trở lại trường thì trong cặp đã sẵn mo cơm ép; bữa thì cá bống thệ kho rim, bữa muối sả kho tép! Mẹ đi theo ra ngõ, choàng chiếc tơi lá ra ngoài tấm bạt ny-lông để cho ấm rồi dúi vào túi con ít tiền (tiền bán mấy thứ linh tinh trong nương dồn lại…!). Một kỷ niệm in sâu vào tâm khảm, tôi làm sao quên! Một sáng chủ nhật sau hai tuần ôn thi không về nhà, tôi ngạc nhiên thấy mẹ tìm đến chỗ trọ và chờ đợi đến khi tôi đi học về. Tôi tiền đã hết nên mừng trong bụng nhưng chợt thấy chiếc áo dài bạc thếch không che kín cái quần ống xắn lò xo mẹ mặc, đôi dép xỏ quai mòn lỉn… tôi cảm thấy ngượng. Mẹ nhìn một lúc lâu tưởng như tôi đã thay đổi nhiều lắm sau thời gian dài không gặp. Trao tôi món tiền cùng gói thức ăn rồi mẹ quày quả đội nón ra về mẹ đã băng bộ bốn năm cây số. Mẹ về rồi nỗi xót xa nhói lên trong lòng. Tôi tự nhủ “Có phải mình xấu hổ với bạn về sự quê mùa của mẹ!” .Tôi lấy làm hối hận và tự hứa lần sau sẽ làm gì cho mẹ vui. Nhưng lần sau, lần sau nữa… cho đến khi trưởng thành, lo toan cuộc sống vợ con gia đình lận đận… tôi vẫn chưa làm được điều gì cho mẹ vui… nói chi đền đáp công ơn trời biển mẹ cha. Giở đây thức ngon món lạ tôi không thiếu thứ gì nhưng làm sao tìm lại được cảm giác “ấm áp” nồi cơm thơm phức hương vị quê nhà và tô canh chuối chứa chan lòng mẹ!

Một việc khác tuy nhỏ nhưng sâu đậm ấn tượng về mẹ. Năm 1945 nạn đói khủng khiếp xảy ra cho người dân Huế và nhiều nơi cả nước. Từ thành đến vùng quê người người chết đói la liệt không kịp chôn. Để cầm cự cái đói, người lớn, con nít trong đó cả mẹ và hai chị tôi đổ ra đồng đào nát bờ mương đường ruộng lấy rau rìu, củ éo về nấu cháo độ nhựt. Cây mít trước sân nhà có mấy trái, không dám ăn để dành phòng khi ngặt nghèo. Đã lấy gai nè rào lại nhưng bỗng mất một trái. Ba tôi quyết rình tìm thủ phạm. Một đêm tối trời, bỗng phát hiện kẻ trộm đang leo trên cây, ba vội rút cây thước gỗ xông ra. Mẹ giữ chặt ba lại ra dấu im lặng và nói nhỏ: “Thằng Dần đó chứ ai, đừng làm nó sợ nó té!”. Sáng ra lạ thay trái mít nằm dưới gốc. Mót máy nhà còn hơn lon gạo, mẹ bảo chị tôi đem cùng trái mít đến chỗ Dần thì thấy anh đã nằm chết trước rạp tranh ở bến đò. Mẹ tôi cùng hàng xóm lo chôn cất anh.

Mẹ tôi có cách mua bán lạ đời, mọi thứ trong vườn mẹ để bạn hàng tự hái, tự đếm rồi trả tiền. Mấy đứa tôi thắc mắc: “Có phải ai cũng thiệt cả đâu?”. Mẹ cười “Mình ở từ (giữ chùa) mua bán phải nới một chút cho người ta kiếm miếng cơm, miếng cháo nuôi con, khác nào cúng Phật, mất đi đâu mà tính toán!”. Bạn hàng có người thiệt thà nhưng không phải ai cũng ngay thẳng, có người than thiếu vốn xin bán xong đem tiền trả nhưng bán xong lặn mất chẳng thấy trả vốn nói chi lời. Bọn tôi cười, mẹ tỉnh bơ “Có răng họ mới rứa, mất lộc này Trời Phật cho lộc khác, hanh hao chi thêm mang tội!”. Thật ra buồng cau, trái mít, chùm nhãn… không cân không đếm mà bao nhiêu trái, mấy chục cân mẹ ước chính xác. Biết thế mấy chị bạn hàng rất nể và từ cảm phục họ đổi tính đổi nết! Người ta nói người già hay giở chứng, mẹ tôi cũng không ngoại lệ nhưng kiểu giở chứng của mẹ thật chẳng giống ai. Về già mẹ ăn uống đạm bạc và không chịu sắm sửa. Con cháu mua tô bún, tô mì… mẹ xua tay “Thôi để sắp trẻ ăn cho có sức có vóc mần việc nặng, mẹ già rồi ăn uống mấy xí!”. Biết ý, con cháu sắm sẵn cho mẹ bộ quần áo, đôi dép… “Bận chi chẳng được miễn sạch sẽ, lành lặn mua sắm chi cho tốn” rồi mẹ gói cất “… để tết nhứt đám cưới đám hỏi mặc cho con cháu vui!”. Ai biếu chút tiền mẹ cũng “… để dành khi có ai gặp ngặt nghèo có mà giúp”. Giúp ai được việc gì mẹ “hả dạ” vô cùng!

