Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

THÁI CỰC LUẬN Chương 1. Đại cương



Sau khi đã bàn giải Vô Cực ta có thể đề cập đến Thái Cực một cách dễ dàng hơn.

Muốn học Dịch phải hiểu Thái Cực vì Thái Cực chính là gốc Dịch, là tâm Dịch. Học Dịch mà không hiểu Thái Cực, cũng y như đứng bên ngoài hàng rào, ngắm vào tòa lâu đài, làm sao biết được trân châu, bảo vật bên trong!

Thái Cực chẳng những là căn nguyên Kinh Dịch, mà còn là căn nguyên vũ trụ, Vạn Hữu.

Dịch Kinh viết về vũ trụ khởi nguyên bằng những lời lẽ hết sức vắn tắt như sau:

Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng nghi: Lưỡng nghi sinh Tứ tượng: Tứ tượng sinh Bát quái v.v...

Nói nôm na là: Thái Cực sinh tinh thần, vật chất, vũ trụ, vạn vật [1]



A. THÁI CỰC VỚI TỐNG NHO

Tống Nho đã bàn cãi rất nhiều về Thái Cực. Dưới đây xin tóm tắt sơ lược ý kiến của ít nhiều Triết gia như:

Chu Liêm Khê (1017 - 1073)

Thiệu Khang Tiết (1011 - 1077)

Trình Di (Y Xuyên) (1033 - 1107)

Chu Hi (1130 - 1200)

Lục Tượng Sơn (1139 - 1192)

Chu Liêm Khê (1017 - 1073) là vị Tống Nho có công làm sống động lại quan niệm Thái Cực của Dịch Kinh. Liêm Khê tin rằng: trong vũ trụ có một Lý rất huyền diệu, uyên thâm, bất trắc, biến hóa vô phương, tuy vô hình, vô trạng, vô xú, vô thanh, nhưng chính là căn bản của vạn vật: Đó là Thái Cực [2]

Thái Cực hay Lý là khu nữu, là trục cốt vạn vật, Vạn Hữu. Chu Liêm Khê gọi: Thái Cực là Vô Cực ; ngụ ý rằng Thái Cực vô hình thể, là một hoạt lực, một huyền năng vượt tầm tri giác của ngũ quan [3]

Chu Liêm Khê viết thiên Thái Cực đồ thuyết luận về Thái Cực và sự khởi nguyên của Vạn Hữu. Thiên này bắt đầu bằng một câu bất hủ: Vô Cực nhi Thái Cực.

Thiệu khang Tiết (1011 - 1077) gọi căn nguyên vũ trụ là Nhất. Nhất ấy chính là Thái Cực. [4]Đối với Thiệu tử, Thái Cực cũng là Đạo, là Hoàng Cực, là Tâm. Tất cả những danh từ đó đều là nhân tạo, để chỉ định Nguyên Thể vũ trụ[5]

Ông còn cho rằng Thái Cực chẳng ở đâu xa, Thái Cực ở ngay trong tâm hồn con người, là Tâm con người. Ông viết: Tâm là Thái Cực, Đạo là Thái Cực [6]Thái Cực khi chưa sinh vạn vật thì gọi là Tiên Thiên. Khi Thái Cực đã bắt đầu hoạt động, phân hóa để tạo dựng quần sinh thì gọi là Hậu Thiên[7]

Thiệu khang Tiết còn lập ra Tiên Thiên đồ, lấy các con số để vẽ lại sự sinh hóa của vũ trụ. Ông dùng số 1 tượng trưng cho Thái Cực. Tiên Thiên đồ của Thiệu Tử tựu trung cũng giống như Thái Cực đồ bản của Chu Liêm Khê, tuy một bên thời dùng số, một bên thời dùng tượng, để mô tả Thái Cực và công cuộc sinh hóa quần sinh Vạn Hữu.[8]

Đối với Trình Di (1033 - 1107) thì Thái cực, hay Đạo, hay Lý, hay Khí Chân Nguyên cũng là một.[9]

Chu Hi (1130 - 1200) đàm luận rất nhiều về Thái Cực. Đại khái, Chu Hi gọi Thái Cực là Lý có trước trời đất, đã sinh ra trời đất vạn vật, và hằng lồng trong trời đất vạn vật. [10] Chu Hi cho rằng Vô Cực hay Thái Cực vẫn chỉ là một thực thể vô thanh, vô xú, làm khu hữu cho trời đất, muôn loài.[11]

Gọi là Thái Cực, vì là tuyệt đối, không bến bờ, vô cùng, không thể có thêm gì hơn được nữa. Lồng trong vạn vật để làm cùng đích cho vạn vật. Vạn vật không có Thái Cực, tức là không có gốc gác chủ tể, không thể nào tồn tại được. [12] Vạn vật là phản ảnh của Thái Cực, đều có Thái Cực lồng ở bên trong. Thái Cực lồng trong vạn vật như ánh trăng lồng đáy nước: muôn vạn ao hồ, muôn ngàn hình ảnh, cũng không làm cho trăng suy suyển, pha phôi. [13] Vô Cực hay Thái Cực là Đạo, là Lý, thuộc hình nhi thượng, siêu xuất không gian, thời gian.

Âm Dương khí chất có tình, có trạng, là Khí thuộc hình nhi hạ tức là lệ thuộc không gian, thời gian [14] Theo Chu tử, ta có thể nhìn vũ trụ trên 2 hình diện:

Nếu nhìn vũ trụ trên bình diện hình tướng, phiến diện, ta sẽ thấy tùy nơi, tùy thời động tĩnh luân phiên, Âm Dương dịch vị, biến hóa đa đoan.

Nhưng nếu nhìn vũ trụ trên bình diện tế vi, trên bình diện Bản Thể Thái Cực, ta sẽ thấy vắng lặng im lìm, mặc dầu là vạn lý đã hàm ngụ ở trong.[15]

Thái Cực không phương sở, không hình thể, không địa vị [16] Tuy nhiên Thái Cực chính là khuôn thiêng muôn loài muôn vật.

Chu Hi viết: Thái Cực là Lý của trời đất, muôn vật [17] Phùng hữu Lan cho rằng chữ Lý ấy đối chiếu với từ ngữ Triết học Hi lạp tức là Hình thức (Form)[18]. Đối với Lục Tượng Sơn, thì Thái Cực, Trung

hay Lý cũng như nhau [19] Nhưng ông cho rằng nguyên quan niệm Thái Cực đã đủ, không cần gì phải thêm quan niệm Vô Cực nữa. [20] Đối với ông Vô Cực là một quan niệm đã được vay mượn của Lão giáo, không hề thấy có nơi Tiên Nho. Ông cho rằng chữ Vô Cực không phải là lời lẽ của Chu tử [21]Ông tranh luận rất nhiều với Chu Hi về quan điểm này. [22]

Ông biện luận với Chu Hi như sau: Tôn huynh ngày trước gửi thư cho Thoa sơn có nói rằng: Không nói Vô Cực thì Thái Cực đồng ở một vật, không đủ làm cội gốc cho vạn hóa. Không nói Thái Cực, thì Vô Cực chìm ở nơi không tịch, không thể làm cội gốc cho vạn hóa...

Đại truyện trong Kinh Dịch nói rằng: Dịch có Thái Cực. Thánh nhân nói hữu, nay lại nói Vô là tại sao? Lúc Thánh nhân soạn Đại truyện không nói đến Vô Cực, hẳn Thái Cực đã từng đồng ở một vật mà chẳng đủ làm cội gốc cho vạn hóa ru?... Hai chữ Vô Cực xuất ở chương Tri kỳ hùng của Lão tử, chứ sách của Thánh nhân ta chưa từng nói đến. Chương đầu sách Lão Tử nói rằng: không danh là mối đầu của trời đất, có danh là mẹ của vạn vật, chính là theo cái ý ấy. [23]

Tóm lại đối với Nho gia, Thái Cực là:

Nguyên lý của vũ trụ [24]
Căn bản quần sinh [25]
Huyền cơ biến hóa [26]
Vô thanh xú, vô thủy chung v.v.. [27]



B. THÁI CỰC VÀ HUYỀN

Thái Cực trong Kinh Dịch cũng tương đương với Huyền trong Thái Huyền của Dương Hùng [28]

Dương Hùng chủ trương: Huyền vô thủy vô chung [29]Huyền là Bản Thể vũ trụ [30]Huyền sinh xuất vũ trụ, cai quản vạn tượng, Vạn Hữu [31]

Huyền sinh xuất Nhật Nguyệt tinh cầu, tứ thời tuần tiết [32] Huyền là chủ chốt nhân luân. Thuận theo Huyền, đó là quân tử, nghịch với Huyền đó là tiểu nhân [33] Tất cả những chủ trương trên đều tương đương với chủ trương của Tống Nho về Thái Cực, về Thiên lý.



C. THÁI CỰC ĐỐI VỚI PHẬT GIA

Nếu ta chuyển sang từ ngữ Phật giáo, Thái Cực sẽ trở thành Chân Như bản tính.

Qui Nguyên Trực Chỉ viết: Chân Như bản tính là Bản Thể chân thực, là Bản Lai Diện Mục sẵn có từ khi cha mẹ chưa sinh ra mình, Thiền tông gọi đó là «Chánh Pháp Nhãn Tạng». Liên tông gọi là Bổn tánh Di đà. Khổng tử gọi là Thiên lý. Lão tử gọi là Cốc Thần. Dịch gọi là: Thái Cực. Tên tuy khác nhau, nhưng kỳ thực cũng chỉ là một Chân Như bản tính [34] Thái Cực hay Chân Như bản tính ấy chính là Bản tính con người. Bản tính ấy dẫu ở nơi người thánh hay người phàm cũng không hề tăng giảm. Suy rộng ra, vạn vật, Vạn Hữu cũng đều hàm tàng Thái Cực [35]

Phật gia còn gọi đó là Pháp. Kinh Kim Cương viết: Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp. Pháp là bản tính. Bản tính cũng ví như kim cương, kiên cố vững bền không thể hư hoại được. [36]

Tổng thiền sư chùa Đông Lâm chủ trương đại khái như sau: Thái Cực là Chí lý, là Thể, là Chân, là căn nguyên vũ trụ y thức như, theo từ ngữ Phật giáo, Không là căn nguyên vũ trụ [37]



D. THÁI CỰC VỚI ĐẠO GIA

Đối với Đạo gia, Thái Cực cũng vẫn là căn bản của vũ trụ. Đại Đỗng Chân Kinh viết: Căn bản do lai Thái Cực tầm [38]Muốn tìm gốc gác phải tìm nơi Thái Cực. Trong Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết, ta thấy có bài Thái Cực Đồ Lộng Viên ca. Đại ý như sau:

Ta nay vốn có một vòng
Trắng đen hòa hợp, mơ mòng, tịch liêu
Tuy là hai ngả, hai chiều;
Nhưng mà kỳ thực chắt chiu một vành [39]
To thời vô tận, mông mênh,
Nhỏ thời nhỏ síu, phá phanh nhẽ nào.
Thủy chung chẳng rõ tiêu hao,
Chẳng phân tả hữu, thấp cao gót đầu
Cửu trù, Bát quái trước sau,
Dọc ngang tạo tác, cơ mầu ai hay.
Cổ kim trước mắt phơi bày,
Đất trời rành rẽ, hiện ngay trước tòa [40]
Thuấn, Nghiêu, Chu, Khổng một nhà
Giữa đoàn Hiền Thánh, có ta chủ trì,
Sắt cầm thánh thót vân vi,
Nhạc trời dìu dặt, thỏa thuê vui vầy.
Khổng rằng: Thái Cực là đây
Hai chiều, hai mặt phơi bày Âm Dương
Cát hung, phân định đường hoàng
Rồi ra đại nghiệp có đường phát sinh.
Hình thời khoác lốt Ngũ Hành,
Thần thời hiển lộ mối manh Ngũ Thường [41]
Trăm chiều sau trước vuông tròn,
Làm cho Mạnh tử mỏi mòn chắt chiu
Dẫu rằng vất vả đến điều,
Lòng Trời cố giữ, chẳng siêu, chẳng rời
Hạo Nhiên, Thái Cực chẳng hai,
Mênh mông, cao đại chẳng phai, chẳng mòn.
Đất trời bao quát sớm hôm
Hi, Hoàng âu cũng nhờ ơn dắt dìu [42]

Bài ca trên cho thấy Thái Cực vừa là cực tiểu, vừa là cực đại; vô thủy vô chung; bao quát Âm Dương, trời đất, không gian, thời gian; biến hóa vô cùng; sáng soi cho các bậc Thánh Hiền muôn thủa. Thái Cực còn có thể gọi là Hạo Nhiên, theo từ ngữ Mạnh tử.

Xướng đạo Chân Ngôn có một đoạn bình về Thái Cực đại khái như sau:

1/. Khó mà phân biệt được Vô Cực và Thái Cực [43]

2/. Thái Cực linh minh biến hóa [44]

3/. Thái Cực lớn thì trùm trời đất, mà nhỏ thì lọt trong hạt cải tế vi [45]

4/. Thái Cực sinh vạn vật, nhưng không vì sinh vạn vật mà bị phân hóa [46]

5/. Thái Cực sinh vạn vật, vạn vật lại quay trở về Thái Cực, đó là lẽ Nhất biến Vạn, Vạn qui Nhất của Dịch. [47]

6/. Trung Dung viết: Ngứ đại, thiên hạ mạc năng tải. Xướng đạo Chân Ngôn bình: Đó là Thái Cực bao trùm trời đất.[48]

7/. Trung Dung viết: Ngứ tiểu thiên hạ mạc năng phá. Xướng đạo Chân ngôn bình: Đó là Thái Cực lồng trong vạn vật[49]

8/. Sách viết thêm: Hợp trời đất lại vẫn là một Thái Cực. Chia ra thành vạn tượng, vạn loài thì mỗi loài mỗi tượng đều có một Thái Cực; mà Thái Cực vẫn không hề có bị chia phôi [50]

9/. Tìm ra Thái Cực trong lòng con người, tức là tìm ra được Kim Đơn [51]

10/. Thái Cực là Vô Cực, là Kim Đơn [52], là Thần [53], là Không [54], là Nhất Chân, Nhất Nguyên, danh hiệu tuy khác nhau nhưng chung qui vẫn là một thực thể.

Sách Liêu Dương Điện Vấn Đáp chủ trương: Thái Cực tiềm ẩn trong lòng con người. Đó là Thiên tâm, là Viên Giác, là Kim Đơn, tùy theo từ ngữ mỗi đạo giáo [55]Thái Cực vừa là thời hậu (Instant), sinh ra thời gian, vừa là chủng tử (germe), sinh ra mọi cơ cấu trong hoàn võ [56]

Đông Hoa Đế Quân gọi Thái Cực là Huỳnh Đình, là Chúng Diệu Chi Môn, Huyền Tẫn Chi Môn, Đạo Nghĩa Chi Môn, Bất Nhị Pháp Môn, là Hư Vô, là Chân Không, là Trung Thần v.v..Và hình dung Huỳnh Đình Thái Cực bằng một hình vẽ như sau:



1- Thái Cực, 2- Đạo nghĩa chi môn, 3- Chân Không,

4- Bất nhị pháp môn, 5- Trung Thần, 6- Chúng diệu chi môn,

7- Hư Vô, 8- Nguyên tẫn chi môn, 9- Huỳnh Đình. [57]

Những lời của Đông Hoa Đế Quân bàn về Huỳnh Đình tức là những lời bàn về Thái Cực.

