Thứ Hai, 23 tháng 2, 2015

BÀI THƠ THẦN NĂM ẤT MÙI






Nguyễn Khắc Mai

Tôi chào đón năm Ất Mùi này (2015) với bài thơ Thần đã ra đời vào năm Ất Mùi 1655, đúng 360 năm trước. Lịch xưa tính đúng chẵn sáu hội (mỗi hội 60 năm). 

Đây là bài thơ đã được ghi lại trong Đại Nam Thực Lục – một bộ sử biên niên ghi lại thời kỳ các Chúa Nguyễn rồi Nhà Nguyễn trị vì đất nước.

Bấy giờ, Chúa Hiền, Nguyễn Phúc Tần, một đêm nằm mộng thấy thần nhân hiện lên đọc cho nghe bài thơ. Hôm sau nhà Chúa đã đọc lại cho đình thần nghe, và cho rằng đó là lời mách bảo của thần linh (xem ĐNTL TI, NXB Giáo Dục, tr63).

Nguyên văn :

Tiên kết nhân tâm thuận.
Hậu thi đức hóa chiêu.
Chi diệp kham tồi lạc.
Căn bản dã nan dao (diêu)

Dịch nghĩa:

Trước hết phải cố kết nhân tâm cho thuận.
Sau là thi hành (chính trị) đạo đức để quy tụ mọi người.
Dẫu cành lá có gãy rụng.
Gốc rễ chẳng hề lung lay.

Trong văn học Việt Nam, người ta cho rằng đây là bài thơ thần thứ hai. Bài đầu là bài thơ “Nam quốc sơn hà”, tương truyền đã vang lên trong đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát, ở ven sông Như Nguyệt, nơi phòng tuyến chống quân nhà Tống xâm lược, thời Lý Thường Kiệt.

Nếu bài thơ trước (Nam quốc sơn hà) là tinh thần, ý chí của dân Việt quyết tâm bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của Đất Nước, quyết đánh bại mọi kẻ thù xâm lăng, được coi như một tuyên ngôn Độc lập, thì bài thơ sau là một “minh triết” chính trị. Bài thơ góp vào, làm nên sự phong phú sâu sắc của tư tưởng, đạo trị nước của Việt Nam. Cũng nên lưu ý một tình tiết tế nhị. Đó là bài thơ xuất hiện lúc đất Nước còn phân ly. Lực lượng nào muốn thắng, gồm thâu thiên hạ, đều phải chú ý đến những vấn đề cốt tử: Thi hành đức hóa, cố kết lòng người…

Ngoại trừ hoàn cảnh xuất hiện, phân tích kỹ 20 chữ của bài ngũ ngôn tứ tuyệt này, có thể rút ra được nhiều điều bổ ích, thú vị. Điều ấy, không những có ích cho những người lãnh đạo quốc gia ở tầm vĩ mô, mà còn có lợi cho cả công việc ứng xử ở tầm cơ sở, vi mô, của một gia đình, một doanh nghiệp, một cộng đồng xã hội, một chính đảng…

Chữ tiên, (trước hết) là nói tầm quan trọng của vấn đề. Câu đầu, đưa ra ba triết lý quan trọng: kết, nhân tâm và thuận. Ba chữ này, là ba phạm trù rất cơ bản để nhận thức và ứng xử xã hội. Ngẫm về chữ kết, đã có điều thú vị, nó có vẻ dễ hiểu, thậm chí người ta nghe đã nhàm tai, nào kết đoàn ta là sức mạnh trong một bài hát Tàu, nào đoàn kết, đại đoàn kết…Chữ kết, người xưa viết với bộ “mịch”, có ý nói về sự bó bện cho bền chặt.Ý nghĩa là sự tập hợp cái nhiều (đa) thành cái một (nhất). Người ta phải “kết” cái nhiều lại để thành một cho mạnh cho bền chắc…nhưng không bao giờ lại thủ tiêu các thành viên, thành tố. Nếu hiểu kết mà chỉ nhăm nhăm coi trọng cái một mà bỏ cái nhiều, chỉ chú ý đến cái chung, mà bỏ cái riêng, thì chẳng còn ý nghĩa kết gì nữa. Đó là quy luật tự nhiên, huống chi là quy luật xã hội! Không thấy ý nghĩa “kết”, không thể gắn bó con người được. Phải hiểu và làm chữ kết trong thế vừa đề cao cái một, mà phải coi trọng cái đa, những thành tố riêng rẽ, để tạo thành cái “Kết”. Trong tự nhiên, người ta dễ hiểu và làm theo quy luật ấy. Như cái máy tính điện tử, nếu không coi trọng từng chi tiết, từng linh kiện, làm sao có thể có được chất lượng cao của bộ máy! Nhưng trong ứng xử xã hội, con người lại tầm thường đến độ ngu xuẩn, là muốn kết mà không muốn làm cho mọi thành tố mạnh lên!

Hai chữ nhân tâm cũng nên luận. Không nên chỉ hiểu đơn giản là lòng người. Phải thấy nhân là con người và cả cái tâm của nó. Nếu không biết nuôi dưỡng con người bằng một “politique” nhân văn, con người sẽ đói, sẽ khổ, sẽ méo mó bất thành nhân dạng, có thể thành quái thai, chỉ có phần con mà mất đi phần người.Trong trường hợp ấy, không thể có cái tâm đúng nghĩa.Tâm không chỉ là lòng người, nó là tổng hòa của cái trí, cái biết cái thức, thiếu tâm hồn, thiếu tri thức không thành người. Như vậy vấn đề nhân tâm không chỉ thuần túy là tinh thần, ý thức, tình cảm, tâm hồn. Phải tính cả những giá trị vật chất của con người cho con người, vì con người. Những thể chế, thiết chế, chế độ phản bội lại con người không thể gọi là nhân văn, lại có thể cố kết con người, làm mạnh con người. Còn chữ “Thuận”. Minh triết Việt biết đánh giá cao ý nghĩa chữ thuận – thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn. Nhưng thuận không chỉ có nghĩa là cùng nhau, còn có cái nghĩa là theo quy luật, theo thiên tính, nhân tính, nhân tình. Con người từng đánh mất chữ thuận, nên đã làm cho con người, cho xã hội không hòa, địa không lợi, thiên không còn thời.

Vì thế, sau cái tiên kết, là nói hậu thi. Những điều phải thi hành, phải làm tiếp theo để thể hiện cho được sự cố kết, làm vững mạnh con người, làm cho nhân tâm thuận, nghĩa là làm cho tiến hóa nhân cách, nhân vị, nhân sinh làm cho tiến hóa xã hội.

Thi hành “đức hóa”, nghĩa là thi hành một nền chính trị đạo đức, nhân văn, một nền kinh tế đạo đức, nhân văn; một nền văn hóa giáo dục đạo đức nhân văn. Mọi sự tuyên bố chủ nghĩa, lý thuyết này nọ mà không theo tiêu chí ấy, đều là lừa dối, chỉ đạt tới dự nhất thời, nửa vời, đẩy con người và xã hội đi tới ngày càng suy đồi, tan rã. Không phải ngẫu nhiên, mà ngày nay đang xuất hiện nhiều những cảnh báo về cái ác tràn lan*, và đang đề xuất những tư duy lành mạnh, cổ vũ cho một tinh thần, một thái độ, một tâm thức “minh triết” trong đời sống. Bruce Lloyd**(Anh quốc) tha thiết đề nghị hãy kiến tạo xã hội minh triết, kinh tế minh triết. Còn Gandhi (Ấn) từ 1934, đã hô hào xây dựng nền giáo dục minh triết.

Thi hành đức hóa còn có nghĩa là thực hiện một đường lối, một phương thức quản trị, điều khiển, tổ chức, quản lý có nhân văn, đạo đức, coi trọng con người hơn là coi trọng giá trị vật chất gia tăng. Những cộng đồng, những xã hội vĩ mô và vi mô chỉ nhăm nhăm lợi ích giá trị vật chất gia tăng, bỏ rơi, bỏ quên con người, xã hội của con người đều không thể biện hộ cho tính “phản động” của mình. Người ta đang phải nói nhiều về nền chính trị có khuôn mặt người, kinh tế có tính người, văn hóa có tình người…

Đó là sự nuôi dưỡng, vun trồng, bồi đắp cho cái gốc, cái rễ (căn và bản) của con người, của xã hội, của Đất Nước, của nhân loại. Đó chính là bài học, là triết lý, là phương châm để một gia đình, một doanh nghiệp, một chính đảng, một nhà nước vận hành đạt tới nhân văn, tiến hóa. Nhãn tiền sự thoái hóa trông thấy trên Đất Nước ta và cả trên thế giới đều có thể chiêm nghiệm từ ý nghĩa bài thơ Thần này.

Xin chép lại bài thơ Thần đã xuất hiện đúng năm Ất Mùi (1655) và đôi lời thô thiển, nói lên cảm nghĩ của mình để hầu chuyện ban đọc bên chén rượu, chén trà xuân, năm này, cũng là một năm Ất Mùi của Dân tộc.

Có ai biết đi Tây là khổ?



Người Việt ở Đức có nỗi khổ là không dám nói về nỗi vất vả của mình với bạn bè, người thân trong nước vì sĩ diện. Nhiều người rất thích "nổ", khi về nước hay "một tấc đến giời".

Nói tới Việt kiều ở Đức, phần lớn những người ở Việt Nam đều nghĩ rằng họ là những người lắm tiền, nhiều của, ăn sung mặc sướng. Dĩ nhiên đời sống ở Đức có nhiều ưu việt, nhưng cuộc sống của người Việt ở Đức cũng có những giọt nước mắt đời không biết“.


Trong những ngày Tết và những ngày giáp Tết, những người làm công ăn lương ở Việt Nam được nghỉ Tết tới 9 ngày, không khí Tết từng bừng ở các chợ hoa Hà Nội, trang trí trong nhà, ngoài đường cho dù còn rất ít nhà tự gói bánh chưng như trước đây.

Trong khi đó, người Việt ở Berlin nói riêng và ở Đức nói chung vẫn tất bật với công việc làm ăn, vì Tết năm nay không rơi vào cuối tuần nên không ai được nghỉ. Những người buôn bán, làm ăn tự lập cũng chỉ dám tự thưởng cho mình được nghỉ chiều 30 Tết để đến chợ châu Á mua sắm thức ăn về vội vàng nấu mâm cỗ Tết để cúng Giao thừa lúc 6 giờ chiều, tức là 0 giờ ở Việt Nam. Sang ngày mùng Một Tết, hầu hết mọi người đã phải đi làm lại bình thường, coi như đã hết Tết.

Mặc dù được đón hai cái Tết, Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán cũng như Lễ Giáng sinh ở Đức, nhưng người Việt ở Đức không cảm thấy có một cái Tết nào trọn vẹn. Lễ Giáng sinh ở Đức là dịp sum họp gia đình, không khí chuẩn bị Giáng sinh và Tết Dương lịch ở Đức rất tưng bùng, sôi nổi, nhưng không phải là phong tục truyền thống, nên người Việt ở Đức vẫn luôn cảm thấy xa lạ, lạc lõng.

Khi đến Tết Nguyên đán, các gia đình người Việt vẫn cố gắng giữ gìn phong tục làm mâm cỗ cúng giao thừa, nhiều người đi lễ chùa, nhưng bên ngoài xã hội Đức lại hoàn toàn không có không khí ngày Tết, nên đây là dịp làm nhiều người da diết nhớ tới gia đình, người thân và quê hương, bản quán.

Không biết có bao nhiều người chạnh lòng rơi lệ trong những giờ phút như thế này. Nhưng rồi cảm xúc đó rồi cũng nhanh chóng qua đi để nhường chỗ cho những lo toan thường nhật.

Và có mấy ai hiểu được nỗi khổ của những người Việt bán hàng rong ở Đức. Dĩ nhiên ở đây không phải một đôi quang gánh, mà là một ô tô chở hàng với một quầy hàng di động bán quần áo, giầy dép, bít tất… ở các chợ phiên.



Những ngày hè nắng ấm thì còn đỡ, nhưng vào những ngày giá rét dưới không độ vẫn phải nghiến răng chịu đựng giá rét, quần áo dày cộp, to sụ tưởng chừng ngã xuống thì không đứng dậy nổi, vậy mà vẫn không ngăn nổi được cái lạnh thấu xương.

Có lẽ vì vậy mà nhiều nam thanh, nữ tú sang CHDC Đức lao động cuối những năm 80 mới ở độ tuổi mười tám, đôi mươi, giờ đây mới U 50 mà gặp nhau đã hay phàn nàn về bệnh khớp, bệnh thoái hóa đốt sống cổ hoặc đau thận… thậm chí có một số người đã trở thành người thiên cổ.

Khổ không biết tỏ cùng ai vì sĩ diện

Ngành bán hoa, một ngành mà người Việt đã hầu như làm chủ ở Đức, trông thì có vẻ thơ mộng, nhẹ nhàng, nhưng tìm hiểu kỹ mới thấy, thị trường này cũng là một chiến trường không tiếng súng.

Mô hình chung của một gia đình bán hoa của người Việt là người chồng dậy từ 2 giờ sáng, đến chợ đầu mối để có thể mua hoa đẹp và rẻ. Vào những dịp quan trọng như ngày Lễ Valentin hoặc Muttertag thì đúng nghĩa là tranh cướp hoa.

Sau khi người vợ đưa con tới trường thì ra bán hoa, người chồng về ngủ. Trời lạnh cũng không dám sưởi ấm vì sợ hoa héo, lại hay phải nhúng tay vào nước lạnh. Đây cũng là một ngành vất vả, nên có người phụ nữ liễu yếu, đào tơ muốn tìm hiểu để vào nghề bán hoa đã bị cảnh báo: "Cẩn thận kẻo người héo trước hoa".

Tuy nhiên, đây chỉ mới là một vài nỗi khổ nhãn tiền, còn nhiều nỗi khổ thể chất và tinh thần, nhất là đối với nhiều phụ nữ "không biết tỏ cùng ai".

Đã đành là ở đâu cũng phải vất vả làm ăn kiếm sống. Người Việt ở Đức có nỗi khổ là không dám nói về nỗi vất vả của mình với bạn bè, người thân trong nước vì… sĩ diện.

Nhiều người Việt ở Đức rất thích "nổ", khi về nước hay "một tấc đến giời“ làm như mình giàu có lắm, dễ kiếm tiền lắm, làm cho nhiều người trong nước lầm tưởng nước Đức là một thiên đường trên mặt đất, cứ sang là "xúc ra tiền“.

