Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

QUAN NIỆM “Ông Trời” CỦA NGƯỜI VIỆT




Charlie Nguyễn





Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam đã có nhiều ý niệm về “Ông Trời”. Những ý niệm đó đã được bộc lộ qua các câu ca dao tục ngữ hoặc trong thi phú của giới trí thức nho học uyên thâm mà ta thường gọi là “văn chương bác học”. Tuy nhiên, muốn hiểu ý nghĩa thật sự của Ông Trời Việt Nam chúng ta cần phải khảo sát văn chương bình dân vì chỉ trong văn chương bình dân tâm hồn chất phác của nông dân Việt Nam mới được thể hiện trọn vẹn và trung thực. Đối với các nhà nho chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc thì Ông Trời là “Ngọc Hoàng Thượng Đế” mà người Hoa thường lập bàn thờ để thờ, hoặc có thể là “Hoàng Thiên” như trong câu “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Điểm khác biệt giữa quan niệm của người Tàu về Ngọc hoàng Thượng đế (hoặc Hoàng Thiên) với quan niệm về “Ông Trời” của người Việt Nam là người Việt không tôn trọng Ông Trời. Ngay cách gọi Trời bằng “Ông” cũng đã là một cách diễu cợt. Người Việt Nam coi Trời không hơn ông hàng xóm: “Bắc thang lên hỏi ông trời!”.



Có lẽ chỉ có người Việt nam “dám” gọi Trời bằng Ông mà thôi vì chúng ta không hề thấy một cách gọi tương đương trong các ngôn ngữ khác. Chúng ta không hề thấy người Tàu gọi “Ngọc hoàng Thượng đế” là Ngọc hoàng tiên sinh, Thượng đế tiên sinh hoặc Hoàng thiên tiên sinh.... Chúng ta cũng không hề thấy người Anh hoặc người Pháp gọi Thiên Chúa là Mr. God! Monsieur Dieu!.... Hơn thế nữa, người Việt Nam còn tỏ thái độ xem thường ông Trời qua cách gọi Trời là “Con Tạo” hoặc “Trẻ Tạo Hóa”, thậm chí còn gọi con cóc là cậu ông trời!

- “Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho” (Ca dao)

- “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán” (Nhị Độ Mai)

- “Đố kỵ sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong” (Nguyễn Công Trứ)

Đối với người Việt Nam bình dân, “Ông Trời” cũng tương tự như “Ông Trăng” “Ông Sao” mà thôi, tuyệt nhiên không hề có ý nghĩa là Đấng Tối Cao hoặc Đấng Toàn Năng theo quan điểm của Kitô giáo.

Một sĩ phu nổi tiếng trong Phong trào Cần Vương là Trần cao Vân đã lột tả quan niệm của ông về “Ba Ngôi” trong vũ trụ là: Trời, Đất, Người (Thiên - Địa –Nhân) có mối tương quan đồng cảm và đồng dẳng qua bài thơ sau đây:

Trời đất sinh ta có ý không?
Chưa sinh trời đất, có Ta trong
Ta cùng Trời Đất, ba Ngôi sánh
Trời đất sinh ta một chữ Đồng
Đất nứt ta ra, Trời chuyển động
Ta thay trời mở đất mênh mông
Trời che đất chở, ta thong thả
Trời, Đất, ta đây đủ hóa công.


Đối với Hồi giáo, Do thái giáo và Ki tô giáo, các tín đồ đều được gọi là “những kẻ kính sợ Chúa” (God-fearers). Trái lại, người Việt Nam bình dân không hề “sợ Trời”. Họ tin rằng nếu con người cố gắng phấn đấu cũng có thể “thắng trời” như thường:

- Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều!

hoặc cứ liều làm theo ý mình và mặc cho trời muốn làm gì thì làm:

- Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử xem Con tạo xoay vần đến đâu. (Nguyễn Du)

Ý niệm thông thường nhất của người Việt Nam về “Ông Trời” chính là bầu trời xanh vật chất ở trên đầu chúng ta. Đó là môi trường thiên nhiên của mọi biến chuyển về thời tiết như mưa nắng, gió bão v.v... thể hiện nổi bật ý niệm này là bài thơ “Vịnh Ông Trời” của Nguyễn Khuyến (1835-1909):

Cao cao muôn trượng ấy là Tao
Dẫu pháo thăng thiên chẳng tới nào
Nhắn bảo dưới trần cho chúng biết
Tháng ba, tháng tám tớ mưa rào.

Khi người Việt nam nói “trời mưa”, “trời nắng” thì chỉ có nghĩa là thời tiết mưa hay nắng chứ không hề có nghĩa là “Đức Chúa Trời mưa” hay “Đức Chúa Trời nắng”!

Nguyễn Bính có hai câu thơ rất hay:

Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Trời của Nguyễn Bính trong câu thơ trên cũng chỉ là thời tiết mà thôi. Trong những trường hợp khác, Trời được hiểu là Luật thiên nhiên trong vũ trụ như:

- Cha mẹ sinh con, trời sinh tính
- Trời sinh, trời dưỡng
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ

Người Việt nam bình dân cũng quan niệm “Ông Trời” như số mệnh của con người hoặc số phận được quyết định bởi những yếu tố vuợt quá tầm kiểm soát của con người, chẳng hạn như:

Ngẫm hay muôn sự tại trời (số mệnh !)
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong tràn
Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Nguyễn Du

hay:

Trời sao ăn ở chẳng cân
Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra

Ông Trời cũng có thể được hiểu là luật Nhân Quả, nếu ta cố gắng tu thân và có lòng nhân ái, chắc chắn sẽ gặt kết quả tốt:

Trời sinh, trời ắt đã dành phần
Tu hãy cho bền, dạ có nhân (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

- Có trời mà cũng có ta
Tu là cõi phúc, tình là dây oan (Nguyễn Du)

Trên đây là những ý niệm của người Việt nam về ông Trời đã được thể hiện qua ca dao, tục ngữ và văn chương bác học, tuyệt nhiên không có ý nghĩa là Đấng Tòan Năng hoặc Thiên Chúa của đạo Kitô. Ông Trời trong tâm thức của người Việt nam luôn luôn chân chất hồn nhiên và rất hiền hòa, hòan tòan trái ngược với Thiên Chúa trong Kinh thánh Cựu ước

Vả lại, nước ta vốn là một nước nông nghiệp, truyền thống dân giả Việt nam vốn tin vào Trời như sự tuần hoàn tự nhiên của vũ trụ thiên nhiên. Người nông dân luôn luôn phải quan sát thiên nhiên để đoán trước các biến chuyển về thời tiết hầu ứng dụng vào công cuộc trồng cấy:

Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng


Khi thấy người dân Việt nam hay nói đến Trời, các mục sư Tin lành và các tu sĩ Công giáo mừng khấp khởi như bắt được vàng. Các vị này đã hết sức trổ tài hùng biện để chứng minh rằng: Mỗi khi người Việt nam kêu“Trời ơi!” chính là lúc họ kêu cứu một đấng Thiên Chúa đang làm chủ trên vòm trời xanh!

Họ trí trá ca ngợi cái kho tàng bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt nam có một giá trị cao quí nhất là niềm tin vào ông Trời. Các mục sư Tin lành và các linh mục Công giáo truyền đạo ra sức gò ép ý niệm Ông Trời Việt nam vào ý niệm Thiên Chúa của đạo Kitô. 
Những hành động này hoàn toàn tương phản với tâm hồn chất phác của người dân Việt vốn chỉ tin tưởng vào Thiên Nhiên và Định Mệnh con người mà thôi.

Có nhiều trí thức và tu sĩ Công giáo khai thác ý niệm Ông Trời Việt nam để truyền đạo. Chúng ta có thể nêu lên một số trường hợp điển hình sau đây:

1. Linh mục (Lm) Trần cao Tường: Trên báo “Thế kỷ 21” số 125 tháng 9/99 có đăng bài “Đạo kính tổ tiên, điểm gặp gỡ chung cho các tín ngưỡng Việt” của Lm Trần cao Tường. Trong bài này, Lm Tường cố ý xuyên tạc đạo hiếu và Ông Trời để phục vụ cho mục tiêu truyền đạo. Lm Tường viết: “Có thể nói, niềm tin vào ông Trời đã có sẵng trong tâm thức người Việt trước cả khi các tôn giáo du nhập...” Cuối cùng, Lm Tường cố ý gán ghép ý niệm Ông Trời (tức Thiên Nhiên) của dân tộc Việt với ý niệm Thiên Chúa của đạo Kitô (The Christian God). Khi gán ghép như vậy, Lm Tường đã tự tố cáo sự hiểu biết nông cạn của mình vì thực sự ông ta không hiểu gì về sự khác biệt như nước với lửa giữa Ông Trời Việt nam và Thiên Chúa ba ngôi của đạo Kitô. Tôi sẽ phân tích rõ về sự khác biệt ở phần cuối bài này.

2. Trí thức Công giáo Nguyễn huy Lai: Ông lai là một trí thức Công giáo sinh trưởng tại Hà nội. Cuối thập niên 1920 ông du học tại Paris và đậu tiến sĩ luật năm 1935. Trong đầu thập niên 1930, ông viết sách “La Tradition Religieuse Spirituelle Sociale au Vietnam” (Truyền thống Tôn giáo Tâm linh Xã hội tại Việt nam) nhưng đến năm 1981 sách này mới được xuất bản lần đầu tại Pháp. Ông Lai qua đời năm 1992 tại VN, thọ 84 tuổi.

Báo Đất mẹ (số 103, tháng 2/2003, trang 23) trích dịch một phần sách của ông Lai, trong đó có đoạn viết: “Ông Trời được người Việt nam tôn kính không phải là một ông thần hộ mệnh mà là một Thiên Chúa Ngôi vị (Dieu personnel / Thiên Chúa Ba ngôi) ngự trị trên các tầng trời”. Trường hợp của trí thức Công giáo Nguyễn huy Lai cũng như Linh mục Trần cao Tường nói trên, cả hai đều không nhận ra sự khác biệt sâu xa giữa Ông Trời Việt nam và Thiên Chúa của đạo Kitô (tức Thiên Chúa Ba ngôi). Đây là sự khác biệt như hai thái cực tương phản khiến cho không một ai có thể đồng hóa được.

3. Linh mục Giuse Trương đức Kỷ tức Cao phương Kỷ, giáo sư môn thần học tại nhiều chủng viện Việt nam và Hoa kỳ, tác giả sách “Thiên Chúa giáo và Tam giáo”, 536 trang, xuất bản tại Mỹ năm 2000. Đây là một cuốn sách triệt để khai thác và xuyên tạc ý niệm Ông Trời để phục vụ cho nhu cầu truyền đạo Kitô.

Trong Lời giới thiệu, Lm Trần công Nghị (thuộc Hội đồng Chỉ đạo Liên tôn) đã viết về tác giả của cuốn sách như sau: “Sọan giả nêu ra những chân lý chung làm nền tảng mà bất cứ giáo phái nào cũng công nhận... mẫu số chung cho các tín ngưỡng của người Việt nam là niềm tin ở Ông Trời, tức Đấng Siêu Việt”.

Rõ ràng một điều là cả Lm Trần công Nghị lẫn Lm Cao phương Kỷ đã cương ẩu vì trong ca dao tục ngữ cũng như trong thi phú Việt nam chẳng có câu nào ca ngợi Ông Trời là “Đấng Siêu Việt” cả. Ngay danh xưng “Ông Trời” cũng đã hàm ý - phủ nhận cái ý nghĩa “Đấng Siêu Việt” rồi, vì liệu Lm Cao phương Kỷ có thể gọi Đấng Siêu Việt là “Ông Siêu Việt” được không? Nếu coi Trời là Đấng Siêu Việt thì tại sao người Việt nam lại gọi Trời là Con Tạo, Trẻ Tạo Hóa, con cóc là cậu ông Trời? Chẳng lẽ con cóc là cậu của Đấng Siêu Việt?

Nơi trang 4 sách dẫn chiếu, Lm Cao phương Kỷ ca ngợi cố đạo Alexandre de Rhodes là người am trường tín ngưỡng đặc biệt của Việt nam: “Cha Đắc Lộ đề cao niếm tin cổ truyền ở một Vị Thần Siêu Việt mà dân chúng thường kêu xin là Ông Trời.”

Quả thật, Đắc Lộ đã sáng tác ra danh từ “Đức Chúa Trời” và y là người đầu tiên xử dụng danh từ này trong nhiều trường hợp:

- Đắc Lộ lập ra hội “Nhà Đức Chúa Trời” có mục tiêu đào tạo các thầy giảng cho giáo hội Việt nam.
- Đắc Lộ dịch sách giáo lý bằng tiếng La-tinh “Cathéhismes” ra tiếng Việt, đó là sách “Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời.”

- Đắc Lộ thay thế tiếng “Chúa Dêu” phiên âm từ tiếng La-tinh “DEUS” bằng danh từ “Đức Chúa Trời” trong các bài kinh nguyện của Việt nam. Thí dụ như kinh Kính Mừng trước kia được phiên âm từ tiếng La-tinh như sau: “Ave Maria, đầy ga-ra-xi-a, Đức Chúa Dều ở cùng bà...”.

Đắc Lộ là người đầu tiên đưa đạo Công giáo hội nhập vào văn hóa Việt nam bằng cách mô phỏng danh từ “Ông Trời” để sáng chế ra danh từ “Đức Chúa Trời” đã trở thành rất thông dụng trong quần chúng Công giáo Việt. Nhưng Đắc Lộ đã thất bại khi gò ép chứng minh Ông Trời là “Vị Thần Siêu Việt” mà Linh mục Cao phương Kỷ muốn chúng ta hiểu là Thiên Chúa của đạo Kitô (Christian God).