Sau ngày giải phóng, con cái tứ tán mỗi đứa một nơi. Tiếng đông con nhưng đứa nào đứa nấy lo bản thân và gia đình riêng mình chưa xong lấy chi lo cho mẹ! Nhưng “nước mắt chảy xuống” có bao giờ mẹ đòi hỏi hay trách cứ con cái, trái lại ngày đêm mẹ cầu Phật Trời phù hộ cho con cháu bình yên! Và sống hẩm hút với chị Hai ở quê nhờ vào bán mấy thứ vặt vãnh trong nương, nhưng năm thì mười họa tôi về thăm, lần nào mẹ cũng dúi vào túi ít tiền làm quà cho cháu, không nhận không được! Tôi đinh ninh mẹ còn sống chục năm nữa, chờ khá lên một chút chăm lo mẹ tốt hơn. Ngờ đâu mẹ ra đi không kịp trở tay, tôi bối rối không biết tính sao! Nhưng nhờ duyên lành tôi về kịp. Đến nhà mọi thứ đã đâu vào đó… chị tôi cho biết nhờ sự giúp đỡ quí báu của thầy Khế Chơn và nhóm thiện nguyện bác Siêu. Những năm 80 thế kỷ trước tôn giáo tín ngưỡng còn là vấn đề nhạy cảm, sinh hoạt tâm linh còn hạn chế. Tuy thế anh em tôi thật vô cùng ngạc nhiên và xúc động trước sự quan tâm của quý Thầy trong Ban Hoằng pháp Tình hội và các bác trong khuôn hội. Hôm trước ngày di quan, hai cháu sinh viên đến báo cho gia đình biết “Tối nay Thầy đến chủ trì lễ thuyết linh và cầu siêu cho mệ”. Sáu giờ tối hai hàng Phật tử khuôn hội… áo tràng nghiêm chỉnh đứng hai bên đường nghênh đón thầy. Bảy giờ một vị Sư trẻ mặc bộ đồ đà giản dị dung mạo đoan trang… bước vào nhà. Mọi người kháo nhau là thầy Khế Chơn… Mặc dù được báo trước, tôi sững sờ nhìn và ai nấy đều bị thu hút bởi nét mặt rạng rỡ cử chỉ khoan hòa, nụ cười tươi trên khuôn mặt Thầy! Nhờ sự chuẩn bị chu đáo của quý bác và các cháu sinh viên, Thầy tiến hành nghi lễ Bạch Phật, cầu siêu và lễ thuyết linh. Nhiễu quanh quan tài nhiều vòng, Thầy đọc chú niệm Phật, nhắc lại những điều sinh thời mẹ tôi đã làm không sót việc nào, nhiều việc là con nhưng anh em tôi không hề biết. Những ngày còn khó khăn mẹ đã tham gia góp gạo cứu tế và khi biết không còn sống được bao lâu mẹ dặn chị tôi làm đám sơ sài với tiền dành dụm còn để cúng cho quỹ từ thiện… Thầy ân cần nhắc nhở hương linh vững vàng hướng theo tín nguyện hạnh, Đức Phật A-di-đà và Thánh chúng sẵn sàng dang rộng vòng tay từ bi đón nhận. Và khuyên con cháu người thân thực hiện lời Phật dạy phóng sanh, bố thí, niệm Phật… hồi hướng người quá cố, tạo thuận duyên giúp tiến trình vãng sanh tốt đẹp! Mấy cháu sinh viên tình nguyện đến giúp mẹ tôi những ngày cuối đời kể lại “Mệ ra đi nhẹ nhàng, tay không rời chuỗi hột!”. Tang lễ hoàn tất tốt đẹp ngoài cả sự mong đợi. Hồi tưởng đôi nét về người mẹ quá cố con cháu vô cùng cảm kích và tự hào về mẹ nhưng khi nhắc đến nhận thức nông cạn một thời anh em tôi không khỏi lấy làm ăn năn. Và xin sám hối về nông nỗi có lúc suy bì “Người ta cha mẹ khôn ngoan lanh lợi, gia đình sung túc con cái ăn trắng mặc trơn. Cha mẹ mình chơn chất thật thà… nên nhà nghèo, anh em mình thiệt thòi!”. Thật ra nhà nghèo con đông vật chất thiếu thốn nhưng tình cảm không thiếu; cha mẹ đã giật gấu vá vai để chúng tôi được ăn học và dạy dỗ chu đáo! Anh em tôi đứa nào cũng có da có thịt, cao lớn mập mạnh chỉ có mẹ ngày càng gầy gò quắt queo. Một phần máu huyết thịt da của mẹ đã chuyền sang con cái! Và trước bao biến cố cái chết cận kề trong gang tấc, tôi chợt nghĩ đến mẹ… và một quyết định kịp thời, đúng đắn giúp tôi vượt qua hiểm nạn. Do đâu? Tôi tự hỏi nếu không được tưới tẩm bởi việc ăn hiền ở từ và sự nhẫn nhịn của mẹ. Người xưa thường nói “Con trai nhờ phước mẹ!”. Nên chăng sửa lại “Con cái nhờ phước mẹ!”. Con trai con gái nào lớn khôn mà chẳng từ tấm lòng mẹ bao dung.■