Mong rằng mọi người hãy thực tế, nói thực và sống thực với điều kiện và hoàn cảnh của mình: Nước Đức có hệ thống phúc lợi xã hội rất tốt, nhưng người ta cũng phải "làm thật“ mới có thể "ăn thật“, bảo đảm cuộc sống của mình.

Vũ Văn(Thoibao.de)

Chủ Nhật, 8 tháng 2, 2015

SA MẠC TÌNH YÊU



PILISZKY JÁNOS


( Một trong những bài thơ tình yêu địa ngục gây chấn động tâm can của Pilinszky János, nhan đề gợi nhớ đến cuốn tiểu thuyết của Mauirac (LE DÉSERT DE L'AMOUR) mà ông rất yêu mến, và nội dung ăm ắp cảm giác ê chề, bị sỉ nhục của giới văn nghệ sĩ Hungary phải chịu đựng những năm 1950 vì sự cấm đoán kiểm duyệt của chính quyền đương thời, làm sống lại những ấn tượng đã in khắc vào tâm trí nhà thơ khi chứng kiến những trại tập trung của Đức quốc xã, hủy diệt dân Do Thái cuối Đại chiến II.- NHN)



Một cây cầu, con đường bê tôn cháy bỏng,
nắng lột ngược mọi ngăn túi của mình,
hết thảy phô bày lần lượt.
Em - chính nỗi thờ ơ bất động giữa hoàng hôn.

Phong cảnh tựa đáy hố sâu nham nhở;
những vết sẹo rãy bỏng ảo ảnh bóng mờ.
Hoàng hôn đổ. Trân trân ánh rạng,
nắng chói chang. Mùa hạ, anh không bao giờ quên.


Là mùa hạ và nóng như chớp lửa.
Đứng im lìm, anh biết, những đôi cánh chẳng run
một đàn chim, như những thiên thần
trong lởm chởm tường gai, chuồng vây hãm.

Em còn nhớ không? Trước tiên là gió;
rồi đến đất; và rồi đến chuồng.
Lửa và phân. Đôi ngày
vài ba tiếng vỗ cánh, vài ba phản xạ.

Và cơn khát. Phút giây anh xin uống
đến hôm nay từng ngụm bỏng, anh vẫn nghe
anh gắng chịu bất lực như đá,
và dập tắt đi mọi ảo ảnh biến tan.

Tháng năm trôi, năm tháng và niềm tin-
như giữa rác rơm chiếc nồi nhôm lăn lóc.




Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hung

Trịnh công Sơn và những ngày Văn khoa



TỪ THỨC


Gởi những người bạn Sài gòn ngày xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
(HĐL)


Một ngày đầu tháng tư (2001), tôi lên phi trường Charles de Gaulle đón một người bạn từ Việt nam qua. Trên xe về Paris, anh ta hỏi : cậu có nghe tin về Trịnh công Sơn ? Tôi gật đầu ; mấy hôm trước, có người gọi dây nói cho hay TCS vừa từ trần.
Anh bạn nói đám tang Sơn rất đông. Người ta ở đâu đổ về như kiến, chật cả đường phố. Quen có, lạ có. Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu .Tôi nói với ông bạn : như vậy, cái xứ của ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc chữa.
Đó là cái tin lạc quan nhất về Việt nam mà tôi được nghe từ nhiều năm nay. Dostoievski nói : cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. C’est la beauté qui va sauver le monde. Bỏ công ăn việc làm, đến tiễn đưa một thi sĩ-TCS là một thi sĩ-chứng tỏ người ta còn nghĩ đến cái đẹp, người ta còn có tâm hồn.
Tự nhiên tôi nghĩ đến bác sĩ Jivago của Boris Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một thi sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng vào một bi kịch kinh thiên động địa từ trời giáng xuống. Như hàng triệu người Nga, Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê hương khi cách mạng vô sản Nga ập xuống nước Nga, cuốn trôi tất cả : gia sản, vợ con, bè bạn, tình ái trong một xã hội thay đổi tận gốc rễ.
Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi : là một thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy thơ làm nhân chứng, lấy thơ làm cái phao. Lấy thơ làm một nguồn hy vọng để vươn lên. Khi Jivago chết, người ta ở đâu đổ về rất đông, nhiều người không hề quen biết. Pasternak viết : người Nga yêu thơ, yêu thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp, nghĩa là chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn tuyệt vọng khi người ta không còn thiết tha đến điều gì, ngay cả cái đẹp. Đó là nét lạc quan nhất trong một cuốn sách đầy thảm kịch : chiến tranh, tang tóc, chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng loé lên trong bầu trời đen tối.



MƯA VẪN MƯA RƠI…



Khi Charles Trenet chết, hàng chục ngàn người kéo về đưa tang một thi sĩ hiện đại nổi tiếng nhất của Pháp. Đưa tang Trenet, người Pháp, trong vài giờ, quên mình đang sống trong một xã hội vật chất, suốt ngày túi bụi dành giựt. Trong vài giờ, thấy mình vươn lên, thấy đời có ý nghĩa hơn, bởi còn yêu cái đẹp. Trenet viết : Những thi sĩ đã qua đời, nhưngtiếng hát của họ vẫn bay nhẩy trên khắp đường phố.

TCS đã qua đời, nhưng tiếng hát của anh vẫn bay nhẩy trong các hang cùng, ngõ hẹp. Không phải chỉ ở Việt nam , mà trên khắp địa cầu. Người Việt, tan tác như một đàn gà mất mẹ, nương thân trên khắp nẻo đường thế giới, mang theo những kỷ niệm quê hương, mang theo mùi nước mắm, mùi sầu riêng, mùi phở, mang theo tiếng hát TCS.

Tôi đã nghe TCS qua tiếng hát nhừa nhựa khói thuốc của Khánh Ly ,tiếng hát thánh thót, không có tuổi của Thái Thanh, tiếng hát truyền cảm của Lệ Thu ; và rất nhiều tiếng hát vô danh, tiếng hát của những người sống ở ngoại quốc nhưng chỉ nói tiếng Việt, của những người thuộc thế hệ sau này, hát TCS với một thứ tiếng Việt pha giọng Mỹ, giọng Pháp, giọng Đức. Tôi đã nghe tiếng hát TCS vọng ra từ những căn nhà ở New-york, Tokyo, Budapest, Athène hay Palerme…Một buổi chiều tàn, trong một bìa rừng ở Brésil, cách Rio de Janeiro hàng ngàn cây số một nơi khỉ ho cò gáy, tưởng như không có hơi người, tôi nghe 1 giọng khàn khàn vọng ra từ 1 căn nhà gỗ. Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em với những thoáng mây bay…Người hát là một ông già gốc Ấn Độ, sống ở Việt nam từ nhỏ.Vượt biển, thuyền đắm, ông già được tầu Ba tây vớt, ở lại Ba tây, làm nghề canh rừng. Suốt ngày, lủi thủi một mình, tháng năm dài đằng đẵng, ông già Ấn mơ đến những cơn mưa trên tầng tháp cổ ở một xứ ông đã nhận làm quê hương.

Một ngày ở ngoại ô La Havanne, trong một tiệm ăn nhỏ trên bờ biển, nơi người ta bán lậu tôm hùm cho du khách (tôm hùm là tài sản quốc gia, chỉ để xuất cảng hay bán trong những tiệm ăn quốc doanh), tôi nghe một giọng hát đàn bà, rất trong, rất ngọt từ trong bếp vọng ra .Ngày gió lớn, tai nghe môi gọi thầm. Gọi tên em, tên Việt nam, trong tiếng nói da vàng. Người hát là một bà Bắc kỳ, từ Hà nội tới Cuba, trong một chương trình hợp tác gì đó giữa hai nước ‘xã hội anh em’, có lẽ đã mệt nhoài sau nhiều năm thề ăn gan uống máu quân thù .

Tác phẩm TCS đã đi sâu vào tâm hồn dân tộc.Nước ta có trên 80 triệu dân. Trừ trẻ con và những người không biết đọc, biết viết, có khoảng 50 triệu người làm thơ. Sự thực, không cần phải biết đọc, biết viết mới biết làm thơ : tác giả những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt nam – ca dao - là những người nông dân không biết đọc biết viết .Trong số 50 triệu người làm thơ, mỗi thế hệ cho vài ba thi sĩ. Những thi sĩ đi sâu vào tâm khảm đám đông, gặp gỡ tâm hồn một dân tộc còn hiếm hoi hơn nữa. TCS thuộc cái số hiếm hoi đó.


SAIGON, NHỮNG NGÀY XÁO TRỘN

Tiếng hát TCS đến với Sài gòn vào những năm 60, ở trường đại học Văn khoa Sàigon , nằm trên góc đường Gia Long-Nguyễn trung Trực, ngay trung tâm thành phố ; Sơn ở Bảo Lộc trôi giạt về, lai vãng thường xuyên vì cái sinh hoạt trẻ ở đó rất náo nhiệt. Trường đang rục rịch di chuyển một phần về cơ sở mới gần sở thú Sài gòn vì số sinh viên tăng rất nhanh, trường cũ không đủ chỗ. Văn khoa là trường đông sinh viên nhất ở Việt nam. Xa rồi, cái trường Văn khoa đầu tiên ngoài Bắc, do giáo sư Cao xuân Huy sáng lập năm 1949, với số sinh viên vỏn vẹn có bẩy người, gọi là thất hiền.(1).

Trường di chuyển, nhiều gỉảng đường bỏ trống. Gọi là giảng đường cho sang, sự thực đó chỉ là những căn nhà tiền chế. Tất cả những gì gọi là sinh hoạt văn hoá xã hội của giới trẻ Sai gòn kéo về, chiếm đóng những căn nhà tiền chế. Một phần dành cho CPS ( Chương trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường ), một phần dành cho hội hoạ sĩ trẻ, đoàn văn nghệ Nguồn Sống. Phần còn lại, một số sinh viên chúng tôi tịch thu làm Nơi tâp trung, hội họp. Hồi đó người ta tự hào thuộc giới trẻ, có lẽ vì thất vọng với những gì «lớp già » để lại. Gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ, một nước Việt buồn : hoạ sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ… quên rằng người ta sớm muộn gì cũng …già. Các « cụ » trong nhóm Người Việt, Thế kỷ 21 ngày nay đều là những người trẻ ngày xưa ở sân trường Văn khoa.

Phải sống ở Văn khoa những ngày ấy mới thấy sinh hoạt văn nghệ, sinh hoạt xã hội là một nhu cầu thiết yếu của tuổi trẻ, và nếu có cơ hội , sinh hoạt ấy bùng lên, tuổi trẻ bùng lên, đất nước không còn là mộtnước Việt buồn

Sống ở đó rất tiện : Văn khoa nằm ngay trung tâm thành phố, đi vài bước là tới những tiệm cà phê nổi tiếng trên đường Catinat, vài bước tới Khai Trí, tiệm sách lớn nhất Sài gòn, tha hồ đọc sách cọp. Ông chủ Khai trí là một người mê sách, muốn phát triển văn hoá, ông ấy khuyến khích sinh viên đọc sách cọp. Nhà cửa điện nước đều của chùa, rất tiện, trong khi hầu hết chúng tôi đều nghèo kiết xác, từ những ông hoạ sĩ trẻ, những ông văn nghệ sĩ có tiếng nhưng không có miếng ở đất nước của Tản Đà (văn chương hạ giới rẻ như bèo), những ông ký giả đầu tháng đã hết lương, những ngày cuối tháng khó khăn, nhất là 30 ngày cuối tháng (Coluche), đến đám sinh viên trong đầu đầy những mộng đổi đời, cải tạo xã hội và trong túi không có đủ tiền uống một ly cà phê.

ĐẠI BÁC ĐÊM ĐÊM VỌNG VỀ…

Từ 1963, sinh hoạt giới trẻ Sài gòn cực kỳ náo nhiệt. Chúng tôi sống ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà hay trong lớp học. Hết biểu tình, hội thảo chống đàn áp Phật giáo dưới thời ông Diệm, đến hội thảo, biểu tình chống các chính phủ thi nhau lên xuống. Xuống đường trở thành một sinh hoạt thường nhật. Giữa những cuộc biểu tình, những buổi hội thảo, thỉnh thoảng ghé vào giảng đường học vài chữ cho phải phép. Đó là giai đoạn giới trẻ tham gia tích cực vào đời sống chính trị xứ sở. Với lòng nhiệt thành, và cố nhiên với đôi chút ngây thơ. Ngây thơ tin vào sức mạnh vạn năng của tuổi trẻ, nhất là khi thấy chỉ vài buổi xuống đường cũng đủ lật đổ một chính phủ, một ông tướng, một chính khách ; quên rằng trong cái hỗn loạn của đất nước, người Việt chỉ là những quân cờ thí.

Trước tết Mậu thân, lớp trẻ Sài gòn còn tin tưởng, chưa hoàn toàn mệt mỏi, tuyệt vọng. Những ngày đầu thập niên 60, chiến tranh chưa thưc sự len vào thành phố, mặc dù hàng ngày vẫn đọc trên báo những cuộc đụng độ nẩy lửa ở Pleiku, Cà mau, Đồng Xoài, Bình giã ; thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo kích ; thỉnh thoảng họp nhau, nhậu vài két la de, lạc rang, củ kiệu, tiễn một người bạn lên đường nhập ngũ. Chiến tranh còn ở xa, đại bác đêm đêm vọng về, người phu quét đường dựng chổi đứng nghe. Dân Sài gòn chưa thấy tận mắt những xác người nằm chết như mơ, những xác người nằm dưới mái sân chùa, trên giáo đường thành phố.

Sinh hoạt trẻ Sai gòn ồn ào, sinh hoạt trẻ Văn khoa còn náo nhiệt hơn nữa. Bên cạnh những hoạt động chính trị, những cuộc xuống đường, còn rất nhiều những đêm không ngủ, những hội Tết, những đêm văn nghệ Nguyễn Đức Quang, Nguồn Sống, những ngày túi bụi làm báo Xuân, nguyệt san Đối Thoại. Ở đó, (và ở trụ sở Tổng hội Sinh viên SG), Phạm Duy ra mắt trường ca Mẹ Việt nam, Vũ thành An ra mắt bài hát đầu tay. Chúng tôi, tuổi 20, kề vai nhau nghe Lệ Thu ngủ đi em, mộng bình thường ; ru em những tiếng thuỳ dương đôi bờ, nghe Thái Thanh ca tụng mẹ Việt nam không son không phấn, mẹ Việt nam chân lấm tay bùn ( Phạm Duy ); và thực tình xúc động với cái viễn ảnh Việt nam quê hương đất nước sáng ngời . Cái viễn ảnh ấy, trong những đêm không ngủ, tựa vai nhau, chỉ tưởng tượng cũng đã muốn khóc. Trước cái trống rỗng của hiện tại, và cái lo lắng cho một tương lại mù mịt, người ta ngồi sát lại nhau, người ta nắm tay nhau, xin chờ những rạng đông. Những câu hát đẹp như thơ của Sơn đã đi thẳng vào lòng người.