Trong thực tế, Matteo Ricci ở Trung-Quốc và cố đạo Đắc Lộ tại Việt nam đều không dám đề cập đến Thiên Chúa của đạo Kitô là Thiên Chúa Ba ngôi (Christian Gos is Trinity God) trong các sách giáo lý của họ. Bởi lẽ Thiên Chúa Ba ngôi là một thứ “toán học kỳ quặc”: Ba là Một, Một là Ba. Jesus là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, đồng thời cũng là Đức Chúa Cha tạo thành vũ trụ vạn vật và cũng là Đức Chúa Thánh thần, chồng của mẹ ông. Nói đúng hơn, Thiên Chúa Ba ngôi là một quái thai tư tưởng mà bản thân Matteo Rici và Alexandre de Rhodes cũng không hiểu nổi và cũng không thể giảng giải cho người khác hiểu được. Vì thế họ đành phải câm miệng. tuy nhiên, Alexandre de Rhodes nhận thấy người Việt có phong tục ăn mừng suốt ba ngày trong dịp tết Nguyên đán nên y thực hiện quỉ kế là khuyên giáo dân dành ba ngày tết để tôn thờ Thiên Chúa Ba ngôi: Ngày mồng một tết tôn thờ Đức Chúa Cha, ngày mồng hai tôn thờ Đức Chúa Con (tức Jeus) và ngày mồng ba tôn thờ Đức Chúa Thánh thần. Trải qua trên ba thế kỷ, nhiều giáo xứ Công giáo Việt nam hiện vẫn còn giữ tập tục tôn thờ Thiên Chúa Ba ngôi trong ba ngày tết. Hành động này đã khiến cho giáo dân Việt nam mặc nhiên chấp nhập tín điều Thiên Chúa Ba ngôi mà không cần phải dùng lý trí để phân biệt đúng sai.

Tiếp tục tán láo trong chiều hướng gò ép nhằm cưỡng chế người đọc phải hiểu Ông Trời là Thiên Chúa, Linh mục Cao phương Kỷ viết: “Theo truyền thống cố hữu của dân tộc Việt nam thì niềm tin vào một Đấng Bề Trên đã được biểu lộ trong nghi lễ tế tự, ca dao tục ngữ, văn thơ và đặc biệt trong lời kêu cứu cầu xin chân thành đặt hết ước vọng của cuộc đời vào sự quan phòng của Ông Trời (sđd, Thiên Chúa giáo và Tam giáo, trang 387); “con người hướng tâm linh lên một Quyền lực Thiêng liêng làm chủ tể muôn loài.... đầy tình thương xót, có thể lắng nghe những lời cầu kinh:

Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy dầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.”

(sđd, trang 392)

Linh mục Cao phương Kỷ đã trắng trợn cưỡng đoạt bài ca dao Việt nam “Lạy Trời mưa xuống” và biến nó thành một bài kinh nguyện (prayer) của đạo Công giáo!

Linh mục Kỷ nên nhớ rằng: tuyệt đại đa số dân Việt là những nhà nông, chuyện nắng mưa là vấn đề sinh tử đối với họ. Bài ca dao nói trên chỉ mô tả ước vọng của nông dân Việt nam mong sao cho mưa thuận gió hòa để họ được mùa và có gạo mà ăn. Đơn giản chỉ có vậy thôi! Khi người nông dân Việt nam nói: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày...” họ không hề quì gối chấp tay với nét mặt thẩn thờ mất trí như khi người Công giáo đọc kinh cầu Chúa. Vậy không thể nói người nông dân Việt nam “cầu kinh” với ông Trời!

Trong suốt cuốn sách dầy trên 500 trang, Linh mục Cao phương Kỷ luôn luôn bẻ cong ngòi bút để viết những lời cường điệu thô bỉ khiến người đọc phải “lợm giọng”. Tôi thật sự phải “lợm giọng” khi đọc những dòng sau đây:

“Lịch sử của vũ trụ, của nhân loại cũng là lịch sử Cứu Độ, vì tất cả mọi sự hiện hữu đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng Cứu Thế thì không có vũ trụ, không có lịch sử, không có nhân loại, nhân sinh.” (Sách đã dẫn, trang 113)

Phải chăng hai tiến sĩ thần học Cao phương Kỷ và Trần công Nghị đã vâng theo “Lời u mê” mà vất bỏ trí tuệ của mình để viết nên cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam giáo” và viết lời giới thiệu cho cuốn sách  này?

Truyền thống cao quí của dân tộc Việt nam từ xưa đến nay là Đạo Hiếu. Nói đúng hơn, đó là truyền thống biết ơn các đấng sinh thành, các bậc tổ tiên và còn nới rộng ra tới các vị anh hùng dân tộc nữa. Vì thế mới có bàn thờ gia tiên trong mỗi gia đình, có đền thờ tổ, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ Đức Thánh Trần v.v... Nhưng Jesus hoàn toàn không biết đến đạo hiếu là gì. Jesus đã công khai dạy các tín đồ như sau: “Bất cứ kẻ nào đến với ta mà không thù ghét cha mẹ vợ con và anh chị em, thậm chí không ghét bỏ cuộc sống của chính nó, thì không thể là môn đệ ta” (If any man comes to me and hate not his father, and mother, and wife, and children, and brother, and sisters, yea, even his own life, he can not be my discipline – Luke 14:26).

Ngoài ra, Jesus còn tuyên bố: “Ta không đem hòa bình cho thế gian nhưng chỉ mang gươm giáo mà thôi” (I came not to send peace to the world, but a sword – Revelation 22:11). Riêng về điều này thì Jesus nói đúng vì từ ngày có đạo Kitô đến nay, trên 200 triệu người đã bị giết chết bởi những dàn hỏa, các cuộc thập tự chinh và các cuộc chiến tranh do Kitô giáo trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra(Deceptions and Myth of the Bible – Lloyd M. Graham, p. 463).

 Dầu sao chăng nữa tôi cũng nhận thấy Lm Cao phương Kỷ là một “trí thức” rất thông thạo Anh ngữ vì ông đã từng là giáo sư thần học tại nhiều chủng viện Công giáo Hoa kỳ nên tôi khuyên ông hãy tìm đọc cuốn sách best-seller của sử gia nổi tiếng Lloyd M. Graham, đó là cuốn Deceptions and Myths of the Bible. Mong ông hãy bình tâm suy nghĩ về những lời khuyên chí lý và chí tình của tác giả:

- “Hiểu đúng là do biết đúng chứ không do lòng tin” (Right understanding comes from knowing, not just believing. Page 419).

- “Cái gọi là Đức Tin chỉ là niềm tin vào cái không biết. Cái không biết cũng là cái không có thật. Đức tin vào cái không biết và không thật là sự điên rồ. Đó chỉ là niềm tin vào những sự phỏng đoán ngu ngốc của kẻ khác” (Faith is belief in the unknown. But since the unknown is likely the unreal also. Faith in the unknown is foolishness, only belief in other believers’ ignorant asumptions – page 413).

Nếu ông còn chút lương tri, chắc chắn ông sẽ nhận ra Lloyd M. Graham là vị thầy dạy về Đức Tin Thông Minh (Intelligent Faith) còn Jesus là một “kẻ khốn nạn” đã dậy các tín đồ và tông đồ của nó một thứ Đức Tin Mù (Blind Faith):

“Phúc cho ai không thấy mà tin”!
(độc giả có thể tìm đọc hai trang viết tay rong bài viết Công giáo là Đạo Thờ Bò Cải Biến trong cuốn “ Thực Chất Đạo Công giáo và các Đạo Chúa” do GĐ xuất bản, Xuân 2003 - từ các trang 89-111).


Tục ngữ Việt nam có câu “dấu đầu hở đuôi” để lột tả cái hậu quả đương nhiên của những kẻ chuyên môn dối trá bịp bợm. Dù sớm hay muộn, những điều dối trá cuối cùng cũng bị lật tẩy mà thôi.

Công cuộc lật tẩy mọi dối trá bịp bợm của Kitô giáo - gồm cả Công giáo lẫn Tin lành – là nhiệm vụ hàng đầu của mọi chiến sĩ văn hóa chân chính của dân tộc Việt nam trong giai đoạn hiện tại. Phơi bày bộ mặt thật, bỉ ối của Kitô giáo trước công luận rộng rãi trong và ngoài nước là một phương cách hữu hiệu để cứu nguy dân tộc và bảo vệ tiền đồ văn hóa của Tổ quốc.

Một trong những thái độ cần thiết của người chiến sĩ văn hóa là phải tự coi mình như một người lính gác giặc, luôn luôn đề cao cảnh giác để kịp thời phát hiện mọi tên gián điệp văn hóa của địch. Trong số các chiến sĩ văn hóa hàng đầu trong lãnh vực này, chúng ta phải kể đến nhà nghiên cứu văn hóa chính trị Lê trọng Văn qua nhiều tác phẩm của ông, đặc biệt là cuốn “Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị”, 455 trang, do tác giả xuất bản tại hải ngoại năm 1991. Tác giả đã dành ra 100 trang sách để lột mặt nạ tên gián điệp đội lốt thầy tu là Linh mục Lương kim Định trong nhiệm vụ thực hiện y khuôn sách lược lừa bịp của Vatican. Tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy rõ cái thủ đoạn rất quen thuộc của bọn gián điệp là “tìm cách hòa đồng để rồi đồng hóa”. Điểm mặt những tên gián điệp văn hóa theo những tiêu chuẩn nói trên, tôi nhận thấy có hai tên đáng chú ý là:

1. Linh mục Cao phương Kỷ thuộc Dòng Đồng Công ở Carthage, bang Missouri, Mỹ, tác giả cuốn “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” mà tôi đã trình bày sơ lược ở phần trên của bài viết này. Nhân tiện tôi cũng xin nói thêm vài điều về Dòng Đồng Công. Dòng tu này được thành lập tại Bùi Chu vào đầu thập niên 1940 do lệnh của Giáo hoàng Pio XII. Chúng ta đã biết Pio XII đã nối tiếng là tên tội phạm chiến tranh đứng hàng thứ hai sau Hitler. Tên giáo hoàng phát xít này rất muốn công bố tín điều: “Đức Mẹ Đồng Công cứu cuộc” (the dogma of Co-Redemtrix) nhưng y đã không thực hiện được vì gặp phải những phản ứng mãnh liệt của Anh giáo, Chính thống giáo và các giáo phái Tin lành. Họ lý luận rằng: Chỉ một mình Jesus Christ có tư cách Thiên Chúa cứu chuộc loài người và Chúa không cần tới sự cộng tác của bất cứ ai, kể cả bà Maria, để hoàn thành công cuộc Cứu độ. Tín điều “Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc” đã làm hạ giá Chúa Jesus và là “chiếc đinh cuối cùng đậy nắp hòm của sự hòa giải giữa các giáo phái Kitô” (Newsweek số ra ngày 25-8-1997).

Do đó, Vatican đã phải tạm hoãn việc công bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công nhưng đồng thời tìm nhiều phương cách chuận bị dư luận để sẽ công bố tín điều đó khi có cơ hội. Một trong những phương cách chuẩn bị dư luận là Vatican chỉ thị cho địa phận Bùi Chu lập ra dòng tu mang danh hiệu “Đức Mẹ Đồng Công Cứu chuộc”, gọi tắt là dòng Đồng Công – Pio XII và đồng bọn tại Vatican trong thời kỳ Đệ nhị Thế chiến đa số là người Đức rất hiếu chiến và cuồng tín cực đoan.

Tập đoàn phe cực đoan của Pio XII đã bị Gioan XXIII loại trừ khỏi giai cấp lãnh đạo chóp bu ở Vaticantrong Công đồng Vaticano II năm 1962. Dòng Đồng Công là cặn bã của phe Pio XII còn rơi rớt lại đến ngày nay. Mặc dầu như rắn mất đầu nhưng những thày tu của dòng này vẫn giữ nguyên bản chất cuồn tín cực đoan rất nguy hiểm trong nghề gián điệp văn hóa. Tôi thiết nghĩ việc loại trừ mọi sinh hoạt của dòng Đồng Công dưới bất cứ hình thức nào tại Việt nam là điều cần thiết. Cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của Cao phương Kỷ là một sản phẩm văn hóa của dòng tu phản động này.

2. Linh mục Trần công Nghị là người viết Lời giới thiệu cho cuốn sách của Cao phương Kỷ nói trên. Nghị sinh tại Phát Diệm, được gửi đi du học tại Rome năm 1967, thụ phong linh mục năm 1971 cũng tại Rome và được gửi đi du học tiếp tại Mỹ, sau đó trở lại Rome để lấy bằng Tiến sĩ Thần học. Trong thập niên 1990, Lm Nghị được cử làm đại diện cộng đồng Công giáo Việt nam tại địa phận Los Angeles. Từ 1997, Lm Nghị trở thành chủ nhiệm báo Dân Chúa kiêm Giám đốc VietCatholic Network (vietcatholic.net) với sự cộng tác của trên 200 linh mục và trí thức Công giáo (báo Công giáo Viet Tide số 55 tháng 8/2002, trang 20).