Chữ nghĩa.




Thỉnh thoảng tôi nghe những giọng nữ trẻ trên tivi là diễn viên miền Nam nói trong mấy phim ảnh: "Sao dợ?", "Đi đâu dợ?", còn nam diễn viên, hoặc diễn viên lớn tuổi lại không nói như thế. Người miền Nam thường phát âm chữ v = d, chẳng hạn và = dà, vinh dự = dinh dự, vanh vách = danh dách,.. Nếu hiểu như thế thì "Sao dợ" sẽ thành "Sao vợ?", "Đi đâu dợ?" sẽ thành "Đi đâu vợ?". Nữ mà nói như thế thì thành... đồng tính mất, nhưng những ai ở miền Nam lâu sẽ hiểu ngay "dợ" = "vậy", "Sao dợ?" = "Sao vậy?", "Đi đâu dợ?" = "Đi đâu vậy"?". Từ chữ "vậy" phát âm thành "dậy", "dợ".


Tiếng Việt nó khó và "rối" thế, nhưng chịu khó tìm hiểu đôi chút thấy cũng rất thú vị, Vừa qua tôi có dịp học thêm được "tiếng Nghệ" nhờ những bạn blog hay qua lại, nói là "học" cũng không đúng, chẳng qua chỉ mới "làm quen" với nhiều từ ngữ khá lạ lùng trong tiếng nói của người Nghệ An (tiếng Nghệ, mà tôi nghĩ vui thành... tiếng ngộ). Hay chú ý đến ngôn ngữ, từ ngữ, trước đây tôi có vài quyển sách viết về tiếng Mường đọc thấy rất thích thú, tiếng Mường là thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, rất gần với tiếng nói của người Việt, trong hệ ngôn ngữ Môn-Khmer vùng Nam Á. Trong tiếng Mường có rất nhiều từ ngữ tương đồng với tiếng Việt, chỉ khác ở phát âm, và nhận thấy âm điệu của tiếng Mường khá giống tiếng Nghệ, đọc trên trang mạng Wikipedia trong mục từ Tiếng Mường, thấy cũng nhận xét như thế.

Bây giờ ta hay nghe nói "phương ngữ", chẳng hạn "phương ngữ Bắc bộ", "phương ngữ Nam bộ", hay "phương ngữ Trung bộ". Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) giải thích:

- phương ngữ d. Biến thể theo địa phương hoặc theo tầng lớp xã hội của một ngôn ngữ.