Đông Hoa Đế Quân viết: Huỳnh Đình sinh xuất từ Tiên Thiên, tàng ẩn ở Hậu Thiên. Vốn không hình tượng, không danh tự, nên tạm hình dung bằng vòng tròn 〇, tạm gọi là Huỳnh Đình [58]

Vì là sinh cơ man mác, nên gọi là Huỳnh Đình, vì biến hóa không lường nên gọi là Thần. Huỳnh Đình là thể, Thần là dụng, hai đằng là một. Nho gọi là Đạo Đức Chi Môn, Thích gọi là Bất Nhị Pháp Môn, Lão gọi là Chúng Diệu Chi Môn, hay Huyền Tẫn Chi Môn! Vì không hình tượng, nên người xưa lấy Thần các cảnh mà hình dung Thần Huỳnh Đình để mọi người nhân Thần của cảnh, mà suy ra Thần Không cảnh của Huỳnh Đình. [59]

Sách Tính Mệnh Khuê Chỉ đã cho ta thấy tầm quan trọng của Thái Cực, khi vẽ hình Lão tử, trong tay có cầm một đồ bản Thái Cực (TMKC Nguyên-trang 1b). Đối với Đạo gia, Thái Cực chính là Huyền Quan Khiếu. Khiếu này chẳng có đầu đuôi; chẳng biến đổi; không phải có, mà cũng chẳng phải không; không tròn, không vuông; chẳng thiếu, chẳng thừa; chẳng tăng, chẳng giảm; chẳng đi, chẳng lại; chẳng sinh, chẳng diệt; không trong, không ngoài; không mầu, không sắc; không tiếng, không hơi; như có, như không; như còn, như mất, dùng thời vận hành, thu thời tàng ẩn; vào ra bất trắc, chẳng ai biết được quê hương [60] Từ xưa tới nay, độc lập trường tồn giữa đất trời, làm trung tâm điểm cho Vạn Hữu, làm căn bản cho cuộc sinh hóa. Trời, đất, người, vật tất cả đều phải dựa nương nhờ cậy để sinh thành [61]

Quan niệm về Tuyệt Đối Thể không đầu đuôi, không hình dung, lưng mặt, làm ta liên tưởng đến quan niệm Hóa công không tai mắt, tay chân của Platon và của Empédocle. [62]

Sau khi đã khảo sát quan niệm Thái Cực của tiền nhân để tìm ra ý tứ hàm ngụ bên trong, ta có thể tổng kết lại và đoán định như sau:

1. Thái Cực vô hình tượng, hư linh bất muội, vô thủy vô chung [63]

2. Thái Cực là Bản Thể của vũ trụ và cũng là Bản Thể của Vạn Hữu và của con người [64]

3. Thái Cực sinh xuất Vạn Hữu, nhưng sau trước vẫn nguyên tuyền, chẳng có hao hớt, chia phôi [65]

4. Thái Cực lồng trong vạn vật để làm chủ chốt mọi biến hóa và làm cùng đích muôn loài [66]

5. Thái Cực vừa là cực đại, vừa là cực tiểu. Cực đại nên bao trùm vũ trụ muôn phương, cực tiểu nên lồng trong vi trần, trong giới tử. Dù nhìn bao quát cả vũ trụ cũng chỉ có một Thái Cực, nhưng nếu nhìn tán phân từng vật, ta lại thấy mỗi vật đều gồm đủ cả Thái Cực [67]. Thái Cực tuy sinh xuất Vạn Hữu, sau trước vẫn là duy nhất bất khả phân. [68]

6. Thái Cực chính là Trung, là Đạo, là Trời, là Chân Tâm, là Bản Thể của vũ trụ. Thái Cực chính là Thượng Đế [69].Thái Cực là Nhất [70], là Tuyệt Đối [71]

Robert Lasserre toát yếu quan niệm Thái Cực như sau: Thái Cực đã cấu tạo nên vũ trụ, Vạn Hữu.

Từ Vân hán, Ngân hà đến Nhật Nguyệt, tinh thần, quần sinh, vạn vật, tất cả đều có một Bản Thể duy nhất như nhau, ấy là Thái Cực, nhưng hình tướng công dụng bên ngoài khác nhau [72]

Khi Thái Cực đã phân Âm Dương, động tĩnh, tức là khi Thái Cực đã hiển dương, ta mới biết được hành tung Thái Cực.

Còn khi Thái Cực chưa có phân Âm Dương, động tĩnh, thì hoàn toàn vô thanh, vô xú, vô trẫm triệu. Lúc ấy chỉ có thể trực giác được Thái Cực mà thôi.[73]

CHÚ THÍCH

[1] Le premier écrivain de la tendance nouvelle...fut Tcheou Tounn I (1017 - 1073)(Chu đôn Di) maÛtre Tcheou, qui établit que le système des Anciens manquait de tête: il fallait quelque chose, par delà le binôme ciel terre, par delà la roue du yinn yang et des cinq éléments. Il adopta pour être ce quelque chose le Tai ki de Lao tzeu et de Tch’enn T’oan (Trần Đoàn)... Tout son mérite consiste à avoir mis l'Unité en tête du dualisme. — Cf. HCROPC - page 658.

[2] Trích trong Tống Nho Bửu Cầm - trang 49.

[3] La norme s'appelle aussi T'ai ki (Thái Cực), le grand axe, parce qu'elle meut tout dans l'univers. Maìtre Tcheou lui a encore ajouté l'épithète de Où Ki (Vô Cực), pour exprimer sa nature incorporelle. C’est l’impalpable moteur qui ne tombe pas sous les sens. — Cf. Léon Wieger - Textes Philosophiques Tome I - page 180.

[4] Thiệu tử sở vị Nhất, tức Thái Cực dã... 邵 子 所 謂 一 即 太 極 也

- Đồ giai tòng trung khởi. Vạn tượng sinh ư tâm... 圖 皆 從 中 起 萬 象 生 於 心

- Hựu viết: Tâm vi Thái Cực; hựu viết: Đạo vi Thái Cực. 又 曰 心 為 太 極 又 曰 道 為 太 極 — Tạ Vô Lượng﹐Trung Quốc Triết Học Sử, Đệ tam thiên thượng, trang 14 - 15.

[5] L'être premier duquel est issu tout ce qui est, c'est la Principe, c'est le Pôle Auguste, c'est l'Apogée. Noms d'emprunt, car l'être primordial est indéfinissable, innomable, ineffable. — HCROPC - page 65.

[6] Đồ giai tòng trung khởi, vạn tượng sinh ư tâm... 圖 皆 從 中 起 萬 象 生 於 心

- Hựu viết Tâm vi Thái Cực. 又 曰 心 為 太 極

- Hựu viết: Đạo vi Thái Cực. 又 曰 道 為 太 極

Tạ Vô Lượng, Trung Quốc Triết Học Sử, Đệ tam thiên thượng - trang 14 -15

... Le ciel n'a jamais parlé,

- Il ne loge pas dans l’azur.

- Il n’est pas haut, il n’est pas loin,

- L’homme l’imagine dans son coeur.

Cf. Léon Wieger - HCROPC page 602.

[7] Hà vị Tiên Thiên. Tịch nhiên bất động, ảo ảo, minh minh, Thái Cực vị phán chi thời dã. Hà vị Hậu Thiên, cảm nhi toại thông, hoảng hoảng, hốt hốt, Thái Cực dĩ phán chi thời dã. 何 謂 先 天. 寂 然 不 動, 窈 窈, 冥 冥, 太 極 未 判 之 時 也. 何 謂 後 天. 感 而 遂 通 恍 恍 惚 惚, 太 極 已 判 之 時 也. — TMKC - Lợi - trang 2b.

[8] Chu tử chi Thái Cực đồ, Thiệu tử chi Tiên Thiên đồ tịnh vân truyền tự phương ngoại, hữu vị đồng xuất ư Trần Đoàn...Thiệu Tử dĩ Thái Cực sinh vũ trụ Vạn Hữu, lược dữ Chu tử đồng. 周 子 之 太 極 圖, 邵 子 之 先 天 圖 並 云 傳 自 方 外, 有 謂 同 出 於 陳 摶... 邵 子 以 太 極 生 宇 宙 萬 有, 略 與 周 子 同.— Tạ Vô Lượng, TQTHS, Đệ tam thiên thượng, trang 14.

[9] Chữ Đạo, Y Xuyên dùng đó có cái ý nghĩa như hai chữ Thái Cực ở Dịch Kinh, điều mà Y xuyên sẽ mệnh danh cho nó làLý sau này...

- Chân nguyên tức là Lý, còn sự co duỗi, tới lui tức là Khí.

Cf. Tống Nho Bửu Cầm, trang 88, 99

[10] Thái Cực chỉ thị nhất cá Lý tự. Nhược vô Thái Cực, tiện bất phiên liễu thiên địa. 太 極 只 是 一 個 理 字. 若 無 太 極, 便 不 翻 了 天 地. — Stanislas le Gall, Le Philosophe Tchou Hi, p. 97.

[11] ...Thái Cực phi thị biệt vi nhất vật. Tức Âm Dương, nhi tại Âm Dương; tức Ngũ Hành nhi tại Ngũ hành; tức Vạn vật nhi tại Vạn vật. 太 極 非是 別 為 一 物. 即 陰 陽 而 在 陰 陽, 即 五 行 而 在 五 行, 即 萬 物 而 在 萬 物.— Ib. 99.

[12] Thù vấn Cực chi vi ngôn. Cứu cánh chí cực, bất khả hữu gia chi vị, dĩ tráng thử lý chi danh nghĩa tắc cử thiên hạ vô dĩ gia thử chi xưng dã cố thường tại vật chi trung, vi vật chi đích. Vật vô chi, tắc vô dĩ vi căn chủ, nhi bất năng dĩ hữu lập. 殊 問 極 之 為 言. 究 竟 至 極, 不 可 有 加 之 謂, 以 壯 此 理 之 名 義 則 舉 天 下 無 以 加 此 之 稱 也 故 常 在 物 之 中, 為 物 之 的. 物 無 之 則 無 以 為 根 主 而 不 能 以 有 立. — Stanislas le Gall, S. J. Tchou Hi, Sa Doctrine, Son Influence - page 116.

[13] Léon Wieger, Textes Philosophiques, Tome I - p. 180

- Cf. Tạ Vô Lượng, Trung Quốc Triết Học Sử, trang 59.

[14] Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử, trang 896.

[15] Thái Cực hình nhi thượng chi Đạo dã. Âm Dương hình nhi hạ chi khí dã. Thị dĩ tự kỳ trứ giả nhi quan chi, tắc động tĩnh bất đồng thời, Âm Dương bất đồng vị, nhi Thái Cực vô bất tại yên. Tự kỳ vi giả nhi quan chi, tắc xung mục vô trẫm, nhi động tĩnh Âm Dương chi lý, dĩ tất cụ ư kỳ trung hỹ. Tự kỳ trứ giả nhi quan chi, tức tại cụ thể sự vật trung quan chi. Tự kỳ vi giả nhi quan chi, tức tựu Thái Cực chi Bản Thể quan chi dã. Thái Cực vô hình tượng, nhi kỳ trung vạn lý tất cụ. 太 極 形 而 上 之 道 也. 陰 陽 形 而 下 之 氣 也. 是 以 自 其 著 者 而 觀 之, 則 不 動 靜 不 同 時, 陰 陽 不 同 位 而 太 極 無 不 在焉. 自 其 微 者 而 觀 之, 則 沖 目 無 朕 而 動 靜 陰 陽 之 理, 已 畢 具 於 其 中 矣. 自 其 著 者 而 觀 之, 即 在 具 體 事 物 中 觀 之. 自 其 微 者 而 觀 之, 即 就 太 極 之 本 體 觀 之 也. 太 極 無 形 象, 其 中 萬 理 畢 具.— (Thái Cực đồ thuyết chú) Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử - trang 900.

[16] Thái Cực vô phương sở, vô hình thể, vô địa vị khả đốn phóng (Ngữ lục). 太 極 無 方 所 無 形 體 無地 位 可 頓 放.— Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử - trang 901.

[17] Thái Cực chỉ thị thiên địa vạn vật chi lý. 太 極 只 是 天 地 萬 物 之 理 .— Ib. trang 905.

[18] Lý tức như Hi Lạp Triết học trung sở thuyết chi hình thức (Form). 理 即 如 希 臘 哲 學 中 所 說 之 形 式.— Ib. 903

[19] Tống Nguyên Học Án Quyển 12 trang 5.

[20] Tượng Sơn dĩ Vô Cực phi Chu tử ngữ. 象 山 以 無 極 非 周 子 語.— Tạ Vô Lượng TQTHS, Đệ tam thiên thượng, trang 72.

[21] Tượng Sơn dĩ Vô Cực phi Chu tử ngữ. — Tạ Vô Lượng TQTHS, Đệ tam thiên thượng, trang 72.

[22] Giữa Chu học và Lục học, tuy có rất nhiều điểm dị đồng, song chỉ có cuộc tranh luận về hai chữ Vô Cực là kịch liệt nhất... — Cf. Bửu Cầm, Tống Nho, trang 175.

[23] Cf. Bửu Cầm, Tống Nho, trang 174 - 175.

[24] Thiệu tử dĩ Thái Cực sinh vũ trụ Vạn Hữu. 邵 子 以 太 極 生 宇 宙 萬 有. — Tạ Vô Lượng TQTHS, Đệ tam thiên thượng - trang 14.

[25] Phẩm vựng chi căn để dã. 品 彙 之 根 底 也. — Ib. trang 6.

[26] Viết Vô Cực, nhi Thái Cực, Tạo hóa lưu hành chi thể, vô thời hưu tức. 曰 無 極, 而 太 極, 造 化 流 行之 體, 無 時 休 息. — Ib. trang 9.

[27] Ib. trang 6.

[28] Tạ Vô Lượng, TQTHS, Đệ nhị thiên thượng trang 28.

[29] Ib. trang 28.

[30] Ib. trang 28.

[31] Ib. trang 28.

[32] Ib. trang 28.

[33] Ib. trang 28.

[34] Chân Như bản tính giả, phụ mẫu vị sinh tiền, nhất chân vô vọng chi thể vị chi bản lai diện mục. Thiền tông tắc viết: Chánh pháp Nhãn Tạng, Liên tông tắc viết: Bản tính Di Đà. Khổng tử tắc viết: Thiên lý. Lão tử tắc viết: Cốc thần. Dịch đạo tắc viết:Thái Cực. Danh tuy hữu dị, kỳ thực đồng nhất Chân Như Bản Thể dã. 真 如 本 性 者, 父 母 未 生 前, 一 真 無 妄 之 體 謂 之 本 來 面 目. 禪 宗 則 曰 正 法 眼 藏. 蓮 宗 則 曰 本 性 彌 陀. 孔子則 曰 天 理. 老 子 則 曰 谷 神. 易 道 則 曰 太 極. 名 雖 有 異 其 實 同 一 真 如 本 體 也.— Qui Nguyên Trực Chỉ II - trang 369.

[35] Tâm Kinh vân: Bất tăng bất giảm. Thử tính tại Thánh bất tăng, tại phàm bất giảm, cố viết: bất tăng, bất giảm dã. Khởi bất kiến Nhu vân: Nhất thiết hàm linh các cụ nhất Thái Cực, diệc thử lý dã. 心 經 云: 不 增 不 減. 此 性 在 聖 不 增, 在 凡 不 減, 故 曰 不 增 不 減 也. 豈 不 見 儒 云: 一切 含 靈, 各 具 一 太 極, 亦 此 理 也.— Qui Nguyên Trực Chỉ II trang 373.

[36] Qui Nguyên Trực Chỉ Quyển II - trang 371 - 372.

[37] Qui Nguyên Trực Chỉ Quyển Hạ (Đỗ thiếu Lăng phiên dịch) trang 604.

[38] Căn bản do lai Thái Cực tầm. 根 本 由 來 太 極 尋. — Đại đỗng Chân Kinh, Quyển thượng - trang 5.

[39] Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết, trang 84.

[40] Ib. trang 84.

[41] Ib. trang 84.

[42] Ib. trang 33.

[43] Xướng Đạo Chân Ngôn II - trang 8a.

[44] Thái Cực khả dĩ biến hóa. Nhất biến nhi vi Vạn, Vạn cụ nhất Thái Cực; Vạn hóa nhi vi Nhất, Nhất nhưng nhất Thái Cực dã. 太 極 可 以 變 化. 一 變 為 萬, 萬 具 一 太 極; 萬 化 而 為 一. 一 仍 一 太 極 也 . — Ib. trang 8a.

[45] Thái Cực dã, đại tắc bao thiên địa, tiểu tắc nhập giới tử. 太 極 也 大 則 包 天 地, 小 則 入 芥 子.— Ib. 8a.

[46] Ib. trang 8b.

[47] Ib. trang 8a.

[48] Trung Dung viết: Ngứ đại, thiên hạ mạc năng tải. Thái Cực bao hồ thiên địa chi ngoại dã. 中 庸 曰: 語 大, 天 下 莫 能 載. 太 極 包 乎 天 地 之 外 也.— Ib. trang 8b.

[49] Ib. trang 8b.

[50] Ib. trang 8b.

[51] Ib. trang 8a.

[52] Ib. trang 9a.