Để kết thúc bài viết này, tôi xin minh xác với quí vị độc giả về ba điều sau đây:



Điều thứ nhất: Xác định vấn đề ngôn từ và sự thật



Như đã nói ở đoạn trên, chiến sĩ văn hóa Lê trọng Văn đã chỉ cho chúng ta thấy thủ đoạn quen thuộc của bọn gián điệp văn hóa của Vatican là “Tìm Cách Hòa Đồng Để Rồi Đồng Hóa”. Linh mục Cao phương Kỷ đã áp dụng đúng thủ đoạn này trong cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của y: Trước hết, y vận dụng và xuyên tạc ca dao tục ngữ Việt nam để ngụy biện cho rằng Ông Trời Việt nam là Đấng Siêu Việt. Bước kế tiếp, y xử dụng môn thần học nhảm nhí của Vatican để chứng minh Jesus chính là Đấng Siêu Việt đó:

- “Tất cả vạn sự vạn vật đều vận chuyển theo một chiều hướng là quy tụ lại nơi Chúa Cứu Thế (tức Jesus) như tâm điểm và tuyệt đỉnh của vũ trụ”, trang 168.

- “Chỉ nhờ vào đời sống và sự chết của Chúa Jesus mà nhân loại được tha tội và hy vọng được hưởng phúc trường sinh”, trang 171.

- “Nhân loại và vũ trụ đang biến hóa theo chiều bản vị hóa và đang đồng qui vào ngôi Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu thế (tức Jesus)”, trang 351.

- “Lịch sử của vũ trụ, của nhân loại cũng là lịch sử cứu độ vì tất cả mọi sự hiện hữu đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng Cứu Thế (tức không có Jesus) thì không có vũ trụ, không có lịch sử, không có nhân loại”, trang 113.

Tất cả những lý luận thần học ngu xuẩn nói trên chỉ là những lời nói vu vơ và hoàn toàn rỗng tuếch vì không có một cơ sở lý luận nào cả và tuyệt nhiên không có bằng cớ nào để chứng minh.

Có gì chứng minh là “vạn sự vạn vật đều qui tụ vào Chúa Cứu Thế Jesus như tuyệt đỉnh của vũ trụ”? Liệu có gì chứng minh là Jesus hiện đang còn sống để cho “vạn vật qui tụ” vào y như tâm điểm? Lịch sử khách quan chứng minh rằng: Tất cả các tử tội do La mã xử tử bằng cách đóng đinh trên thập giá đều bị vứt xác cho kên kên, ác thú và chó rừng ăn thịt. Tuyệt đối không có một xác tử tội nào được trao cho người nhà đem về chôn. Việc chôn xác Jesus trong hang đá rồi sau đó vài ngày Jesus sống lại lên trời để rồi sẽ xuống thế gian lần thứ hai trong ngày tận thế ... là chuyện hoang đường tồi tệ và khốn nạn nhất trong lịch sử văn hóa của nhân loại.

Cái tư tưởng ngu xuẩn cho rằng “vạn vật đều qui tụ vào Jesus như tâm điểm vũ trụ” hoặc “nhân loại và vũ trụ đang biến hóa theo chiều bản-vị-hóa và đang đồng qui vào Ngội Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu Thế Jesus”....chỉ có thể có trong những đầu óc thần học như Cao phương Kỷ, Trần công Nghị. Đầu của bọn ngu xuẩn này chẳng khác gì đầu tôm vì không có óc mà chỉ có phân mà thôi.

Bọn gián điệp ngu xuẩn này chẳng có một mục tiêu nào khác hơn là xử dụng các ngôn từ thần học hoang tưởng nhằm lường gạt những đồng bào ngờ nghệch dại khờ để xiềng xích trí tuệ của họ vào niềm tin Jesus là Đấng Siêu Việt và cũng là Ông Trời Việt nam.

Để đập tan luận điệu thần học vu vơ hoang tưởng của tên gián điệp Cao phương Kỷ, tôi đã chứng minh ca dao tục ngữ Việt nam không có một câu nào nói Ông Trời là “Đấng Siêu Việt”. Đồng thời tôi cũng chứng minh rằng: Jesus chẳng bao giờ là Đấng Siêu Việt, trái lại Jesus chỉ là một kẻ khùng, một kẻ khốn nạn, một kẻ mất dạy loạn luân với mẹ của y, một kẻ ngu như bò và y cũng là một kẻ gieo tai họa lớn nhất cho nhân loại.

Điều thứ hai: Xác định giới hạn cho công việc truyền đạo của các người truyền giáo Kitô.

Khi nói “các người truyền giáo Kitô” là tôi muốn nói đến tất cả các tu sĩ Công giáo, các mục sư và các người làm công tác truyền giáo của đạo Tin lành (missionaries). Chúng ta cần nói cho họ biết: mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng nghĩa là muốn tôn thờ ai thì thờ, nhưng tự do tín ngưỡng không có nghĩa là tự do truyền đạo. Rất nhiều nước đã ban hành những đạo luật nhằm hạn chế việc truyền đạo, nhất là đối với Công giáo và Tin lành. Chẳng hạn như ở Nga thời Yelsin đã có đạo luật cấm truyền đạo Công giáo và Tin lành. Do thái cấm truyền đạo Kitô với hình phạt dành cho người vi phạm là 5 năm tù và 4200 đôla tiền phạt. Mới đây nhất, tại Ấn độ là nước có đa số dân theo Ấn giáo, mới ban hành đạo luật cấm cải đạo sang Kitô giáo (New anti-conversion laws in Hindu – majority India – Houston Chronicle, Saturday April 19, 2003, page 6E).

Các người Công giáo hay Tin lành muốn đưa Jesus lên Ngôi Hai Thiên Chúa hoặc đấng Siêu Việt, đấng Toàn Năng v.v... là quyền của họ. Nhưng những người truyền đạo Ktiô không có quyền bóp méo, xuyên tạc ý niệm Ông Trời của người Việt nam để cuối cùng gán ghép Ông Trời với Thiên Chúa Siệu Việt của đạo Kitô. Các người không được phép xử dụng những ngôn từ thần học mập mờ, huênh hoang, lươn lẹo để lừa gạt đồng bào và lôi kéo họ vào bóng tối tâm linh để cuối cùng biến họ thành tay sai mù quáng cho ngoại bang. Tất cả các âm mưu đen tối của các người đều sẽ bị các chiến sĩ văn hóa yêu nước theo dõi, phát hiện và sẽ giáng trả bằng những đòn đích đáng.

Điếu thứ ba: Xác định thái độ kiên quyết, không khoan nhượng đối với bọn gián điệp văn hóa lưu manh và ngoan cố.

Luôn luôn đề cao cảnh giác để sớm phát hiện những âm mưu phá hoại của bọn gián điệp là điều cần thiết tiên quyết nhưng sau đó chúng ta lại ngập ngừng hay e dè chẳng làm gì cả hoặc chỉ hành động hời hợt thì kết quả cũng chỉ là con số không. Chúng ta cần phải khẳng định rằng: bọn gián điệp văn hóa của Vatican hay của đế quốc Tin lành đều là bọn Việt gian cuồng tín, vọng ngoại, chuyên dùng các thủ đoạn lưu manh lừa gạt đồng bào để mở rộng nước Chúa, thực chất là mở rộng lãnh thổ của đế quốc. Bọn chúng đều là những kẻ thù nguy hiểm của dân tộc Việt nam. Do đó, thái độ thích hợp nhất đối với kẻ thù là chúng ta phải đấu tranh với chúng một cách kiên quyết không khoan nhượng nhằm mục đích cuối cùng là loại trừ hết mọi thứ “độc tố văn hóa” mà bọn chúng đã gieo rắc trên đất nước ta từ trước tới nay.

Chúng ta không nên nhẹ tay đối với bọn gián điệp văn hóa, bởi lẽ chúng tuy rất lưu manh trong hành động nhưng lại là những kẻ ngủ mê trên phương diện tâm linh. Nếu chúng ta đối xử với chúng bằng thái độ lịch sự nhẹ nhàng thì chẳng khác nào gãi ngứa cho chúng và chúng sẽ ngủ mê hơn nữa. Muốn đánh thức chúng dậy trong cơn ngủ mê chúng ta phải xối một thùng nước lạnh vào mặt chúng hoặc đập vào người chúng một cú thật mạnh như trời giáng thì may ra chúng mới tỉnh ngủ để nhìn thấy sự thật dưới ánh sáng mặt trời.

Câu hỏi trước nhất được đặt ra là: Làm thế nào để nhận diện một tên gián điệp văn hóa lưu manh và nguy hiểm? Đó là những tên đã được bọn đại lưu manh quốc tế ở Rome huấn luyện nhồi sọ và cấp cho học vị “tiến sĩ thần học”. Điển hình là những tên như Linh mục Cao phương Kỷ và Lm Trần công Nghị. Bọn này thực hiện đúng theo sách lược xâm lăng văn hóa Á châu của Vatican (Tông huấn Ecclesia in Asia của John Paul II).

Trong sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo”, Cao phương Kỷ lươn lẹo ca ngợi Ông Trời là Đấng Siêu Việt, và dùng lý luận thần học nhảm nhí chứng minh Đấng Siêu Việt đó là Thiên Chúa Ba ngôi của đạo Kitô. Mục tiêu cuối cùng của họ là tạo cho đồng bào nhẹ dạ có ảo tưởng rằng: Thiên Chúa của đạo Kitô chẳng phải là ai xa lạ mà chính là “Ông Trời Siêu Việt” của mình và Đạo Kitô cũng không phải là một món hàng ngoại nhập mà là một niềm tin đã tiềm ẩn từ lâu đời trong lòng dân tộc Việt nam.

Đây là một thủ đoạn vô cùng thâm độc của Vatican do bọn tham mưu đại lưu manh nghiên cứu từ lâu và chỉ thị cho bọn gián điệp văn hóa thi hành.

Ngoài việc khai thác ý niệm Ông Trời phục vụ cho nhu cầu truyền đạo, Cao phương Kỷ còn xuyên tạc Tam giáo (Phật, Khổng, Lão) là các đạo đều có niềm tin vào Đấng Tối Cao như Kitô giáo. Việc đánh lận con đen Tam giáo với Kitô giáo là một chuyện hàm hồ đáng bị vạch mặt: Trước hết, cả ba đạo Phật, Khổng, Lão đều là những đạo của lý trí, nói đúng hơn thì đó là ba triết lý sống hoặc ba cách sống (ways of life). Cả ba không hẳn là ba tôn giáo vì không có giáo hội, không có giáo đồ và nhất là không có giáo điều (tín điều). Cả ba đạo Phật, Khổng, Lão đều coi trọng lý trí và khuyên mọi người phải vận dụng lý trí để suy xét mọi điều trước khi tin vào điều đó. Sở dĩ có “tam giáo đồng lưu” tại nước ta vì người dân Việt nam đã vận dụng lý trí để phân biệt những giá trị chung của cả ba tôn giáo để dung nạp vào văn hóa dân tộc và để cuối cùng làm thăng hoa đời sống của dân tộc.

Khác hẳn với đặc tính căn bản của Kitô giáo là loại bỏ lý trí (Phúc cho ai không thấy mà tin - lời của Jesus).

Toàn bộ hệ thống giáo lý của Kitô giáo là hàng loạt các tín điều được đưa ra để buộc các tín đồ phải chấp nhận vô điều kiện. Do đó, cái gọi là Đức Tin Kitô hoàn toàn chỉ là Đức Tin Mù. Trái hẳn với đức tin Tam giáo là đức tin sáng suốt vì là sản phẩm của lý trí.

Hậu quả của đức tin mù là các tín đồ Kitô luôn luôn phải sống trong mặc cảm tội lỗi, luôn luôn tự xưng là kẻ có tội nên cần có Chúa và bọn tu sĩ lưu manh cứu giúp!

Bọn lãnh đạo Kitô giáo trở thành những kẻ ngạo mạn kiêu căng, lúc nào cũng nghĩ rằng tôn giáo của mình là độc tôn và là duy nhất đúng. Điều này hàm ý rằng các tôn giáo khác với mình đều phải chết.

Trong thực tế của lịch sử dân tộc, Tam giáo đã góp phần củng cố nền độc lập của nước nhà, trong khi đó Kitô giáo đã đưa dân tộc vào vòng nô lệ thực dân Pháp hơn 80 năm và hiện nay một bộ phận của dân tộc (Công giáo) vẫn là những kẻ nô lệ tinh thần của đế quốc Vatican. Các vụ nổi loạn của những người thiểu số Tin lành ở miền cao nguyên chứng tỏ những tín đồ Kitô giáo luôn luôn làm nội tuyến cho ngoại bang và đi ngược lại quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc.

Tất cả những tai họa đó đều do bọn gián điệp văn hóa gây ra. Cho nên thái độ cần thiết và cấp bách của các chiến sĩ văn hóa yêu nước là phải cương quyết chiếm lãnh thế chủ động trên diễn đàn văn hóa để giáng trả bọn kẻ thù của dân tộc những đòn đích đáng, buộc chúng phải câm miệng, cúi mặt gục đầu và không dám ngóc đầu dậy.


Charlie Nguyễn


Chiến Tranh Lạnh Lan Qua Á Châu

Đào Văn Bình

.. Nếu ép Việt Nam mà Việt Nam không nghe, thì Mỹ sẽ không giúp Việt Nam nữa hoặc trả đũa hoặc bao vây, cấm vận, lật đổ. Nhưng khi Việt Nam suy yếu đi, tức không còn khả năng ngăn chặn Trung Quốc ở Biển Đông thì Phi Luật Tân lâm nguy. Lúc đó Mỹ phải lui về cố thủ ở Guam - tức biên giới phòng thủ từ xa của Mỹ co lại, chiến tranh nếu xảy ra là xảy ra trên đất Mỹ chứ không còn ở nơi xa lắc xa lơ nữa. Đó là cơn ác mộng của Mỹ. (ĐVB)
A. Những chuyển biến quan trọng:

Nhật Ký Biển Đông trong hai tuần Tháng Ba ghi nhận những chuyển biến quan trọng như sau:

- NewsMax ngày 1/3/2015: “Theo bản tường trình thuộc báo chí Kuwait, vào năm 2014,Tổng Thống Obama dự trù bắn rơi máy bay Do Thái nếu những máy bay này tiến hành oanh tạc các cơ sở hạt nhân của Ba Tư. Theo bản tường trình của Al-Jarida, chính lời đe dọa - được cho là như vậy - đã khiến Thủ Tướng Benjamin Netanyahu hủy bỏ kế hoạch oanh tạc đã được soạn thảo.”