Ở miền Nam trước đây trong các từ điển lại không ghi nhận từ "phương ngữ", như Việt Nam Tự điển của Đào Văn Tập, Việt Nam Tự điển của Lê Văn Đức - Lê Ngọc Trụ, hay Tự điển Việt Nam của Ban Tu thư Khai Trí, mà chỉ có từ "phương ngôn" với giải nghĩa: Tiếng nói của từng địa phương, Tục ngữ. Trong Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), giải thích từ "phương ngôn" như sau:

- phương ngôn. d. 1 Như tục ngữ. Phương ngôn có câu: Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. 2 (cũ). Phương ngữ.

Như vậy, theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt hiện nay ta có thể thấy "phương ngôn" và "phương ngữ" được hiểu như nhau.

Trong một số sách viết về ngôn ngữ hiện nay, viết trong phương ngữ có "tiếng", chẳng hạn cùng trong phương ngữ Bắc bộ có tiếng Nghệ, tiếng Hà Nội, tiếng Bùi Chu-Phát Diệm.., tức là phân biệt tiếng nói của từng địa phương, tương tự phương ngữ Trung bộ có tiếng Huế, tiếng Quảng Nam, tiếng Bình Định, tiếng Nha Trang..., phương ngữ Nam bộ có tiếng Sài Gòn, tiếng Sóc Trăng, tiếng Cần Thơ... Để ý một chút ta thấy rất đúng, trong phương ngữ Bắc bộ tiếng Nghệ An nói khác tiếng Hà Nội, hay tiếng của người ở Bùi Chu-Phát Diệm, có điều hơi lạ, người miền Bắc nói chung ít uốn lưỡi khi nói chữ "r", chữ "r" thường được thay bằng "d" (r = d), "rồi" nói thành "dồi", "rảnh rỗi" nói thành "dảnh dỗi", nhưng người vùng Bùi Chu-Phát Diệm thì âm vần "d" lại nói thành "r", chẳng hạn Phát Diệm = Phát Riệm, nhân dân = nhân rân... Còn ở miền Nam thường uốn lưỡi chữ "r", nhưng cũng có địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long nói rảnh rỗi = gảnh gỗi, con cá rô bỏ vào rổ nhảy rột rột = con cá gô bỏ vào gổ nhảy gột gột. Trong từ "tr" cũng thế, đa số uốn lưỡi phát âm đúng "tr". Nhưng cũng có địa phương phát âm "tr" thành "ch" như người miền Bắc, cá tra = cá cha, trắc trở = chắc chở...

Ngay trong một địa phương như Sài Gòn cũng có nơi phát âm khác nhau. Theo một khảo sát trong quyển Tiếp xúc Ngôn ngữ ở Việt Nam (TS. Nguyễn Kiên Trường chủ biên, NXB Khoa học Xã hội-2005). Người Sài Gòn nói chung nói từ "rượu" = rựu", nhưng người dân khu vực Bình Thạnh nói thành "rụ" (rượu = rựu = rụ), các từ lượm = lựm = lụm, mưu = mưu = mu...

Trong phương ngữ Nam bộ ta thấy có một số từ riêng, khác với phương ngữ Bắc bộ, như Nam bộ nói bông, Bắc bộ nói hoa. Nam bộ nói chén, Bắc bộ nói bát. Nam bộ nóitrái, Bắc bộ nói quả. Nam bộ nói đậu phọng, Bắc bộ nói lạc... Có sách viết do kỵ húy chữ "Hoa" là tên mẹ của vua Thiệu Trị (Hồ Thị Hoa, hoàng hậu vợ của vua Minh Mạng), nên người miền Nam gọi thành "bông". Nhưng hình như không phải như thế. Trong tiếng Mường còn hiện diện cả hai từ "wa" và "pông" để chỉ bông, hoa. Tiếng Mường nói Cải pông wa nì pẫu hốc là pông chi = Cái bông hoa này người ta gọi là bông hoa gì? Hoặc Nhả nả cỏ môch câl pông cúc = nhà nó có một cây bông (hoa) cúc. Ta nói hoa hoét, thì tiếng Mường nói wa wét, ta nói bông cúc, bông lan, hoa cúc, hoa lan, tiếng Mường nói pông cúc, pông lan, wa cúc, wa lan... Như vậy chữ "bông" ở miền Nam còn tìm thấy trong tiếng Mường (pông), cũng như chữ "hoa" ở miền Bắc cũng còn hiện diện trong tiếng Mường (wa). Người miền Nam kỵ húy chữ "hoa" cho nên đã nói trại thành "huê", như Huê kiều = Hoa kiều, huê hồng = hoa hồng. Kỵ húy chữ kính = kiếng, cảnh = kiểng...