[53] Ib. trang 9a.

[54] Ib. trang 9b.

[55] Liêu Dương Điện Vấn Đáp Thiên I, trang 2b.

[56] Ib. trang 2b.

[57] Trích trong Huỳnh Đình Kinh giải (Thê Vân Sơn Ngộ Nguyên tử Lưu Nhất Minh) trang 3.

[58] Huỳnh Đình xuất ư Tiên Thiên, tàng ư Hậu Thiên, bản vô hình tượng, diệc vô danh tự cưỡng nhi đồ chi giá cá 〇 nhi dĩ. Cưỡng nhi danh chi Huỳnh Đình thị dã. 黃 庭 出 於 先 天, 藏 於 後 天, 本 無 形 象, 亦 無 名 字, 強 而 圖 之 這 個 〇 而 已. 強 而 名 之 黃 庭 是 也. — Huỳnh Đình Kinh giải trang 3.

[59] Nhân kỳ hồn nhiên sinh cơ, cố danh Huỳnh Đình. Nhân kỳ biến hóa bất trắc, cố vị chi Thần. Huỳnh Đình thể dã, Thần kỳ dụng dã. Nhất vật nhi nhị danh. Nhu tu chi vi Đạo Nghĩa Chi Môn, Thích tu chi vi Bất Nhị Pháp Môn; Đạo tu chi vi Chúng Diệu Chi Môn, hựu vi Huyền Tẫn Chi Môn. Nhân kỳ vô hình vô tượng, cố Đạo Tổ dĩ chư cảnh chi thần hình dung kỳ Huỳnh Đình chi thần sử nhân ư chư cảnh chi thần, truy cứu kỳ Huỳnh Đình vô cảnh chi thần nhĩ. 因 其 渾 然 生 機, 故 名 黃 庭 . 因 其 變 化 不 測, 故 謂 之 神. 黃 庭 體 也. 神 其 用 也. 一 物 而 二 名. 儒 修 之 為 道 義 之 門. 釋 修 之 為 不 二 法 門. 道 修 之 為 眾 妙 之 門. 又 為 玄 牝 之 門. 因 其 無 形 無 象 故 道 祖 以 諸 景 之 神 形 容 其 黃 庭 之 神 使人 於 諸 景 之 神, 追 究 其 黃 庭 無 景 之 神 耳. — Huỳnh Đình Kinh Giải - trang 3.

[60] Phương vi chính Huyền Quan. Nhân kỳ vô thủ vô vĩ. Bất biến bất canh, phi vô phi hữu, phi viên, phi phương, vô dư vô khiếm, bất giảm bất tăng, vô lai vô khứ, bất diệt bất sinh, vô nội vô ngoại. Bất hoàng bất xích, vô tương vô nghinh, bất bạch bất thanh, vô thanh vô xú, tự hữu tự vô, nhược vong nhược tồn. Dụng chi tắc hành, quyển chi tắc tàng; xuất nhập vô thời, mạc tri kỳ hương. 方 為 正 玄 關. 因 其 無 首 無 尾. 不 變 不 更, 非 無 非 有, 非 圓 非 方, 無 餘 無 欠, 不 減 不 增, 無 來 無 去, 不 滅 不 生, 無 內 無 外, 不 黃 不 赤, 無 將 無 迎, 不 白 不 青, 無 聲 無 臭, 自 有 自 無, 若 亡 若 存. 用 之 則 行, 卷 之 則 藏; 出 入 無 時, 莫 知 其鄉.— TMPQ, Quyển 7 - trang 5,6.

[61] TMPQ, Quyển 7 - trang 6.

[62] L'architecte arrondit et polit toute la surface extérieure de la sphère du monde et cela pour plusieurs raisons. Il n'avait en effet besoin ni d'yeux, puisqu'il ne restait rien de visible en dehors de lui, ni d'oreille puisqu'il n'y avait non plus rien à entendre. Il n'y avait pas non plus d'air environnant qui exigeât une respiration. Il n'avait pas non plus besoin d'organes soit pour recevoir en lui la nourriture, soit pour la rejeter après en avoir absorbé le suc. Car rien ne sortait et rien n'y entrait de nulle patt puisqu'il n'y a rien en dehors de lui. Quant aux mains, qui ne lui serviraient ni pour saisir, ni pour repousser quoi que ce soit, il jugea qu'il était inutile de lui en ajouter, pas plus que des pieds ou tout autre organe de locomotion (Timée p.p. 464,465)

...(On trouve la même description du Dieu sans yeux, ni oreilles, ni mains, ni pieds dans Empédocle)

Anthologie de la Poésie Grecque, Trad: Brasillach, Stock 1950

La Voie Rationnelle de la Médecine Chinoise, pages 236 237, Texte et note 1.

[63] Thái Cực Đồ Lộng Viên Ca. Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết, trang 84.

[64] Tử Đồng, Tạ Vô Lượng, TQTHS, Đệ tam thiên thượng, trang 59.

[65] Vũ trụ gian vạn vật mạc bất tòng Thái Cực sinh hỹ. 宇 宙 間 萬 物 莫 不 從 太 極 生 矣.— Ib. 59.

[66] Cố viết: Thái Cực chỉ thị nhất cá Lý tự. Hựu viết: Thái Cực phi thị biệt vi nhất vật; tức Âm Dương nhi tại Âm Dương; tức ngũ hành nhi tại ngũ hành; tức vạn vật nhi tại vạn vật; Chỉ thị nhất cá lý nhi dĩ. Nhân kỳ cực chí, Cố danh viết: Thái Cực, nhiên tắc Thái Cực tức Lý, Lý tức Thái Cực khả tri. 故 曰 太 極 只 是 一 個 理 字. 又 曰 太 極 非是 別 為 一 物. 即 陰 陽 而 在 陰 陽, 即 五 行 而 在 五 行, 即 萬 物 而 在 萬 物. 只 是 一 個 理 而 已. 因 其 極 至 故 名 曰 太 極 然 則 太 極 即 理, 理 即 太 極 可 知.

...Thái Cực tất duy nhất, tất tuyệt đối, vị chi viết Lý. Thái Cực dữ lý đồng thể nhi dị danh, thị vũ trụ chi sơ yên. Cố viết: Vị hữu thiên địa chi tiên tất cảnh chỉ thị lý, hữu thử lý tiện hữu thử thiên địa, nhược vô thử lý, tiện diệc vô thiên địa, vô nhân, vô vật.. 太 極 必 惟 一 必 絕 對 謂 之 曰 理. 太 極 與 理 同 體 而 異 名, 是宇 宙 之 初 焉. 故 曰 未 有 天 地 之 先 畢 景 只 是 理 有 此 理 便 有 天 地, 若 無 此 理, 便 亦 無 天 地 無 人, 無 物. — (Chu Hối Am) TQTHS, trang 58.

[67] Xướng Đạo Chân Ngôn, trang 8b.

[68] Tạ Vô Lượng TQTHS - Thiên III thượng - trang 59

Xướng Đạo Chân Ngôn - Ib. 8b.

[69] Dịch Kinh Đại Toàn, Chu Hi đồ thuyết - trang 14.

[70] Thiên III Thượng trang 15.

[71] Thái Cực tất duy nhất, tất Tuyệt đối. 太 極 必 惟 一 必 絕 . (Chu hối Am), Cf. Tạ Vô Lượng, TQTHS, Thiên III thượng trang 58.

[72] Ce qui produit et compose l'univers est Taikyoku (Indou: Cunya, Chinois T'ai Ki: l'univers, éther non - différencié ou la nature intime).

Commentaire: Depuis les lointaines nébuleuses jusqu'à notre planète, en passant par le soleil et les astres de tous les autres systèmes dont l'univers est composé, absolument tout, les êtres et les choses, l'eau, le feu, l'air, la terre... est composé dans sa nature intime d'une seule et même substance qui se manifeste sous différents aspects. — Robert Lasserre, Etranges Pouvoirs - page 29.

[73] «Taikyoku se polarise: un pôle se charge d'activité Yo, l'autre d'activité In»

Commentaire: Cette polarisation nous permet de saisir les manifestations de Taikyoku par ses activités positives ou négatives. Taikyoku lui même avant sa polarisation ne peut se saisir que par intuition: «Ce n'est pas l'obscurité, c'est ce qui la produit; aucun mot ne peut la traduire.» — Robert Lasserre, Etranges Pouvoirs - page 29.

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Hòa Bình: Máu Và Nước Mắt



BS. Nguyễn Văn Thịnh


Khu căn cứ, không khí xuân 1975 thật rộn rịp. Nghị quyết Trung ương “Quyết tâm giải phóng miền Nam trong thời gian ngắn nhất” được triển khai xuống toàn thể các cơ quan Quân-Dân-Chính-Đảng. Trong bối cảnh này ai cũng cảm thấy như là điều phải đến, không bất ngờ cập rập như dạo Tết Mậu Thân. Trận đánh mở màn giải phóng Ban Mê Thuật làm cho địch choáng váng và tăng cường khí thế của Quân giải phóng. Toàn bộ Quân khu Tây nguyên bị đe dọa. Bộ chỉ huy đầu não ngụy quân hoang mang lúng túng ra lệnh “tùy nghi di tản”, rút về củng cố vùng đồng bằng ven biển miền Trung. Con lộ số Bảy từ Gia Lai về Phú Yên hiểm trở hoang phế bấy lâu nay thành thảm họa của một cuộc tháo chạy kinh hoàng mở đầu cho sự tan rã dây chuyền không cứu nổi của quân lực Việt Nam cộng hòa.

Con lộ 14 xuyên Đông Dương dẫn thẳng về lộ Một. Các đơn vị bộ binh Quân giải phóng tập kết ở mấy buôn căn cứ địa đầu này, học tập phối thuộc với binh chủng xe tăng thiết giáp ẩn trong rừng già, tiến hành trận đánh tổng lực giành thắng lợi cuối cùng. Sau khi triển khai phương án tác chiến cho cán bộ, Tư lệnh Quân đoàn trực tiếp xuống từng đơn vị trực thuộc kiểm tra và động viên chiến sỹ:

- Lần này ta tổ chức chiến đấu trong đội hình các binh chủng hợp thành hành tiến với quy mô lớn. Chiến trường rộng lại đòi hỏi vận động khẩn trương và hợp đồng chặt chẽ nhịp nhàng, khi cần phải kịp thời tạo thành những mũi nhọn chọc thẳng vào sào huyệt trung tâm của giặc. Lực lượng ta về quân số và hỏa lực được tăng cường đủ mạnh nhưng cán bộ chiến sỹ phải có quyết tâm cao và tinh thần dũng cảm chiến đấu, dám hy sinh giành thắng lợi trong từng trận đánh. Ưu thế của giặc là phi pháo nhưng lúc này bị hạn chế nhiều. Nhà trắng và Lầu Năm Góc đã giở hết bài rồi mới chịu xua tay tháo khoán thì lũ hiếu chiến vong bản theo đóm ăn tàn dù có hung hăng cũng không thể nào cản được bước ta đi. Người cách mạng phải biết quý trọng từng giọt máu của chiến sỹ và đồng bào mình. Nhưng chúng ta cũng không có quyền từ chối một thắng lợi toàn diện khi đã nắm chắc thời cơ chiến thắng trong tay!

- Thời cơ đó cụ thể là gì? – Một sư trưởng từng là cán bộ tiểu đoàn sinh tử khi đánh vào thành phố trong chiến dịch Tết Mậu Thân hỏi.

- Là Mỹ hoàn toàn không có khả năng quay lại miền Nam ta nữa! Là khí thế tiến công của toàn quân và dân ta đang dâng lên như nước vỡ bờ! Là tinh thần sỹ quan và binh lính địch đang trong trạng thái hoàn toàn tan rã! Là sự sụp đổ của ngụy quyền các cấp từ trên xuống dưới như trong thế trận liên hoàn đôminô! Tình hình chiến sự cực kỳ có lợi cho ta. Thời cơ do ta tích lũy và tạo thế từ bao lâu nay đã đến và chỉ có một dịp này. Như hồi Cách mạng Tháng Tám tương quan ta-địch khác nhau nhiều mà Bác Hồ vẫn quyết tâm chỉ đạo “dù đốt cháy cả dãy Trường sơn cũng phải làm”. Người cách mạng chân chính phải chấp nhận một sự hy sinh cần thiết cho thắng lợi trọn vẹn của sự nghiệp chung.

Ông kết thúc bài nói bằng lời thơ ứng khẩu:

Ta dù hy sinh sẽ thành bất tử
Khi Tổ quốc ta về lại một nhà


Từ cuộc họp tại trụ sở Hạ nghị viện, dân biểu nhà giáo Phan An Phú bước ra thầm nghĩ: Chắc đây là buổi họp cuối cùng của lưỡng viện vì như buổi chợ chiều rã đám. Chỉ lơ thơ còn chừng phân nửa, ai cũng nhấp nhổm như ngồi trên đống lửa nghe mấy ông tướng kể nỗi tuyệt vọng về chiến sự. Đám tàn quân như hổ vô đầu, chắc có làm được chuyện gì không? Tàn cuộc rồi mới nặn ra cái nghị quyết trao quyền Tổng Thống cho ông Minh lớn, dù trong bụng ai cũng thấy đã là qúa muộn.



Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (trái) và Phó tổng thống Trần Văn Hương

Không chỉ lưỡng viện mà cả tòa Đại sứ Mỹ đều bị bất ngờ với Thiệu! Thằng này gian hùng, mưu mẹo không thua gì Tào Tháo. Nó lấy cớ hợp hiến, giao lại quyền cho một lão phó già tài không hơn viên “thượng sỹ” thì làm sao xoay chuyển được tình thế lúc này? Không ăn được thì đạp đổ! Nó vừa chửi thằng thầy vừa hù dọa lão già kế nhiệm: “Các ông bỏ chạy để mặc chúng tôi làm cái việc mà các ông làm không xong. Chúng tôi không có gì hết thế mà các ông lại muốn chúng tôi hoàn thành cái điều mà các ông không hoàn thành nổi!Các ông bắt chúng tôi làm một việc như lấp biển Đông!”. Cuộc bàn giao này càng thêm buồn tẻ, chán phèo. Lão già bất lực nói suông vài câu kèm theo lời mai mỉa: “Nhiệm vụ của Đại tướng rất nặng nề”! Người nhận là ôm vào cả một cơ đồ đổ nát thảm thương mà không biết phải làm gì vì phía bên kia coi chính quyền này đã là một con số không thật sự.

Ra khỏi phòng họp, lại một loạt tướng lãnh với nghị viên âm thầm theo kế tẩu vi thượng sách! Một ngày sau khi nhậm chức, viên đại sứ Pháp gợi ý làm trung gian nhờ một quốc gia lớn (Trung quốc) có nhiều ảnh hưởng gỡ ra thế bí, vị Đại tướng chán chường từ chối: “Suốt đời tôi đã làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ đều chuốc lấy thất bại. Bây giờ tôi không thể làm tay sai cho ai nữa để chống lại nhân dân và tổ quốc của tôi”! Tân Tổng Thống chỉ có thể chủ động làm được một việc có ý nghĩa lịch sử là gửi thông điệp cho đại sứ Mỹ cùng lúc với tân Thủ tướng công báo trên đài phát thanh, chính thức yêu cầu toàn bộ người Mỹ còn lại phải rời khỏi Sài Gòn trong 24 tiếng đồng hồ!

Một đội quân viễn chinh bị những người yêu nước đuổi đi là chuyện thường tình. Nhưng chuyện có một không hai trong lịch sử mà không ai nghĩ tới là một đội quân xâm lược nhà nghề hùng hậu đến thế vào giờ phút chót phải rời khỏi Việt Nam trong tình cảnh trớ trêu bị chính người cùng hội cùng thuyền xua đuổi vỗ mặt quyết liệt vội vàng như thế!

Người Mỹ đã thực hiện kế hoạch di tản gấp hơn sáu ngàn người còn lại từ ngày Thiệu nhả ra cái ngai quyền lực được họ ấn ngồi vào. Quốc hội Mỹ bác bỏ đề nghị viện trợ thêm cho chính phủ Việt Nam cộng hòa chỉ đồng ý chi 200 triệu Dollar để khẩn trương xúc tiến kế hoạch di tản toàn bộ người Mỹ kể cả quân sự lẫn dân sự nhanh chóng ra khỏi miền Nam Việt Nam. Coi như cuộc chiến tranh do người Mỹ tự làm điêu đứng chính mình đến đây chấm dứt.