Phong trào hoạt động xã hội cũng phát triển rầm rộ. Ảnh hưởng của phong trào thanh niên chí nguyện quốc tế của Kennedy, những hội doàn như CPS, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện vv … mọc ra như nấm. Tuổi trẻ tích cực tham gia nhũng cuộc cứu lụt ngoài Trung, cải trang những xóm nghèo ở thành phố, leo lên những làng Thượng dạy học, đào giếng, chữa bệnh. Có anh tham dự những ngày cuối tuần, có anh bỏ học , hoạt động hai ba tháng, nhiều khi cả năm. Đó là một tuổi trẻ còn đầy lý tưởng, còn yêu đời, yêu người, còn đầy tình người trong mạch máu, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.

Điều đó chứng tỏ tuổi trẻ rất tha thiết dến dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho đất nước. Nếu họ thờ ơ với đất nước như người ta than phiền, lỗi không phải ở họ : người ta đã không tạo cơ hội cho tuổi trẻ tham gia. Họ bị gạt ra ngoài lề. Đất nước không còn là đất nước của họ.

ĐƯỜNG PHƯỢNG BAY

TCS đến với Văn khoa trong bối cảnh đó. Sơn không phải sinh viên VK ; anh ở Huế vào, bỏ học vì hoàn cảnh gia đình. Những đêm trăng, chúng tôi ngồi trên baĩ cỏ trước quán Văn, nghe Sơn đàn, nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly sinh ra để hát TCS, cũng như Thái Thanh sinh ra để hát Phạm Duy.

Quán Văn là một ngôi nhà tiền chế, nằm giữa sân trường VK. Một nhóm thổ công VK sửa sang lại, biến thành môt quán cà phê, làm nơi tụ họp, gặp gỡ. Đúng là môt cái quán, đơn sơ, nhưng đầy tình bè bạn. Giống như một cái quán ở miền quê, nơi người nông dân ghé qua, uống một bát chè tươi, hút một điếu thuốc lào, ngâm vài câu thơ, vài câu ca dao, tán gẫu với nhau sau những giờ lao động. Ở đó, chúng tôi khám phá ra cái đậm đà của tình bạn, cái thi vị của những buổi hẹn hò. Ở đó đã nở ra những mối tình, đôi khi dang dở, nhưng có nhiều cặp còn keo sơn tới ngày nay.

Người nhỏ bé, gầy gò, ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn (tôi chưa hề thấy một TCS giận dữ, gây gổ ), Sơn trở thành bạn của mọi người một người một cách rất tự nhiên.

Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như một thầy tu, Sơn có cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn của một người có thực tài. Từ cách nâng ly uống một ly rượu, tiếp truyện với bạn bè, cách trang phục, giản dị nhưng trang nhã, cái phong thái thi nhân ấy hiện diện ở Sơn, thường trực, tự nhiên. Đừng tưởng ông thi sĩ nào cũng có phong thái thi nhân. Sartre nói về Heidegger, một triết gia hàng đầu mà chính ông chịu nhiều ảnh hưởng : « có những người ta chỉ nên biết tác phẩm, không nên biết đến con người, nếu không muốn thất vọng ». Heidegger là một triết gia lỗi lạc, lại cũng là ngươi theo chủ nghĩa nazi. Tôi đã quen những ông thi sĩ, tác giả những câu thơ rất đẹp, ăn uống , cư xử như một con heo đực.

TCS ở ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe những bản nhạc tình của anh.

Chúng tôi, mới đầu, ngạc nhiên thấy một gã người Huế, rất thanh nhã, rất ung dung, từ tốn ; không phải cái từ tốn của 1 ông già, mà là cái ung dung quí phái của một con mèo ; với nụ cười hiền hoà thường trực trên môi. Sơn học chương trình Pháp, nhưng xử dụng tiếng Việt một cách tài tình. Nhiều chữ rất tầm thường, với Sơn, chợt trở nên truyền cảm ; nhiều chữ do Sơn bịa ra, nhiều hình ảnh đến từ một trí tưởng tượng phong phú, nếu không nghe Sơn giải thích, chắn chắn không ai hiểu. Mặc dù vậy, người ta cũng vẫn rung động, vẫn thấy cái Sơn nói đến rất thực, rất gần gũi. Đó là cái ma lực của chữ nghĩa, của thơ. Khi thơ đạt, khi chữ nghĩa có duyên nợ với nhau. Nhiều chữ, nhiều câu rất cũ, đột nhiên ở Sơn trở thành rất mới. Nhiều chữ nhiều câu rất cầu kỳ, đột nhiên gần gũi. Khi thất tình - người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ-, khi tuyệt vọng , mùa thu không về, mùa xuân cũng ra đi,ngay cả khi nói đến chiến tranh tang tóc- xác người nằm như mơ-, TCS không lúc nào quên mình là thi sĩ.

TCS nói về những cái rất riêng tư, những kỷ niệm rất riêng tư, qua một ngôn ngữ rất riêng tư. Và lạ lùng, cái riêng tư ấy của thi sĩ thấm vào lòng người nghe. Người ta xúc động mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những bản nhạc tình. Nói về chiến tranh, ngôn ngữ TCS là ngôn ngữ của mọi người ; chiến tranh là một tai hoạ chung, một thảm kịch của cả một dân tộc, không phải là thảm kịch của một cá nhân, mặc dù mỗi cá nhân là một thảm kịch.

Một người bạn tôi nói khi nghe Sơn hát đường phượng bay mù không lối vào, anh thấy hình ảnh rất đẹp, rất mới , nhưng không biết tác giả nói gì, cho đến một hôm, ở một tỉnh nhỏ, anh thấy hoa phượng rơi, bị gió cuốn mịt mù, đỏ rực cả con đường trước mắt.

Nếu không quen Sơn, ít ai biết ngày mai nối bước Sơn khê, nói đến một người bạn gái tên Khê ; ngàn cây thắp nến hai hàng, mầu nắng bây giờ trong mắt em mô tả những tia nắng cuối cùng của một buổi chiều tà đọng trên những ngọn cây, giống như ngàn cây thắp nến. (2)

Ngôn ngữ TCS khác với ngôn ngữ Phạm Duy (PD). Ngôn ngữ PD là ngôn ngữ ca dao. Hình ảnh của PD là hình ảnh của ca dao. Nhiều câu, nhiều hình ảnh trong nhạc PD không hiểu là của PD hay mượn từ ca dao. Đó không phải một lời chỉ trích ; đó là một lời ca ngợi. Bởi vì dùng ngôn ngữ của một dân tộc, nói lên tình tự của dân tộc không phải ai cũng làm được, là một điều rất đáng tự hào. Lời ca của PD ai cũng hiểu, hình ảnh của PD ai cũng đã từng thấy, vì trong tiềm thức, chúng ta đã sống với ca dao từ hàng ngàn năm nay. Trong môt bài báo ngày xưa ở trong nước (3), tôi viết tiếng hát Thái Thanh không có tuổi, vì đã làm say mê ba thế hệ. Tôi nghĩ thêm : tiếng hát Thái thanh qua nhạc PD không có tuổi vì chúng ta vẫn nghe từ hàng ngàn năm nay. Tiếng hát ấy gợi ra trong đầu người nghe những cánh đồng lúa xanh, tiếng cười rúc rích cúa cô thôn nữ, những làn khói lam trên những mái nhà tranh, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng hò hát của người nông dân những ngày được mùa, tiếng nghẹn ngào của bà mẹ mù mắt chờ con đi chinh chiến, tiếng than vãn của những đời lầm than, đen tối.

PD sống với ca dao, thở với ca dao, cười khóc bằng ca dao. Ít có người Việt nam nào Việt nam hơn PD. Có lẽ có một người : Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là ca dao, ca dao là NB .

HAI NGHỆ SĨ, HAI CUỘC CHIẾN

Trên bãi cỏ trường VK, trước quán Văn, TCS và Khánh Ly hát trước hàng ngàn người hay chỉ năm, bẩy anh em. Không phải chỉ hát cho tình yêu. Sơn càng ngày càng bị ám ảnh bởi chiến tranh. Từ hình ảnh lãng mạn của người phu quét đường dựng chổi đứng nghe, chiến tranh trở thành cụ thể hơn, ghê rợn hơn :

Một buổi sáng mùa xuân
Một đứa bé ra đồng
Một trái mìn nổ chậm
Xác không còn đôi chân.

Nhạc tình TCS là những tiếng thở dài, có buồn cũng chỉ buồn thoang thoảng : mùa đông vời vợ, mùa hạ khói bay, có trách cũng chỉ trách nhẹ nhàng : người tình bỏ ta đi, như những giòng sông nhỏ. Một thái độ rất thiền, rất ‘zen’ ; trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi xuống trăm năm một cõi đi về.

Nói về chiến tranh, TCS kêu gào, phẫn nộ. Chiến tranh không còn từ xa vọng về như những ngày đầu, nó ở trước mắt : Xác người nằm trôi sông ; phơi trên ruộng đồng ; trên nóc nhà thành phố ; trên những đường quanh co. Cùng với cuộc chiến càng ngày càng dữ dội, tiếng kêu gào của Sơn càng ngày càng thảm thiết. Anh nói đến những em bé loã lồ, suốt đời lang thang, đếnnhững xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa, đến những trái mìn nổ chậm, người chết hai lần. Chiến tranh trở thành khốc liệt, tang tóc đổ xuống dân tộc kinh hoàng . Từng vạn chiếc xe , claymore lựu đạn. Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành. Từng vùng thịt xương, có mẹ có em. TCS của chiến tranh trở thành một người dở điên, dở dại, thất thểu, chiều đi trên đồi cao, hát trên những xác người. Hình ảnh bi thảm, ma quái . Một thi sĩ thất thểu trên bãi dâu, hát bên những xác người . Đi trên đồi cao, bên cạnh xác người là một hình ảnh bi thảm, nhưng hát bên những xác người, hình ảnh mang thêm một cái gì ma quái, điên dại. Bi đát như chiến tranh với những con ngựa hý điên cuồng trong tác phẩm Guernica của Picasso.

Ngôn ngữ TCS về chiến tranh khác với ngôn ngữ TCS về tình yêu. Chiến tranh trong nhạc TCS cũng khác chiến tranh trong nhạc Phạm Duy.

PD có ‘’ cái may ‘’ sống trong một cuộc chiến tranh chống Pháp, có địch, có thù, chiến tuyến phân minh. PD, 24 tuổi lên đường tham gia kháng chiến, như hàng ngàn hàng vạn thanh niên khác. Chiến tranh trong nhạc tiền chiến của PD nó hào hùng, nó bừng bừng khí thế. PD tiền chiến không có cái cấu xé, cái dằn vặt. Cái chọn lựa của PD nó hiển nhiên. Nhạc PD không có cái lưỡng lự, nó là một tiếng quân ca, tiếng gọi lên đường. Bên cạnh cái hào hùng là cái lãng mạn của một trí thức tiểu tư sản ở tuổi 20, của một nghệ sĩ giầu tình cảm. Đó là cuộc chiến của những cô nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, của những chiến sĩ dừng chân trên chiếc cầu biên giới tưởng tới người yêu ở quê xa.

Điều đó không có nghĩa là trong nhạc PD không có cái bi thảm của chiến tranh. Nhạc PD có bà mẹ Gio Linh lên đường đi kiếm xác con bị giặc chặt đầu, có bà mẹ đón người con thương binh trở về, tiếc rằng ta đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ. PD nói ông làm tới ba bài người thương binh vì ông sống qua ba cuộc chiến. Tác giả Con Đường Cái Quan nói ông khác xa những nghệ sĩ khác thời tiền chiến vì họ chỉ làm nhạc hùng ; trong khi ông nói cả đến cái bi thảm của chiến tranh. Nhưng cái tàn phá của chiến tranh, cái thảm hoạ đổ lên đầu dân tộc càng khiến PD thấy cuộc chiến tranh của mình có ý nghĩa hơn. PD thuộc những người, như Malraux nói, không thích chiến tranh, ( bởi vì có những người thích chiến tranh, coi đó là lẽ sống) nhưng tham chiến một cách dứt khoát vì là chuyện phải làm.

Cuộc chiến của TCS khác, cái nhìn của TCS khác. Đối với Sơn, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn. Nạn nhân là nước Việt, người Việt :

Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt nam cháy đỏ cuối thôn


Lật xác người chết, chỉ thấy đồng bào, cha mẹ, anh em :

Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi
Dưới hố hầm này
Trong vùng lửa cháy
Bên những vườn ngô khoai

Những câu hát làm người ta nghĩ đến chiến tranh của Quang Dũng :

Mẹ già tôi em có gặp đâu không
những xác già nua ngập cánh đồng
tôi cũng có đàn em nhỏ dại
bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Ngay cả ở cùng một thời điểm, cái nhìn về chiến cuộc của hai nhạc sĩ cũng khác nhau. Với TCS, đó là một cuộc nội chiến mà người Việt nam là nạn nhân. Với PD, đó là cuộc chiến Quốc Cộng nối dài, mặc dù sau này, Phạm Duy, vì cơm ăn áo mặc, hay vì một lý do gì khác, đã vứt bỏ cái hình ảnh của một nghệ sĩ dấn thân, đánh đổi vai trò thần tượng của một thế hệ để đóng vai trò ‘hàng thần lơ láo’.

Ca ngợi cái chết của một phi công-Phạm phú Quốc-PD gọi tên anh, anh là Quốc. Gọi tên anh, anh là nước. Đặt tình yêu nước vào nôi. Viết cho một phi công khác tử trận, TCS không nói đến chiến công, không ca ngợi anh hùng, chỉ nói đến một kiếp người : anh đã đến, đã bay cao trong vòm trời này, đã vui chơi trong cuộc đời này.

Trong « Em hỏi anh bao giờ trở lại » PD viết anh trở về bại tướng cụt chân. Nếu Sơn là tác giả, tôi nghĩ chắc Sơn viết anh trở về vì đã cụt chân. Đối với Sơn, không có chiến có bại ; chỉ có người Việt nam bị cuốn hút vào một cuộc chiến tương tàn. Nếu chưa bị cụt chân thì còn đánh nhau. Đó là một cái nhìn cực kỳ bi đát về cuộc chiến.