- Voice of Russia ngày 1/3/2015: Trong bài viêt “Khủng hoảng Ukraine và những cơ hội cho Trung Quốc” Vasily Kashin nhận định, “Huy động mọi nỗ lực hòng răn đe quân sự và cô lập Nga về ngoại giao, Hoa Kỳ khó có thể cùng lúc mở rộng sự hiện diện quân sự của mình ở Đông Nam Á. Như vậy, Trung Quốc sẽ có cơ hội tích lũy thêm tiềm lực và củng cố vị thế trong nền chính trị quốc tế.”

- Reuters (Paris) ngày 2/3/2015: “Sau cuộc họp với Tổng Thư Ký NATO vào ngày Thứ Hai, Tổng Thống Pháp Francois Hollande nhắc lại nhu cầu ngưng bắn ngay lập tức tại Ukraine và rút vũ khí nặng ra khỏi đường biên giới giao tranh. Thỏa hiệp Minsk là giải pháp duy nhất để tái lập hòa bình.”

- YahooNews ngày 2/3/2015: Trong bài viết nhan đề “Xem lại hiến pháp: Liệu Hạ Viện hành động bất hợp pháp khi mời Netanyahu?(Constitution Check: Did the House act illegally in inviting Netanyahu?), Lyle Denniston (1) viết, “Đáng lý ra các lãnh đạo lập pháp Hoa Kỳ phải suy nghĩ kỹ hơn khi đưa ra lời mời. Mặc dù nó không vi phạm văn tự của Hiến Pháp. Nhưng chắc chắn nó vi phạm nguyên tắc chỉ có một tiếng nói cho một quốc gia trong vấn đề đối ngoại và các lãnh đạo ngoại quốc không thể lựa chọn hoặc muốn thương thảo với quốc hội hay thương thảo với tổng thống.” (U.S. congressional leaders probably should have given this invitation more thought. Although not a violation of the letter of the Constitution, it certainly seems to violate the idea that the nation speaks with one voice on foreign policy and that foreign leaders cannot choose whether they prefer to deal with Congress or the president.)



Thực ra Lyle Denisson muốn giảm nhẹ tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Nếu nói “vi hiến” thì ghê gớm quá! Nhưng rõ ràng Hiến Pháp Hoa Kỳ quy định “quyền ngoại giao thuộc về hành pháp, tức tổng thống”. Nay Quốc Hội giành lấy quyền đó thì vi hiến đã rành rành ra đó rồi! Chẳng hạn ngày mai tổng thống làm luật mà không thông qua Quốc Hội thì có vi hiến không? Dầu sao thì Lyle Denission chỉ phân tích được sự kiện chứ không nêu được bản chất của vấn đề. Do cấu trúc “lưỡng đảng” và “check and balance” đã khiến chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ trở thành “lưỡng đầu” tức lập pháp lúc nào cũng có thể can dự vào chính sách đối ngoại của tổng thống khiến tình hình rối beng.

Sự kiện “Boehner và Netanyahu” đánh dấu bước khởi đầu suy thoái nghiêm trọng về quyền lực đối ngoại của tổng thống Mỹ trên chính trường quốc tế. Chẳng hạn khi tổng thống Hoa Kỳ ký kết hiệp ước hợp tác chiến lược hay hợp tác an ninh với một quốc gia nào đó, trong cuộc họp báo, một ký giả có thể cắc cớ hỏi, “Thưa tổng thống, tổng thống đã xin phép quốc hội để ký kết hiệp ước này chưa? Liệu trong tương lai, quốc hội Hoa Kỳ có mời thủ lãnh đối lập của quốc gia này đọc diễn văn tại quốc hội để chống lại hiệp ước không?”

Thêm vào đó, VOA tiếng Việt ngày 10/3/2015 loan tin, “Ngoại trưởng Iran nói rằng lá thư của các thượng nghị sĩ Mỹ thuộc đảng Cộng hòa cảnh báo là thỏa thuận hạt nhân có thể có với Iran có thể bị hủy bỏ một khi Tổng thống Barack Obama rời khỏi chức vụ cho thấy Hoa Kỳ không đáng tin cậy. Tại Tehran, Ngoại trưởng Javad Zarif nói với đại hội chuyên gia, cơ quan hàng đầu của các giáo sĩ Iran, rằng lá thư của 47 thượng nghị sĩ Mỹ là không có tiền lệ và không phù hợp với nguyên tắc ngoại giao. Ông Zarif nói thêm rằng thật ra, nó cho chúng ta thấy rằng chúng ta không thể tin nước Mỹ. Quan hệ đối ngoại của Mỹ với các chính phủ khác hầu như lúc nào cũng được thực hiện bởi các vị tổng thống và các nhà ngoại giao; và sự can thiệp trực tiếp của các nhà lập pháp qua lá thư đó đã gặp phải sự đả kích gay gắt của Tổng thống Obama. Tổng Thống Obama cho rằng thật là mỉa mai khi thấy một số thành viên Quốc Hội muốn có cùng mục tiêu với những thành phần cứng rắn ở Iran.” Báo USNews ngày 10/3/2015 cho rằng bức thư của 47 thượng nghị sĩ gửi cho Iran đã vi phạm luật lệ (GOP Senators Probably Broke Law With Iran Letter). Còn ABC News nói rằng, theo một số giáo sư dạy luật và nhà bình luận, hành động của 47 thượng nghị sĩ có thể là một tội phạm (might be a crime). Căng thẳng hơn nữa, AFP ngày 11/3/2015 loan tin, “155,000 người đã ký thỉnh nguyện thư gửi Tòa Bạch Ốc yêu cầu truy tố 47 thượng nghị sĩ Đảng Cộng Hòa tội phản nghịch khi gửi thư cho các nhà lãnh đạo Ba Tư về những thương thảo về nguyên tử đang diễn ra.” [SH - hiện giờ, con số chữ ký đang ngày càng tăng]



Như vậy nội tình nước Mỹ ngày càng rối beng và không còn ra thể thống gì nữa? Người ta có thể truy tố một công dân nào đó về tội phản nghịch chứ làm sao có thể truy tố 47 thượng nghị sĩ đương quyền về tội phản nghịch được? Quyền tự do phát biểu bất khả xâm phạm của các dân biểu và thượng nghị sĩ ở đâu? Có thể quy kết các ông này hành động điên khùng và vi hiến cho nên văn thư nói trên hoàn toàn vô giá trị xong rồi từ từ để nội vụ “chìm xuồng” Cộng Hòa và Dân Chủ, Tổng Thống và Quốc Hội cùng nhau rút ra bài học cho quyền lợi của nước Mỹ. Càng làm lớn chuyện ra, nước Mỹ càng xấu hổ vì nước Mỹ vẫn thường tự hào và “lên lớp” cho toàn thế giới về tinh thần thượng tôn luật pháp “Due Process of Law” và có một nền chính trị tân tiến và hữu hiệu nhất. Ngày 12/3/2015, theo AFP, Ngoại Trưởng Đức Frank-Walter Steinmeier đã trách cứ các thượng nghị sĩ Cộng Hòa là bức thư làm suy giảm niềm tin của Iran trong cuộc thương thảo trong đó có Đức tham dự. Như vậy câu chuyện đổ bể tùm lum. Tôi sợ rồi đây sẽ còn nhiều quốc gia khác lên tiếng chê bai, bình phẩm về nền chính trị Hoa Kỳ.

- AFP (Washington) ngày 3/3/2015: “Theo bản báo cáo mới nhất vào Thứ Ba, lực lượng an ninh A Phú Hãn chịu tổn thất nặng nề trên chiến trường và một số lớn binh sĩ đã từ nhiệm hoặc rời bỏ đơn vị. Giữa Tháng 10, 2013 và Tháng 9, 2014 khoảng 1300 binh sĩ A Phú Hãn bị giết và 6200 bị thương.” Đây là tin đáng buồn cho Mỹ và NATO. Cuộc chiến A Phú Hãn khởi đầu từ năm 2001 do liên quân Mỹ cầm đầu gồm 42 quốc gia quân sự hùng mạnh nhất hành tinh này, với kết quả 2000 lính Mỹ chết, chi phí gần 1200 tỉ đô-la vừa cho chiến trường vừa viện trợ vừa để huấn luyện quân đội A Phú Hãn. Năm 2014, Mỹ tuyên bố cuộc chiến chấm dứt, rút quân và để lại một quân đội với thành tích chiến đấu như trên. Nếu lực lượng Taliban tiếp tục lớn mạnh, để cứu nguy Kabul, có lẽ Mỹ phải nhảy vào một lần nữa như cuộc chiến ở Iraq. Thế mới hay, Mỹ có thể đánh bại và tiêu diệt một chính quyền như Iraq, Afghanistan, Libya trong chớp nhoáng nhưng chính quyền do Mỹ lập lên không có khả năng đề kháng lại sức chiến đấu dai dẳng của lực lượng kháng chiến và thường xụp đổ hoặc đất nước bị chia cắt hoặc triền miên bất ổn.

- Business Insider ngày 3/3/2015: Trong bài viết “Nga và Ai Cập càng xích gần lại nhau hơn nữa” (Russia and Egypt just got even closer) tờ báo cho biết hai quốc gia sẽ tiến hành tập trận hải quân chung trên Địa Trung Hải và Ai Cập sẽ tuyển chọn sĩ quan để được huấn luyện tại học viện quân sự Nga. Quan hệ Mỹ-Ai Cập đã xấu đi kể tử khi Tướng al-Sisi đảo chính lật đổ chính quyền dân cử của Ô. Morsi năm 2013. Hiện nay Mỹ cũng đang lên án nhà cầm quyền quân sự Thái Lan đã lật đổ chính quyền hợp pháp của Bà Yingluck khiến chính quyền này ngả dần sang Trung Quốc. Thực ra việc đảo chính lật đổ các chính quyền ở Ai Cập và Thái Lan chỉ là chuyện chính trị nội bộ của người ta và thế giới chẳng ai quan tâm vì nó không ảnh hưởng tới an ninh khu vực, nhưng Mỹ cứ can thiệp vào vì Mỹ tự cho mình “thiên chức” bảo vệ dân chủ và nhân quyền trên toàn thế giới. Chính vì thế mà Mỹ cứ mất dần đồng minh.


Đại sứ Mỹ tại Hàn Quốc Mark Lippert rời giảng đường để đến bệnh viện
ở Seoul, Hàn Quốc, sau khi bị tấn công ngày 05 Tháng 3 năm 2015

- AP (Seoul): Truyền thông Nam Hàn cho hay Đại Sứ Hoa Kỳ Mark Lippert bị tấn công khi đang diễn thuyết và được đưa vào bệnh viện. Đài tuyền hình YTN trình chiếu hình ảnh Lippert bi rạch ở má và cổ tay nhưng vết thương không nguy tới tính mạng. Truyền hình YTN cho biết hung thủ có tên Kim Ki-jong đã bị bắt sau sau đó. Theo cảnh sát, người đàn ông vung con dao cạo và miệng hô khẩu hiệu thống nhất Nam- Bắc Hàn. Những người biểu tình chống Mỹ tại Hán Thành (Seoul) mới đây đã lên tiếng chống đối những cuộc tập trận hằng năm của Mỹ và Nam Hàn mà Bắc Hàn nói rằng được chuẩn bị cho cuộc xâm lăng. Còn Hán Thành và Hoa Thịnh Đốn nói rằng những cuộc tập trận kéo dài tới cuối Tháng Tư chỉ có tính tự vệ và thường xuyên.” Hãng AP nói thêm, vụ tấn công vị đại sứ Hoa Kỳ cho thấy tính bạo lực trong xã hội Nam Hàn, một số người sẵn sàng hy sinh tính mạng để bày tỏ quan điểm của mình. Trong khi đó thành phần khuynh tả (2) cũng tức giận vì sự hiện diện quân sự Mỹ ở Bán Đảo Triều Tiên.

- Yahoo News ngày 5/3/2015: “Một thống kê lạnh người. Theo Bộ Cựu Chiến Binh, hai mươi hai (22) cựu chiến binh Hoa Kỳ tự tử một ngày. Nạn nhân mới nhất, Đại Úy Trừ Bị Không Quân Jamie Bruette trẻ tuổi nhất có năm con, sau hai lần tăng phái tham dự chiến trường Afghanistan và sau 11 năm phục vụ trong không quân. Nguyên do khiến các cựu chiến binh tự tử là vì chứng “post-traumatic stress disorder” PTSD (3) là chứng rối loạn thần kinh kéo dài do gặp phải những biến cố gây chấn động cân não. “ Nhưng theo một thống kê khác của năm 2007 khoảng 18 cựu chiến binh Hoa Kỳ tự tử mỗi ngày.