Ngày đêm, những chuyến máy bay vận tải chở đầy người di tản nối nhau cất cánh rời sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng họ cũng không ngờ tình hình diễn ra xấu nhanh như thế. Trong khi sân bay thành vô dụng thì cái trát tống khứ cấp thời của người bạn từng đầu gối tay ấp thật qúa phũ phàng! Toà Bạch Ốc lập tức ra lệnh thiết lập một cầu hàng không đặc biệt từ các bãi đậu dã chiến kín đáo là những khoảng trống hoặc sân thượng của mấy dinh thự công sở ngay giữa lòng thành phố tới hạm đội Bảy áp sát ngoài khơi. Khắp Sài Gòn vang lên những tín hiệu đặc biệt riêng khẩn cấp cho những người Mỹ và một số nhân vật cộm cán ở Sài Gòn có mặt ngay tại các điểm tập trung ngầm giao hẹn trước để kịp thời được bốc đi bằng những chuyến máy bay trực thăng Chinook khổng lồ.

Phóng viên hãng AFP ở Campuchia mới di tản khẩn cấp bằng trực thăng Mỹ về cho biết quân Khmer đỏ đã tràn ngập Phnompênh và tàn sát không thương tiếc những ai liên quan tới chính quyền cũ. Cựu thủ tướng Sirik Matak không chịu di tản theo lời mời của Mỹ. Nhiều cái đầu chụm lại trên mảnh giấy phôtô bức thư của Sirik Matak gửi cho viên đại sứ Mỹ ở Phnompênh vào giờ phút chót:

“… Tôi hết sức thành thật cảm ơn ông về đề nghị đưa tôi đến tự do. Tôi không bao giờ tin rằng vào lúc này, ông cũng như đất nước vĩ đại của ông lại có cái cảm nghĩ rằng mình đã bỏ rơi một dân tộc đã chọn tự do! Chúng tôi cần sự bảo vệ của các ông nhưng các ông đã từ chối! Chúng tôi không thể làm gì trước tình thế này! Rất tiếc thay, tôi không thể rời nơi đây một cách hèn nhát. Nhưng hãy khắc ghi rằng nếu tôi chết ngay ở nơi này, tại đất nước mà tôi yêu dấu thì cũng chẳng thành vấn đề vì rằng tất cả chúng ta sinh ra đều tử biệt. Tôi chỉ mắc mỗi sai lầm là đã tin các ông”!





Nghe cùng một giọng với Nguyễn Văn Thiệu trước khi rời khỏi cái ngai Tổng Thống: “… Họ đã bỏ rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng tôi. Thật vậy, họ đã phản bội chúng tôi. Một nước đồng minh lớn đã không làm tròn lời hứa với một nước đồng minh nhỏ. Đó là một hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo”!



Ông Thiệu lên tivi tuyên bố từ chức và chửi Mỹ là "một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo" - Ảnh http://www.viethaingoai.net/

Matak đã từng học ở Sài Gòn nhiều năm và có không ít bạn bè ở đây mà cũng trong đám đầu sỏ tàn sát Việt kiều. Nhưng nói thật vô tư, cũng là kẻ lừa thầy phản bạn nhưng y còn biết giữ chút liêm sỷ cuối cùng hơn vị nguyên thủ cái quốc gia Việt Nam Cộng Hòa này!

Đêm trước ngày nội các ra mắt quốc dân, ông giáo Phú lẫn trong số dân biểu không di tản, theo tướng Minh vào trú tại dinh Tổng Thống. Mọi người tản ra các phòng, từng nhóm ngồi, nằm tạm bợ, không ai ngủ được.

Một đám lính mặc đồ dã chiến, đạn quấn cùng mình, lăm lăm tay súng như sẵn sàng nhả đạn, xông thẳng vào dinh mà không ai dám cản. Viên sỹ quan tiến đến trước Tổng Thống, dậm chân chào theo đúng phép nhà binh, giọng đầy bức xúc:

- Trình Đại tướng Tổng tư lệnh quân lực Việt Nam cộng hòa. Xin ngài cho chúng tôi được tử thủ bảo vệ Sài Gòn!

Hàng trăm con mắt dồn vào ngài tân Tổng Thống. Không ngờ vị Đại tướng cao to thường ngày oai vệ là thế mà trong giờ phút định mệnh này lại tỏ ra xúc động tưởng như là mềm yếu. Ông bước tới đặt tay lên vai viên sỹ quan vẫn trong tư thế nghiêm chờ lệnh. Giọng ông nhỏ nhẹ thân tình như muốn trên dưới cùng chia sẻ với nhau nỗi khó lúc này:

- Cảm ơn các em! Là người lính, qua biết thế nào là thắng là bại. Nhưng muộn quá rồi! Phải làm gì để anh em binh sỹ và nhân dân không phải đổ thêm máu ra vô ích và giữ cho thành phố Sài Gòn này không đổ nát!

Bao nhiêu tiếng thở dài do bị dồn nén lại cùng trút ra như một luồng gió làm dịu đi bầu không khí căng thẳng trong phòng dù không ai kịp nghĩ là điềm lành hay dữ nữa. Mấy người lính chúi nòng súng xuống cúi đầu lầm lũi bước ra.

Vào lúc khuya, một đám người nhốn nháo chạy ra sân cỏ trước dinh có đỗ hai chiếc phi cơ trực thăng dành riêng cho Tổng Thống. Họ vội vã mà kín đáo, rồi tiếng động cơ gầm lên, hai chiếc chuyên cơ lao thẳng vào đêm tối. Mọi người nhìn nhau muốn hỏi một điều gì. Viên sỹ quan tùy tùng trong dinh giải thích:

- Tổng Thống cho phép phi công di tản. Còn ổng thì ở lại!

Có người mừng vì hy vọng vẫn còn được người che chở. Có người tỏ ra nuối tiếc vì không biết trước nên chậm chân lỡ cuộc.

Lúc hừng đông ngày cuối tháng Chúa Phục sinh, viên Toàn quyền Martin tay ôm chiếc cặp chứa lá cờ quốc thể, tay ôm con chó cưng buồn bã và cay đắng leo lên chiếc trực thăng riêng trên sân thượng tòa sứ quán, có đámThủy quân lục chiến súng trên tay sẵn sàng loại bỏ bất kỳ ai liều mạng bám theo. Cuộc rút chạy của những tên xâm lược Mỹ cuối cùng ra khỏi Việt Nam diễn ra như thế, mặc xác hàng ngàn người Việt Nam bán mình cho họ dù được ưu tiên lọt vào khuôn viên tòa đại sứ với lời hứa sẽ không bỏ lại một ai! Và ngoài bến cảng Bạch Đằng, quang cảnh còn thảm thiết hơn: cơ man nào người chìm trong những tiếng kêu la, khóc lóc, chửi thề, nguyền rủa… với những bộ mặt hoang mang, thất vọng, oán hờn nhìn theo những con tàu oằn lưng rẽ sóng chạy tít ra khơi như chiếc lá trôi mau về phía chân trời!





Ông giáo Phú chợt nhớ tới câu nói lịch sử của Napoléon Bonaparte bên bờ sông Vistule năm nào: “Từ vinh quang đến lố bịch chỉ một bước thôi”! Ấy là sau trận Borodino trước cửa ngõ Moscow, mặc dù Cutudốp phải rút quân về Tula nhưng Bonaparte vẫn phải vội vàng kéo đám hùng binh hổ tướng tháo chạy khỏi nước Nga giữa mùa đông tuyết giá hoang tàn, để diễn ra bao cảnh thảm thương!

Qua phút xúc cảm xuất thần, ông giáo giật mình trở về thực tại: Đã không còn náo loạn tiếng máy bay trên trời nhưng trên đường phố Sài Gòn những tiếng thắng xe ghê rợn rít lên đây đó trước những người bị bỏ rơi thất thần, hốt hoảng trong bước đường cùng lẫn với một đội quân thừa cơ cướp bóc và đi hôi của ở các tiệm vàng, cửa hàng, các nhà giàu, các công sở, các dinh thự của người nước ngoài bỏ trống. Trong lúc hỗn loạn như thế mà không thấy bóng dáng viên cảnh sát nào. Đám lính bị bỏ rơi đã nhanh chóng biến thành lũ nặc nô hung hăng công khai cướp bóc. Người thành phố càng hoang mang rối loạn nghe đủ các tin đồn về một cuộc tắm máu trả thù sắp tới.

Tưởng là ngày hoàng đạo thì mọi chuyện đều êm đẹp nhưng ngay từ buổi sớm, trước tình thế vô phương cứu vãn, nội các mới hình thành dở dang, chỉ còn cách ra tuyên bố sẵn sàng bàn giao chính quyền cho Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đồng thời, tướng đại diện Tổng tham mưu trưởngquân đội Sài Gòn ra lệnh cho các sỹ quan và binh sỹ chấp hành lệnh ngưng bắn ngay tại chỗ. Một nội các rã rời lèo tèo không quân, không tướng, không ai công nhận, ngồi chờ một biến cố phi thường đang ập tới mà chưa biết họa phúc thế nào!

Ngày 26 tháng Tư, các đơn vị Quân giải phóng được phổ biến lệnh mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh – trận đánh cuối cùng tiến thẳng vào trung tâm sào huyệt của Mỹ-ngụy, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử giải phóng miền Nam.

Bộ đội trong đội hình hành tiến.

Năm mũi tiến của Quân giải phóng đã hợp quân ở các điểm địa đầu. Những dòng xe, dòng người ào ào nhằm vào các mục tiêu trọng yếu giữa nội đô. Đoàn tăng hòa vào đoàn xe dằng dặc nối nhau trên Quốc lộ Một đổ vào thành phố.

Yên Thịnh trong tư thế nửa ngồi nửa nằm, tay ôm chặt chiếc túi cứu thương. Trong thùng xe tăng, chịu cái xóc lộn và hơi nóng hầm hập lẫn với tiếng đạn réo, người hét dường như thân xác, tâm trí không là của cô nữa. Yên Thịnh ngồi xốc dậy khi nghe tiếng anh trưởng xe hét thật to lên:

- Đây là thị trấn Hố Nai. Dân hay địch mà đông thế?

Xe rú ga thật lớn mà vẫn đứng yên tại chỗ. Cô ngồi lên, nghển cồ nhìn theo người lái. Phía ngoài người ta đông lắm đứng cản mũi xe. Đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con, lẫn vào số mặc áo lính, đầu trần, tay chỉ trỏ la hét những gì dáng vẻ hung hăng lắm. Tiểu đội trưởng Thành chen tới trước mũi xe, nói những gì nhưng đám đông càng lấn tới xô đẩy khiến anh ngã dúi dụi. Anh giơ cao khẩu súng AK lên bắn chỉ thiên. Trong khói súng, Yên Thịnh thấy anh Thành ôm ngực ngã ngửa ra, chiếc áo đẫm máu. Cô gào lên và gục xuống! Tiếng quát tháo của những chiến sỹ trong xe, tiếng người ta náo loạn ngoài kia, tiếng rú ga khủng khiếp mà chiếc xe không chuyển động càng rung mạnh lên, lay thức cô tỉnh lại. Cô nghe rõ tiếng ai đó thét to lên ngay trên tháp xe, vừa kêu gọi răn đe vừa ra mệnh lệnh:

- Đồng bào chú ý! Quân giải phóng chỉ đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược và bọn tay sai phản dân hại nước. Ai cản đường Quân giải phóng là chống lại tổ quốc và nhân dân, sẽ bị trừng trị. Các đồng chí! Hãy phân biệt rõ địch ta. Quyết không để bị cản bước tiến quân về giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước!

Những chiếc xe tăng như thoát ra khỏi cơn giao động, rọi đèn thật sáng và rú ga thật lớn cùng nhích dần tiến lên, đồng thời những nòng súng đại liên, đại bác hạ tầm bắn thị uy. Đám đông chạy tán loạn, tiếng la khóc chìm trong tiếng súng. Bộ binh tản khai, trừng trị thẳng thừng những kẻ ngoan cố cản bước đường tiến quân. Đám người nháo nhào chạy lẩn đi khắp chốn. Những tiếng ồn lắng xuống, tan đi nhanh chóng. Vất vả lắm các chiến sỹ bộ binh mới theo kịp xe tiến lên.

Khi đoàn xe vượt qua dãy phố xá thì tản ra, dừng lại. Vẻ mặt mỗi cán bộ chiến sỹ đều tỏ ra căng thẳng. Họ đau đớn đi gom xác đồng đội đã hy sinh trong thế tiến công mà sức đề kháng của kẻ địch đã tan rã hoàn toàn. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời chiến đấu những người lính dù từng trải và dày dạn mới trải qua. Họ đóng dã chiến bên ngoài thị trấn. Không ai muốn ăn mặc dù trong bụng rỗng không. Họ chỉ khát nước thôi. Nhưng trong tình cảnh này nước lã trong chum vại và giếng nước nhà dân cũng không ai dám uống.

Cùng lúc với chi khu Dầu Tiếng và thị xã An Lộc ở phía tây-bắc Sài Gòn. Các lộ 13, 14, 20, 22 tiến thẳng về Sài Gòn đã bỏ ngỏ. Trong khi Thiệu ra lệnh cho Sư 18 quyết tử thủ bảo vệ “lá chắn thép” Xuân Lộc thì Quân giải phóng đột ngột thay đổi ý đồ chiến thuật, một mặt giữ vững trận địa kìm chân đối phương, cùng lúc các mũi tiến công chuyển hướng đánh bọc ra phía sau, chiếm ngã ba Dầu Giây, uy hiếp yếu khu Long Thành – Trảng Bom và thành phố Biên Hòa.

Lá chắn Xuân Lộc chơ vơ ngoài vòng đai phòng thủ Sài Gòn!

Chiến sự diễn ra giằng co quyết liệt ở ngã ba Tam Hiệp và đơn vị mau chóng vượt qua thị xã Biên Hòa. Hình ảnh các đồng đội hy sinh vừa qua thoáng hiện ra. Ở tuyến phòng thủ vành đai mà địch đã phản ứng dữ dội, liệu vào tận sào huyệt phản ứng của chúng sẽ thế nào? Hiểu được tâm trạng của bộ đội, Chính trị viên Trung đoàn xuống từng Đại đội động viên:

- Quân Mỹ đã rút chạy. Quân ngụy hoang mang cực độ và tan rã nhanh chóng. Giờ chiến thắng đã đến gần. Các gọng kìm đã xiết chặt và sẽ bóp nát hang ổ cuối cùng của địch. Các đồng chí! Vì thắng lợi cuối cùng, chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả! Không sức mạnh nào cản được bước tiến của đại quân ta.

Lúc này, trên lộ Một nườm nượp xe của các mũi hội quân dồn về, vừa vui náo nức vừa hồi hộp. Hai chiếc xe tăng M41 của địch bị bắn cháy nằm cản giữa đường, trung đội của Nhân Trí được lệnh ủi gạt chúng sang một bên để lấy đường tiến quân.

Phía trước là một chiếc cầu, mặt đường bị cày xới, chỗ đỏ quạch, chỗ nám đen khói đạn. Một cô gái bận bộ đồ bà ba đen, khăn rằn, nón tai bèo, khoác súng AK, tay đeo băng đỏ, tay giơ ngang ra lá cờ Mặt trận vẫy vẫy. Nhân Trí ra hiệu cho xe dừng lại, hét to lên:

- Đây là đâu?

- Cầu Rạch Chiếc!... Kế là cầu Sài Gòn… vừa ngơi tiếng súng!… Chạy tới ngã tư lớn, quẹo trái… qua cầu Thị Nghè… thẳng miết tới dinh Độc Lập!

Nhân Trí chỉ những người đang lúi húi trên bờ, lặn ngụp dưới sông, cảnh giác:

- Những ai đang làm gì dưới hai bên chân cầu kia?

Giọng cô gái lạc đi:

- Mấy anh giải phóng và du kích đang tìm tử sỹ... Hai hôm rồi ở đây đánh lớn. Sớm nay nó mới bỏ chạy đi!

Chiếc xe hồng hộc phun làn khói đen đặc giận giữ lao đi, thoáng đã nhập vào dòng xe hối hả.