HUYỀN THOẠI DA VÀNG



Nhiều người trách cái ngây thơ chính trị của TCS. Nhưng cái ngây thơ chính trị của nghệ sĩ, của trí thức là chuyện rất phổ thông. Chỉ cần nêu trường họp Jean Paul Sartre, suốt đời hô hào ủng hộ cách mạng vô sản, nhắm mắt trước cái dã man, chà đạp nhân quyền trong những goulag. Chiến tranh, chính trị phức tạp hơn là tình cảm của nghệ sĩ.

Chẳng hạn, TCS day dứt về ‘thân phận da vàng’, đến kiếp nô lệ da vàng ; hết tiếng nói da vàng đến dư khúc da vàng. Làm như cái bất hạnh của dân tộc nằm trong cái nghiệp sinh ra từ mầu da, quên rằng nhiều dân tộc khác, cũng vàng khè không thua gì người An nam ta, đang tiến nhanh, tiến mạnh. Nhật Bản đã làm Tây phương thất điên bát đảo trên mọi phương diện, Đại hàn trở thành một cường quốc, Trung Hoa sẽ là một trong hai lãnh tụ thế giới, và những nước phát triển nhất trên địa cầu, Đài Loan, Singapore là những nước da vàng. Một triết gia nói : ‘có hai loại người, những người chấp nhận làm nô lệ và những người không chấp nhận’. Vàng, xanh, trắng, đỏ không liên hệ gì đến thân phận của một dân tộc. Ai đã gặp một người Nhật có mặc cảm da vàng ? Họ không muốn thua ai, không muốn bằng ai, họ muốn trên mọi người, đứng đầu thiên hạ, họ không biết hai chữ thân phận, vàng hay xanh.

Những câu hát phản chiến của TCS là những tiếng nói của tình cảm, không phải là một phân tách chính trị, không phải những hô hào chính trị. Đó chỉ là những giọt nước mắt, Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm, giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong, thoát ra từ trái tim, mặc dù những giọt nước mắt đó, vì khả năng truyền cảm của nó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến chính trị, đến chiến cuộc.


CHỮ NGHĨA ÍCH GÌ

Từ nhũng năm 64-65 chiến tranh càng ngày càng dữ dội. Xã hội càng ngày càng xáo trộn, tình hình chính trị càng ngày càng nát bét. Ngay cả trong bối cảnh đó, trường Văn khoa vẫn sinh hoạt mạnh. Số sinh viên càng ngày càng đông. Ban giảng huấn đã rất tận tuỵ góp phần vàp việc phát triển Văn khoa Sai gòn. Cố nhiên, đó chưa phải là một trường đại học tân tiến, kiểu mẫu. Phương pháp giáo huấn còn cổ hủ, từ chương khoa cử, chưa thực sự có đối thoại, trao đổi giữa thầy và trò. Nhưng ngay cả ở Sorbonne, cũng vẫn còn cái cảnh ông thầy ngồi trên giảng đường, thao thao bất tuyệt, đám sinh viên ngồi dưới hí hoáy biên chép như các cụ đồ ngày xưa dạy học

Nền giáo dục Việt nam thời đó hoàn toàn miễn phí, từ mẫu giáo đến đại học. Trong một nước chiến tranh, thực hiện một nền giáo dục hoàn toàn miễn phí là một cố gắng đáng kể. Người ta có thể chê trách chế độ rất nhiều điểm, nhưng đó là một điểm son phải ghi nhận. Điểm son đó là nhờ ý thức của những người có trách nhiệm, hay nhờ truyền thống tôn trọng học vấn của 1 xã hội Khổng giáo ? Khổng giáo, ít nhất trên phương diện đó, có khía cạnh tích cực với xã hội VN. Điều chắc chắn : nếu không có nền giáo dục hoàn toàn miễn phí, hầu hết chúng tôi đã bỏ học từ lâu.

Một câu hỏi luẩn quẩn trong đầu tôi từ nhiều năm : một trường Văn khoa đóng vai trò gì trong một nước chiến tranh ? Chữ nghĩa ích gì cho buổi ấy ? (Nguyễn Khuyến). Bên cạnh bom nổ, thịt rơi, cái sống cái chết gần kề, có phi lý không khi ngồi đó mổ xẻ Tứ thư ngũ kinh, phân tích tư tưởng Socrate, tìm hiểu nguồn gốc chữ nôm. Bên cạnh cái nghèo đói của một xã hội lạc hậu, có vô nghĩa không khi ngồi đó tụng niệm kinh điển bách gia, rung động với Lord Byron hay Beaudelaire ? Sartre nói bên cạnh một đứa trẻ chết đói, cuốn La Nausée không có một giá trị gì.

Câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, rất nhiều năm, và tôi đã thực sự nhiều lúc hoài nghi, không tìm được câu trả lời.

Câu trả lời, mãi sau này tôi mới tìm ra. Câu trả lời tên là Céline, một cô bạn Pháp. Một buổi chiều thứ bẩy, tôi lên phi trường đón Céline từ Sarajevo về. Céline là một thiếu nữ thông minh, có bằng cấp, có chỗ làm tốt trong một công ty lớn, sống nhàn hạ trong cái xã hội hưởng thụ là cái xã hội Pháp. Weekend bay qua Madrid hay Marakech. Mùa đông trượt tuyết ở Courchevel, mùa hè nghỉ mát ở Bali hay Bora Bora. Tóm lại, cô nàng có đủ thứ để hạnh phúc. Nhưng thay vì hạnh phúc, Céline lúc nào cũng tất tả ngược xuôi, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần ; nhất là tinh thần. Rồi thuốc ngủ, thuốc an thần, hết Lexomil đến Prozac.

Một buổi, Céline dẹp hết, bỏ việc, bán nhà, bán xe. Và biệt tăm. Adieu Céline. Cho đến cái hôm ở phi trương, tôi gặp lặi Céline, nhưng một Céline khác, má rất hồng và miệng rất tươi. Céline nói sau khi vứt bỏ mọi chuyện, cô nàng gia nhập một ban hợp tấu, lưu diễn khắp nơi. Céline là một tay violon thiện nghệ, từ nhỏ vẫn mơ thành nhạc sĩ. Céline lãnh một số lưng tượng trưng, đủ cà- phê, thuốc lá, vì ban nhạc thường đi trình diễn ở những nước nghèo. Họ vừa ở Sarajevo về. Trình diễn hoà tấu ở Sarajevo, nơi người ta giết nhau như ngoé, nơi người ta thí mạng để cướp một ổ bánh mì, một cái mền ? Ở đó, người ta chờ bột mì, thịt cá, đường muối, bột giặt, aspirine, ai chờ Beethoven với Mozazt ? Ban đầu, Céline cũng nghĩ như vậy. Nhưng đêm trình diễn nào cũng đông nghẹt.

Trong một ngôi nhà thờ đổ nát, một trường học còn đang cháy dở, mưa dột vì mái nhà bị pháo kích loang lổ, người ta chen lấn nhau tới nghe nhạc. Ban ngày, người ta chạy bom, dành giựt nhau miếng ăn, một mớ củi để sưởi. Đêm xuống, người ta kéo nhau đi nghe nhạc. Đàn bà lục hành lý, lôi ra những nữ trang, những bộ quần áo đẹp. Có ông thắt cà vạt chỉnh tề. Có bà vừa nghe nhạc vừa lặng lẽ khóc. Céline vừa chơi nhạc vừa cầm nước mắt. Cô nàng vừa tìm thấy hạnh phúc. Chưa bao giờ cô nàng thấy yêu đời như vậy, yêu mình như vậy. Lần đầu tiên, Céline thấy mình có ích. Cô ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong cái hạnh phúc của người khác. Y chang tâm trạng của lớp người trẻ chúng tôi ngày xưa khi đi cứu lụt, đào giếng.

Céline nói có thấy tận mắt cái cảnh người ta lấy tờ báo che mưa nghe nhạc trong một ngôi nhà đổ nát, mới thấm thía cái câu quen thuộc của người Pháp : On ne vit pas que du pain. Người ta không phải chỉ sống bằng bánh mì. Ngay cả trong những lúc khốn cùng, cái đẹp, cái thẩm mỹ không phải là một xa xỉ, vô ích. Cái đẹp sẽ cứu nhân loại, không phải Marx hay Lénine, không phải Ben Laden hay Bush.

Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Người ta đã từng giết nhau, hành hạ nhau, bỏ tù nhau nhân danh thượng đế , nhân danh chính nghĩa, nhân danh giáo điều, nhân danh đất nước, nhân danh đồng bào, nhân danh chân lý. Chưa bao người ta giết nhau nhân danh cái đẹp. Người ta giết nhau vì thánh kinh, vì Coran, vì Hitler, vì Mao, vì Mác, chưa bao giờ người ta giết nhau nhau vì Picasso, Beaudelaire, Nguyễn Du. Sau này, khi giận hờn sẽ quên, những gì người ta nhớ lại về TCS là những bát hát, những câu thơ đẹp.

Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Cái đẹp không phải chỉ là những tác phẩm văn hóa. Cái đẹp còn là, cũng là, nhất là tình người, một xã hội của những người tử tế, lương thiện. Đem cái dối trá, đểu cáng, bất nhân làm tiêu chuẩn cho đời sống là cách hữu hiệu nhất để làm tiêu vong dân tộc. Biến tác giả của ‘tôi khờ dại quá, ngây thơ lắm. Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì’, của ‘ít nhiều thiếu nữ buồn không nói, tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì ’, thành một người gào thét, căm hờn lôi cổ bọn chúng ra đây, là một thành quả ghê rợn nhất của công cuộc huỷ diệt cái đẹp.

Ismail Kadaré nói ngay cả trong những lúc cực kỳ khó khăn vẫn phải có thái độ nghiêm trọng đối với văn hoá. Kadaré sinh ra, lớn lên và viết văn trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ở một nước Cộng sản độc tài bực nhất thế giới : Albanie. Kadaré viết văn trong một xứ kiểm duyệt khắt khe, một nước vỏn vẹn ba triệu dân, nghèo đói, người mù chữ đông hơn người biết đọc, biết viết. Và viết bằng tiếng Albanie. Mặc dầu vậy, ông viết văn với một thái độ cẩn trọng. Ngày nay, Kadaré được coi là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế giới.

Nghệ thuật, cái đẹp có công dụng gì ? Chẳng có công dụng gì. Nhưng đời sống không có cái đẹp sẽ buồn tẻ biết bao nhiêu. Bức tượng của Michel Ange, bức tranh của Van Gogh không có công dụng gì, nhưng hãy tưởng tượng một thế giới không có Michel Ange, Van Gogh. Hãy tưởng tượng Paris không có tháp Eiffel, New-York không Nữ thần Tự do.

Nghe cô nàng Céline kể chuyện về những buổi trình tấu ở Sarajevo, tôi hiểu rằng trong một xứ chiến tranh, nghèo đói, một trường Văn khoa chẳng có ích lợi thiết thực gì, nhưng nó là cái cốt yếu cho một dân tộc còn muốn vươn lên .



ĐỜI SAO IM VẮNG


Tôi gặp lại TCS những ngày cuối cùng của năm 1999, khi về thăm Việt nam. Sơn ngồi trước một cái bàn nhỏ, trong sân Hội Văn nghệ sĩ gì đó ở Sai gòn. Vẫn nụ cười hiền lành, nhưng buồn bã, vẫn thái độ từ tốn, phong nhã,vẫn đôi kính đồi mồi nhưng trước mắt tôi là một TCS lục tuần bịnh hoạn, mệt mỏi, mặc dầu đôi mắt vẫn sáng lên khi nghe đến tin bè bạn. Sơn hỏi thăm tin tức về người này ở bên Tây, người kia ở bên Mỹ. Sơn nói về những người ở lại, kẻ mất, người còn.
Bơi trong cái áo sơ mi rộng thùng thình, Sơn nói :mình chỉ còn 39 kí. Sơn nói rượu đã tàn phá lá gan đến độ không có thuốc gì chữa nổi. Có người sẵn sàng đưa anh đi ngoại quốc giải phẫu gan nhưng anh từ chối. Sơn nói anh rất mệt, nhiều khi xây xẩm mặt mày vì bịnh áp huyết thấp (hypotension).

Vừa nói chuyện, Sơn vừa chào hỏi của những người qua lại. Vị nhạc sĩ lão thành, tác giả bài Dư Âm nổi tiéng hồi nào ở Hà nội (đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn mơ bao tiếng tơ…) kể chuyện đi thăm bác sĩ, chuyện thuốc men. Nhạc sĩ Trần Tiến nói về đêm ca nhạc thành công tuần trước. Ông Vũ Hạnh chạy qua chạy lại hối bài cho một đặc san kỷ niệm ‘cuộc chiến chống Mỹ cứu nước’.

Sơn ngồi đó, mỉm cười hiền lành, buồn bã. Tôi hỏi Sơn có tính đi ngoại quốc chơi một chuyến, nhân tiện chữa bệnh, dù tôi biết Sơn đang sống những ngày tháng cuối cùng. Nếu người nghiện rượu tiếp tục uống, dù có thuốc thánh, dù có gỉai phẫu gan cũng không thay đổi gì. Sơn không muốn nghỉ rượu, hay không nghỉ được. Sơn nói mình uống ít hơn trước nhiều. Sơn mỉm cười : mình sang đó, sợ các ông ấy đập mình. Rồi tiếp : sự thực thì ở bên Pháp không có vấn đề gì, bên Pháp ít có người quá khích ; kỳ trước mình qua Pháp, anh em đãi ngộ rất tử tế.
Sơn tiếp : nói cho đúng, mình mệt lắm, có muốn cũng không đi được. Sơn nói, từ tốn, không lộ một chút xúc động. Anh đang ở một cõi khác, những cái lăng nhăng ở cuộc đời này không liên hệ gì đến anh nữa. Nghe tôi sắp đi Nhật, Sơn nói đến một cô sinh viên Nhật Bản làm một luận án về nhạc của Sơn, về ngôn ngữ và chiến tranh trong nhạc TCS.

Khi tôi ra về, Sơn đưa cho tôi số điện thoại ở nhà riêng : « ráng đến chơi, mình có chuyện muốn nói. Thằng em mình, biết cậu về, chắc nó mừng lắm ». Em Sơn ngày xưa cũng la cà ở quán Văn.