Phương ngữ Nam bộ có từ chén, phương ngữ Bắc bộ có từ bát với nghĩa tương đương. Cũng giống như bông và hoa. Trong tiếng Mường hiện diện cả hai từ này. Người Mường nói chẻn rão = chén rượu, pát cơm = bát cơm, pát đác = bát nước...

Miền Nam nói "trái", miền Bắc nói "quả", từ "quả" không thấy hiện diện trong tiếng Mường, nhưng từ "trái" lại có trong tiếng Mường. Tiếng Mường gọi quả là "tlải", người Mường nói Thương rà tlải cà tủ bỏi = Thương nhau quả (trái) cà chấm muối. Âm "tl" thay cho "tr" ta còn thấy trong tiếng Việt cổ, từ ngữ thời các cố đạo Tây phương xa xưa sang Việt Nam, sách vở còn ghi chép Đức Chúa Tlời (blời) = Đức Chúa Trời.

Miền Nam nói "cái chi?", miền Bắc nói "cái gì?". Từ gì không thấy trong tiếng Mường nhưng từ chi lại có. Người Mường nói Chăng cỏ chi ăn, chí cỏ cơm rau dưa thơi = Chẳng có chi (gì) ăn chỉ có cơn rau dưa thôi.

Miền Nam nói "đậu phọng", miền Bắc nói "lạc". Từ đậu phọng không thấy trong tiếng Mường nhưng từ lạc lại có. Người Mường nói Enh rang lac thỉa nì ay mà ăn, chắl hết= Anh rang lạc kiểu này ai mà ăn, cháy hết.

Qua xem xét một số từ ngữ trên ta có thể đặt câu hỏi: "Tại sao người Nam bộ ở tuốt phía Nam của đất nước, mà trong phương ngữ Nam bộ lại có những từ ngữ tương đồng với tiếng Mường, là một dân tộc ở vùng miền núi phía Bắc?". Điều này có lẽ cũng không có gì khó hiểu, bởi người miền Nam chỉ mới hiện diện chưa đến nửa thiên niên kỷ nơi vùng đất phương Nam. Những cư dân đầu tiên của người Việt đặt chân tới vùng đất này là vào thời các chúa Nguyễn, đa phần là người vùng Thuận Hóa, và ít hơn là người miền Bắc... Điều này còn thấy rõ nét qua ngôn ngữ như kể trên...

Trong tiếng Mường còn rất nhiều từ mà tiếng Việt còn thấy ở từ đơn, hay trong từ ghép, chẳng hạn tiếng Việt nói "hèn yếu", thì tiếng Mường hèn = yếu, tiếng Việt nói "nhỏ mọn", tiếng Mường mõn = nhỏ, tiếng Việt nói "xiêu vẹo", tiếng Mường wẽo = cong.v.v...

Lúc rảnh rỗi, ngồi xem ba cái chữ nghĩa cũng vui...

PN-Hiệp
Tham khào:

- Từ điển Mường-Việt, Nguyễn Văn Khang chủ biên, NXB Văn hóa Dân tộc-Hà Nội-2002.

Nghịch lý Trích Luận ngữ tân thư




Thiên hạ chật ních người, kẻ cô liêu cứ coi như đồng vắng. Vòng danh lợi tít mù, gã ngủ gật cứ hờ hững như không. Tấm áo chữ “nhân” may đã nghìn năm, nay vá chằng vá đụp. Đến bao giờ…? Hóa công là tưởng tượng. Tiên đạo là vô vi. Thánh nhân là hoang đường. Bạn bè là xa xỉ. Rốt cuộc nâng vật nặng ngàn cân, có khi không cần dùng sức. Thổi một sợi tóc, có lúc phải dùng đến bão dông… Vẫn lời “tựa” trong “Luận ngữ tân thư”. Sau đây, lại xin trích một đoạn trong bộ sách đó:

– Nghịch lý cũng là một loại “lý”. Nhưng là cái “lý” nghịch, “lý” không thuận. Thánh nhân có bàn đến nghịch lý không?

– Thánh nhân thì cái gì khác có thể không bàn, chứ đã gọi là “lý” thì dù nghịch hay thuận cũng không thể không bàn đến.