Cầu Sài Gòn còn vương khói súng. Xác xe tăng trên cầu. Xác tàu chiến dưới sông. Mấy chiến sỹ đặc công có người còn băng trắng trên đầu, trên mình… nằm phục hai bên đường giương súng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đoàn xe. Mấy chiến sỹ đánh đu dưới thành cầu kiểm tra xem có mìn gài. Mặt đường đầy những súng bộ binh Mỹ, mũ nón, áo quần, giày dép lính ngụy tung tóe. Thấp thoáng những bóng người mình trần, quần cụt, chân đất hớt hải chạy tụt vào những bụi cây, con hẻm và những ngôi nhà… Những trận ác chiến hôm trước, hôm nay quyết liệt giành giật từng chiếc cầu, điểm yếu. Dù sao đó cũng chỉ là sự chống trả của lũ rắn mất đầu, rã rời trước sức tiến công ào ạt của Quân giải phóng trên mọi nẻo đường tiến vào thành phố.

Khi ổ đề kháng cuối cùng trên cầu Thị Nghè bị đập tan, xe của các đơn vị đan xen nhau chiếm lĩnh các vị trí được giao.

Đường phố vắng tanh. Nhà nhà đóng cửa. Những người lính ngồi trong tháp xe hay bám bên thành xe trong tư thế chiến đấu với tâm trạng vừa căng thẳng vừa hồi hộp, không hiểu phản ứng của dân chúng thế nào.

Trong khuôn viên dinh Độc lập người ta hỗn độn không ai kiểm soát được ai. Lính tráng đã được lệnh tập trung vũ khí, đề phòng một sự phản ứng cùng đường có thể gây nguy hại cho biết bao sinh mạng. Người bồn chồn, bứt rứt. Người rũ rượi ủ ê. Đám lính cởi trần nằm ngồi ngổn ngang ở các gốc cây không biết phải làm gì. Đám chính khách mặt mày sầu não, quần áo dù cố kéo cho thẳng nhưng vẫn nhàu nhĩ sau cả một đêm không ngủ và từ chiều hôm qua chưa có chút gì vào bụng. Có một số người lăng xăng vào ra như đang trông đợi. Ông giáo Phú nghĩ trong số những người hiện diện ở đây chắc chắn có không ít người đàng mình. Nhưng họ là ai? Ông lẳng lặng theo dõi, vẫn không bộc lộ mình ra. Lúc này, mỗi người nghĩ tới thân phận mình sẽ sao đây chứ không ai nghĩ tới anh này đối lập hay anh kia trung lập. Có người tỏ ra ân hận sao trù trừ trong khi trước đó có thể lo thoát sớm đi. Chính ông giáo Phú cũng thấy phập phồng, không hiểu rõ tâm trạng của mình ra sao nữa. Mừng thì có mừng. Nhưng vẫn có chút gì gờn gợn.

Khi tốp xe tăng lạ có in hình ngôi sao năm cánh lao tới ủi sập cánh cổng tiến vào sân. Có mấy người cầm súng, giương lá cờ nửa xanh, nửa đỏ có ngôi sao vàng ở giữa chạy vào thì ông giáo như một cậu học trò không kìm được mình nữa, nhảy tưng lên, chạy ùa ra đón những chiến sỹ Quân giải phóng. Ông không biết từ đâu mình lại có lá cờ như thế trên tay và ông chạy ngược ra phía cổng. Một chàng thanh niên xịch đỗ chiếc xe gắn máy sát lại. Ông nhảy vội ngồi sau xe và giơ cao ngọn cờ lên vẫy vẫy trong khi người thanh niên vừa phóng vù vù, vừa hét thật to:

- Quân giải phóng chiếm dinh Độc Lập rồi!

Một già, một trẻ cứ như bay trên đường phố thông báo tin thắng lợi cuối cùng.

Cùng lúc các mũi tiến quân đã lao vào nhanh chóng chiếm lĩnh sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng Nha cảnh sát… Phố xá nhốn nháo lên. Người chạy bộ, người chạy xe tấp nập và mỗi lúc một đông hơn. Đoàn xe Quân giải phóng hành tiến chậm dần, có chỗ dồn lại. Bộ đội đứng trên xe, nhảy xuống đường cũng hét vang lên:

- Giải phóng Sài Gòn! Giải phóng miền Nam!

Các tiếng súng lớn, súng nhỏ nổ liên hồi. Lúc đầu có người sợ qúa chạy ngược vào nhà. Nhưng sau rồi nghe vui như pháo tết. Người ta lại túa ra đường đông hơn.



Trên một chiếc xe tăng, anh lính trẻ măng, mặt tươi rói, giơ cao khẩu AK khua khua trên đầu. Anh ta hét lớn lên những lời thơ ứng khẩu:

Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ

Đất anh hùng của thế kỷ hai mươi

Đứng hiên ngang trên tuyến đầu chống Mỹ

Có Việt Nam anh dũng tuyệt vời

Việt Nam ta độc lập thống nhất rồi !

Bao nhiêu người bu lại quanh xe. Họ vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Nhiều chàng trai, cô gái đề nghị anh nói đi nói lại nhiều lần để họ nhập tâm vì trong lúc bất thần thế này không có gì để ghi chép lại. Lần đầu tiên người dân thành phố được nghe những lời ngợi ca hào tráng về một tổ quốc Việt Nam mà trước đây họ chỉ nghĩ tới những khốn khổ tang thương. Và cũng lần đầu tiên không ít người nhận ra mình là một bộ phận của dân tộc ấy, của tổ quốc ấy đáng tự hào đến thế.

Đang lúc phấn chấn, anh lính trẻ vươn người, ưỡn ngực, giơ cao hai tay lên, ngửa mặt nhìn trời và hét thật to:

Hòa bình – Hạnh phúc – Ấm no

Cho CON NGƯỜI sung sướng – tự do!

Tiếng súng các loại cứ vang lên trong nỗi hân hoan chiến thắng để một phút người ta quên đi lẫn trong đó có cả những tiếng súng hận thù. Anh lính trẻ bỗng buông rơi cây súng, tay ôm ngực ngã chúi xuống đường.

Mọi người lại xô nhau bỏ chạy. Bộ đội tản ra trên đường. Nòng súng tăng hạ xuống nhắm về các ngôi nhà chung quanh. Trung đội trưởng Nhân Trí hét lên:

- Các đồng chí! Phải nhằm đúng đối tượng mà bắn. Đừng bắn lầm chết dân!

Nhưng đối tượng ở đâu? Nó đang lẩn khuất đâu đây? Mấy nòng súng đại bác, đại liên quay vòng như điên mà không dám phát hỏa. Mấy tay súng bộ binh chỉ dám giận dữ bắn chỉ thiên. Yên Thịnh từ trong tháp xe nhảy xuống ôm xác nhà thơ trẻ khóc oà lên từng hồi.

Lệnh hành tiến tiếp.

Một chiếc xe com măng ca trờ tới. Mấy chiến sỹ khiêng xác đồng đội lên xe. Yên Thịnh không chịu rời xa người bạn hồn nhiên thân thiết ấy. Chiếc xe phải vất vả lắm mới tách ra khỏi đám đông người bùi ngùi, xụt xịt trước cái chết của người chiến sỹ trong giờ chiến thắng.

Chiếc xe chở tử sỹ về đến trạm quân y dã chiến đúng lúc mọi người đang túm tụm nghe đài Sài Gòn phát lời của Tổng Thống Dương Văn Minh kêu gọi “quân đội cộng hòa” hạ vũ khí đầu hàng. Tiếp ngay đó, lời vị đại diện Quân giải phóng đanh thép, long trọng tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng, chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của đội quân tay sai và giải thể chính quyền do ngoại bang ngụy tạo kể từ giờ phút lịch sử này.

Trong khi mọi người nhảy lên vỗ tay reo mừng hoặc ôm nhau khóc khóc cười cười thì Yên Thịnh hai tay bưng mặt, càng khóc nức nở hơn.

Lúc đó vào buổi trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975.

CẢM XÚC THÁNG TƯ

Phiên bản các sự kiện (Wisława Szymborska)








Thái Linh dịch




Nếu được phép lựa chọn
Hẳn chúng ta sẽ suy nghĩ rất lâu.
Cái cơ thể được đề nghị cho ta thật không thoải mái
và tàn tạ đi một cách xấu xí.

Những cách thỏa mãn cơn đói
sẽ khiến ta ghê tởm,
sự di truyền ép buộc
và sự chuyên chế của các tuyến
khiến ta khó chịu.

Thế giới quanh ta
không ngừng tan vỡ.
Những kết quả của nguyên nhân
nổi trận lôi đình.

Trong số những số phận được đưa ra cho chúng ta xem
ta sẽ từ chối phần lớn
với nỗi buồn và sự kinh hoàng.

Thí dụ những câu hỏi thế này sẽ được đặt ra:
có đáng để sinh trong đớn đau
một đứa con chết lưu
và trở thành thủy thủ để làm gì
nếu không thể cập bến.

Chúng ta sẽ chấp nhận cái chết
nhưng không dưới bất kỳ hình thức nào.
Tình yêu lôi cuốn chúng ta,
ổn thôi, nhưng đó là tình yêu
biết giữ lời hứa.

Cả sự bất kiên định trong đánh giá
lẫn sự phù du của các tuyệt tác
đều khiến chúng ta khiếp sợ
việc phụng sự nghệ thuật.

Mỗi người đều muốn có tổ quốc không láng giềng
và sống một cuộc đời
trong khoảng lặng giữa các cuộc chiến.

Không ai trong chúng ta muốn cầm quyền
hay bị cai trị,
không ai muốn là nạn nhân
cho những ảo ảnh của mình và người khác,
sẽ không có tình nguyện viên
cho việc tụ tập, diễu hành,
cho những bộ lạc tuyệt chủng lại càng không
mà thiếu chúng
lịch sử sẽ không cách gì tiếp diễn
suốt nhiều thế kỷ dự kiến.

Trong khi đó một số lượng lớn
những vì sao từng sáng
sẽ tắt đi và nguội ngắt.
Sẽ đến lúc phải quyết định.

Với rất nhiều hạn chế, rốt cuộc cũng sẽ xuất hiện
các ứng cử viên
cho cương vị một số thầy lang và nhà thám hiểm,
cho vài triết gia không chút tiếng tăm,
cho đôi ba thợ làm vườn,
nhạc sỹ và nghệ nhân vô danh -
dẫu ngay cả những sinh linh ấy
cũng không thể thỏa mãn
vì thiếu các ứng cử viên khác.

Phải suy nghĩ lại một lần nữa
về tất cả mọi thứ.

Chúng ta được đề nghị
một chuyến du hành
mà ta sẽ trở về
chóng vánh và chắc chắn.

Chuyến đi ra ngoài sự vĩnh cửu
dẫu có nói gì thì cũng vẫn chán ngắt,
sự vĩnh cửu không biết trôi qua,
chuyến đi có thể không bao giờ lặp lại.

Chúng ta sẽ bị nỗi nghi ngờ vây bủa
liệu khi biết trước tất cả mọi thứ
ta có biết thực sự tất cả mọi thứ.

Liệu một lựa chọn sớm như vậy
có là lựa chọn
hay tốt hơn nên cho nó vào lãng quên
còn nếu chọn
thì chọn nơi ấy.

Chúng ta sẽ nhìn Trái đất.
Đã có những kẻ mạo hiểm sống ở đó.
Một cái cây mảnh khảnh
bám vào đá
nhẹ dạ tin
không bị gió giật đi.

Một con vật nhỏ
đào hang
với nỗ lực và niềm hy vọng
theo chúng ta là kỳ cục.
Chúng ta sẽ thấy mình quá thận trọng,
bé mọn và nực cười.

Chẳng bao lâu hàng ngũ chúng ta bắt đầu giảm bớt.
Những người thiếu kiên nhẫn nhất biến mất.
Họ sẽ đi tiên phong nhóm ngọn lửa đầu tiên
- Phải, điều đó sáng rõ.
Chính bởi ngọn lửa họ thắp lên
bên bờ dốc của dòng sông có thật.

Vài người
thậm chí sẽ quay trở lại.
Nhưng không về phía chúng ta.

Và dường như họ vừa giành được thứ gì đó? trên tay?

Những lời vĩnh biệt của nàng




Viên Linh



Tôi ngỏ lời chào tất cả anh em
Rồi trở về đêm đi rất muộn màng
Một người con gái đứng trông thành phố
Sợi tóc dài rơi xuống cánh tay

Tôi cúi lượm ngậm ngang môi rồi khóc
Làm con chim tha cọng rác khô
Rũ cánh tay về hiên ngói xám
Đêm muộn màng đêm hãy xót thương

Tôi đi trên những bước chân buồn
Qua tuổi đời rồi qua một bến kia
Bóng cây xếp hàng coi cột điện
Trong ḷượng khô từng miếng sắt non

Mẫu than tro kẹt trong kẽ tay gầy nọ
Là mặt trời cô đơn chết giữa hàng cây
Đốm thuốc lập ḷòe trên đôi môi buồn nọ
Là lời ca em tôi vẫn kiếm t́ìm

Mây xuống thấp cây c̣ong những tăm hương
Trời rã thành bụi tàn rơi lặng lẽ
Rồi lụi dần trong đó cùng em.

Những nguyên lý cơ bản của Cảm xạ Địa sinh học



“Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là chối bỏ những gì không nằm trong khuôn khổ của các dự đoán khoa học trong thời đại hiện nay”.
Dr. A. CARREL

Các nhà khoa học ở Âu châu và Hoa Kỳ đã phát hiện được các “ngôi nhà ung thư”, “nhà ly dị” và điều này liên hệ mật thiết với môi trường: cấu tạo đất, mạng lưới năng lượng đất, dây dẫn điện, vật liệu xây dựng, kiểu dáng, màu sắc.

Qua quan sát, các nhà Sinh học và Vật lý học xác nhận các nguyên tắc của lý thuyết Đông phương cổ đề ra: đất giống như một sinh vật sống.

- Nó có xương: các hốc đá;

- Phổi: rừng;

- Đường kinh châm cứu: mạng lưới từ trường trên vỏ quả đất theo quan niệm của bác sĩ Hartmann, mạng lưới mắt cáo theo các bác sĩ Curry và Sacré.

Tất cả đều là sự sống. Mọi thứ đều là năng lượng, là dao động. Một số ngành nghề đã xác nhận điều trên : bác sĩ Vi lượng đồng căn, bác sĩ Châm cứu, nhà Sinh học lượng tử, nhà Vật lý – Sinh học. Ngay đến các nhà Khoa học duy lý nhất cũng phải thừa nhận vật thể là một dạng của năng lượng. Người ta buộc phải thừa nhận rằng mọi vật đều có tác động hổ tương trong một tổng thể hòa nhập lẫn nhau.

Nhà Cảm xạ Địa Sinh học cũng tiến hành cách tiếp cận để tìm giải pháp tổng thể cho vấn đề chứ không chỉ giới hạn ở một vài khía cạnh nhỏ bé của nó. Thế giới không phải chỉ giới hạn trong nhận thức từ các giác quan của chúng ta. Có một dòng chảy lưu thông bên trong vật thể để chuyển tải thông tin: đó là năng lượng. Phương trình đánh dấu thế kỷ XX của Einstein E=mc2. Thật là giản dị! Nhưng phải mất nhiều thời gian để quan niệm này được chấp nhận.

Cùng với việc coi năng lượng là bản chất của vật chất và tinh thần, có một tư tưởng quan trọng nữa làm ảnh hưởng đến nhận thức của nhân loại là coi vũ trụ như một tổng thể thống nhất. Sau phát minh về ảnh toàn đồ (hologram) của Gabor (giải Nobel 1972), các công trình của David Bohm về vũ trụ toàn đồ đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Các ý tưởng này cũng trùng với lý thuyết Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của của người Phương Đông, cũng như các lý thuyết về vũ trụ – vật chất của Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại.

Phải căn cứ vào sự nghiên cứu và quan sát để nhận ra rằng mỗi yếu tố trong đời sống đều chứa đựng cái toàn thể và mong muốn được hoà hợp với cái khác. Hiện tại có nhiều học thuyết mà qua trình bày của những người đã xây dựng ra chúng, kết hợp ý tưởng giữa người này và người khác, dẫn đến sự gặp nhau, bổ túc cho nhau. Rất có thể trong tương lai họ làm cho tất cả đều hợp nhất lại.