Tôi nghĩ Sơn muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người qua lại. Tôi ân hận vì không có thì giờ tới nhà Sơn như đã hứa, vì phải rời Việt nam ngày hôm sau. Tôi rời Sai gòn ngày mùng 1 tháng giêng năm 2000. Thế giới đang bước sang một thế kỷ mới. Tôi gọi điện thoại chào Sơn. Anh hỏi : cậu đi ngày đầu năm 2000, không sợ ‘’ sự cố ‘’ à ? . Tôi nói sự cố nó sợ tôi chứ tôi sợ gì nó. Hồi ấy, ở Sai gòn, người ta kỵ đi máy bay ngày đầu năm 2000. Sơn nói, gịong buồn : nếu gặp lại X,Y cho mình gởi lời hỏi thăm ; chắc mình không có dịp gặp lại anh em nữa. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi gối chết trên đồi quê hương.

Mỗi lần nghe nhạc TCS, tôi nghĩ đến cái cô đơn cùng tận của người nhạc sĩ ngồi trước cái bàn nhỏ ngoài sân, mỉm cười với người này người kia, nhưng đầu óc ở một nơi khác. Sơn ngồi đó, cô độc. Một mình tôi về với tôi. Đem cái cô đơn của kiếp người nhân lên gấp 10, bạn có cái cô đơn của người nghệ sĩ, nhân lên trăm lần có cái cô đơn của người nghệ sĩ Việt nam, nhân lên ngàn lần có cái cô đơn của TCS. Cái cô đơn của một người suốt đời ca ngợi tình yêu, tình đồng bào – ngày mai sỏi đá cũng cần có nhau-mà cuối cùng bị chỉ trích từ mọi phía. Sơn ngồi đó, nâng niu cô đơn từng ngày. Cuộc đời còn nhiều đắng cay. Sơn ngồi đó, một mình, giữa nhiều người

Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Người về soi bóng mình
giữa tường trắng lạnh câm

Cái sân chỗ Sơn ngồi đông người qua lại, và ngoài đường xe hơi, xe gắn máy chạy loạn xà ngầu, nhưng Sơn ngồi đó, giữa tường trắng lạnh câm.


ANH ĐÃ ĐẾN, ĐÃ VUI CHƠI…


Sơn ra đi ngày 1 tháng tư 2001, hưởng thọ 62 tuổi. Sáu mươi hai tuổi , đời người như gió qua. Ở bên Pháp, ngày 1 tháng tư là ngày ‘ cá tháng Tư ,(poissons d’Avril), ngày người ta đùa nhau bằng những chuyện hoàn toàn bịa đặt. Báo cho một ông nhà văn hạng bét là ông ta vừa chiếm giải Goncourt. Thú với cô fiancée là đã có vợ với ba con, rồi sau đó cho hay đó chỉ là những cá tháng Tư, những chuyện đùa chơi.

TCS ra đi thật hay chỉ thả một một con cá tháng Tư ?

Sơn đã đến, đã vui chơi trong cuộc đời này. Bây giờ có lẽ anh đang bay cao trong bầu trời này. Nhưng, nhiều lúc, tôi tự hỏi có quả thật anh đã vui chơi trong cuộc đời này. Có bao nhiêu người Việt nam đã thực sư vui chơi trong cuộc đời này ?


(1)Tư tưởng Phương Đông / Cao Xuân Huy.- Nhà xuất bản Văn Học. Hanoi, 1995

(2)Trịnh Cung, Phan Thanh Tâm. Thế kỷ 21, May 2001

(3)Đất Mới. Saigon, 1966

NHƠN CHI SƠ...





Cùng đất

Cái cây me cả trăm năm sum suê đầu ngõ ấy, cái cây me mà ngày ngày mấy cô hàng sữa đậu nành bánh canh bánh mì bánh ít hay rau cải dừa xoài ổi mận ngồi xổm bán bán buôn buôn ấy, cái cây me mà mỗi mùa trái chín là một cặp vợ chồng từ đâu đổ tới leo lên khoèo khoèo hái hái cả bao bố to đùng vác đi bán ấy, dưới gốc nó thiêng liêng mỗi xế chiều khi mái tôn hắt cái nóng hầm hập kinh người bám riết vào da, ông ấy lim dim trong bóng mát nó bao che như đứa bé sà vào lòng mẹ.

Rồi bỗng dưng một ngày, mẹ me bàng hoàng ôm thi thể đứa con.

Hàng xóm rầm rì to nhỏ, hoảng hốt. Chu cha, tòng teng ở đây thì bà con làm ăn sao được nữa. Nhưng ông ấy đâu còn để giải bày hay xin lỗi. Buổi sáng đó như mọi buổi sáng, chị bán sữa đậu nành gần nhà ra sớm nhất. Tiếng ré thất thanh của chị đánh thức mấy nhà bên cạnh. Rồi mọi cánh cửa bung ra, mọi bàn chân rầm rập đến, mọi cái cổ ngẩng lên, mọi cái đầu lắc lắc, mọi cái miệng chép chép... Cuối cùng là gia đình em vợ ở mãi tít trong sâu, phía sau nhà ông, bương bả tới cây me nhìn thân thể ông anh rể im sững trong bình minh, không ngờ lưỡi ông dài vậy. Rồi mọi người tản mác. Ai đó gọi điện báo cho phường.

Bữa cuối năm rồi mẹ vợ ông vĩnh biệt. Bà cụ nhỏ con và ốm cực kỳ, nghe đâu chỉ ba hai kí, có lẽ xương hai tám, hai kí da và máu cùng nước hai kí nữa. Bà ra đi chiều hăm chín tết, năm rồi lại thiếu, chợ chiều hăm chín đã dẹp chẳng thể mua vài bìa đậu hủ nấu bữa cơm chay mà cúng. Người ta kháo nhau là thiếu phước thiếu phần. Nói vậy chớ bà cụ nhất định cãi các con để mái tôn ông ấy vẫn đứng vững đến giờ cũng là nhân ái. Đám em vợ cứ đòi ông phải dọn đi từ nhiều năm trước kìa, lấy lại đất bán. Đất chỗ khu này đã lên chức đất vàng. Của gia đình vợ mà không còn vợ nữa mới nên nỗi. Vì vậy ông bấm bụng ngày ngày chạm mặt đám em vợ ngúyt háy vào ra cùng cổng. Bây giờ bà cụ nằm xuống rồi, đâu còn ai cưu mang ông nữa. Vậy là đám em chờ qua bốn chín ngày, liền dùng biện pháp mạnh. Hỏi biện pháp mạnh là gì thì chị hàng xóm đang thao thao kể, cũng ngọng, à ừ, tụi nó hăm doạ gì đó ổng cũng không nói, chỉ nói là sợ lắm. Nhưng mà dọn đi đâu, ổng còn chỗ nào mà đi. - Chớ con gái ổng đâu? - Úi cha có một đứa đó mà cũng ở với chồng trong cái xum chưa tới mười lăm mét, chứa ổng chỗ nào?

Thôi thì không được chọn ngày, nơi và cách sinh, ít nhất ông cũng chọn được ngày, nơi và cách chết.

Cùng nhà

Khi chị đề nghị với cậu em cùng nhau trả tiền đất cho ba bà chị kia rồi xây lại căn nhà khang trang mà ở, một bà chị bên Mỹ nhất định không chịu. Giằng co mãi nhiều năm, cuối cùng đồng ý với điều kiện cắt phần đất của bà ra, để cho con. Mà nó có hình miếng phô mai con bò cười, mặt tiền rộng một mét rưỡi thì xây được cái gì. Phần chị phấn khởi, mỗi mùa đông bên Tây trốn về đây hưởng nắng ấm, khoẻ ru. Vậy là căn nhà ba tầng ngất ngưởng đứng lên.

Mùa đông năm rồi bên tây lạnh cắt da, anh chị mừng là tránh được, hí hửng tay xách nách mang về ở với em trai em dâu và hai đứa cháu gọi cô ruột, một trai một gái đã quá hai mươi. Họ dành cho anh chị một phòng trên tầng ba. Về, chị sắm cho anh cái bàn cái ghế (cô em dâu dặn phải hạp với bàn ghế cả nhà) để anh nhẩn nha đọc tin trên mạng và dù hưu rồi, cũng làm việc giúp đám sinh viên khắp nơi trên đất Việt Nam. Để có wifi, anh chị bỏ ra tám trăm nghìn. Leo lên leo xuống ba ngày thì hết nổi, cây gậy chị chống vì lưng và đầu gối đau cũng chẳng giúp được. Năn nỉ hai đứa cháu đổi lên trên, đứa nào cũng giẫy nẫy. Cuối cùng thằng anh chịu.

Mời tới nhà dùng cơm, anh chị được thằng cháu rể tương lai đưa xe hơi đến, tay xách hộp bánh chị vui vẻ khoe em dâu mới làm, dãy hoa kem mượt mà bên trên do cháu gái mới bắt tức thì trong chớp nháy chưa đầy năm phút, em coi màu vàng nó pha khéo ghê chưa. Mùa cưới thiên hạ đặt bánh làm không xuể, tất bật túi bụi, cực chút mà tiền bạc ê hề. Chị nói tuần sau sẽ mời tới nhà chơi, cô em dâu nấu ăn giỏi và ngon, đã dặn chị muốn mời ai cứ việc.

Ba tuần trôi qua chẳng nghe động tịnh. Cuối cùng chị phôn rủ ra tiệm gần khu nhà cậu em. Ngang công viên, chị mơ màng tả hồi nhỏ các chị em đã chơi đùa ở đó ra sao, công thự này trước kia là bưu điện, chỗ này trước kia là... Miệng môi giấu được nhưng cửa sổ linh hồn phản trắc mở toang thấy cả bên trong. Rồi chị cũng kể. Có chung thì có đụng. Làm tài lanh, tôi nói thôi chị bảo họ trả lại một ít, rồi mỗi lần về anh chị thuê nhà, riêng tư cho khoẻ. Chị cười : cái xe hơi nó đi là mượn anh chị sáu nghìn đô mấy năm nay nó còn chẳng nhắc đến, nói gì chuyện trả lại tiền xây nhà.

Trái với dự định bốn tháng, hai hôm sau thình lình anh chị xách va ly chào, cám ơn các em đã lo cho chu đáo. Lần đầu tiên sau hơn một tháng ở chung, bữa cơm gia đình đông đủ để ai cũng có dịp bày tỏ nguyên do những nỗi không vui. Cuối cùng cậu em nghiêm khắc dặn con trai: nhà này cũng là nhà của cô, dù sau này ba không còn nữa nhưng mỗi lần cô về con phải lo cho cô chu đáo. Thằng con ngoan ngoãn dạ, nhìn xuống chẳng thấy mắt. Ít nhất không phải thằng cháu sừng sộ và không thèm trả lời cô dượng như cả tháng qua. Con người cứ sính và sống bằng lời hứa.

Vẫn còn là tử tế. Nhiều nhà xây cất khang trang sắm sửa đầy đủ rồi, cha tỉnh bơ hỏi mày về đây làm gì, cốt lấy nhà con con trai. Hoặc, nhà đứng tên em tại sao bán phải hỏi chị ?

Những chuyện đó tưởng đã hết cả hơn chục năm nay, té ra vẫn còn.

Xuân Sương

Thơ phải lặn sâu vào cảnh ngộ của đời


Tôi vốn là bác sĩ. Nhà thơ Chế Lan Viên, khi là Thường vụ Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam đã khuyên tôi chuyển từ Bộ Y tế về Hội Nhà văn làm việc. Anh Bằng Việt, vốn học luật, hồi đó cũng được khuyên thế, đã chuyển được ngay. Tôi thì quyến luyến "dao cầu thuyền tán" mất hai năm nữa. Ngành y là ngành tôi cũng say mê lắm. Học hành cặm cụi. Đã tính cho cả đời ở đấy. Hơn nữa, mẹ tôi mong tôi thành ông bác sĩ giỏi từ lâu lắm rồi. Bây giờ bỏ ngành y mẹ tôi tiếc cho tôi. Tôi chần chừ vì thế. Nhưng ôm cả hai có khi lại chẳng được một.

Trong giới làm thơ ta, có nhà thơ phàn nàn là các bạn làm thơ trẻ ít có tuyên ngôn trường phái. Phải chủ nghĩa nọ, trường phái kia nó mới sang trọng, mới có cái mà góp vào chợ văn thế giới. Bên cạnh sáng tác là phải đưa ra lý thuyết. Tôi lại nghĩ khác. Mình là anh làm thơ thì cứ hồn nhiên mà viết. Viết theo vui buồn nghĩ ngợi của mình. Viết xong thấy nó hả cái lòng mình là được. Thích cười thì cười, thích khóc thì khóc. Ấy là thơ chứ sao. Còn bài thơ ấy sống được và cần xếp vào trường phái nào thì là nhờ độc giả, là việc của các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu. Tác giả cũng không nên quá bận tâm về chỗ đứng chỗ ngồi các tác phẩm của mình. Bài thơ sống được thì tác giả phải tự coi như mình... chết rồi. Chứ lại cũng xồ ra bàn tán, tuyên ngôn, tranh luận về nó, tôi thấy nó thế nào ấy. Có khi lại bị người xét nét nhìn mình như nhìn bà hàng xóm lắm điều bênh con. Tôi nghĩ thầm thế, không chắc đã đúng, nên không dám nói ra. Nhưng hôm nay lại nói ra chính vì tôi có liên hệ với chuyện hành nghề của mấy bậc thầy trong ngành y. Hồi đó khi học ngoại khoa (ở vòng luân khoa) chúng tôi được học hai Giáo sư Tôn Thất Tùng và Nguyễn Trinh Cơ. Thầy Tùng phóng khoáng tài tử, thầy Cơ nghiêm cẩn, cần cù. Hai cá tính trái nhau nhưng đều được sinh viên yêu kính. Thầy Cơ giảng lý thuyết hay lắm, vừa hệ thống vừa phong phú trường phái. Thầy Tùng ít nói lý thuyết mà thường nói kinh nghiệm. Kinh nghiệm của chính thầy, chưa có trong sách giáo khoa. Giáo sư Tùng có nhiều quan sát triệu chứng như một bổ sung thiết thực cho tiêu chí chẩn đoán (như tư thế đạp chân lên tường của người đau giun chui ống mật). Điều quan trọng đối với thầy thuốc là chữa khỏi bệnh. Giáo sư Tùng cắt gan chẳng giống ai, nhưng cứu được người thì thành phương pháp Tôn Thất Tùng. Làm thơ mà có độc giả, dù chẳng ở trường phái nào, thì vẫn thành nhà thơ, có khi thành người khai sinh ra trường phái mới. Đỗ ông Nghè thì hàng tổng đi đón chứ cứ đe trước chưa chắc đã (được) thi, mà thi cũng chưa chắc đỗ.