- AP ngày 5/3/2015: “Thủ Tướng Ý Đại Lợi viếng thăm Moscow vào Thứ Năm trong một nỗ lực hàn gắn mối quan hệ giữa Nga-Tây Phương bị tổn thương vì cuộc khủng hoảng Ukraine. Hầu hết các lãnh đạo Phương Tây đều lánh xa Moscow khi bang giao đã xuống tới mức thấp nhất kể từ Chiến Tranh Lạnh. Chuyến thăm viếng của Thủ Tướng Matteo Renzi phản ảnh mong muốn cải thiện quan hệ song phương về kinh tế đã bị tổn hại vì Liên Hiệp Âu Châu đã áp đặt lệnh cấm vận và những biện pháp trả đũa của Nga.”

- BBC tiếng Việt ngày 6/3/2015: Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius trong dịp viếng thăm Đại Học Quốc Gia Hà Nội tuyên bố, “Không có điều gì là không thể trong quan hệ giữa hai nước, chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam bay cao và bay xa hơn nữa.”

- AP (Tel-Aviv, Israel) ngày 7/3/2015: “Vài chục ngàn người đã xuống đường biểu tình tại Quảng Trường Tel Aviv giương cao biểu ngữ ‘Do Thái Muốn Thay Đổi’ và kêu gọi thay thế Thủ Tướng Netanyahu trong cuộc bầu cử vào 17 Tháng 3 tới đây. Cuộc biểu tình do nhóm bất vụ lợi tổ chức kêu gọi thay đổi những chính sách ưu tiên của quốc gia và yêu cầu chính phủ tái tập trung vào các vấn đề như y tế, giáo dục, gia cư/nhà ở và giá sinh hoạt của người dân.”

- AFP ngày 8/3/2015: “Ngoại Trưởng Vương Nghị của Trung Quốc cam kết tiến hành hợp tác kinh tế và ngoại giao với Nga cho dù Phương Tây áp đặt lệnh cấm vận Nga do cuộc khủng hoảng Ukraine và nhấn mạnh rằng mối liên hệ dựa trên nhu cầu hỗ tương/hai bên đều có lợi."

- AFP ngày 8/3/2015: “Trên sàn/boong tàu Hàng Không Mẫu Hạm Charles de Gaulle, Tướng Demsey- Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ bênh vực nhịp độ không kích chống lại Nhà Nước Hồi Giáo IS và cảnh cáo rằng leo thang oanh tạc và gửi thêm binh sĩ Hoa Kỳ tới Iraq và Syria là một sai lầm và thay vào đó ông đề nghị một chiến lược kiên trì để chống nhóm IS. Theo Tướng Dempsey, mở rộng oanh kích có thể khiến thường dân thương vong và IS lấy cớ đó để tuyên truyền.” Lời thú nhận của Tướng Dempsey cho thấy số thường dân chết trong các vụ oanh kích ở Iraq và Syria rất cao khiến Nhóm IS lấy cớ đó kêu gọi chí nguyện quân trên toàn thế giới. Hiện nay Nhóm Boko Haram ở Nigeria đã gia nhập và nguyện trung thành với Nhà Nước Hồi Giáo IS. Tại Libya, hai chính quyền cùng tranh nhau cai trị đất nước, và các nhóm chủ chiến có liên hệ mật thiết với al Qaida và Nhà Nước Hồi Giáo IS tung hoành không một thế lực nào ngăn cản được. Các nước như Hoa Kỳ, Anh và Ý Đại Lợi đã đóng cửa tòa đại sứ tại Tripoli.

- Business Insider ngày 10/3/2015: “Theo một số nguồn tin từ Trung Quốc và Đài Loan, các giới chức Hoa Lục đã xác nhận là đất nước này đang tự đóng một hàng không mẫu hạm (HKMH) thứ hai. HKMH Liêu Ninh theo các chuyên viên quân sự có tính huấn luyện hơn là khả năng tác chiến.”

- Reuters ngày 12/3/2015: “Tờ Finacial Times cho biết, Liên Hiệp Âu Châu hỗ trợ quyết định của Euratom (Cộng Đồng Năng Lượng Nguyên Tử Âu Châu) ngăn chặn thỏa hiệp nhà máy nguyên tử trị giá 12 tỉ euro giữa Hung Gia Lợi và Nga. Hành động này có thể làm cho tình hình giữa Nga và Brussels trở nên tệ hại hơn.”

- Business Insider ngày 13/3/2015: “Trang nhất của tờ Financial Times (Anh Quốc) vào sáng Thứ Sáu đã đi một bản tin làm mọi người ngạc nhiên phản ảnh căng thẳng ngoại giao hiếm thấy giữa các giới chức cao cấp nhất của Hoa Kỳ và Anh Quốc - chính phủ Anh bị Hoa Kỳ cáo buộc là thường xuyên “chiều theo ý” của Hoa Lục - một cường quốc đang lên.” Chiều theo Trung Quốc ở đây có nghĩa là: Anh Quốc chúc mừng Ngân Hàng Đầu Tư Hạ Tầng Cơ Sở Á Châu (Asia Infratructure Investment Bank) do Trung Quốc thiết lập và ngỏ ý gia nhập ngân hàng này vốn là đối thủ của World Bank do Hoa Kỳ khống chế. Thứ hai, Anh Quốc tự chế không công kích Hoa Lục khi phong trào biểu tình ở Hongkong nổ ra. Thứ ba, tuyên bố sẽ không có cuộc gặp gỡ nào nữa với Đức Dalai Lama sau cuộc tiếp xúc vào năm 2013 gây phẫn nộ từ phía Hoa Lục.” Thế mới hay dù là đồng minh chí cốt nhưng vẫn có mâu thuẫn về quyền lợi như thường. Và hành động của Anh Quốc khiến Hoa Kỳ chạm tự ái vì đã nâng cao vị thế của Hoa Lục và làm suy giảm ngôi vị “võ lâm chí tôn” của mình.

- Bloomberg News ngày 13/3/2015: “Việt Nam bắt đầu xây dựng hệ thống điện gió (Wind Farm) tại Tỉnh Darlac thuộc Vùng Cao Nguyên trị giá 281 triệu đô-la, có công xuất 120-megawatt. Công ty General Electric của Hoa Kỳ sẽ cung cấp 60 turbines . Đợt đầu được phát điện vào năm 2016. Còn Vestas Wind Systems - một công ty điện gió lớn nhất thế giới đã ký khế ước trị giá 436 triệu đô-la để xây dựng hệ thống điện gió tại Sóc Trăng vào năm 2016.”

- AP (Tokyo) ngày 13/3/2015: “Nhật Bản và Pháp vừa ký thỏa hiệp hợp tác và chuyển giao kỹ thuật - mở đường cho việc chế tạo máy bay không người lái và những thiết bị không người lái khác trong khi Nhật đang tìm cách mở rộng vai trò quân sự trên quy mô quốc tế.”

B. Nhận Định:

Trong hai tuần qua, những diễn biến mới nhất cho thấy cuộc Chiến Tranh Lạnh Mới giữa Nga và Mỹ ngày càng quyết liệt và lan rộng từ Âu Châu sang Á Châu.

1) The World Post ngày 2/3/2015 trong bài báo nhan đề “Tại Ukraine, Hoa Kỳ đang trả giá cho một Chiến Tranh Lạnh Mới” (In Ukraine, U.S. Is Forfeiting New Cold War) tác giả Shai Franklin viết, “Không, Liên Bang Sô-viết không tái xuất hiện. Nhưng Liên Bang Nga đang tự khẳng định mình là ai và một Chiến Tranh Lạnh Mới đã mở màn. Mặt trận đầu tiên của cuộc chiến tranh này là Ukraine. Những gì mà Hoa Kỳ phản ứng đang ảnh hưởng tới hành động của Nga và cả Âu Châu suốt phần còn lại của thế kỷ. Trừng phạt kinh tế Nga là một niềm an ủi tệ hại nếu chúng ta vẫn còn để Ukraine sụp đổ về tài chính lẫn quân sự.” (No, the Soviet Union isn't coming back. However, the Russian Federation is reasserting itself and a new Cold War has already opened. The first front in this war is Ukraine. How the United States responds now will influence how Russia acts and how Europe evolves for the rest of this century. Punishing Russia economically is poor consolation if we still allow Ukraine to collapse financially and militarily.)

2) Voice of Russia ngày 7/3/2015: “Đại diện thường trực của Nga tại Liên Hợp Quốc, Ô. Vitaly Churkin tuyên bố sự xuất hiện của quân đội Mỹ ở Ukraina có thể trở thành thảm họa.”


Ảnh minh họa phân chia ảnh hưởng Nga & Mỹ trên thế giới
- trích "The Dirty War on Ukraine"

3) BBC Âu Châu ngày 8/3/2015: “Henry Kissinger- Cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ nói với BBC tuần rồi là Nga và NATO cần nghiêm túc tìm kiến giải pháp ngoại giao cho cuộc khủng hoảng Ukraine, nếu không thì nguy cơ Chiến Tranh Lạnh có thể là không tránh khỏi.” Vào ngày 9/3/2015, Hoa Kỳ đã gửi hằng trăm xe bọc thép và chiến xa tới các quốc gia vùng Baltic bao gồm Estonia, Latvia và Lithuania để ngăn chặn sự đe dọa từ Nga. Các quốc gia này đều đã gia nhập Liên Minh Âu Châu và NATO. Theo Business Insider, một cuộc thăm do mới nhất của Levada Center cho thấy hơn 81% dân Nga nhìn Hoa Kỳ với con mắt không thiện cảm (negative). Con số này gia tăng gấp đôi so với năm ngoái.”

4) The Fiscal Times ngày 10/3/2015: “Moscow thông báo sẽ ngưng mọi sự liên hệ tới thỏa hiệp về vũ khí ký kết khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc. Thỏa Ước Về Quân Đội Quy Ước Âu Châu (The Treaty on Conventionnal Armed Forces in Europe) được ký năm 1990 bởi 16 quốc gia NATO và 6 quốc gia thuộc khối Warsaw nhằm hạn chế quân số, chiến xa, pháo binh và những thiết bị quân sự phi -nguyên-tử đóng ở Âu Châu.” Đây là điềm không tốt báo hiệu sự bất ổn triền miên cho Âu Châu và cuộc Chiến Tranh Lạnh Mới giữa Nga và Phương Tây (Mỹ &NATO) thật sự bắt đầu.

5) Value Walk ngày 11/3/2015 trong bài viết có tựa đề “Nga và Hoa Kỳ Đang Lao Tới - Có Thể Là Cuộc Chiến Tranh Nguyên Tử” (Russia, U.S. Heading Towards A Possible Nuclear War) đã trích dẫn lời của Ô. Jack Matlock- Cựu Đại Sứ Hoa Kỳ tại Nga dưới thời Tổng Thống Reagan như sau: “Hoa Kỳ không có lợi ích nào khi can thiệp vào Ukraine để chấp nhận một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân. Nếu như có một đe dọa lớn đối với an ninh quốc gia thì là như thế. Tổng Thống Obama phải công khai ngưng cuộc đọ kiếm tay đôi với Vladimir Putin. Matlock mô tả mối liên hệ hiện tại Nga-Mỹ là độc hại. Ưu tiên lớn nhất của Phương Tây là tái lập mối quan hệ dân sự với Moscow.” Còn Ramsey Clark - cựu Bộ Trưởng Tư Pháp của Ô. Obama, năm ngoái đã gửi một bức thư ngỏ cho tổng thống của mình trong đó nói, “Không có gì nguy hiểm hơn là hành động hung hăng của Mỹ/NATO đưa quân tới sát biên giới Nga.”

6) Reuters (Washington) ngày 11/3/2015: “Hoa Kỳ vừa yêu cầu Việt Nam ngưng không cho Nga sử dụng căn cứ không quân cũ của Hoa Kỳ ở Cam Ranh để tiếp dầu cho những máy bay ném bom chiến lược có khả năng mang bom nguyên tử nhằm phô diễn sức mạnh quân sự ở vùng Châu Á Thái Bình Dương, điều này phơi bày sự căng thẳng ở Washington trong khi mối liên hệ nồng ấm với Hà Nội đang diễn ra vững chắc.”



Với sự hiện diện của các máy bay ném bom chiến lược của Nga bay trên không phận Guam và được tiếp dầu tại Căn Cứ Cam Ranh cho thấy lần đầu tiên trong 25 năm (1990-2015) Nga xác định sự hiện diện quân sự của mình tại Đông Nam Á để đáp trả lại kế hoạch lấn dần tới biên giới Nga của Mỹ và NATO. Như thế cuộc Chiến Tranh Lạnh Mới đã không còn giới hạn ở Âu Châu và bắt đầu lan qua Á Châu. Một khi đã lan qua Châu Á, những tình huống sau đây có thể xảy ra:

- Trung Quốc “mừng hết lớn”. Mừng thứ nhất là Mỹ sẽ phải tập trung nỗ lực để đối đầu với Nga do đó không còn khả năng kiềm chế Hoa Lục. Mừng thứ hai là khi tình hình Á Châu nát bét- người theo phe này, kẻ theo phe kia là điều kiện thuận lợi để Hoa Lục tung hoành. Khi Đông Nam Á yên bình và đoàn kết sẽ vô cùng bất lợi cho Trung Quốc.


Bắc Hàn và Nam Hàn,
http://commons.wikimedia.org/

- Nam Hàn cũng vô cùng khó xử. Nếu không đi với Mỹ thì áp lực về các mặt kinh tế, ngoại giao và quân sự sẽ hết sức nặng nề. Nếu liên minh với Mỹ chống Nga thì Bắc Hàn sẽ là mũi nhọn tấn công. Khi đó mộng chống Nga chưa thành mà đất nước đã tan nát rồi. Vì quyền lợi tối thượng của đất nước có thể Nam Hàn sẽ giữ vị trí trung lập. Hiện Nga đang tổ chức “Năm Hữu Nghị” với Bắc Hàn và Ô. Kim Chính Ân sẽ thăm Nga vào Tháng 5 này.