– Thánh nhân bàn như thế nào?

– Khổng Tử bảo: “Danh không chính thì ngôn không thuận. Ngôn không thuận thì việc không thành. Việc không thành thì lễ nhạc suy. Lễ nhạc suy thì hình phạt không trúng. Hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu cho đúng chỗ”. Túi mình không móc, lại móc túi người khác. Thế là tay nhầm. Đường mình không đi, lại đi vào đường người khác. Thế là chân nhầm. Vợ mình không ôm, lại ôm vợ người khác. Thế là cả tay lẫn chân đều nhầm. Ruộng mình không cày, lại cày ruộng người khác. Thế là nhầm vào đến ruột gan. Người có đạo không thờ, lại tôn thờ kẻ vô đạo. Thế là nhầm vào đến cốt tủy… Rốt cuộc thiên hạ nhầm lẫn lung tung. Mầm loạn cũng từ đấy mà sinh ra.

– Nhưng cái “lý” ấy, xem ra chưa có gì gọi là nghịch?

– Hơn một trăm năm sau, ông Mạnh Tử phát triển cái “lý” trên của Khổng Tử. Ông bảo: “Nước có đạo thì đặt ra hình phạt để ngăn ngừa cường bạo. Nước vô đạo thì đặt ra hình phạt để thi hành cường bạo”. Thế là cùng đặt ra “hình phạt”, mà té ra ở thời “có đạo” và thời “vô đạo” lại nhằm vào những mục đích ngược hẳn nhau. Như thế tất phải có một thời là nghịch lý.

– Vậy khi nào thì hết nghịch lý?
– Khi tất cả các “lý” trên đời đều… nghịch!
– Thánh nhân buồn nhất lúc nào?
– Người ta thường nhận ra niềm vui nhanh hơn nhận ra nỗi buồn. Thánh nhân thì ngược lại.
– Thánh nhân buồn như thế nào?

– Tử Hạ nói: “ngồi với kẻ hèn, có cái thú thấy mình là sang. Ngồi với kẻ khó, có cái thú thấy mình là giàu. Ngồi với tiểu nhân, có cái thú thấy mình là quân tử. Nhưng ngồi với kẻ ngu, có cái buồn không biết nói chuyện gì”.

– Thánh nhân vui nhất lúc nào?

– Tăng Tử bảo: “Làm con thấy cha mẹ vui, làm thầy thấy học trò hiểu, làm bạn thấy bạn nhớ mình, làm người thấy giữ được chữ tín. Đó là những nỗi vui lớn trong đời”.

– Thánh nhân có khi nào vội vàng không?

– Việc đời có lúc khoan, lúc nhặt. Làm người có lúc vội, lúc thư. Thánh nhân cũng không là ngoại lệ.

– Thánh nhân vội vàng như thế nào?

– Khỗng Tử có học trò tên Mỗ, người nước Đằng. Mỗ học vào loại trung bình, song luôn luôn tự cho mình là giỏi nhất. Học được vài năm, Mỗ xin về nước vì tưởng rằng đã học hết đạo của thầy. Tử Cống thấy vậy hỏi:

– Người ấy về nước rồi làm quan có sao không?

Khổng Tử rung đùi đáp:

– Không sao.

Lại hỏi tiếp:

– Làm tướng có được không?

Khổng Tử vuốt râu đáp:

– Được.

Lại hỏi tiếp:

– Thế nhỡ về làm giặc?

Khổng Tử vừa ngáp vừa trả lời:

– Cũng không hại gì.

Bấy giờ Tử Cống mới yên tâm mà thủng thẳng:

– Nghe nói Mỗ xin về nước chỉ để làm thầy!

Khổng Tử vừa nghe câu đó bỗng giật bắn mình. Thế là chân không kịp xỏ giày, áo không kịp cài khuy, vội vàng lao ra cổng chạy hớt hơ hớt hải. Học trò đuổi theo hỏi: “thầy chạy đi đâu?”. Khổng Tử vừa chạy vừa đáp:

– Sang ngay nước Đằng.