Muốn thơ nhập vào cuộc đời thì nhà thơ phải lặn sâu vào những cảnh ngộ của đời. Nhà thơ trải nghiệm nhiều nông nỗi của đời càng nhiều thì những buồn vui anh giãi bày càng được nhiều người chia sẻ. Bởi những buồn vui ấy nó là cuộc đời anh, tác động vào chính giác quan anh. Nó thật. Nó thường xuyên nhoi nhói trong lòng anh. Không phải chỉ là điều anh nghe nói, anh đọc được trên sách báo, hay là do một cuộc vận động viết, một cuộc thi văn chương thúc đẩy. Mà thúc đẩy từ chính anh. Văn chương đòi sự trải nghiệm Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Người không qua cầu đoạn trường mà viết về nỗi đau đứt ruột, e ngòi bút không tới được lòng người. Người đọc chê thứ văn thương vay khóc mướn là chê ở chỗ ấy. Nguyễn Du viết đời cô Kiều, nhân vật của Trung Hoa, nhưng lòng ông, do từng trải, ông đủ chiêm nghiệm nỗi đau đời, để nhập lòng mình vào cảnh ngộ Kiều, hứng chịu xót thương của thân Kiều mà viết nên tiếng kêu đứt ruột. Cốt truyện vay nhưng không phải thương vay. Ông đã thương Kiều như thương mình, thấy nỗi mình trong đời Kiều. Viết Kiều mà lại giật mình, mình lại thương mình xót xa. Trái lại, có người viết về chuyện thật của mình, vừa viết vừa khóc, mà người ta đọc lại cười bảo là không thật. Ấy là cái tài văn chương chưa đến độ. Đúng ra là nỗi từng trải chưa đến độ, chưa đủ sâu sắc. Sống chưa hết nỗi đau, nỗi khổ của chính mình. Mình còn quan liêu với chính mình.

Thầy thuốc từng mắc bệnh nào chắc hẳn hiểu nỗi đau của người mắc bệnh ấy mà còn rành các sắc thái của triệu chứng, giúp cho chẩn đoán. Đấy là cái học của sự từng trải, lấy mình làm thực nghiệm. Nhưng không ai lại trông cậy vào sự mắc bệnh của mình để làm thầy thuốc. Và cũng không ai mong thế. Cũng như không ai mong đứng trước cọc hành hình để viết tâm lý tử tù. Phải có cách thu nhận vốn sống gián tiếp ở mức độ chân thực nhất, sao cho vốn sống ấy tác động thẳng tới giác quan. Vị ngọt của mật ong khác vị ngọt của đường, nếm một lần là rõ. Chứ nghe người ta nói không nhận ra đâu. Ngành y, khi máy móc thăm dò hay xét nghiệm chưa phong phú, thầy thuốc chủ yếu nương tựa vào giác quan: nhìn sờ gõ nghe hay vọng văn vấn thiết. Các nhà văn có một thao tác nghiệp vụ là đi thực tế. Ấy là cách tạo cho nhà văn nhập cuộc, mà nhìn sờ gõ nghe cái cuộc đời này. Đúng ra, lúc nào, ở đâu người viết biết cách mở giác quan mình ra mà thu nhận mọi nông nỗi cuộc đời thì đều là đi thực tế. Lắng nghe, nghe cho ra nỗi đau của người khác (đau thể xác, đau tâm hồn) là phẩm chất đầu tiên cần có để thành thầy thuốc giỏi, cũng là con đường để thành nhà văn tài năng. Việc ấy, như một năng khiếu, trời cho cũng chỉ một phần mà chủ yếu phải tự rèn, rèn cả đời người. Rèn cho thành một nếp sống, một bản năng.

VŨ QUẦN PHƯƠNG

ĐẠO PHẬT HIỆN ĐẠI NHƯ THẾ NÀO TRƯỚC MẮT NGƯỜI TÂY PHƯƠNG?


Cao Huy Thuần



Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi. Tây phương trăn trở về những vấn đề siêu hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên: khi anh bị mũi tên độc bắn vào thân thì anh phải rút nó ra ngay hay anh ca vọng cổ hỏi mũi tên do ai bắn, lý lịch thế nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi tên ra: đó là nhu cầu giải phóng con người ở Tây phương và họ thấy nơi Phật giáo một đáp số hợp với lý tính, đặt nặng trên kinh nghiệm, trên thực hành, và kiểm chứng được bằng kết quả bản thân, ở ngay đời này, chứ không phải đợi đến khi lên thiên đường, xuống địa ngục.


Hợp với lý tính: người Tây phương ngưỡng mộ nét đặc biệt đó của Phật giáo, làm Phật giáo khác với các tôn giáo khác. Phật giáo từ chối lòng tin nếu không đặt cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy, trong Phật giáo không có tín điều. Tây phương ngưỡng mộ kinh Kâlâma khi Phật dạy: Đừng vội tin một điều gì dù điều đó được ghi trong kinh điển hay sách vở. Hãy quan sát, suy tư, thể nghiệm, thực chứng rồi mới tin. Tinh thần đó xuyên suốt kinh kệ Phật giáo. Người trí thức Tây phương thấy tinh thần đó hợp với khoa học, hợp với đầu óc phê phán. “Phật giáo là tôn giáo duy nhất thích ứng với khoa học hiện đại”, Einstein đã phát biểu như vậy.


Tại sao Phật giáo hợp với khoa học? Tại vì Phật giáo không nói điều gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói: sự vật là vô thường. Hãy nhìn chung quanh với mắt của mình, kinh nghiệm của mình: có cái gì là thường còn đâu? Cái thường còn duy nhất là khoảnh khắc này đây. Vậy thì tìm thiên đường ở đâu nếu không phải nơi chính cái khoảnh khắc này? Hạnh phúc nằm ngay nơi mỗi khoảnh khắc: đó là bài học hiện đại quý giá nhất mà Phật giáo đem đến cho người Tây phương. Và hãy nhìn thêm nữa: mọi sự mọi vật đều tương quan lẫn nhau mà có và tương quan lẫn nhau mà diệt. Màu hồng nơi đóa hoa kia có phải tự nó mà có không? Đâu phải! Nếu không có mặt trời thì nó đâu có hồng thắm như vậy? Nhưng mặt trời có phải là tác giả duy nhất của màu hồng kia không? Không! Vì nếu không có mưa thì làm sao hoa sống? Nhưng mưa có cũng là do mây, mây có cũng là do hơi nước. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia cũng không. Đó là luật vô ngã của Phật giáo và cũng là luật tương quan tương sinh. Ai đọc sách của nhà vũ trụ vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết: những luật đó có nhiều điểm hội tụ với khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng được luật đó vào đời sống bản thân, đời sống gia đình, đời sống xã hội, cam đoan không cần tìm thiên đường ở đâu xa. Đó là chưa kể đến luật nhân quả mà ai cũng có thể dễ kiểm chứng. Từ đó, người Tây phương đi đến một cái nhìn hiện đại hơn nữa vào bản chất của cuộc đời để hiểu chữ “khổ” trong Phật giáo. Họ chất vấn Thượng Đế: Nếu Thượng Đế là toàn năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất, triều cường, dịch này dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy? Nếu Ngài là nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu? Phải chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc đời như muối nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh dễ thấy nhất? Từ đó, Tây phương hiểu chữ “niết bàn” của Phật giáo đúng hơn hồi thế kỷ 19: niết bàn là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản thân tôi, mỗi khi tôi nghe ai cầu cho người chết được siêu thoát, tôi không khỏi cười thầm, bởi vì “siêu” là vượt lên, “thoát” là giải thoát, vượt lên trên tham sân si thì giải thoát, vậy thì nên cầu cho cả người sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa đâu, người Tây phương hiểu điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của chính họ: nhân bản nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ khả năng để vượt lên trên chính mình.


Nhưng vượt lên như thế nào, cụ thể bằng cách nào? Đây là cái mới mà Phật giáo đem đến cho Tây phương và đem đến trong tinh thần khoa học. Trong lịch sử, Tây phương đã vượt quá ta hằng mấy thế kỷ nhờ khám phá thế giới bên ngoài. Nhưng đến một lúc họ bỗng giật mình thấy rằng khám phá thế giới bên ngoài không đủ để đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi vì con người còn có đời sống ở bên trong. Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ: “Những vấn đề của chúng ta, dù đến từ bên ngoài, như chiến tranh, như bạo lực, như tội ác, hay đến từ bên trong dưới hình thức khổ đau về tâm lý hay tình cảm, đều sẽ không tìm ra giải pháp chừng nào chúng ta còn không hiểu chiều sâu nội tâm của ta” (3). Đó là lúc mà ngài và các vị sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang theo một ánh sáng khoa học mới rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một cuộc cách mạng thứ hai mà người Tây phương gọi là “cách mạng ở bên trong”, bổ túc cho “cách mạng ở bên ngoài” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa học. Chìa khóa của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá nhân. Mà muốn nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong bằng những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do chính kinh nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm đến làm ăn bịp bợm: khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc thám hiểm vào não bộ của con người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính bản thân để các máy móc tối tân trong các đại học danh tiếng nhất của Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định trên não bộ. Họ không phải chỉ đem lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật, phương pháp cụ thể để các nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của thiền định, góp phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh. Tôi xin thú thực: bản thân tôi có tính đa nghi, khi đọc lịch sử đức Phật, tôi không hiểu làm sao Phật có thể ngồi thiền định dưới bóng cây bồ đề trong suốt 49 ngày. Bây giờ thì tôi hiểu: mỗi người chúng ta đều có một sức dự trữ tâm linh mà ta không ngờ bởi vì chưa bao giờ sử dụng. Tôi sẽ trở lui lại điểm này - cuộc hành trình của ta tìm ta để chữa bệnh cho chính ta và chữa bệnh cho thời đại.


Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và khoa học, có phải sức quyến rũ của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật giáo mà thôi hay không? Tôi không nói đến chiều sâu của triết lý Phật giáo ở đây, cũng không nói đến tính minh triết mà Tây phương đang tìm lại. Tôi chỉ hạn chế trong một vấn đề nữa thôi: đạo đức. Đạo đức học ở Tây phương là những răn cấm, những mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có ngón tay chỉ vào trán và ra lệnh: mày không được thế này, mày không được thế kia, mày làm là phạm tội. Phạm tội với ai? Tại sao như thế là phạm tội? Tại sao tội đó phải nhờ một người khác giải tội với Trên Cao? Đạo đức đó, con người hiện đại chối bỏ vì họ cảm thấy như vậy là hãy còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo trái hẳn, bắt nguồn từ con người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo nói: tham thì khổ, sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì vui, xả thì vui. Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào sẽ thấy khổ. Đừng giết hại, đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng say rượu: đó là năm điều tôi tự nguyện với tôi, làm được đến đâu chính tôi nhẹ nhàng đến đó. Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục đích làm cho con người tốt hơn đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm thanh thản, bởi vì thanh thản chính là hạnh phúc.


Hơn thế nữa, đạo đức Phật giáo còn thức tỉnh con người hiện đại ở Tây phương ở chỗ nới rộng lòng từ bi và ý thức liên đới ra khắp chung quanh, không những giữa người với người, mà còn giữa người với thú vật, với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo cổ truyền của họ, Tây phương đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi cố gắng để chinh phục, cai trị thiên nhiên. Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ sông, lấp núi: cái gì con người cũng làm được, thiên nhiên đã bị nhân hóa. Nhưng thiên nhiên cũng đã bị khai thác, bóc lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu, mưa hóa chất, nước nhiễm độc, chúng ta biết rõ hơn ai hết. Và rốt cục, con người ăn trong miếng ăn những chất độc do chính con người thải ra. Đạo đức đối với thiên nhiên trở thành trách nhiệm của chính con người. Các tôn giáo khác nói: không được giết người. Phật giao nói: tôi nguyện không sát sinh, nghĩa là không giết sự sống, và sự sống đó, thú vật đều có, cây cối thiên nhiên đều có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều có, tất cả đều liên đới với con người, phải yêu thương nhau như một thì mới sống còn với nhau.


Tôi vừa động đến một vấn đề hiện đại có tính tiêu cực: vấn đề môi trường. Bởi vì hiện đại không phải cái gì cũng hay. Hiện đại cũng có lắm tiêu cực. Hiện đại cũng đang gặp khủng hoảng. Bởi vậy, sau khi tán thưởng hiện đại và giải thích Phật giáo hiện đại như thế nào, tôi bắt qua điểm thứ ba, trình bày những khủng hoảng của hiện đại.


(Trích: HÃY BAY VỚI HAI CÁNH VÀO HIỆN ĐẠI

AN ỦI LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ BỐ THÍ


Thích Đạt Ma Phổ Giác



Tại sao an ủi lớn nhất của đời người là bố thí? Vì người nghèo đang thiếu thốn, khó khăn được sự giúp đỡ sẽ có thể vượt qua cơn hoạn nạn. Bố thí theo nghĩa thông thường là giúp đỡ, sẻ chia, chính là gieo những hạt giống thiện lành, giống như người gửi tiền ngân hàng tuy hiện tại như không có tiền nhưng khi cần xài thì rút ra. Như vậy, khi chúng ta làm những việc thiện lành như bố thí tiền bạc, tài sản, chia sẻ những ưu tư, những khổ đau của người khác là chúng ta đang tu phước.

Bố thí theo nghĩa sâu xa là buông xả mọi dính mắc về vật chất lẫn tinh thần. Bố thí theo nghĩa thông thường là giúp đỡ, sẻ chia cho người khi cần thiết nhưng vẫn có sự tính toán. Khi chúng ta cho đi một vật gì là biết chắc mình sẽ nhận lại được tương đương hoặc nhiều hơn thế nữa, như vậy trong đó có sự cân nhắc lợi-hại.

Chúng ta cho đi một vật gì mục đích là để cầu phước báo hiện tại và mai sau, hoặc vì muốn đáp lại lòng tốt của người khác. Như vậy, ý nghĩa cho ở đây là để trao đổi hai chiều. Trong thế gian này, người giàu sang phú quý, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại không phải bỗng dưng mà có. Đó là kết quả việc tu nhân tích đức của họ trong nhiều đời trước. Chính vì vậy, trong cuộc sống này không có việc gì là ngẫu nhiên, đương nhiên khi không hay tự nhiên mà thành.

Muốn được giàu sang quyền quý, sung túc đầy đủ trong tương lai thì hiện tại ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình. Người Phật tử chân chính lúc nào cũng phải tin sâu nhân quả, tin mình làm lành được hưởng phước. Vậy muốn được giàu sang, nhiều của cải mà hiện thời ta không biết làm phước thì e rằng không thể có được.