Nhiều thử nghiệm được tiến hành với một loạt các dụng cụ đã cho những kết quả có thể tạo ra sự thừa nhận các lý thuyết mới về khoa học trong cuốn sách này. Mục tiêu của cuốn sách này là nhằm phổ biến và thực hành các hiểu biết về “Nơi ở an toàn”.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH VẬT LÝ

Trước đây vũ trụ được giới hạn ở hành tinh của chúng ta, nó phẳng như cái bánh và mặt trời quay xung quanh. Ngày nay với các khám phá của Copernic, Galilée, Newton, ta ý thức được sự vô tận của vũ trụ với hằng tỉ ngôi sao trong đó.

Sự phát sinh ra vật chất vẫn là điều bí ẩn. Đa số các truyền thuyết từ thời nguyên thủy đều xác quyết rằng thế giới được hình thành dưới dạng một quả trứng. Từ một thế kỷ nay, các giả thuyết vẫn nối tiếp nhau ra đời, Fred Hoyle, nhà thiên văn nổi tiếng người Anh cho là vật chất có thể phát sinh từ hư vô. Điều ta ghi nhận được là triết học, tôn giáo, y học và vật lý học có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Khái niệm nguyên tử chỉ xuất hiện vào thế kỷ 5 trước Công Nguyên nhờ vào các khảo cứu của Démocrite.

Các nhà Nguyên tử học Hy Lạp đã tách vật chất ra khỏi ý thức: nguyên tử theo họ là một phân tử bất động không thể phân chia ra được.

Đối với Descartes thì vũ trụ là một cỗ máy khổng lồ nhưng vật chất luôn là một tập hợp nguyên tử thiếu vắng sự sống. Newton khám phá ra sức hút của trái đất nhưng không-thời gian là bất biến. Einstein vào năm 1905 đưa ra lý thuyết tương đối mang tính cách mạng và sau đó N.Bohr, M. Planck và D. Heisenberg hoàn thiện lý thuyết lượng tử, tạo ra bước ngoặt về cách giải thích thế giới vật chất.

Ngày nay ta biết rằng vũ trụ là một hệ thống gồm các yếu tố sống động tùy thuộc vào nhau, không thể tách rời ra, luôn luôn chuyển động, vừa là yếu tố vật chất vừa là ý thức. Từ khái niệm năng lượng, nhiều nhà nghiên cứu đưa thêm khái niệm tinh thần, tư tưởng cũng có liên quan đến thế giới vật chất. Tính thống nhất của vũ trụ theo vật lý học hiện đại cũng gần với quan điểm của Phật giáo về cái Bản thể, cái Một, cái Duy nhất, phù hợp với quan điểm Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của phương Đông. Sự khám phá ra tính thống nhất, tính tổng thể dạng toàn đồ (hologram) của vũ trụ có thể coi là 1 bước ngoặt lớn về nhận thức thế giới quanh ta. Một ví dụ dễ hiểu là khi một người bị bệnh ở gan, sẽ thấy thể hiện bệnh chính ở gan (kiểm tra sinh hóa gan theo Tây y) nhưng cũng thể hiện ở mắt, ở tai, ở mặt, ở móng tay, ở bàn chân, ở giọng nói, hơi thở, nhịp mạch (theo Đông y), vì con người là 1 tiểu vũ trụ có tính tổng thể, tính toàn đồ của Đại vũ trụ.

Chúng ta biết vũ trụ là một hệ thống bao gồm các vật thể, phụ thuộc vào nhau, di chuyển liên tục như một đại dương, năng lượng luôn biến động.

Theo Basarah Nicolescu, các photon là những phần tử vận chuyển thông tin giữa thế giới nội tâm và ngoại giới. Các quá trình năng lượng được thực hiện qua việc trao đổi électron-photon và phần lớn xảy ra với tốc độ ánh sáng. Bản thân các quá trình được các phản ứng sinh hóa-thần kinh trong bộ não con người giải thích như quá trình trao đổi photon, từ đó dẫn đến các nhận thức, vấn đề trí nhớ, cảm giác… đều liên quan đến photon, đến năng lượng.

Hiện tại, các vấn đề về năng lượng – vật chất – ý thức còn đang được nghiên cứu. Thật ra dường như người ta mới chỉ đạt được những bước đầu và chỉ mới sử dụng được một phần nhỏ cái khả năng khổng lồ của nó mà thôi.

VÀI GỢI NHỚ NHỎ VỀ KHOA VẬT LÝ

“Điều tôi biết không nghĩa lý gì cả so với điều mà người ta biết, điều mà người ta biết không có nghĩa gì so với điều người ta sẽ biết, điều mà người ta sẽ biết không có nghĩa gì so với điều hiện có”.
Dr. PEYRE

Từ tính trên mặt đất

Trên bề mặt của trái đất có một từ trường mà chiều của nó được xác định bằng la bàn.

Từ trường của trái đất là cái hiện hữu và luôn vận động nghĩa là luôn cùng một hướng và cùng một giá trị ở một nơi định sẵn. Người ta xác định địa từ trường qua các toạ độ của nó.

Vả lại, các đường giới hạn bắt buộc của từ trường trái đất không nằm trên mặt đất. Chúng chui sâu trong lòng đất theo hướng của vùng có mật độ từ tính cao ở cực Bắc. Góc hợp thành giữa đường ngang và trục của kim lúc dao động tự do là vào khoảng 65o trong vùng: đó là độ nghiêng. Ta dễ dàng tìm thấy hướng Bắc qua việc xác định hướng của bóng một sợi dây đúng lúc 12 giờ trưa. La bàn chỉ hướng Bắc từ tính tạo với hướng Bắc địa lý một góc nhỏ gọi là độ lệch – thay đổi từ từ theo năm tháng và khác biệt theo từng vùng trên bán cầu.

Các tọa độ này sẽ thay đổi theo địa điểm và nếu ta thể hiện trên bản đồ từ tính các đường cong nối các điểm khác nhau mà một trong các toạ độ này có cùng một trị số với nhau. Chúng biểu hiện các bất thường của địa phương liên hệ với các đặc tính sinh học của lòng đất. Nơi đó được sử dụng cho các đo lường từ tính để thăm dò địa vật lý. Nhà Địa Sinh học dùng một máy địa từ trường để phát hiện các dị thường của từ trường bên trong một ngôi nhà, cơ quan.

Thông thường, cường độ từ trường của các điểm bình thường trên mặt đất cỡ 0,5 miligram. Gaus là đơn vị đo cường độ từ trường, 1 gaus = 1.000 miligram.

Các sóng điện từ

Trong thời gian sóng điện từ lan toả, một số sóng chạy dài trên đất, số khác tự biến mất, số khác thì phản chiếu vào lòng đất ngang tầm của tầng điện ly (tầng ion hoá học).

Một số sóng điện từ khi lướt qua trên mặt đất thì một phần do đất hấp thụ nơi mà có các dòng điện tự tạo ra ở một độ sâu nào đó, dòng điện này càng xuống sâu càng giảm. Các sóng dài và các sóng có tần số yếu dễ dàng xuyên thấu do vậy các dòng điện trên bề mặt đặc biệt yếu vì năng lượng được phân bố ở độ sâu.

Đối với sóng ngắn, trái lại, các dòng điện trên mặt sẽ cao hơn và ảnh hưởng của nó gia tăng theo tần số.

Dòng điện cũng gia tăng với tính dẫn điện từ của đất. Đất có tính dẫn điện cao là đất ẩm ướt ở trên mặt, do đó dòng điện rung động với một cường độ mạnh hơn.

Trong một số trường hợp, chúng có thể có tác động nguy hại cho đời sống.

Hàng ngày vào bất cứ lúc nào, cơ thể ta bị các bức xạ chiếu vào, ngay cả lúc bình thường ta không nhận ra. Phần lớn các bức xạ đến với chúng ta từ khoảng ngoài không gian, mặt trời, các vì sao.

Một số bức xạ khác được hình thành một cách tự nhiên trên bề mặt của trái đất. Chúng đến phần lớn từ sự phóng xạ của các khối đá trong lòng đất ví dụ như uranium.

Các bức xạ là một phương tiện vận chuyển cho năng lượng tại một điểm: từ chỗ phát đến chỗ thu. Thường chúng di chuyển theo đường thẳng dưới dạng bức xạ.

Các bức xạ vô hình là những sóng vô tuyến, bức xạ hồng ngoại, cực tím, tia X, tia gamma, tất cả những sóng này truyền qua không gian với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng tức 300.000km/giây.

Nguyên tắc chụp tia X hay scanner ứng dụng trong y học và nha khoa được dựa trên sự phát các sóngđiện từ này. Tùy theo sự thâm nhập hay hấp thụ bởi cơ thể con người, các bộ phận có thể hiện trên phim hay trên màn hình.

Ảnh hưởng nhiệt học của chúng được sử dụng trong nguyên tắc lò vi ba. Rada thì sử dụng ảnh hưởng này trong một ứng dụng khác. Một số các bức xạ điện từ này có đặc tính làm biến đổi cấu trúc điện từ của nguyên tử, đó là những bức xạ ion hoá, đặc biệt được dùng trong bảo quản thực phẩm.

Tính phóng xạ

Có 3 loại bức xạ phát ra từ các chất phóng xạ.

- Các tia alpha là những nhân nguyên tử héli. Chúng tích điện dương vì được cấu tạo bằng 2 proton (dương) và 2 neutron (không tích điện).

- Các tia bêta: Chúng không có trong nhân nhưng chúng được phát ra khi một neutron biến thành 1 proton cộng với 1 électron trong một nhân.

- Các tia gamma là những sóng điện từ có bước sóng rất ngắn. Đó là những bức xạ thấm sâu nhất.

Đối với các chất phóng xạ nguy hiểm, các phần tử vật chất alpha và bêta không thể thâm nhập sâu trong tế bào sống mà chỉ tạo thành những vết bỏng trên da. Nhưng tia gamma thì nguy hiểm hơn vì chứa năng lượng cao và khả năng thâm nhập lớn của chúng có thể gây tổn hạicho các phân tử của chất di truyền (ADN) được tích luỹ trong các bộ phận sinh sản và gây ra các đột biến làm nguy hại cho sự sinh sản sau này. Vì lý do này mà các chất phát tia gamma được lưu giữ sau các màn dày của bê tông và chì.

Chớ nên đánh giá quá cao cũng như quá thấp các nguy hại của những phóng xạ này mà chỉ cần tự bảo vệ. Vì vậy người ta ấn định một số định mức an toàn để mọi người tuân thủ. (còn tiếp…..)

Chuyên gia Cảm xạ Dư Quang Châu

Sự hoàn hảo



Con người chúng ta ai cũng bị ám ảnh bởi ý nghĩ “Ta phải hoàn hảo”. Có lẽ chính những suy nghĩ này đã khiến cho chúng ta không ít lần phải rên lên “Đời là bể khổ”.

Ta luôn đấu tranh với bản thân để ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng là “nhân” thì “vô thập toàn”. Khi phạm sai lầm ta bị dằn vặt, lo sợ không còn được tôn trọng, tin tưởng. Sai lầm chỉ hữu ích khi nó khuyến khích ta tiến lên, ngược lại nó sẽ làm tê liệt con người với mặc cảm mình thật vô dụng, bất tài.

Chuyện kể rằng ngày xửa ngày xưa, có một vòng tròn. Vòng tròn ta rất tự hào về thân hình của mình, tròn một cách hoàn hảo đến từng milimét. Thế nhưng, một sáng nọ thức dậy, nó bỗng thấy mình mất một góc lớn hình tam giác.

Buồn bực, vòng tròn tìm mảnh vỡ hình tam giác bị mất. Vì không còn hoàn hảo nên nó lăn rất chậm chạp. Nó bắt đầu ngợi khen những bông hoa dại đang tỏa sắc bên đường. Nó tâm tình cùng sâu bọ. Nó tận hưởng ánh sáng mặt trời ấm áp. Vòng tròn tìm được nhiều mảnh vỡ nhưng chẳng mảnh nào vừa cả. Nó lại tiếp tục tìm kiếm. Một ngày kia nó tìm được một mảnh hoàn toàn vừa khít. Nó sướng đến run người. Giờ đây nó lại hoàn hảo như xưa.

Nó ghép mảnh vỡ kia vào rồi lăn đi. Nhưng, ơ kìa! Sao nó lăn nhanh đến thế!
Nhanh đến nỗi các bông hoa nhòe đi trong mắt nó, tiếng chuyện trò thì bạt đi trong gió. Vòng tròn nhận ra thế giới xung quanh nó trở nên khác hẳn khi nó lăn quá nhanh. Nó bèn dừng lại, đặt mảnh vỡ bên đường rồi chầm chậm lăn đi!

Bài học cái vòng tròn tặng tất cả chúng ta là: Thật kỳ lạ khi con người ta mất đi một cái gì đó lại thấy mình hoàn hảo. Một người có tất cả mọi thứ trên đời lại là kẻ nghèo túng. Bạn sẽ không biết thế nào là ước mơ, là hy vọng, là nuôi dưỡng vì một ngày mai tốt đẹp hơn. Bạn sẽ không bao giờ biết cảm giác sung sướng khi có ai đó yêu thương bạn và cho bạn cái bạn tha thiết mong muốn!

Cuộc sống không phải là cái bẫy để chờ chúng ta sa vào rồi kết tội. Cuộc sống có chút gì đó như mùa bóng, khi đội mạnh nhất cũng có thể bị thua và đội yếu nhất cũng có những giây phút huy hoàng. Mục đích của chúng ta là thắng nhiều hơn bại.

Hãy biết chấp nhận sự bất toàn là một phần tất yếu của con người. Nếu ta đủ dũng cảm để yêu thương, đủ sức mạnh để để tha thứ, đủ hào phóng để chia sẻ hạnh phúc cho kẻ khác, đủ thông minh để hiểu rằng tình yêu thương luôn bao bọc chúng ta. Khi ấy ta đã đạt đến sự toàn mỹ mà nhiều người chỉ dám mơ ước.

Không yêu






Nguyễn Thị Thanh Bình





Vinh thường chờ Ngân ở cổng trường mỗi chiều, dúi cho cô khi thì phong kẹo, khi thì ổ bánh mì. Lần đầu, lần thứ hai Ngân nhận. Đến lần thứ ba, cô nghiêm mặt:

- Em không nhận đâu!

Vinh nói gì, cô cũng không là không. Vinh thui thủi ra về, không dám quay đầu nhìn cô. Anh hiểu, cô không chấp nhận mình.

Anh không xua được nỗi nhớ cô, làm gì anh cũng nghĩ có cô bên cạnh, cười với anh bằng má lúm đồng tiền. Chỉ thế thôi, hạnh phúc chợt ngập tràn.

Anh thấy mình có gì đó không ổn, đứng lên ngồi xuống là chóng mặt, cứ muốn lao đầu vào tường. Bạn bè nói, là triệu chứng thiếu máu, còn đùa:

- Hay là hàng tháng mày cũng bị mất máu nên thiếu?

Vinh gượng cười, mỗi ngày, anh thấy mình yếu đi, có lúc thấy trước mắt mình toàn một màu trắng đục, đôi khi còn nhớ nhớ quên quên. Anh sút ký nhanh trông thấy, bạn bè khuyên anh nên đi bệnh viện kiểm tra, anh cười gạt đi nói mình không sao. Sau dự án này, anh sẽ phục hồi nhanh chóng.

Chỉ có anh biết, mình thực sự không ổn.

Anh quyết định đi khám sau rất nhiều những đắn đo, tính toán. Không phải vì anh có tiền, cũng không phải vì anh ham sống. Những người như anh, rất sợ đi bệnh viện hay phải xét nghiệm này kia, vì sợ sẽ “lòi” ra một đống bệnh, thôi thì cứ ráng được ngày nào hay ngày đó.

Anh còn cha mẹ già, còn hai em, một đứa đã nghỉ học, phụ mẹ buôn bán ngoài chợ. Nhờ nó mà anh được học tiếp, anh thấy mình cần phải bù đắp cho nó, nhất là nó lại là con gái. Hồi Tết về thăm nhà, anh nghe tin người yêu nó đòi cưới nhưng nó chưa đồng ý, viện cớ còn nhỏ. Lúc đi ngang cửa bếp, anh thấy mẹ thở dài.