Học trò lại hỏi: “sang nước Đằng làm gì?”. Khổng Tử vẫn vừa chạy vừa trả lời:

Sang ngăn không cho tên Mỗ làm thầy. Hắn có làm quan thì cùng lắm chỉ hại đến một ấp. Làm tướng cũng chỉ hại đến một thành. Thậm chí có làm giặc cũng chưa chắc đã hại nổi ai. Nhưng nếu hắn làm thầy thì sẽ hại đến muôn đời. Ngay cả ta cũng khó mà tránh khỏi liên luỵ…



Phạm Lưu Vũ

NGŨ HÀNH Chương 4. Ngũ Hành với sử quan Trung Hoa [1]




Nói đến thuyết Ngũ Hành, chúng ta không thể không nhắc đến Trâu Diễn, thời Chiến Quốc. Trâu Diễn sống sau thời Mạnh Tử và tư tưởng học thuật của ông đã có ảnh hưởng rất lớn đối với nền Văn học, Nghệ thuật, Chính trị và Đạo giáo Trung Hoa. Ông là người sáng lập ra phái Âm Dương, Ngũ Hành.Trâu Diễn chủ trương rằng vận trời và việc người cần phải được ăn khớp với nhau. Trên trời có Ngũ Hành tức là năm loại khí thế. Năm loại khí thế này ảnh hưởng lẫn nhau, cái này suy, cái kia thịnh, theo thứ tự tương khắc.

Ở trần gian, thì các triều đại cũng luân phiên kế tiếp nhau, theo thứ tự Ngũ Hành tương khắc: triều đại này suy tàn, thì triều đại tương khắc với nó có nhiệm vụ thay thế.

Các triều đại từ thời Hoàng Đế cho đến đời Chu đã luân phiên diễn biến theo thứ tự Ngũ Hành tương khắc như sau:
          
          Hoàng Đế         Thổ
            Đại Võ             Mộc
            Thương            Kim
            Chu                  Hỏa


Trâu Diễn không còn lưu lại sách vở, nhưng nhờ bộ Lã thị Xuân Thu và bộ sử Tư mã Thiên, chúng ta biết được đại khái học thuyết của Ông.

Lã thị Xuân Thu viết: Khi có một triều đại hoàng đế nào sắp hưng thịnh, thì trời ắt sẽ cho thấy một điềm cát tường.

Thời Hoàng Đế, Trời cho sâu lớn, kiến lớn hiện ra. Hoàng Đế nói: Khí đất thịnh. Khí đất thắng, cho nên màu sắc thời quí nhất màu vàng, và lấy đất làm dầu mọi công chuyện.

Đến thời Đại Võ, Trời cho dân thấy trước những cỏ cây sống trải qua mùa Thu, mùa Đông mà không rụng lá. Đại Võ nói: Khí gỗ thịnh. Khí gỗ thắng, cho nên màu sắc thời quí nhất màu xanh, và lấy gỗ làm đầu mọi chuyện.

Đến thời Thành Thang, Trời cho dân thấy trước Kim; cho thấy những đao kiếm hiện lên trên mặt nước.

Thành Thang nói: Khí Kim thịnh, Kim khí thắng, cho nên màu sắc thời quí nhất màu trắng, và lấy kim khí làm đầu mọi chuyện.

Đến thời Văn Vương, Trời cho thấy trước lửa, thấy con quạ lửa ngậm quyển sách đỏ, đậu xuống tông miếu nhà Chu.

Văn Vương nói: Khí lửa thịnh. Khí lửa thắng, màu sắc thời quí nhất màu đỏ, và lấy lửa làm đầu mọi chuyện.

Nước rồi đây sẽ thay lửa. Trời sẽ cho thấy điềm khí nước thắng. Khí nước mà thắng, thời sẽ quí nhất màu đen, và sẽ lấy nước làm đầu mọi chuyện.

Khí nước đã đến, nhưng mọi ngưòi chưa biết...

Khi chu kỳ hoàn tất, sẽ quay lại về Đất như cũ.

Như vậy Trâu Diễn đã lấy Ngũ Hành mà cắt nghĩa sự diễn biến của các triều đại và của lịch sử.

Sau này khi Tần Thủy Hoàng (246-209) đã thống nhất được đất nước, khí thế thực là hùng mạnh, nhưng Tần Thủy Hoàng vẫn bị ảnh hưởng của Trâu Diễn, nên đã lấy Nước làm quốc vận.

Cho nên phàm là y phục, tinh kỳ, mao tiết đều có viền đen ở phía trên; lấy số 6 làm số gốc; các phù pháp, mũ miện đều dài 6 tấc; xe thời dài 6 thước; lại lấy 6 thước làm 1 bộ; cuỡi xe 6 ngựa; cải danh Hoàng Hà là Đức Thủy.