- Vị thế của Nhật Bản lại càng khó xử hơn nữa. Nếu theo Mỹ chống Nga, Nhật Bản sẽ phải liên tục đối đầu với hai ông bạn làng giềng khổng lồ, đất nước căng thẳng, kinh tế suy thoái vì chạy đua vũ trang. Nếu không nghe lời “ông anh Mỹ” thì lấy ai răn đe Trung Quốc cho Nhật Bản đây? Ngoài ra, nếu Nhật Bản chỉ chống Trung Quốc không thôi thì đối với Việt Nam không có vấn đề. Nhưng nếu Nhật Bản chống Nga thì sẽ gây khó cho Việt Nam. Hiện nay Đức đang vận động để Nhật cùng tham gia với Âu Châu để cấm vận Nga. Nhức đầu quá!

- Một số quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai, Miến Điện chắc chắn sẽ đứng trung lập vì không dại gì “giơ đầu chịu báng”. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy theo phe nào cũng chết.

- Hai quốc gia có thể sẽ liên minh với Mỹ để chống Nga, đó là Phi Luận Tân và Tân Gia Ba.

- Còn Việt Nam thì đương nhiên ở vào tình thế khó xử nhất rồi. Đi với Mỹ thì bị Mỹ ép và từ từ mất chủ quyền. Không đi với Mỹ thì không đủ khả năng kiềm chế Hoa Lục ở Biển Đông và phát triển kinh tế. Trong khi mối liên hệ có tình cách lịch sử, lâu bền về mọi mặt với Nga vô cùng quan trọng - về chính trị, ngoại giao lẫn quân sự. Nga đã và đang cung cấp những vũ khí tối cần thiết cho Việt Nam để xây dựng quốc phòng, giúp Việt Nam huấn luyện thủy thủ và căn cứ sửa chữa tầu ngầm tại Cam Ranh, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, thiết lập trung tâm không gian, chia xẻ những tức quân sự qua trung tâm thông tin hỗn hợp, giúp Việt Nam đóng tàu chiến, thành lập đại học kỹ nghệ quốc phòng… Nếu nghe theo lời Mỹ thì phá vỡ liên minh chiến lược với Nga, điều mà Việt Nam sẽ không bao giờ chấp nhận.


Vịnh Cam ranh

Qua thực tiễn lịch sử và địa lý chiến lược của Á Châu ngày hôm nay mà nói - nếu Việt Nam nổ ra một cuộc xung đột quân sự thì người giúp Việt Nam nhiều nhất là Nga chứ không phải Mỹ vì Mỹ đã “thề” là sẽ không bao giờ dính líu vào một cuộc chiến ở Châu Á nữa. Vậy thi vần đề là: Trong tình thế hiện tại, nếu Việt Nam cần Mỹ hơn Nga, Việt Nam sẽ nhượng bộ. Ngược lại, nếu Việt Nam cần Nga hơn Mỹ thì Việt Nam sẽ không nhượng bộ. Đây là vấn đề vô cùng tế nhị mà Hoa Thịnh Đốn phải thấy Việt Nam không phải là Nam Hàn hay Nhật Bản hễ Mỹ nói thì phải nghe theo. Trong mấy năm qua, các tàu chiến Mỹ đã ra vào Cam Ranh để sửa chữa, bảo trì và tiếp vận. Do đó hai bên phải tương thảo trong âm thầm chứ không thể ồn ào qua các cuộc họp báo hoặc gây áp lực theo kiểu “loudspeaker diplomacy”. Theo tôi, Việt Nam có thể sẽ yêu cầu Nga giảm bớt các chuyến bay để “chiều lòng” Mỹ chứ không ra lệnh chấm dứt các chuyến bay ghé Cam Ranh để tiếp dầu. Tuy nhiên nếu cuộc Chiến Tranh Lạnh Mới Nga - Mỹ ngày càng trở nên quyết liệt, thế giới sẽ chia đôi theo lằn ranh Đông-Tây, lúc đó Việt Nam, do nhu cầu sinh tử, sẽ ngả theo Nga nhưng vẫn không chống Mỹ.

Vào ngày 12/3/2015, theo BBC tiếng Việt, Ô. Igor Korotchenko, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Mua bán Vũ khí, một viện nghiên cứu phi chính phủ nằm tại Moscow nói rằng “Việc ám chỉ phi cơ Nga có thể được tiếp nhiên liệu từ căn cứ ở Vịnh Cam Ranh và rằng các phi cơ này có khả năng mang đầu đạn hạt nhân là tuyên bố khiêu khích và vô căn cứ, và đề nghị của Mỹ về Cam Ranh là thô lỗ.” Ngày 13/3/2015, BBC tiếng Việt loan tin, “Bộ Ngoại giao Nga tuyên bố: Chúng tôi lấy làm khó hiểu vì các bình phẩm của quan chức Mỹ rằng hành động của Không Quân Nga, gồm việc dùng cơ sở hạ tầng ở Cam Ranh, Việt Nam để tiếp nhiên liệu, có thể dẫn tới ‘căng thẳng khu vực gia tăng’.”

- Thế nhưng Mỹ cũng ở vào tình thế vô cùng khó khăn. Nếu ép Việt Nam mà Việt Nam không nghe, thì Mỹ sẽ không giúp Việt Nam nữa hoặc trả đũa hoặc bao vây, cấm vận, lật đổ. Nhưng khi Việt Nam suy yếu đi, tức không còn khả năng ngăn chặn Trung Quốc ở Biển Đông thì Phi Luật Tân lâm nguy. Lúc đó Mỹ phải lui về cố thủ ở Guam - tức biên giới phòng thủ từ xa của Mỹ co lại, chiến tranh nếu xảy ra là xảy ra trên đất Mỹ chứ không còn ở nơi xa lắc xa lơ nữa. Đó là cơn ác mộng của Mỹ.

Do đó nếu Mỹ có giúp Việt Nam là tự giúp mình, tự biến Việt Nam thành một “tiền đồn tự nhiên” ngăn chặn Trung Quốc… chứ không phải Mỹ hoàn toàn thương xót Việt Nam. Xin nhớ cho không một đại cường nào đem tiền của giúp một quốc gia nhỏ bé mà hoàn toàn vô tình hay bất vụ lợi. Ngay cả vấn đề giúp đỡ thiện nguyện, người cho cũng có chủ ý chứ không phải hoàn toàn vì lòng từ bi hay bác ái. Trên thế gian này, thánh nhân rất hiếm, còn phàm phu tục tử thì nhiều lắm.

Dù muốn dù không, cuộc đối đầu Nga-Mỹ sẽ ảnh hưởng toàn cầu và sẽ gây thảm họa cho nhân loại. Thế mới hay, thân phận các nước nhỏ muôn đời là khốn khổ, “Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng” lơ mơ là tan nát do tham vọng - có khi cuồng điên của các đại cường. Trong bài viết “Chiến Tranh Lạnh Nga-Mỹ Lù Lù Trước Mắt” phổ biến ngày 4/7/2014 tôi đã viết, “Năm xưa Ban AVT có bài hát khôi hài dí dỏm, “như hai cô ca sĩ có thương nhau bao giờ” sau đổi thành “như Nga với Mỹ có thương nhau bao giờ ” sao mà đúng thế. Thực ra không phải chỉ có Nga-Mỹ mới ghét nhau mà bất cứ một đại cường nào cũng chẳng bao giờ “thương” một đại cường khác. Nguyên do, đại cường nào cũng muốn mình bá chủ. Mỹ đang là bá chủ thế giới và lúc nào cũng muốn duy trì ngôi vị ấy muôn đời. Nga thì muốn phục hồi uy thế và sức mạnh của thời Liên Bang Xô-viết và có tiếng nói trong những vấn đề quốc tế. Còn Hoa Lục thì đang muốn vươn lên để giành ngôi bá chủ với Mỹ. Trong cuộc tranh giành ngôi vị “võ lâm chí tôn” đó, ông nào cũng muốn liên kết đồng minh hoặc dụ dỗ, lôi kéo các nước nhỏ vào phe mình. Do đó trong cuộc “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết” sắp tới đây, nước nhỏ nào không có bản lãnh hoặc thiếu suy tính sẽ tự chuốc lấy tai họa.

Đào Văn Bình

(California ngày 15/3/2015)

Cước chú:

1) Lyle Denniston là cố vấn nghiên cứu của Trung Tâm Hiến Pháp Quốc Gia Hoa Kỳ

2) Khuynh tả, khuynh hữu có rất nhiều nghĩa: Chống Mỹ là khuynh tả, theo Mỹ là khuynh hữu. Có thiện cảm với các phong trào cộng sản là khuynh tả, thiện cảm với chủ nghĩa tư bản là khuynh hữu. Ngả theo quyền lợi của giai cấp nghèo khổ (khuynh hướng xã hội) là khuynh tả, ngả theo quyền lợi của các đại công ty tư bản là khuynh hữu. Trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, theo Mỹ và NATO là khuynh hữu, theo Nga là khuynh tả.

3) Post traumatic stress disorder (PTSD) is a serious mental condition which is a lasting consequence of traumatic events





Án tử cho tham nhũng: Dựa vào thực tế




Thời giá bây giờ cũng khác

Trước ý kiến của một số đại biểu thảo luận về một số định hướng cơ bản của Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) tại Hội thảo do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức ngày 25/3, tán thành đề xuất nhận hối lộ từ 5 triệu đồng trở lên mới bị xử lý hình sự.

Trao đổi với Đất Việt, ông Phạm Trọng Đạt - Cục trưởng Cục chống tham nhũng cho biết: "Việc thay đổi mức tiền cũng chỉ xét về mặt con số, còn thực chất dù là 2 triệu hay 5 triệu thì vẫn là hành vi tham ô".

Về việc xử lý, ông Đạt cho hay: "Mức độ xử lý hình sự thì phải căn cứ vào hậu quả của hành vi".

Kế toán bắt tham nhũng: Rất tốt nhưng... khó!


Còn chuyện đề xuất tăng mức xử lý hình sự theo ông Đạt, thời giá bây giờ cũng khác, nên chuyện tăng mức giới hạn là điều tất nhiên.

Mặt khác, khi nói đến việc có nhiều ý kiến lo ngại, hiện nay khó xử lý được tham nhũng vặt, ông Đạt nhận định: "Tham nhũng vặt cũng là tham nhũng, đây chỉ là việc đưa ra mức để phân biệt xử lý hành chính hay xử lý hình sự, có số liệu cân đo đong đếm, để phân biệt cách xử lý, nhưng cũng không phải vì cái đó mà để ảnh hưởng đến tham nhũng vặt.

Theo quan điểm của ông Đạt thì bây giờ phải quan tâm đến tham nhũng lớn để xử lý, nhưng tham nhũng vặt cũng phải xử lý nhưng hiện nay phát hiện chưa nhiều, chưa phát hiện được bao nhiêu so với thực tế.

Tuy rằng, từ trước đến nay đã phát hiện nhiều, do các ngành, các cấp, địa phương phát hiện, nhưng chưa xử lý được mà phải căn cứ vào Luật nhưng không phải vụ nào cũng xử lý hình sự được.



Cần nghiên cứu Luật để xử lý hành vi tham nhũng


"Hiện nay, tham nhũng vặt đa số thường rơi vào cấp địa phương, cơ sở nhiều hơn, họ thực hiện liên quan đến kinh tế, tiền bạc, cấp địa phương thì lại nhỏ lẻ hơn cấp trung ương, việc đó là đương nhiên, nhưng dù nhiều hay ít thì cũng liên quan đến kinh tế, đến ngân sách, nên không thể nói tham nhũng vặt là không cần để ý được", ông Đạt nói.

Về biện pháp xử lý, ông Đạt cho rằng, chủ yếu vẫn là tuyên truyền hành vi đó là vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, tăng cường thanh tra, giám sát, kiểm tra, đặc biệt là trách nhiệm người đứng đầu phải quyết liệt, như vậy chắc chắn tham nhũng vặt sẽ giảm.

Tử hình với người có hành vi tham nhũng: Cần dựa vào thực tế

Nhìn nhận góc độ khác, nhiều đại biểu khẳng định với tình hình hiện nay, nên áp dụng hình thức tử hình đối với các hành vi tham nhũng, ông Đạt cho hay: "Những người làm Luật phải theo thực tế, theo cá nhân để xem xét, điều chỉnh Luật theo thực tế, biết là có nhiều sự việc phải xử lý nhưng không thể lấy mục đích án tử hình là cao nhất, mà phải tùy từng sự việc, căn cứ nhiều yếu tố".

Theo Cục trưởng Cục chống tham nhũng, nếu nói không áp dụng án tử hình cũng không phải là đúng, nhưng nếu nói phải tử hình thì cũng không phải là đúng, nên theo ông phải căn cứ vào từng vụ việc cụ thể, dựa theo luật pháp quy định.

Hơn nữa, những người làm Luật nên suy nghĩ thực tế, tuân thủ ý kiến đông đảo tầng lớp nhân dân các ngành. Đối với tội tham nhũng thì theo tinh thần chỉ đạo chung, đây được coi là quốc nạn, thì phải theo dõi, không nên để làm ảnh hưởng uy tín, kìm hãm phát triển kinh tế.


Người siêu giàu tăng nhanh:Làm giàu bất hợp pháp thì phải xử!


"Bây giờ, phải tăng cường quy định của pháp luật, giáo dục cho nhân dân, giáo dục cho cán bộ giảng viên, rõ về quy định của pháp luật, tuyên truyền chấp hành cho đúng, có hình thức xử lý nghiêm minh, không nên để có trường hợp ngoại lệ.