Đứa em út, là hy vọng của cả nhà, còn một năm nữa nó sẽ ra trường. Anh mong nó nhanh tìm được việc làm, đỡ cha mẹ. Sau đó, cô em kế sẽ đi học lấy một cái nghề gì đó, tự nuôi thân, khỏi phụ thuộc ai sau này. Từ đó giờ, anh chưa bao giờ nghĩ về từng người trong gia đình mình một cách kỹ càng đầy đau đớn thế.

Mỗi nơi nói anh bị một loại bệnh, rồi giới thiệu anh đến một bệnh viện chuyên khoa khác. Anh nghe thấy toàn những tên bệnh lạ, hiếm gặp. Anh bắt đầu hoang mang, sao mình lại mắc bệnh của nhà giàu, bắt đầu thấy lo lắng và sợ hãi. Anh còn trẻ, rất trẻ, anh chưa làm được gì cho me, chưa giúp gì cho em, anh không thể chết lúc này được.



Lạ lùng là lúc này anh lại thường xuyên nghĩ về Ngân. Thật may, cô chưa là gì của anh, nếu không, cô sẽ đau đớn và khổ sở lắm. Cô là cô gái nhân hậu, không xinh nhưng hòa đồng, hay cười, cô đi đến đâu, nơi đó như rực sáng và sôi động hẳn. Anh méo mó cười, đau đớn nhận ra mình đang sĩ diện, cao thượng hão. Một kiểu sĩ của kẻ không ăn được nho nên nói nho còn xanh. Thật thà mà nói, có Ngân, anh sẽ yên tâm hơn trong mỗi quyết định của mình, dù có phải về phía bên kia của bầu trời, anh vẫn thấy mình hạnh phúc. Anh cần có cô biết bao. Một người như cô, anh muốn chiếm giữ làm của riêng, liệu có nên?

Có một tổ chức y tế đã tìm thấy anh, họ đã cho tên anh vào danh sách phẫu thuật. Anh không nói chuyện này cho ai biết, âm thầm chuẩn bị tất cả. Anh về thăm nhà một chuyến, mua cho bố mẹ, cho em mỗi người một món quà. Ăn với gia đình những bữa cơm ấm nóng. Lúc rời tay mẹ, anh đã khóc.

Nhưng người tính không bằng trời tính, lúc vào bệnh viện, anh gặp Yến.

Trước ánh mắt của Yến, anh đành phải nói hết, chuyện về căn bệnh, về tỷ lệ thành công của ca mổ...

Anh cũng nên tìm ai đó để nhỡ có chuyện gì, cũng...

***



- Cậu có thể tới không, một lần thôi. Cậu ấy sẽ...

Ngân cúi mặt, một lát mới ngẩng đầu:

- Sao tôi lại phải đến, tôi không là gì của cậu ấy hết!

- Nhưng cậu ấy yêu cậu!

- Đó là việc của cậu ấy, tôi thì không

- Ca mổ có thể không thành công, cậu ấy có thể không tỉnh lại, cậu ấy ...

- Thì sao?- Ngân gắt lên, gương mặt đầm đìa nước:- Cậu ấy sẽ thanh thản ra đi, còn tôi thì sao?

- Cậu...

- Tôi sẽ sống sao những ngày sắp tới khi thành người dối trá. Xin cậu, cậu ấy chưa bao giờ có tôi, cứ để cậu ấy nghĩ thế. Tôi còn cuộc sống, tôi mới hai mươi ba tuổi, cuộc đời tôi còn dài lắm, tôi sẽ đi hết quãng đường dài đó như thế nào?

Yến sững người, cô không biết phải nói sao. Vinh đâu có yêu cầu cô đến nói chuyện với Ngân, chỉ là cô không chịu nổi khi nhìn ánh mắt sáng lên khi Vinh nói về Ngân. Lúc ấy, cô mới nhận ra tình yêu có thể khiến người ta hồi sinh.

Ngân tàn nhẫn, nhưng không phải là không có lý. Đến gặp Vinh lần cuối, nghe Vinh nói và nói dối, có thể làm Vinh vui lòng, nhưng cô sẽ mang vết sẹo ấy, cả đời.

Yến không dám quay lại bệnh viện một mình, cô gọi thêm mấy người bạn nữa cùng đến. Họ đứng ngoài hành lang bệnh viện, người im lìm nhắm mắt, người sốt ruột sải bước qua lại, người chắp tay khẩn cầu. Yến lại nghĩ đến những giọt nước mắt của Ngân. Cô không biết nên đồng tình, hay thông cảm. Bảo cô ấy quá tỉnh táo, cũng không phải, nếu thế thì làm gì có những giọt nước mắt kia. Những giọt nước mắt, luôn làm mềm lòng người nhìn thấy.

Vinh thật đáng thương, Yến định nói thế, lại nghĩ, yêu và được yêu, là hạnh phúc. Nhưng yêu với trọn trái tim, cũng là hạnh phúc.

Đèn trên bảng chợt tắt, cửa nhẹ mở, ông bác sỹ đi ra với nụ cười, ngoài này có những tiếng thở phào hoan hỉ.

Đằng xa, có dáng người vừa vội vàng rời đi, cắm cúi đến nỗi va vào một người. Anh này định xin lỗi, chợt ngẩn người trước gương mặt đầm đìa nước trong khi nụ cười vẫn đọng trên môi. Anh thoáng nghĩ tới hình ảnh bông hoa trong mưa...

Một cách nhìn 18 năm văn học Việt ngoài nước



Tác giả: Lê Hoài Nguyên


————–



I- Từ Văn học lưu vong đến Văn chương hải ngoại

Tháng 10 năm 1981, trong bài giới thiệu cuộc hội thảo của mười tác giả, tạp chí “Nhân Chứng” còn rụt rè nhận xét: “Tạm gọi là một nền văn học lưu vong cũng đã hình thành”.
Thái Tú Hạp thì băn khoăn:” Sáu năm, khoảng thời gian chưa đủ để vơi dịu những nỗi đau đớn thoát lìa quê hương, nhận phận kiếp lưu đày với muôn vàn cay đắng tủi nhục. Nhìn lại sáu năm văn học Việt Nam nơi xứ người quả là một vấn đề quá lớn, có hơi vội vã chăng?”.

Uông Hồ Vệ thì đầy thất vọng trong một cái tít : “ Bộ môn văn: con dao cùn trong tay những người cầm bút lưu đày”.

Bảy năm sau, 1988, Bùi Vĩnh Phúc trên tạp chí “Văn học” số 30 đã có thể viết rằng : “ Dòng văn chương ngoài nước của người Việt sau mười ba năm xa xứ có khá nhiều sinh động. Nó cho ta hình ảnh của một dòng sông lớn tách ra làm nhiều nhánh.” Tuy nhiên ông vẫn phải đặt một câu hỏi khi vào bài:
“ Có hay không có một dòng văn học của những người Việt tứ xứ sau 30-4-1975?”.

Chỉ hai năm sau nữa, Nguyễn Hưng Quốc trên Tạp chí Văn học số 47 và 48, Nguyễn Hữu Nghĩa và Nguyễn Mộng Giác trên Tạp chí Văn Xã số 3 đã không cần phải đắn đo để mỗi người làm một bản sơ tính 15 năm văn học lưu vong theo cách riêng của mình.

Ở thời điểm này bộ mặt văn học hải ngoại đã khác xa với tinh thần khởi điểm ban đầu của nó.

Bùi Vĩnh Phúc cảm thấy cần phải dùng “dòng văn chương ngoài nước” thay cho “ dòng văn chương lưu vong” hoặc “ văn chương hải ngoại”. Ông viết :
“ Khi nói ngoài nước, ta vẫn cảm thấy gần gũi đối với đất nước với con người Việt hơn là khi nói đến quốc ngoại”. Sự cảm thông, sự rung động này có lẽ là do ảnh hưởng khác biệt đối với thâm thân của ta hai tầng ý nghĩa thuần Việt và Hán Việt”.

II- Các thời kỳ phát triển

Sự kiện 30-4-1975 đối với văn học Việt Nam là một cái mốc đặc biệt quan trọng. Nó tạo ra một nền văn học thống nhất trong cả nước nhưng đồng thời chấm dứt nền văn học miền Nam Cộng hòa và khởi đầu một nền văn học lưu vong ngoài nước.

Nền văn học lưu vong ấy ban đầu kế thừa tư tưởng chính trị và kỹ thuật văn chương của văn học Sài Gòn trước 1975. Nó phản ánh cuộc sống của một bộ phận người Việt trong hoàn cảnh éo le đầy thương cảm ở bên ngoài bị chia cắt với đất nước. Nhưng thời gian và cuộc sống ở các nước phát triển đã cho nó những màu sắc mới. Tính lưu vong khởi thủy sẽ mất dần đi nhường chỗ cho tính chất hợp lưu với văn học của các nước cư trú và tính hồi cố trở về hội nhập với quê hương đất nước.

Có thể phân định tiến trình ấy qua các thời kỳ như sau:

1- Thời kỳ hình thành, khai phá : 1975-1980
Các cây bút di tản hoặc vượt biên chưa thoát khỏi trạng thái hoang mang tuyệt vọng. Mưu sinh là một gánh nặng, họ còn chờ đợi sự cứu trợ về nhà ở, công ăn việc làm… Một số người viết hoàn toàn im lặng.Một vài người thi thoảng mới cầm bút. Một số khởi định viết rồi cũng im lặng nốt. Phần văn học trong mấy tờ báo di tản lúc đó vắng bóng các tên tuổi cũ, hoặc có thì cũng ký bằng tên khác. Xuân Vũ xuất hiện trên Trắng Đen với bút danh Lê Mỹ Hương nhưng không mấy hấp dẫn. Để có món ăn tinh thần cho độc giả các báo phải đăng lại tiểu thuyết của Quỳnh Giao hoặc Kim Dung.

Những sáng tác tiêu biểu là tập thơ “Đất khách” của Thanh Nam, “ Thơ Cao Tần” của Lê Tất Điều, tập bút ký “ Thư gửi bạn” của Võ Phiến.

2- Thời kỳ phát triển : 1981-1985

Từ đầu năm 1980 làn sóng vượt biên đã làm gia tăng đáng kể số lượng người Việt tị nạn. Nhiều cây bút cũ của Sài Gòn sau khi hết hạn cải tạo cũng xuất cảnh hoặc vượt biên bổ xung cho đội ngũ văn chương ngoài nước..

Cuộc sống và trạng thái tâm lý của cộng đồng người Việt hải ngoại tạm thời ổn định. Báo chí xuất bản tăng lên đột ngột do có máy xếp chữ ảnh điện toán ứng dụng phương pháp quang học lade. Phong trào chống cộng với hàng trăm tổ chức phản động lưu vong, ồn ào nhất là trên lĩnh vực âm nhạc đã kích thích không khí sáng tác của giới văn chương.

“Hội Văn Bút Việt Nam hải ngoại” được “ Văn Bút quốc tế” công nhận, bầu lại lãnh đạo, hoạt động cũng mạnh về chính trị.

Lề lối sinh hoạt của một nền văn học lưu vong cũng hình thành với việc ra đời những tạp chí chuyên đề văn chương như “ Văn Học” của Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, “Văn” của Mai Thảo, “ Làng Văn” của Nguyên Hương và Nguyễn Hữu Nghĩa…Một số cây bút mới xuất hiện cũng nhanh chóng trưởng thành gây được ấn tượng, trong đó có nhiều cây bút nữ như Lê Thị Huệ, Phan Thị Trọng Tuyến, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Trần Diệu Hằng, Vũ Quỳnh Hương, Nguyễn Thị Hoàng Bắc…

Theo Nguyễn Hữu Nghĩa những tác giả được chú ý trong giai đoạn này là Võ Phiến, Tưởng Năng Tiến, Nguyễn Ngọc Ngạn, Trần Diệu Hằng, Lê Thị Huệ, Hà Thúc Sinh, Hồ Trường An, Duyên Anh, Nguyễn Mộng Giác, Võ Hoàng…

3- Thời kỳ ổn định : 1986-1990

Do tác động của tình hình quốc tế, tình hình đổi mới trong nước, phong trào chống cộng ồn ào hung hãn lắng xuống.Qua thử thách của thời gian và thị trường, rất nhiều báo tạp chí bị rơi rụng. Máy vi tính đã phổ biến giúp cho các nhà văn viết lách thuận lợi và nhanh hơn.

Thực tế đất nước và văn học đổi mới trong nước tác động vào cộng đồng hải ngoại. Người Việt và giới cầm bút hải ngoại có nhiều hy vọng, dự cảm về tương lai hòa hợp dân tộc, tái thiết đất nước.

Trong khi Võ Văn Ái hô hào chiến dịch “ Chuyển lửa về quê hương” thì nhiều tác phẩm văn học đổi mới trong nước được phổ biến trong cộng đồng hải ngoại. Một số văn nghệ sỹ có tên tuổi ở Sài Gòn trước đây muốn xin về thăm đất nước. Cuốn hợp tuyển “ Trăm hoa vẫn nở trên quê hương” tập hợp 27 tác giả ngoài nước và 79 tác giả trong nước được xuất bản tại Hoa Kỳ trong bối cảnh cổ vũ cho sự đổi mới .

Lo sợ ảnh hưởng của văn học trong nước, số văn nghệ sỹ diều hâu, cực đoan kêu gọi tấy chay, ngăn chặn “ sự xâm nhập của văn nghệ Hà Nội cộng sản” vào cộng đồng hải ngoại. Thù hận và cố chấp họ gọi văn học đổi mới trong nước chỉ là “ đồ giả”, là “ trò lừa bịp của Hà Nội nhằm chia rẽ đồng bào tị nạn”. Họ tẩy chay, cô lập những người về thăm đất nước và nhà xuất bản, báo chí in lại tác phẩm trong nước.

Khuynh hướng văn học chống cộng hung hãn mất dần hấp dẫn, cạn kiệt nguồn sống. Khuynh hướng văn học lành mạnh gây được ảnh hưởng với cộng đồng hải ngoại và những vấn đề cấp thiết trong cuộc sống giúp họ tìm lời giải cho tương lai. Bên cạnh Nhật Tiến, Du Tử Lê, Nguyễn Mộng Giác, Duyên Anh… có thêm nhiều tên tuổi mới đầy bút lực như Luân Hoán, Thường Quán, Nguyễn Văn Ba, Trân Sa, Khánh Trường, Trần Vũ, Nguyễn Thị Thanh Bình, Trịnh Y Thư…

4- Thời kỳ phân hóa, thanh lọc : 1990 đến nay.
Từ 1990, khuynh hướng trở về cội nguồn trong văn học Việt ngoài nước đã chứng tỏ ưu thế trong một loạt sự kiện gây chú ý đối với cộng đồng hải ngoại.

Trong Đại hội Văn bút hải ngoại nhiệm kỳ 1990-1993 liên danh Nguyễn Ngọc Ngạn thất bại, nhường vai trò lãnh đạo cho liên danh của bác sỹ Trang Châu- Trương Anh Thụy- Võ Kỳ Điền.

Tháng 10-1991 Tập san văn học nghệ thuật, biên khảo “ Hợp Lưu” ra đời tuyên bố “ đoạn tuyệt với kiểu quan hệ cũ giữa những người cầm bút hải ngoại đầy những hằn thù, nghi kỵ, bài bác chia rẽ” và chủ trương một lối thoát dũng cảm là “ trực diện với sự thật, hướng tầm nhìn về tương lai, đặt tiền đồ của văn hóa dân tộc lên trên hận thù giai đoạn bằng con đường hợp lưu”.

Tiếp theo, tháng 6-1992, ở Toronto Canada lại ra đời tạp chí “ Trăm Con” do nữ thi sỹ Trân Sa chủ biên. Tập hợp ‘ Trăm Con’ chủ trương không bị ràng buộc bởi một quá khứ nào mà chỉ hướng về tương lai, không bị ràng buộc với bất cứ một lãnh tụ nào,một chế độ nào, một ngoại bang nào mà chỉ có hòa hợp dân tộc là một.

Người Việt hải ngoại chào đón ‘Hợp Lưu”, “ Trăm Con” và đánh giá sự ra đời của nó là xu thế tất yếu đi đến hòa hợp dân tộc. Một độc giả viết: “ Từ bao năm nay có lẽ đến bây giờ báo chí hải ngoai mới thực sự giành lại được cái chức năng cao quý của nó, phản ánh trung thực tâm tư nguyện vọng của tuyệt đại đa số đồng bào”.