Đạo Phật có mặt trong cuộc đời là vì lợi ích chúng sinh, muốn giúp cho mọi người chuyển hoá kiếp nghèo khó thì ta phải biết bố thí, cúng dường. Phật dạy chúng ta phải biết xả bớt lòng tham lam, ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình để giúp đỡ, sẻ chia cho người khác, không nên sống trong vô cảm ai khổ đau mặc kệ. Đạo Phật chủ trương sống hòa mình cùng nhân loại với quan niệm ai cũng là người thân, người thương nên mỗi người đều phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Đạo Phật thấy rõ cuộc sống của muôn loài là phải nương tựa vào nhau, không một loài nào có thể tách rời đời sống xã hội mà tồn tại trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật đã tu tập thành bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài thấy rõ mọi sai biệt và bất đồng giữa con người và muôn loài giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy người giàu sang, sung sướng, của cải vật chất đầy đủ; người nghèo hèn, khốn khổ, đói rách, thiếu thốn, lang thang; kẻ sang - người hèn, kẻ xấu - người đẹp, kẻ ngu - người trí, kẻ chết yểu - người sống thọ, người an vui hạnh phúc - kẻ bất hạnh khổ đau…

Phật dạy: Người đủ ăn đủ mặc là người có phước đức nên ít lo, nhờ vậy mà dễ tu. Vậy thế nào là người có phước đức? Người có phước đức là người có cuộc sống ổn định, phương tiện vật chất đầy đủ, có nhà cửa, tiền tài, danh vọng, ăn ngon, mặc ấm; lại sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết cung kính lễ phép với người trên, thương yêu đùm bọc người dưới, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải, tránh xa bạn ác, gần gũi bạn lành trong tình thương yêu nhân loại vì tình người trong cuộc sống bằng trái tim hiểu biết.

Ngay nơi hiện tại chúng ta không làm phước mà muốn mai sau được phước thì không thể được, cũng như trước kia mình chưa từng làm phước nên bây giờ phải chịu kiếp nghèo khổ. Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước. Hiểu được điều này, mỗi người chúng ta cần phải cố gắng gieo trồng phước đức để cuộc sống ngày thêm hoàn thiện hơn. Một ngày chúng ta sống trên đời là một ngày ta phải sống có ích cho mình và người mà không làm tổn hại cho ai. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, trong gia đình thường hay gây gỗ, bất hòa, xung đột lẫn nhau là vì thiếu phước đức.

Vậy thế nào là phước? Phước là những hành động, lời nói, ý nghĩ đem đến an vui, hạnh phúc cho mọi người trong hiện tại và mai sau. Người làm phước là người biết làm những điều thiện lành tốt đẹp, luôn giúp mọi người khi gặp khó khăn nên ai cũng ưa thích gần gũi, quý mến, tôn trọng. Chính nhờ sự gần gũi đó chúng ta dễ dàng thông cảm, tha thứ cho nhau, sẵn sàng dấn thân phục vụ, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha.

Phước giúp chúng ta chuyển hoá được những nghiệp xấu ác có tính cách làm tổn hại người và vật của nhiều kiếp, phước có công năng giúp ta sáng suốt để giảm bớt việc làm sai trái trong cuộc sống. Có những việc chúng ta tưởng chừng như không thể nào cứu vãn nổi, vậy mà nhờ có phước rồi ta cũng vượt qua hết tất cả. Trong sáu hạnh Ba La Mật gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ thì bố thí là hạnh đầu tiên để giúp chúng ta từng bước thăng tiến trên con đường Phật đạo.

Con đường tu tập của quý Phật tử không chỉ giới hạn vào việc tu phước, việc làm lành tránh ác để kiếp sau khá hơn kiếp trước, vì như thế vẫn còn trôi lăn trong vòng sinh tử của thế giới tương đối, đó chưa phải là mục đích chính của đạo Phật.

Chúng ta thử đặt vấn đề nếu trong hiện tại chúng ta chỉ lo tu phước mà không tu tuệ, do nhân tu phước ở kiếp này mà đời sau có nhiều của cải, quyền cao chức trọng, kẻ hầu người hạ, giàu sang sung sướng. Do được hưởng phước báo đó mà con người ta dễ dàng buông lung, sa đoạ trong dục lạc. Khi ấy thì dù có bậc thiện tri thức khuyên bảo cũng khó làm cho họ nghe theo vì họ đang trong cơn say sưa, mê đắm với dục vọng.

Chính vì vậy mà đức Phật thường khuyên nhủ chúng ta “phước huệ song tu” để thành tựu đạo pháp. Nếu chúng ta giàu sang sung sướng mà không có nhận thức sáng suốt, không giữ gìn giới hạnh trang nghiêm thì trong tương lai phước hết hoạ đến sẽ gặt quả báo xấu tuỳ theo nghiệp đã tạo.

Việc gieo trồng phước đức rất quan trọng, trong đó có hạnh pháp thí gồm có truyền giảng chánh pháp cho người nghe, hay trợ duyên cho việc chuyển lăn bánh xe pháp, làm cho Phật pháp ngày càng lan rộng. Làm phước bằng cách ấn tống kinh sách, phát hành băng đĩa Phật pháp, tài trợ cho quý Tăng Ni sinh đi học, hay cúng dường cho những khoá tu học tại các chùa, gieo nhân duyên nghe Phật pháp giúp mọi người tin sâu nhân quả, hiểu biết được nguyên lý sống của xã hội là công đức cao nhất trong các hàng bố thí. Cho người miếng ăn xong rồi hết, đôi khi khiến họ thêm ỷ lại, cho pháp thí thì mau chuyển hoá được nghiệp tập xấu ác.

Ngày xưa, khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa hoằng pháp, Ngài đã đến gặp vua Lương Võ Đế. Trong lúc tìm hiểu, trao đổi Phật pháp, nhà vua hỏi: "Trẫm một đời cất chùa, độ Tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, như vậy có được công đức chăng?" Tổ Bồ Đề Đạt Ma trả lời rằng không có công đức gì cả. Nhà vua như bị tát gáo nước lạnh vào mặt, bởi vì Ngài nghĩ những việc đó là công đức tối hậu.

Có người nói rằng vua Lương Võ Đế không đích thân ra công thực hiện những việc đó mà chỉ sai người khác làm nên không có công đức gì cả. Sau này có người đem sự việc đó thưa hỏi Lục Tổ Huệ Năng và được Lục Tổ chỉ dạy như sau: “Quả thực là không có công đức gì cả. Vua Lương Võ Đế vì lầm chấp sự làm phước là viên mãn mà không dùng trí tuệ để buông xả phiền não tham-sân-si vì còn thấy mình giúp. Cất chùa, độ Tăng chúng tu hành rất đông, thiết trai cúng dường, bố thí, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, tất cả chỉ là những việc làm bên ngoài xã hội bằng tình người trong cuộc sống có thể giúp ích cho nhiều người.”

Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra nghi ngờ nên hỏi tiếp: “Tại sao lại không có công đức?” Tổ đáp: “Đó là phước báu thế gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, thông minh, mẫn tiệp ở cõi Trời-Người như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc lâu dài.” Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao cả nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh vào mặt nhưng vẫn chưa nhận ra yếu chỉ tu hành bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức.

Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Vua Lương nghĩ rằng cất chùa, độ Tăng Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật. Nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên các vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh cũng vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng các vọng niệm phải-quấy, tốt-xấu, đúng-sai, ta-người để sống lại với tâm sáng suốt của mình, hay còn gọi là Phật tánh.

Người đến với đạo Phật có hai hình thức: tại gia và xuất gia. Song, xuất gia là số ít, người tại gia là số nhiều, là nền tảng của đời sống gia đình và xã hội. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy, người xuất gia nêu cao tinh thần dấn thân phục vụ vì Tam Bảo. Người tại gia ngoài việc lo cho gia đình và xã hội, thấu hiểu lý nhân quả nghiệp báo còn cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia (chư Tăng Ni) có điều kiện, thời gian tu học và hành trì.

Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm bởi Ngài là vua một nước, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời gian làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, ông đã giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, sống trên tinh thần đoàn kết-giúp đỡ lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội.

Công đức là do tu tâm mà được, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâm rõ bản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết. Những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của Trời-Người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải, quyền thế, hưởng thụ vật chất đầy đủ. Song, hưởng thụ phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử.

Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình rồi sanh tâm cống cao ngã mạn; nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn sẽ sanh tâm coi thường, khinh rẽ họ thì không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu.

Chính vì vậy, là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết quân bình phước huệ song tu, một mặt tích lũy phước báu, một mặt buông xả phiền não, nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật dù có bố thí cúng dường, làm nhiều phước thiện cũng đều là công đức cả vì họ làm trong vô tâm, làm mà không chấp trước việc làm của mình.

Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt, không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm lợi ích mà không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi hoàn cảnh trái ngang. Nếu mọi người biết làm phước và tu tâm thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

Phước Huệ song tu vẫn là điểm then chốt cho người học Phật, nhưng chúng ta đừng bao giờ xem nhẹ việc làm phước, vì có phước và biết cách sắp xếp thời gian để huân tu trí tuệ là tiến trình cho con đường hành Bồ tát đạo đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

Nhờ bố thí nhiều đời nên chúng ta gặt hái được nhiều phước báo, do đó chúng ta tín tâm Tam Bảo, tin sâu nhân quả mà cố gắng duy trì phát tâm học chánh pháp, tu hạnh buông xả nên từng bước chuyển hoá được phiền não tham-sân-si. Mười phương chư Phật thành tựu đạo giác ngộ-giải thoát cũng từ hạnh bố thí làm nền tảng.

Như chúng ta đã biết, bố thí vẫn là điều kiện quan trọng thiết yếu của người Phật tử, nhờ vậy ngày càng phát triển tâm từ bi rộng lớn. Chính vì vậy mà người cho được nhiều hơn người nhận, bởi người nhận chỉ được chút vật chất nhưng người cho được cả một niềm vui tinh thần vì giúp được người khác vơi bớt nỗi khổ niềm đau.

Công đức có khả năng giúp chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, chuyển hoá phiền não tham-sân-si. Công đức là công phu tu tập bên trong nhờ hành trì theo lời Phật dạy, luôn luôn giữ gìn Giới luật, niệm Phật, Bồ tát, tu tập thiền định, nhờ vậy phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật để buông xả vọng niệm. Những việc làm này đem lại lợi ích cho nhiều người như vậy thì tất nhiên sẽ giúp chúng ta có thật nhiều phước đức.

Tuy nhiên, nếu chúng ta giúp người mà mình không biết tu tâm dưỡng tính thì ta sẽ dính mắc vào việc làm của mình nên thấy có ta giúp, người là đối tượng được giúp và vật thí. Nếu như bố thí, cúng dường mà tâm không mong cầu gì cả, cúng chùa để chùa có thêm phương tiện sinh hoạt ích lợi cho mọi người, giúp người để người qua cơn khó khăn túng thiếu mà không đắn đo, không suy nghĩ, không tính toán gì thêm nữa thì chúng ta sẽ chuyển hoá được phiền não tham-sân-si.

Tâm cầu danh của chúng ta sẽ giảm bớt, tâm chấp ngã cũng nhẹ hơn trước. Chúng ta không làm những việc ác mà hay làm tất cả việc thiện nhưng không chấp chặt vào những việc làm đó thì tâm ý của ta sẽ được thanh tịnh. Đó là ta biết tu tâm dưỡng tính, vừa biết làm phước, vừa biết tu tâm. Khi làm việc thiện nếu ta chấp chặt vào đó thì tâm của mình sẽ bực dọc, bất an, khó chịu khi bị người khác phê bình, chỉ trích.

Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình, từ đó mỗi lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai trái, không bị dính mắc hay trói buộc. Phước đức là diệu dụng của công đức, là kết quả của hành vi làm các việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, chia sẻ vật chất-tinh thần giúp người bớt khốn khổ, tạo nên những nhân tốt.

Người làm việc phước đức nhiều được hưởng quả phú quý, giàu sang, của tiền dư dả ở thế gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi, chỉ có nguời công đức đầy đủ mới không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.

Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công bằng không có sự sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn lựa, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau.

Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo nên không buồn đau, sầu khổ. Người khôn ngoan phải biết chọn lựa con đường tốt đẹp dẫn đến an vui hạnh phúc, biết làm phước để tích lũy, nếu không biết tích lũy thêm phước đức thì đến khi hết phước sẽ gặp tai họa.

Công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét. Người tu hành chân chính dù có bị đói khát, thiếu thốn vẫn không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó, và đó cũng là chỗ khác nhau của công đức và phước đức.

Giúp đỡ, sẻ chia giúp ta thiết lập tình thương, trên cơ sở đó tạo ra mối quan hệ tương quan, tương duyên trong xã hội cộng đồng nhằm phát triển tốt đẹp về mọi mặt bền vững, lâu dài. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải làm như thế nào để tạo ra phước báo nhằm hoàn thiện chính mình và đóng góp lợi ích cho nhân loại.

Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bât hạnh của tha nhân, là hạnh lành đầu tiên mà đức Phật lúc nào cũng nhắc đến. Bản chất của con người là luôn muốn có, muốn thêm, muốn nữa, không bao giờ thấy đủ, không bao giờ thỏa mãn với những gì mình đang có. Muốn được sống an lạc, hạnh phúc ta hãy nên bằng lòng với những gì mình đang có và cố gắng duy trì, gìn giữ và phát triển. Mong cầu nhiều, mơ ước nhiều mà không được như ý chỉ thêm nhiều phiền muộn, đau khổ mà thôi.

Nói tóm lại, người Phật Tử chân chính phải nên biết bố thí là nấc thang đầu tiên để san sẻ nỗi khổ niềm đau cho những người bất hạnh. Nó là niềm an ủi lớn lao trong cuộc sống, là nhịp cầu kết nối yêu thương bằng tình người trong cuộc sống.

Tiến xa hơn một bước nữa, bố thí là biết buông xả sự lầm chấp thân tâm này làm ngã, từ đó có “ngã sở” là “của ta” nên bị trói buộc bởi phiền não tham-sân-si. Bố thí trọn vẹn là khi mình giúp ai mà không thấy có người giúp, đối tượng được giúp và vật thí giúp. Bố thí như vậy có năng lực giúp ta vượt qua bể khổ sông mê, chóng đến bờ giác ngộ-giải thoát.

Chúng ta hãy nên xây dựng và phát triển, gìn giữ chùa; đóng góp, tham gia các hoạt động xã hội; giúp cho mọi người có điều kiện để học hỏi, tu tập nhằm chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thanh an vui hạnh phúc và đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh.