Tăng cường lòng tin của dân, dân có tin thì mới giúp phát hiện nhiều, từ đó có cơ sở làm tốt hơn", ông Đạt chỉ rõ.

Tuy nhiên, theo ông giải pháp đã đầy đủ nhưng trách nhiệm người đứng đầu vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, xử lý, phát hiện hành vi tham nhũng.

Mặt khác, theo Cục trưởng Cục chống tham nhũng, các cơ quan đảm nhận trách nhiệm này phải đủ sức mạnh, nghĩa là xây dựng cơ chế đủ mạnh, mạnh về chất lượng, hiệu quả, mạnh về cách phối hợp với các cấp, các ngành.

Tất cả phải có lộ trình, lâu dài, gian khổ, không thể một sớm một chiều. Bởi vì, đối tượng của tham nhũng là những người có chức, có quyền lực, không phải dễ phát hiện được ngay như các tội phạm khác nên phải có phương pháp, cơ chế. Cơ quan trực tiếp làm phải đủ mạnh, đủ quyền năng thực hiện nhiệm vụ theo pháp luật.

Ông Đạt nhấn mạnh: "Tới đây tổng kết 10 năm hiệu quả của Luật phòng, chống tham nhũng chúng tôi cũng sẽ xem những bất cập, rồi sửa chữa, để đẩy nhanh tiến độ, xử lý.

Chúng ta phải xác định, còn nhà nước và pháp quyền, còn cơ chế xin - cho thì còn tham nhũng, đó là điều tất yếu, chỉ là chúng ta điều hành, xử lý ra sao cho hiệu quả. Bản thân tồn tại tham nhũng là khách quan, chủ quan phải thiết thực đủ mạnh thì sẽ giải quyết được".
Thanh Huyền

Sách Lược Mới tuyệt vọng của Thế Lực Nhà Nước Tấn Công Tự Do Tư Tưởng




Xuyên xuốt lịch sử từ khi xã hội con người bị chính hóa, thế lực quyền chính tồn tại trên nền tảng BẠO LỰC và HƯ CẤU TUYÊN TRUYỀN. Giai cấp quyền chính luôn tận dụng tất cả thủ đoạn để khống trị và kiểm soát dư luận suy tư quần chúng, nhất là nỗ lực chất vấn hoài nghi của quần chúng về những hành xử của thế lực cầm chính. Mọi phương thức được tận dụng từng góc cạnh trong đời sống để gây chia rẽ nghi kị trong quần chúng và trấn áp mọi nỗ lực phanh phui sự thật về tính CHÍNH ĐÁNG của cái gọi là "nhà nước (the state). Những danh từ "phản loạn", "làm giặc", "bất trung", "phạm thượng", “phản động”, “phản dân tộc” v.v đều được pháp hóa thành những tội chống "an ninh xã hội", "an ninh quốc gia", "quyền lợi quốc gia"- mặc nhiên đồng hóa tất cả những hành xử của cá nhân hay tập đoàn quyền chính vào với quyền lợi an ninh của quốc gia.. và mỉa mai nghịch lý thay, quần chúng lại luôn là đối thủ, đối tượng đe dọa thường hằng của nền pháp luật mà theo định nghĩa chính qui là “để bảo vệ tự do hạnh phúc của quần chúng.”

Không phải đợi đến thế kỷ hiện đại những thủ thuật rình mò theo dõi kiểm soát đời sống, hành xử lẫn suy nghĩ riêng tư của người dân mới được tận dụng, tất cả nó là hành xử bản chất thường hằng của nguyên lý quyền lực cai trị. Bởi khi người dân khi có đủ khoảng trống không gian và thời gian để chất vấn lý giải, tính chính đáng của “nhà nước tận thiện” sẽ tan như mây khói dưới hàng dãy núi và biển tội ác và gian dối ngập kín xác thân xương máu của người dân. 

Sự khác biệt cấu trúc và kích thước quyền lực của thời hiện đại là tập đoàn cai trị với cái định chế nhà nước đã "kiện toàn" về cả mặt giảo thuyết và biện pháp, được miên tục củng cố qua sự tiến bộ vượt bực của kỹ thuật thông tin chuyên biệt lẫn đại chúng. Tiến trình này giúp thế lực tập đoàn quyền chính không chỉ độc quyền bạo lực trên mặt định chế (institutions) mà càng ngày càng lan rộng và triệt để ngay từ phương tiện vũ khí cho đến hệ thống giáo dục, kinh tế, tài chính v.v không một khía cạnh nào của đời sống con người không bị kiềm tỏa và trấn áp trực tiếp hoặc gián tiếp. 

Mọi hành xử của con người đều bị kềm tỏa và kiểm soát chặt chẽ và tinh vi hoàn hảo hơn bao giờ hết. Tất cả những hành xử từ thể hiện tương tác sinh hoạt xã hội bên ngoài cho đến suy nghĩ phát biểu phải được "phép" và “trong qui định: của nhà nước. Từ sự kiện sinh ra làm người không chọn lựa (tiến trình đăng ký khai sinh) cho đến ngay cái chết cũng không được quyền tự chủ ngoài qui định (euthanasia)- và khi chết rồi, thi thể và tiến trình chôn cất (khai tử giảo nghiệm tang lễ chôn cất) cũng thuộc những qui định của nhà nước. 

Tự do, chỉ còn là một ý niệm, nếu những ai còn đủ năng lực trí tuệ nhận thức, để hiểu ước muốn tự do, tự do nhân phẩm thật sự là gì, là như thế nào (liberty, free-will). Ý niệm về tự do và giá trị đích thực của nó không phải sinh vật hai chân , hay “vật người” (manimal) ai cũng nhận thức được. Từ ngàn xưa đã có những người hiểu rất rõ về nó như Lão tử, Phật, Trang Tử, Mặc Tử, Dương Chu, ý nghĩa mà cận đại mới thấy được những người như Nietzsche, Thoreau, hoặc như một số các tư tưởng gia trong phong trào phi quyền chính hiểu đến. Tất cả còn lại bị huân tập hành xử trong cái nhà tù lớn gọi là “định chế quốc gia” với những khoảng được cho phép hành xử, suy nghĩ theo điều hướng chỉ đạo, mà họ cho là “tự do”, nhưng cũng chỉ “tự do” đến khi nhà nước ngang nhiên bạo lực tước đoạt, thậm chí ngang nhiên tận dụng, tước đoạt cả sinh mạng của họ một cách tùy tiện. Trong chủ nghĩa “nhà nước quốc gia”, theo đúng định nghĩa, con người sinh ra, không phải để SỐNG cho chính nó, mà chỉ để làm tài sản của nhà nước (asset of the state) Hàng trăm triệu sinh mạng bị “động viên” vào bắn giết trong những cuộc chiến tranh cận đại đã cho thấy rõ điều này. Tuân thủ thì có cơ may được phong tặng “anh hùng” nếu tàn sát đồng loại thật nhiều; còn cưỡng chống bất tuân, trở thành tội đồ chung thân hoặc tử hình. Hoàn toàn không có tự do chọn lựa!

Để ngăn chặn và khủng bố những nỗ lực chất vấn và nhận thức trong quần chúng nẩy mầm và lan rộng thành những cuộc cách mạng, trong mỗi một thời điểm khác nhau, bọn tập đoàn quyền lực phối hợp với tầng lớp khoa bảng, những tên phù thủy ngôn ngữ và tâm lý, nặn óc đẻ ra những thủ thuật và ngôn từ để xếp loại mỉa mai, chế nhạo, xỉ nhục, đe dọa, và cô lập tất cả những nỗ lực chất vấn đối kháng. 

Cụm từ mà chúng ta thường nghe hôm nay được dùng trong những nỗ lực vô hiêu hóa khả năng chất vấn lý giải sự kiện và các thông tin từ chính qui nhà nước, cũng như tấn công để bịp miệng và cô lập các nhóm thông tin độc lập về những chất vấn truy tìm thông tin của họ, là THUYẾT ÂM MƯU (conspiracy theory). Nó không chỉ được tận dụng trong truyền thông đại chúng, mà ngay trong hệ thống giáo dục, nó cũng được dùng để ngăn chận và điều chỉnh cũng như loại bỏ tất cả mọi nỗi lực nghiên cứu nghiêm chỉnh và khoa học thật sự (luận án, thesis, dissertation). 


Thí dụ như giáo sư Antony C. Sutton, 1-Antony C. Sutton-- Antony Sutton, phải đợi thành danh trong "chính qui" rồi, mới dám khởi đầu công khai những nghiên cứu những lãnh vực "cấm kỵ" về cả một kế hoặch tập quyền đại bản giúp nhóm Do Thái Cộng Sản tiến hành cuộc cách mạng tháng 10 Nga 1917, mà nếu hé môi trước đó sẽ không có cơ hội đúc kết bậc tiến sĩ. Những khám phá của Antony C. Sutton những điều mà sau này khi thoát được môi trường kềm tỏa “nội qui hàn lâm” Âu Mỹ, đại văn hào Aleksandr Solzhenitsyn 2-Aleksandr Solzhenitsyn - 200 Years Togethercủa "quần đảo ngục tù Gulag" mới “dám” công bố viết về giai đoạn này như một nhân chứng sống trong tác phẩm cuối cùng "200 năm cùng nhau". Hay như giáo sư Shlomo Sand của đại học Tel Aviv cũng vậy, phải đợi trở thành giáo sư chính qui, ông mới viết phanh phui toàn bộ tiến trình hư cấu tạo dựng huyền thoại "dân Chúa và đất hứa" trong tác phẩm "sự bịa đặt về dân tộc do thái giáo"3-The Invention of the Jewish People — by Shlomo Sand. . Hoặc đến như văn hào Anh gốc Do Thái Arthur Koestler, tác giả của "Bóng Tối Giữa Trưa", khi nổi tiếng rồi mới dám công bố "Bộ Lạc Thứ 13" 4-Arthur Koestler - The Thirteenth Tribe, để vạch trần thẳng về cái gọi là nhóm người Ashkenazi Do Thái hiện nay chiếm đa số và cầm quyền tại nước Do Thái, cũng như nằm trong các cơ cấu quyền lực khống trị các xã hội Âu Mỹ Úc không phải là gốc người Trung Đông Do Thái theo “kinh thánh”, mà là gốc người từ nhóm Đông Âu, đế quốc Khazar-(Ukraine-Goergia ngày nay), mà chính văn hào Arthur Koestler là một hậu nhân của họ. 

Và như cựu đại tá an ninh trưởng ban hành động mật vụ của Mỹ thời Kennedy, L. Fletcher Prouty, cũng phải đợi ra khỏi chức vụ chính qui mới công bố quyển "Nhóm Bí mật" 4-Secret Team, The CIA and Its Allies vạch rõ guồng máy một "nhà nước ẩn tàng" chỉ đạo các nhà nước Âu Mỹ, đặc biệt vụ ám sát anh em Kennedy. Cụ thể nhất trước mặt chúng ta hôm nay là tiến sĩPaul Craig Roberts, phụ tá bộ trưởng kinh tế, cha đẻ chính sách kinh tế thời Reagan, cũng bị liệt vào "thuyết âm mưu" và bị loại khỏi vòng chính qui để bịt miệng ông, khi ông thức tỉnh và liên tục viết phanh phui thủ đoạn tội phạm và lừa dối của tập đoàn nhà nước Mỹ-Do Thái cho đến nay.

Hậu quả chung cho những đại văn hào, khoa bảng, và cựu quan chức cao cấp này là, nếu không bị ám sát hay tù tội, thì họ hoàn toàn bị loại ra khỏi đời sống "chính qui" với những trù ếm từ nhà nước. Hiện nay như giáo sư Mỹ gốc Do Thái Norman G. Finkelstein, nổi tiếng đến thế nhưng chỉ dám thách thức một khía cạnh của quyền lực (Kỹ nghệ Holocaust và Nhà nước Mỹ) đã bị loại khỏi hệ thống giáo dục chính qui Âu Mỹ. Riêng Noam Chomsky cũng là một giáo sư danh tiếng thế giới thuộc MIT, gốc Do Thái (theo phi quyền chính nhánh công đoàn xã hội -Anarcho-Syndicalism) không bị loại khỏi chính qui vì chỉ đối kháng trong “phạm vi qui định” không đe dọa thách thức trực tiếp quyền lực bóng tối và nền tảng quyền lực hiện tại…nhưng chưa từng dám mom men tới một bờ mép cấm kỵ nào thuộc "thuyết âm mưu" đe dọa nền tảng quyền lực của tập đoàn quyền chính.

Cụm từ "Thuyết Âm Mưu" thật ra chỉ được tận dụng như một vũ khí do CIA đặt ra và chỉ thị cho các nhân viên dùng để tấn công, bôi nhọ, mỉa mai, đánh bại uy tín và ly gián khỏi quần chúng đối với những ai chất vấn lý giải bản báo cáo chính qui Warren Report về cái chết của Kennedy..

Từ đó đến nay, vũ khí bé nhỏ, gỏn gọn có hai từ anh ngữ này "Conspiracy Theory", nhưng đã mạnh mẽ và rất hữu hiệu trong suốt nửa thế kỷ qua. Tuy nhiên trong những năm gần đây, giống như nhãn hiệu “bài Do Thái” (anti-Semitism) nó không còn hữu hiệu như xưa nữa, khi những công bố bằng chứng tội phạm gian dối của nhà nước dần dần được minh xác có bằng chứng rõ rệt, cũng như được thú nhận từ chính hồ sơ giải mật (Jesse Ventura's New Book: 63 Documents the Government ...- The Penatagon Papers ..) và từ chính cửa miệng các "lãnh đạo nhà nước cao cấp" (nhân chủ đã đăng tải chi tiết trong các bài viết trước đây). Nhất là từ khi có Wikileaks và đặc biệt là sự kiện Edward Snowden đã phanh phui và minh chứng hầu như những "thuyết âm mưu" trước đây, tất cả đã thành SỰ KIỆN ÂM MƯU.