Cuối tháng 6, tại Montreal, Võ Đình tổ chức cuộc triển lãm hội họa và sáng tác trong ba mươi lăm năm của ông để gặp mặt bạn bè đồng sự cầm bút tỵ nạn. Nhưng trước ngày khai mạc triển lãm, có người gửi thư đến Võ Đình, nhóm “ Hợp Lưu”, “Trăm Con” đe dọa nếu họ đến Montreal thì sẽ xảy ra hành hung. Tại Toronto, hai tờ “Làng Văn” và “Chiến sĩ tự do” đòi hỏi Hiệp hội báo chí Canađa triệu tập cuộc họp khẩn cấp tẩy chay “Trăm Con”. Kết quả năm trên bảy thành viên Hiệp hội không tán thành, đa số thành viên bỏ phiếu chấp thuận giải tán hội..

Các tòa báo người Việt khắp nơi đều nhận được bản tin tường thuật vụ Hiệp hội báo chí Canađa tan vỡ kèm theo lời báo động Việt cộng tung ra chiến dịch “Bông hồng xám” để phá hoại làng văn hải ngoại. Việc này được giới cầm bút hải ngoại gọi là “sự kiện động đất ở Montreal”. Ngày 6-7-1992, Chủ tịch Văn bút Việt Nam hải ngoại ra tuyên bố:

“ Được biết trong thời gian hai ngày 26 và 28 thangs6 năm 1992 vừa qua tại thành phố Montreal (Canađa) các nhân sự nòng cốt trong Ban tổ chức buổi sinh hoạt đánh dấu 35 năm cầm bút của họa sĩ kiêm nhà văn Võ Đình đã bị áp lực từ nhiều phía để ngăn cản tham dự của một số anh chị em chủ trương hai tờ “Hợp Lưu” ở California (Hoa Kỳ) và “Trăm Con” ở Toronto (Canađa).

Nhận thấy hành động này đi ngược với chủ trương và tinh thần Hiến chương của Văn bút quốc tế mà chúng tôi là một thành viên, Văn bút hải ngoại cực lực phản đối mọi thế lực cưỡng bức sự tự do sinh hoạt, sự tự do phát biểu tư tưởng của giới cầm bút Việt Nam tại hải ngoại.

III – Đánh giá các khuynh hướng văn chương hải ngoại
Trong những tư liệu mà chúng tôi đã có các ý kiến đánh giá có nhiều điểm khác nhau nhưng có một nhược điểm chung là lẫn lộn giữa tiêu chuẩn về chính trị với tiêu chuẩn kỹ thuật và các màu sắc khác nhau về nội dung đề tài của văn chương người Việt ngoài nước. Có thể nguyên nhân là do chỗ đứng của người nghiên cứu hoặc do người ta thường ưu tiên cường điệu giá trị của loại văn chương chống cộng như của Nguyễn Ngọc Ngạn, Thế Giang, Võ Hoàng, Võ Văn Ái mà nhìn nhận không công bằng với khuynh hướng hiện thực phản ánh cuộc sống xã hội di tản và tìm kiếm lối thoát cho tình trạng lưu vong.

Nguyễn Hưng Quốc cho rằng đặc điểm của văn học lưu vong gồm ba yếu tố:
– Về chính trị là chống cộng, chống lại văn học trong nước.
– Tự do sáng tác
– Đối kháng lý tưởng.

Bùi Vĩnh Phúc đưa ra cách phân loại làm sáu nhánh:
– Nhánh Hoài cảm nhớ nhà
– Nhánh Lên đường chiến đấu
– Nhánh Thích nghi
– Nhánh Hội nhập
– Nhánh Tiếp cận lịch sử xã hội
– Nhánh Duy cảm duy nhiên

Nguyễn Mộng Giác thì quy tất cả về các dạng thức phản kháng chính trị của văn học lưu vong Việt Nam. Ông phân loại bốn dạng thức:
a. Dạng thức hoài niệm gồm hai giai đoạn:
1975-1979: cảm thức lưu lạc.
Từ 1979 trở đi gồm hai khuynh hướng:
– Khuynh hướng văn chương phong tục của các cây bút gốc miền Nam
– Khuynh hướng hồi ký ( trừ hồi ký cải tạo)

b. Dạng thức văn chương đấu tranh ( gồm cả các hồi ký cải tạo)
c. Dạng thức hội nhập ( chủ yếu là các cây bút trẻ và các cây bút nữ)
d. Dạng thức phê phán lịch sử

Nguyễn Hữu Nghĩa tạm chia sinh hoạt văn nghệ Việt Nam lưu vong làm 5 khuynh hướng:

– Khuynh hướng dấn thân ( gồm cả chống cộng, hoài niệm quê hương và tìm kiếm giải thoát lưu vong)
– Khuynh hướng xã hội
– Khuynh hướng hoài niệm
– Khuynh hướng giao lưu( với phương Tây và cả với Hà Nội)
– Khuynh hướng bác học ( gồm cả ba ngành biên khảo, nghị luận và dịch thuật, thơ, minh họa)

Một tác giả khác, Trịnh Xuân Kim trên tạp chí “Đất mới” đưa ra 4 khuynh hướng như sau:
– Khuynh hướng chống cộng
– Khuynh hướng hoài vọng
– Khuynh hướng phi chính trị vị nghệ thuật
– Khuynh hướng đổi mới

Ở trên chúng tôi đã trình bày các cách phân loại khuynh hướng văn học hải ngoại. Tham vọng phân chia rành rẽ tuyệt đối giữa các khuynh hướng và nghiêng về cổ động chính trị cho thái độ đối lập với đất nước sẽ làm cho khó tiếp cận thực trạng nền văn học này trong từng thời điểm cũng như toàn bộ quá trình của nó.

Chúng tôi tạm thời đưa ra một cách phân chia tổng hợp trên nhiều bình diện khác nhau như sau:

A. Phân chia theo khuynh hướng tư tưởng chính trị

1. Khuynh hướng đối kháng với trong nước.

Khuynh hướng này chịu ảnh hưởng của văn học miền Nam Cộng hòa trước 1975, gồm sáng tác của một số cây bút có tên tuổi cũ và các cây bút mới nổi lên như Nguyễn Ngọc Ngạn với một loạt tiểu thuyết như “Màu cỏ úa”, “Chân dung người góa phụ”, “Trong quan tài buồn”, “Cõi đêm”; Thế Giang vốn sinh trưởng ở Hà Nội vượt biên sang Tây Đức với tập truyện ngắn “Thằng người có đuôi”…Xuân Vũ nhà văn chiêu hồi năm 1968 đã được giải thưởng của Việt Nam Cộng hòa tiểu thuyết “Đường đi không đến” có các tiểu thuyết mới “Trên lối mòn hậu chiến”, “Kẻ sống sót”. Phạm Quốc Bảo với hồi ký “Cùm đỏ”. Tạ Tỵ với “Đáy địa ngục”. Hà Thúc Sinh với “Đại học máu”…

2. Khuynh hướng thích nghi.

Các nhà văn theo khuynh hướng này chấp nhận thực tại, ưu tiên cho sự tìm kiếm giải pháp hợp lý tình trạng lưu vong của cộng đồng tại mỗi nước sở tại.

Hồ Trường An đưa ra quan niệm ‘’Hợp lưu”.
Tác phẩm cùng tên của ông là một tuyển tập gồm nhiều truyện ngắn, mỗi truyện là một cảnh đời ly hương, một bài học về phép ứng xử để tồn tại trong cảnh huống lưu vong. Một cô gái, mẹ và em chết trong chiến tranh, vật lộn với cuộc sống sau 1975, sống chết gang tấc trên thuyền vượt biên, cuối cùng đến đất Pháp, lấy chồng người Pháp rồi sinh con đẻ cái, vun đắp cho một gia đình êm ấm. Một chàng trai hăng hái lao vào hoạt động chống cộng của một tổ chức người Việt tỵ nạn cũng như đã hăng hái lao vào các cô đầm với những cuộc tình trác táng rồi bỗng nhiên một ngày thức tỉnh và cảm thấy muốn sống một cuộc đời mẫu mực, thanh thản của đời công chức.

Hồ Trường An cho rằng “Hợp lưu” như là một quan niệm sống:
“Dòng chảy đến từ một cội nguồn nào đó xa lắc, nhưng một khi đã đến cái nơi mà phải gặp một dòng nước khác thì hai dòng cùng gặp nhau để mà xuôi ra biển. Đó là thái độ chấp nhận ta với người một cách cởi mở, hân hoan, thư thái”.

3. Khuynh hướng hòa giải dân tộc

Khuynh hướng này hướng về đất nước với tâm thế hoài vọng và gắn bó với quê hương chứ không phải nuôi dưỡng căm thù và “chiến thắng trở về”.

Khuynh hướng này còn có thái độ phê phán hiện thực trong nước nhưng về mặt chính trị đó là thái độ chấp nhận, chờ đợi. Có thể thấy quan điểm này trong nhóm “Hợp Lưu”, “Trăm Con”, trong thơ Du Tử Lê “ Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”, “Trường khúc Mẹ về biển Đông”. Hoặc ở các tác phẩm của Nhật Tiến, Thụy Khuê, Đặng Tiến, Nguyễn Thị Ngọc Liên, Trần Vũ, Thường Quán, Luân Hoán, Nguyễn Hồi Thủ, Nguyễn Bá Trạc…

4. Khuynh hướng thuần túy nghệ thuật

Thực ra đây chỉ là một cách gọi, bởi vì khi tác giả chú trọng đến những đề tài mang tính nhân đạo cũng là một thái độ chính trị lành mạnh. Nhà văn khi viết về các cảnh đời trong quá khứ của quê hương không nhằm phê phán đả kích xã hội hiện tại, họ chỉ thể hiện một quan niệm về con người, về quê hương. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hướng này là Hồ Trường An, Kiệt Tấn, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Văn Ba, Nhị Lang, Trần Mộng Tú, Nguyễn Thị Ngọc Nhung…Có khi khuynh hướng này bàng bạc cả ở những tùy bút của Võ Phiến, Mai Thảo, Duyên Anh…

B. Phân chia theo các phong cách sáng tác nghệ thuật
Có thể thấy trong văn học hải ngoại có 4 khuynh hướng lớn như:

– Phong cách cổ điển :

Các nhà văn theo khuynh hướng này viết với kỹ thuật và ngôn ngữ của văn học Việt Nam giai đoạn tiền chiến như Vi Khuê, Tuệ Nga, Trần Vấn Lệ, Nhị Lang…

– Phong cách hiện đại:

Các nhà văn viết với kỹ thuật và ngôn ngữ cấp tiến của văn học miền Nam 1954-1975 và chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu văn chương, triết học thế giới hiện đại như Du tử Lê, Trần Diệu Hằng, Đỗ Kh, Trần Vũ, Mai Thảo, Võ Phiến, Duyên Anh, Nhã Ca…

-Khuynh hướng thể nghiệm ẩn ức tính dục:

Có thể thấy đậm nét trong sáng tác của Nguyễn Thị Thanh Bình, Đỗ Kh, Trần Vũ, Kiệt Tấn…

– Khuynh hướng thể nghiệm tâm linh tôn giáo:

Thấy trong các cây bút Nghiêu Minh, Nguyễn Hữu Nhật…

C. Phân chia theo các khuynh hướng lựa chọn đề tài:
Gồm ba khuynh hướng lớn như sau:

-Đề tài lịch sử và quá khứ:

Đó là Nguyễn Mộng Giác với hai bộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ” và “ Mùa biển động”, hồi ký của các chính khách, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa như Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Đôn, Đỗ Mậu…

-Đề tài cuộc sống hiện tại trong nước:

Gồm có các tác giả như Thế Giang, Nguyễn Ngọc Ngạn, Hồ Đình Nghiêm…

– Đề tài cuộc sống cộng đồng người tỵ nạn

Như Ngọc Khôi, Cao Bình Minh, Trần Thị Kim Lan, Lê Thị Huệ, Vũ Quỳnh Hương…

D. Các khuynh hướng bản sắc địa phương:

Có thể trong văn học hải ngoại sẽ có nhiều khuynh hướng văn chương mang bản sắc vùng miền khác nhau của đất nước Việt nam và các khuynh hướng văn chương của cộng đồng người Việt ở các vùng miền trên thế giới. Nhưng hiện tại đã thấy nổi rõ khuynh hướng văn chương mang bản sắc các địa phương Nam Bộ gồm các tác giả Kiệt Tấn, Hồ Trường An, Võ Kỳ Điền, Phạm Thăng, Nguyễn Văn Sâm, Huỳnh Hữu Cửu, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Hoàng Hưng…

Đ. Phân chia theo các thế hệ cầm bút:

Có ba thế hệ điển hình là :

– Thế hệ các nhà văn cầm bút trước 1975 :

Như Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Nguyên Sa, Mai Thảo, Túy Hồng, Nguyễn Thị Vinh, Thanh Nam, Trùng Dương, Dương Kiền, Nguyễn Tất Nhiên, Nam Dao…

– Thế hệ cầm bút trưởng thành sau 1975:

Gồm có Hồ Đình Nghiêm, Định Nguyên, Bùi Bích Hà, Phan Tấn Hải, Ngô Nguyên Dũng, Nguyễn Ý Thuần…

– Thế hệ hải ngoại:

Gồm những người lớn lên và sinh ra ở hải ngoại đã cầm bút viết văn như Vũ Quỳnh N.H, Hoàng Mai Đạt, Ngu Yên, Phạm Thị Ngọc, Nguyễn Hoàng Nam…

Mỗi thế hệ có một vai trò nhất định đối với từng giai đoạn của văn học Việt ngoài nước. Lớp cầm bút trẻ hiện nay đã bắt đầu sung sức đang làm biến đổi bộ mặt của nền văn học hải ngoại hợp với xu thế phát triển của thời đại và đất nước.

E. Phân chia theo thể loại:

Đó là cách phân chia những người cầm bút theo thế mạnh của ngòi bút theo thể loại sáng tác như :

– Văn xuôi :
Nguyễn Đông Ngạc, Nguyễn Mộng Giác, Trần Long Hồ, Võ Đình, Võ Phiến…

– Thơ:
Tuệ Nga, Vi Khuê, Du Tử Lê, Nguyên Sa, Luân Hoán, Lê Tất Điều, Hà Huyền Chi, Khế Iêm, Thường Quán, Viên Linh…

-Biên khảo, nghiên cứu, lý luận, phê bình:
Đặng Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Hưng Quốc…

IV – Lời kết

Mười tám năm đã qua.

Một chặng đường dài đủ cho một thế hệ lớn lên. Nền văn học người Việt ngoài nước đã trưởng thành, là một nền văn học thực thụ. Đó là công sức của đông đảo những nhà văn hải ngoại đã vượt qua cơn khủng hoảng, vượt qua hoàn cảnh sống khắc nghiệt, làm lại một nền văn học để bảo tồn tiếng Việt và văn hóa dân tộc trên đất khách quê người, để nối dài truyền thống sáng tạo gắn bó với nhân dân, đất nước của văn học Việt.

Nền văn học Việt ngoài nước hôm nay có một đội ngũ sáng tác đông đảo hàng mấy trăm cây bút đủ các thế hệ, đủ các thể loại, với hàng trăm báo, tạp chí chuyên ngành, với các cơ sở xuất bản có phương tiện hiện đại. Nó đang tự thanh lọc tính chất ly khai tiêu cực để trở về hội nhập cội nguồn, hòa vào dòng văn học trong nước.

Có thể một vài người cầm bút hải ngoại lo sợ điều này, vẫn muốn níu giữ một nền văn học lưu vong cô độc không cho nó hướng về quê hương. Người ta lo lắng về một ngày hòa hợp dân tộc, cộng đồng tha hương đều được thoải mái đọc sách báo trong nước và các tác phẩm văn học hải ngoại cùng với những tác phẩm tinh hoa của văn học miền Nam trước 1975 được phổ biến rộng rãi trong nước thì cái gì sẽ xảy ra? Một tác giả của nó đã viết:

“Nó sẽ biến mất với tư cách một nền văn học lưu vong!”

Nếu ngày ấy có đến thì có gì phải lo sợ về một quy luật tốt lành. Một khi những người cầm bút ngoài nước thực sự đóng góp vào công cuộc tái thiết đất nước, chấn hưng dân tộc và chúng ta có một nền văn học Việt ngoài nước độc đáo là một bộ phận tài sản văn hóa dân tộc.

—————