Đến thời Hán Cao Tổ (206-194), thuyết Ngũ Hành vẫn còn thịnh nên Hán Cao Tổ lại chọn Nước làm quốc vận, vì lẽ thời gian trị vì của nhà Tần quá ngắn chưa đủ tượng trưng cho cả một vận Nước.

Nhưng vua sau lại chọn Đất làm quốc vận, vì cho rằng nhà Tần đã chọn Nước làm quốc vận rồi.

Khi nhà Tiền Hán suy, Vương Mãng (9-23) cướp ngôi, tự xưng là Tân Triều Đại. Vương Mãng là người rất sành về thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, nên đã định lại vòng tuần hoàn của Ngũ Hành trải qua các triều đại cho đến triều đại của ông như sau:

MỘC
1. Phục Hi
6. Đế Khốc
11. Chu
NHUẬN THỦY
Cộng Công
Đế Chí
Tần
HỎA
2. Thần Nông
7. Đế Nghiêu
12. Hán
THỔ
3. Hoàng Đế
8. Thuấn
13. Tân (*)
KIM
4. Thiếu Hạo
9. Hạ Vũ

THỦY
5. Chuyên Húc
10. Thương

 (*) Đời Tân: Đời Vương Mãng                         


Như vậy, theo Vương Mãng, thì lịch sử đã đi được hai chu kỳ rưỡi, chứ không phải một chu kỳ như đời Tiền Hán đã chủ trương.

Ông lại cho rằng các vua chúa, các triều đại kế tiếp nhau theo thứ tự Ngũ Hành tương sinh, chứ không theo thứ tự Ngũ Hành tương khắc như chủ trương của Trâu Diễn.

[1] Xem bài Yin Yang Wu Hsing and Han Art trong Harvard Journal of Asiatic Studies.

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Cuộc tình ảo mộng



CUỘC TÌNH ẢO MỘNG
Em trao tôi một cuộc tình ảo mộng
nhận hay không
tôi cũng xót xa lòng
Đêm mỏi mòn giữa quên và nhớ
trăng vẫn vô tình đổ bóng gầy hao
sương thấm lạnh tiếng côn trùng rên siết
bỡ ngỡ mơ... bỡ ngỡ rả rời
Nửa cuộc đời trái tim còn lầm lỗi
sống và yêu
sao không đến kiệt cùng
trăng đã già rụng ánh phù du
tình yêu em chỉ còn là khoảng lặng bình an
Sóng hoang vắng vỗ bờ lạc loài
nơi êm đềm em có thức hay không?
trăng rúc mình treo nghiêng vào hạ
nỗi nhớ nào như cơn gió lạ bay qua
Tôi ngoảnh mặt bước vào ký ức
nhặt lá thu phai trả nợ đa đoan

Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2015

NGŨ HÀNH Chương 3. Ngũ Hành với Vũ trụ quan Trung Hoa



Ngưòi xưa đôi khi còn dùng Ngũ Hành để mô tả 5 giai đoạn hình thành của vũ trụ.

Giai đoạn 1: Thái Dịch sinh Thủy: Tức là giai đoạn chưa có khí.

Giai đoạn 2: Thái Sơ sinh Hỏa: Tức là giai đoạn có khí mà chưa có thể.

Giai đoạn 3: Thái Thủy sinh Mộc: Tức là giai đoạn có hình mà chưa có chất.

Giai đoạn 4: Thái Tố sinh Kim: Tức là giai đoạn có chất mà chưa có thể.

Giai đoạn 5: Thái Cực sinh Thổ: Tức là giai đoạn hình chất đều có đủ.

Thế tức là vũ trụ đã diễn tiến từ vô hình tới hữu hình, từ khinh thanh tới trọng trọc...

Từ Cô Đơn


Tác giả : Du Tử Lê




Hàng cây thì cúi xuống
Lũ đèn đường đứng lên
Trời bày cho mây cuốn
Bóng tối dồn hơi đêm

Một mình thì cô đơn
Thư phai cùng dỗi hờn
Lần tay tìm cảm giác
Thời gian trôi lâu hơn

Hè đường thì phơi trần
Tiếng giày sau gót chân
Mưa bay cùng khói thuốc
Xóm khuya cho tần ngần

Công viên thì đợi chờ
Phải tôi thì làm thơ
Đàn bà là khởi điểm
Tình yêu và tôn thờ