Trước sự thất bại của chiến dịch ẩn mình rỉ tai tố cáo dùng nhãn hiệu "thuyết âm mưu", càng ngày càng nhiều người thức tỉnh, càng nhiều nhóm khoa bảng, cựu quan chức, nhà văn, ký giả, thanh niên sinh viên v.v tự thành lập những nhóm nghiên cứu, thông tin độc lập- nhờ trong môi trường "internet" rộng mở, phong trào “báo chí độc lập” đã khiến các cơ quan thông tin chính qui, trước đây coi như độc quyền chân lý, nay giảm dần uy thế cũng như lượng độc giả- Thế lực nhà nước Âu Mỹ đã phải tuyệt vọng trơ trẽn khởi đầu ứng dụng phối hợp một kế hoạch mới mặt dầy hơn bao giờ. Nhà nước dùng bọn tay sai khoa bảng phù thủy ngôn ngữ, đa số là nhóm chủ nghĩa Đại Do Thái Zionism- kết hợp với bạo lực pháp quyền nhà nước kiểu cộng sản độc tài, để trấn áp cao trào thông tin độc lập đang lan tràn khắp nơi này. 

Tập đoàn nhà nước Âu Mỹ đang khai triển sách lược trấn áp thông tin tư tưởng nơi các trang báo độc lập, một kế hoạch được tên giáo sư Luật của Harvard, Cass Sunstein, gốc Do Thái, cố vấn cho Obama, đưa ra từ năm 2008:


- 1. Chính phủ ra luật cấm "thuyết am mưu" 
- 2. Dùng thuế chế tài hay phạt tài những ai bị qui là loan truyền "thuyết âm mưu"
- 3. Chính phủ dùng các chuyên gia nhà nước tung thuyết "âm mưu trời ơi" để đánh lận con đen và hạ uy tín các nhóm thông tin độc lập-
4. Chính phủ thuê mướn các nhóm tư nhân viết bài tấn công các nhóm thông tin độc lập "thuyết âm mưu" (như tờ the Guardian, FOX News, CNN, nhóm Popular Mechanics v.v
- 5. Chính phủ hợp tác làm việc và khuyến khích tài trợ các nhóm thông tin tư tấn công các nhóm thông tin độc lập (tham khảo nguồn phần phụ bản nguồn)

Tuy nhiên, nhà nước Mỹ vẫn còn bị vướng khúc xương tu chính án thứ nhất, (Congress shall make no law respecting an establishment of religion, or prohibiting the free exercise thereof; or abridging the freedom of speech, or of the press; or the right of the people peaceably to assemble, and to petition the Government for a redress of grievances.[1]) cho nên bên trong nước Mỹ, bọn tập đoàn quyền chính chỉ thực hiện được 4 điều đề nghị cuối, điều đệ nghị thứ nhất, chúng đang tiến hành nơi các nước đàn em Âu Úc. Mở đầu là Pháp.

Tháng giêng năm 2015 vừa qua, tổng thống Pháp Holannde đã tuyên bố nối ghép "chủ thuyết âm mưu" vào Holocaust, rằng những kẻ chất vấn diễn giải "thuyết âm mưu" đã đóng góp đưa đến hậu quả Hitler và Holocaust!!! Và kêu gọi ủng hộ ra đạo luật cấm lưu hành các thông tin thuộc "thuyết âm mưu", dĩ nhiên là theo định nghĩa của nhà nước chính phủ! Còn thô bỉ tệ hại hơn cả Việt Nam Trung Quốc! Chúng ta đã thấy đám nhà nước Âu Châu thô bỉ trơ trẽn như thế nào sau khi “diễn hành Tôi Là Charlie” là ra ray bắt bớ cầm tù những người phát biểu tự do không vừa ý đám Nhà nước và Do Thái! Thật là tự do ngôn luận, nó mỉa mai đạo đức giả không chỉ là BẮT BỚ ĐÀN ÁP ngay sau cuộc tuần hành “Tôi là Charlie” mà ngay trên mảnh đất của Voltaire với câu nói chuẩn mực “I do not agree with what you have to say, but I'll defend to the death your right to say it.”

Tên tổng thống chủ nghĩa xã hội Hollande “yêu cầu” nhóm chuyên gia khoa bảng của đảng Xã Hội Pháp mà ông ta là lãnh đạo, soạn thảo và công bố một bản "án văn" về cao trào "thuyết âm mưu quốc tế,” để làm nền vận động dư luận cho một đạo luật kiểm soát ngôn luận tư tưởng đặt “thuyết âm mưu” vào trong danh sách tội phạm.

Trong “án văn” tư tưởng này, nhóm khoa bảng tay sai chủ nghĩa đại Do Thái và quyền chính đã tấn công nêu đích danh những trang thông tin độc lập uy tín của các cựu quan chức khoa bảng văn gia nhà báo từng nằm trong hệ chính quí danh tiếng như:

" Webster Tarpley 6-Webster Tarpley Blog William Engdhal, 6-http://www.williamengdahl.com/ hai cựu thành viên của tổ chức bảo thủ Mỹ LaRoucheLaRouche movement một tổ chức chính qui của Cộng Hòa Mỹ-Wayne Madsen (WayneMadsenReport.com), Kevin Barrett (VeteransToday.com) và giáo sư Michel Chossudovsky (Mondialisation.ca )chủ biên của trang nghiên cứu toàn cầu (global research.ca). Đặc biệt cũng nêu đích danh học giả pháp Thierry Meyssan, chủ biên của nhómVoltaire Network chống chủ nghĩa đế quốc với nhiều thông tin bằng chứng chuẩn xác. (« Conspirationnisme : un état des lieux », par Rudy Reichstadt, Observatoire des radicalités politiques, Fondation Jean-Jaurès, Parti socialiste, 24 février 2015.)(PDF - 159.3 kb)

Sớm hay muộn, tất cả các trang độc lập khác như James Corbett, Zerohedge.com v.v và ngay như Nhân Chủ-Chủ Quyền Cá Nhân cũng bị xếp vào "ngoài vòng pháp luật". Hiện nay đang nằm trong sổ tay của chúng thôi.

Đây là biến chuyển nguy hiểm, nhưng là một chỉ dấu đáng mừng. Vì nó chứng tỏ phong trào nhận thức của quần chúng đang lan mạnh mà với sách lược rỉ tai tấn công lén với vũ khí truyền thống "thuyết âm mưu", "bài Do Thái" không còn chống chỏi hũu hiệu nữa, như chúng ta đang thấy nhất là sau Edward Snowden . Bọn quyền chính phải tuyệt vọng trơ trẽn rớt mặt nạ "dân chủ pháp trị", bảo vệ dân quyền tự do, tận dụng đến biện pháp tồi bại pháp luật bạo nược để trấn áp. Chúng đang đi vào con đường cùng như những chế độ độc ác vương quyền như Tần Thủy Hoàng khi xưa, tuyệt vọng như các chế độ độc tài quân phiệt, cộng sản hôm nay. Thật là mỉa mai trớ trêu cho "nền dân chủ gián tiếp" hơn 200 năm qua đang băng hoại hiện nguyên chân diện mục của nó. Kinh hoàng nhưng cần thiết, để những ai còn ngờ vực về bản chất của nhà nước, của mặt nạ "dân chủ gián tiếp" có cơ hội nhận thức.

“Án văn” này không chỉ liệt kê các cựu văn gia, khoa bảng, quan chức hàng đầu từng tham chính, nay bước ra khỏi guồng máy để thông báo thẳng thắn sự thật đến công chúng, vào danh sách “Những kẻ chủ thuyết âm mưu”, bọn khoa bảng tay sai này còn cực kỳ tối dạ đến mức bán khai trơ trẽn tưởng chỉ có trong truyện thần thoại thú vật. Một trong những lập luận "vững chắc" của nhóm khoa bảng phù thủy ngôn từ này là đưa ra một định nghĩa ngu ngục bán khai của chúng để kết án "thuyết âm mưu" rất tối dạ, mà có lẽ một học sinh trung học cũng có khả năng nhận ra, như sau:

"Thuyết âm mưu là một lối dẫn giải đưa ra thế chấp thách thức một cách đáng kể những kiến thức chúng ta đã có về một sự kiện, và như thế cạnh tranh với những dẫn giải đã được công nhận được gọi là "chính thức " (an ’alternative’ narrative that claims to significantly upset the knowledge we have of an event and therefore competes with the "version" which is commonly accepted, stigmatized as "official")

Nhà học giả Pháp Thierry Meyssan, chủ nhóm độc lập Voltaire Network, kẻ tử thù của nhà nước Pháp hiện nay, đã nhẹ nhàng phản luận nhắc nhở rằng Socrates khi xưa, đã thách thức chất vấn các loại kiến thức được "công nhận chính thức" của thời đại của ông ta; và rằng Galileo cũng đã đơn phương đánh đổ kiến thức "thánh kinh" chân lý của thời đại ông. 

Tôi cần thêm một vài thí dụ cho những tín đồ ky tô và Phật tử hôm nay vỡ đầu ra, là chính Jesus Nazareth đã đơn độc đem “thuyết âm mưu” "tin mừng bác ái thương yêu tất cả mọi người" và "thuyết âm mưu Chúa Cha Nhân Từ" để thách thức cái chân lý chính qui "mắt đổi mắt, tai đổi tai" của thời đại Ông, đến nỗi phải bị treo trên thập tự giá; và rằng chính Phật cũng đơn phương loan truyền "thuyết âm mưu" về tứ diệu đế, chúng sinh bình đẳng, đều có phật tính như nhau, và cái tính không thường hằng của vạn vật, thách thức giá trị và “kiến thức chính qui, giáo quyền công nhận” của thời đại Ấn Giáo Vương Quyền của Ông, mà cho đến nay "thuyết âm mưu tính không" của Phật lý giải hợp lẽ hầu như mọi khám phá khoa học vật lý và nhất là tâm lý và hệ thần kinh học. Còn "Thuyết âm mưu" dân chủ của các triết gia từ thế kỷ 17, từng đơn phương tố cáo kiến thức chính qui đại chúng về quyền lực thiêng liêng của vương quyền, quân mệnh và thiên mệnh chính trị (ruler divinity). 

Thomas Jefferson, khi bảo vệ quyền ngôn luận đối trọng lại "chính nghĩa quyền lực nhà nước" từng tuyên bố vững chắc: 

Chỉ có sai phạm mới cần quyền lực pháp chế nhà nước ủng hộ, Sự Thật tự nó đứng vững" (It is error alone which needs the support of government. Truth can stand by itself)

Phật thuyết đứng vững hàng ngàn năm, đối mặt vững chắc ngay cả với tốc độ tiến bộ của khoa học hiện đại ở thế kỷ 21 mà không cần một đạo luật nhà nước nào ủng hộ; thuyết tiến hóa của Darwin không cần bất cứ đạo luật nhà nước nào bảo vệ, đứng vững mấy trăm năm được củng cố xác tín bởi những khám phá của nền khoa học hiện đại về DNA và khoa sinh học Biology dù bị rất nhiều tấn công miên tục từ các phía, đặc biệt các nhóm tôn giáo thần quyền. Nhưng “Thánh Kinh Cựu Ước” từng được bạo lực quyền chính của cả nửa thế giới Châu Âu bảo vệ với các Tôn Giáo Pháp Đình tra tấn đủ loại (và đang đượcpháp luật quyền chính bảo vệ) cũng đã bị đánh đổ thảm bại. Ngoan cố quyền lực như Vatican cũng đã phải chịu khuất phục… dù mới chỉ một nửa!

Galileo và các đồng hữu của Ông đã phải đưa cả sinh mạng của họ để đối kháng, thách thức với hệ thống “kiến thức chân lý chính qui” của bạo ngược quyền chính giáo hội và vua chúa với cái tôn giáo pháp đình kinh khiếp man rợ. Hôm nay, chúng ta phải chuẩn bị can đảm thách thức đối kháng với những loại "tôn giáo nhà nước pháp đình" của thế kỷ 21 lớn hơn, tàn bạo triệt để hơn đang hình thành chặt chẽ tế vi phối hợp giữa các nhà nước khắp thế giới, để bảo vệ quyền tự do ngôn luận và tư tưởng của loài người chúng ta.

Sự kiện đang diễn tiến và diễn biến hôm nay khẳng định cho chúng ta rõ rệt rằng chủ nghĩa Nhà nước chính phủ là một tôn giáo nguy hiểm tàn bạo bán khai hơn tất cả các hệ thống tôn giáo. 

15-3-2015
nkptc


=====
Tham Khảo Nguồn






What lies behind the anti "conspiracy theorist" discourse

The State Against The Republic
by Thierry Meyssan
At the request of President François Hollande, the French Socialist Party has published a note on the international “conspiracy theorist" movement. His goal: to prepare new legislation prohibiting it to express itself. In the US, the September 11, 2001 coup established a "permanent state of emergency" (Patriot Act), launching a series of imperial wars. Gradually, the European elites have aligned with their counterparts across the Atlantic. Everywhere, people are worried about being abandoned by their States and they question their institutions. Seeking to retain power, the elites are now ready to use force to gag their opposition.

Voltaire Network| Damascus (Syria) | 13 March 2015