MỐI TƯƠNG QUAN VỚI THẾ GIỚI SIÊU HÌNH


HT. Thích Trí Quảng




Nếu tu Mật tông, mối quan hệ giữa mình và thần linh có phát ra tín hiệu, nên muốn kêu vị nào, chỉ đọc câu thần chú tương ưng thì vị thần đó tới với ta. Còn người bắt chước đọc thần chú, dù có đọc bao nhiêu lần, cũng chẳng có vị nào tới.

Trên bước đường tu hành trải qua hơn 60 năm, tôi vượt qua được nhiều chướng duyên và thành tựu các Phật sự do Giáo hội giao phó ở các thời kỳ khác nhau, tôi xin chia sẻ đến quý vị một số kinh nghiệm. Trước nhất, sở dĩ làm được một số việc, vì đối với các bậc tôn trưởng thường gọi là thầy Tổ, tôi đã có lòng kính trọng tuyệt đối. Thầy Tổ là người nối liền ta với chư Phật; nếu thiếu sự tôn kính thầy thì mối quan hệ giữa ta và thế giới vô hình đã bị đóng kín lại, chỉ còn quan hệ trên hình thức mà thôi.

Tôn kính thầy Tổ là niềm tin trân trọng giữa con người và con người. Đôi khi các thầy trẻ nghĩ rằng thầy Tổ của mình không học ở trường lớp, không có học vị, nên tỏ ý xem thường, cho rằng thầy mình không biết gì; đó là sự sai lầm lớn của người có học, dẫn đến sự thất bại trên con đường hoằng dương Chánh pháp.

Mặc dù không học trường lớp, nhưng các vị thầy Tổ sống trong Chánh pháp và phát huy được căn lành, nên đã tạo được sự nối kết sâu sắc với Phật mà chúng ta không thấy được. Tôi thường suy nghĩ trong các thời kỳ khó khăn, các Ngài lãnh đạo được Tăng Ni và Phật tử là nhờ vào điều gì. Từ đó, tôi học được ở các bậc thầy Tổ những điều không có trong sách vở. Thật vậy, Thầy của tôi là Hòa thượng Trí Đức trình độ văn hóa không cao, nhưng tôi rất kính trọng Ngài về pháp hành. Từ khi tôi còn ở điệu tại Tổ đình Huê Nghiêm, tôi thấy ngày nào sau khi Tăng chúng tụng thời Tịnh độ xong, xuống nghỉ, thì Hòa thượng tiếp tục lạy sám hối và ngồi thiền, trì chú. Thời khóa công phu khuya của chúng tôi dưới một tiếng, nhưng thời khóa của Ngài đến hai, ba tiếng; nghĩa là Ngài có niềm tin và căn lành mới thể nghiệm Phật pháp được như vậy. Ngài lạy Phật và ngồi thiền không mệt mỏi, còn trì chú thì không hiểu nghĩa, nhưng Ngài vẫn tinh tấn đọc. Làm sao chúng ta biết lúc đó các Ngài nghĩ gì, người thường không thể biết được.

Chúng ta thường đặt vấn đề việc tu học của người tu là Tam vô lậu học, không phải học ngữ ngôn văn tự. Chúng ta lầm vô lậu học với học ngữ ngôn, nên nghĩ rằng học được vài bộ kinh là hiểu biết Phật pháp rồi. Theo tôi, học ngữ ngôn là việc bình thường. Còn học pháp vô lậu thì ngồi yên hàng giờ mà tạo được lực tác động của tâm mình một cách tốt đẹp mới quan trọng; nếu không có mối quan hệ vô hình, chúng ta không thể ngồi yên được. Thật vậy, đọc sách lâu, hoặc học nhiều thì không khó, nhưng ngồi yên lâu dài được thì không đơn giản. Ngồi yên lâu dài được là hoạt động nội tâm của người đó phải có mối liên hệ vô hình, gọi là định vô lậu.

Các bậc Thầy Tổ không có bằng cấp, nhưng các Ngài trụ định vô lậu được. Còn chúng ta chỉ học suông về giới định huệ trên lý thuyết, trên ngữ ngôn văn tự mà thôi. Nếu giới là giới điều, định là ngồi yên và huệ là hiểu biết, thì như vậy có phải là Tam vô lậu học hay không ?

Giới điều là phương tiện của Đức Phật chế ra nhằm ngăn chặn những sai lầm của người sơ cơ học đạo. Như vậy, giới điều dùng để ràng buộc nghiệp của chúng ta mà thôi, chứ chưa phải là giới vô lậu của Phật. Giới thể vô lậu và giới tướng vô lậu mới quan trọng. Người có giới đức thì tướng rất trang nghiêm và tâm thanh tịnh. Chúng ta giữ giới, nhưng cảm thấy bị giới ràng buộc mình thì chỉ là hàng sơ tâm; nếu chấp mãi như vậy, không thể học được vô lậu giới thể.

Giới thể là từ tâm hoàn toàn thanh tịnh, nên hiện tướng trang nghiêm tác động cho người trông thấy phải phát tâm Bồ đề. Điển hình là khi Đức Phật tu đắc giới thể, việc hành đạo của Ngài khác với thời gian Ngài còn là Sa môn mà giới thể chưa thanh tịnh. Lúc đó, năm anh em Kiều Trần Như còn phê phán Ngài thế này thế nọ, không bằng các ông tu hành giữ giới nghiêm túc. Kiều Trần Như nghĩ ông tu lâu, lớn tuổi, rất nghiêm túc giới luật; nhưng thật ra như vậy mới chỉ là ở phương tiện hình thức mà thôi.

Khi Đức Phật đắc giới thể vô lậu, cũng vẫn là Ngài, nhưng tướng trang nghiêm giải thoát hiện ra. Vì vậy, lúc Phậtđến độ năm anh em Kiều Trần Như, họ định không chào Ngài, không tiếp chuyện Ngài; vì họ nghĩ rằng trước kia Phật không tu nổi khổ hạnh, mới bỏ đi. Nhưng khi trông thấy tướng trang nghiêm thanh tịnh của Phật, họ tự động kính trọng và đảnh lễ Ngài. Đó là ý chính mà tôi muốn nhắc các thầy trụ trì.

Nhiều khi chúng ta dạy đệ tử, hay nói chuyện với bổn đạo, nghĩ rằng họ không tốt, không trang nghiêm, không giữ giới, khiến cho ta buồn phiền, bực tức, răn đe. Làm như vậy rất bất lợi trong đạo. Trước khi răn đe người khác, phải răn đe tánh buồn phiền, bực tức của mình trước đã. Ta không trang nghiêm, không có giới đức thì không thể dạy được người; vì ta đã cho họ cái buồn phiền, bực tức, chứ không phải cho Phật pháp. Tánh thanh tịnh, trang nghiêm mới là Phật pháp. Vì vậy, phải rèn luyện giới thể thanh tịnh. Đức Phật dạy rằng người không đắc A la hán, thì không được đi khất thực. Phật ngăn cấm điều này ngay từ Lộc Uyển, vì mang tướng không trang nghiêm và tâm không thanh tịnh mà đi vào đời sẽ làm cho ngoại đạo khinh chê, làm cho đàn việt mất tín tâm. Lúc bấy giờ, chỉ có Đức Phật và Kiều Trần Như được đi khất thực để nuôi bốn người còn lại. Và trong mùa An cư đầu tiên, năm anh em Kiều Trần Như đều đắc quả A la hán, nghĩa là tâm đã thanh tịnh và tướng trang nghiêm, Đức Phật mới dạy rằng mỗi thầy đi một phương để giáo hóa chúng sinh, hai người không đi chung một đường.

Tâm thanh tịnh đi vào đời tác động cho người phát tâm và tướng trang nghiêm làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Vì vậy, Xá Lợi Phất là nhà hùng biện nhất thời bấy giờ, khi trông thấy Mã Thắng Tỳ kheo yên lặng cầm bình bát đi vào làng, Xá Lợi Phất cứ nhìn dáng đi của Mã Thắng mà đi theo. Và một người muốn tranh cãi hơn thua như Xá Lợi Phất bắt gặp tâm thanh tịnh của Mã Thắng, đã thu hút tâm ông, làm cho ông thanh tịnh theo.

Do vậy, thầy Tỳ kheo tâm thanh tịnh rồi, ai có nhân duyên thấy họ, tự nhiên được an lạc; đó là bài thuyết pháp vô ngôn rất quan trọng trên bước đường tu. Chính vì vậy mà Xá Lợi Phất từ bỏ vị trí giáo chủ của ông để đi theo Mã Thắng về tịnh xá, nghĩa là tâm của Mã Thắng đã dẫn Xá Lợi Phất về với Phật và tâm ông được tâm bao dung của Đức Phật nuôi dưỡng đến trưởng thành trên đường đạo. Hiểu điều này, chúng ta mới nhận ra ý nghĩa trong kinh Pháp Hoa về lời tâm huyết của Xá Lợi Phất thốt lên tự đáy lòng với Đức Thế Tôn rằng: Ơn lớn của Thế Tôn, con không thể đền đáp được. Dù có dùng đầu đội, hai vai cõng vác trong vô số kiếp, con cũng không trả được ơn này. Tại sao Xá Lợi Phất nói như vậy, ơn này là ơn gì, Ngài nhận được gì từ Phật?

Thiết nghĩ trên bước đường tu xuất gia học đạo, nếu chúng ta không nhận được gì trong Phật pháp, thì quả là uổng phí cả cuộc đời tu của mình. Nghe Xá Lợi Phất thốt lên như vậy, chúng ta có suy nghĩ. Nhìn bề ngoài thấy Xá Lợi Phất đóng góp cho Đức Phật rất nhiều; nhưng nhìn bề trong thì Xá Lợi Phất nhận thấy rằng dù có làm suốt đời cho Phật, ông cũng không đền đáp được công ơn của Phật. Riêng chúng ta, chỉ làm một việc nhỏ thôi đã cảm thấy mệt nhọc, thấy mình hy sinh rất nhiều cho đạo. Nghĩ như vậy là sai lầm lớn, không thể đến với đạo được.

Chúng ta phải nhận ra ơn lớn của Đức Thế Tôn. Ngài Nhật Liên nói rằng trong bốn ơn mà Đức Phật đưa ra là ơn cha mẹ, ơn Thầy bạn, ơn quốc dân thủy thổ và ơn đàn na tín thí, tuy bốn ơn này quan trọng, nhưng còn ơn thứ năm là ơn Tam bảo quan trọng hơn. Vì nếu thiếu ơn Tam bảo, chúng ta sống rồi chết, trải qua vô số kiếp cũng là chúng sinh đau khổ trong sinh tử. Phải nhờ ơn Phật đã cứu chúng ta thoát khỏi nhà lửa tam giới. Vì vậy, tuy bốn ơn kia giúp cho chúng ta trưởng thành trên cuộc đời, mà chúng ta không quên, nhưng ơn Thế Tôn mới đưa chúng ta ra khỏi sinh tử và dạy cho chúng ta giới định huệ vô lậu, để chúng ta ra khỏi ngục tù tam giới.

Từ ơn Thầy Tổ, tiến xa hơn, nhớ đến ơn Phật vô cùng lớn lao, nên hàng đệ tử Phật đều mơ ước được thấy Phật hiện hữu trên cuộc đời; nhưng đó chỉ là ước mơ mà thôi, khiến cho Ngài Trí Giả phải thốt lên rằng :

Phật tại thế thời ngã trầm luân 
Kim đắc nhân thân, Phật nhập diệt 
Áo não tự thân đa nghiệp chướng 
Bất kiến Như Lai kim sắc thân.

Nghĩa là khi Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời này, chúng ta đang trầm luân trong sinh tử. Đến khi mình trồi lên làm người, thì Phật đã vào Niết bàn. Rất buồn vì nghiệp chướng mình nặng quá, nên không thấy được kim sắc thân của Như Lai.

Nhưng kỳ diệu thay, khi Trí Giả nói lên câu này, thì Ngài thấy được kim thân Phật và hội Linh Sơn chưa tan. Điều này gợi nhắc chúng ta khi tâm tha thiết hướng về Phật, ta sẽ thấy được những gì mà người bình thường không thể thấy. Thật vậy, người đời thấy chúng ta tu hành cực khổ, họ tội nghiệp cho ta; nhưng tại sao chúng ta tu được. Hoặc người ta thắc mắc tại sao Đức Phật sống cuộc đời nhung lụa, giàu sang, sung sướng mà lại bỏ ngai vàng để làm Sa môn, sống lang thang rày đây mai đó. Phải biết nếp sống lang thang của Đức Phật trong sáu năm tìm đạo, năm năm khổ hạnh chốn rừng già, chính là thời kỳ mà Đức Phật sống huy hoàng nhất. Còn thời gian Phật ở cung vàng điện ngọc là Ngài đang ở trong ngục tù tam giới.

Ý thức được như vậy, chúng ta mới thích tu. Tất cả mọi quyền lợi thế gian chỉ ràng buộc chúng ta, giết chết chúng ta, đẩy chúng ta vào phiền não, khổ đau mà thôi. Người đời còn nói rằng càng cao danh vọng càng dày gian lao. Danh vọng và quyền lợi trói chặt chúng ta, làm cho phiền não mình luôn khởi lên và cuối cùng đẩy chúng ta vào tam đồ khổ. Trong khi làm Sa môn, sống đạm bạc, có hôm nhịn đói, nhưng cuộc sống rất an lạc. Ai vui với đạo pháp, thích hạnh Sa môn, mới thấy được đạo.

Trí Giả nhờ tâm tha thiết với Phật một cách mãnh liệt, Ngài vượt được thế giới trần lao khổ lụy và đi thẳng vào pháp hội Linh Sơn. Chúng ta đừng hiểu lầm pháp hội Linh Sơn mà Ngài Trí Giả nói với hội Linh Sơn ở núi Linh Thứu của Ấn Độ. Ngài nói rằng không phải qua Ấn Độ mới thấy Phật, nhưng Ngài thấy Phật qua yếu nghĩa của ba chữ Linh Thứu Sơn. “Sơn” chỉ cho thân tứ đại của chúng ta. Đức vua Trần Nhân Tông cũng diễn tả thân tứ đại là bốn núi sanh già bệnh chết. “Linh” là chân linh. Ngài dạy chúng ta cắt bỏ bốn núi này thì sẽ thấy được chân linh, mà Ngài nói rằng thấy hội Linh Sơn chưa tan.

Ngài Trí Giả thâm nhập hội Linh Sơn như vậy và nghe Phật nói pháp bằng chân linh trong Tịch Quang thường chiếu, cho nên Ngài đã phát huệ vô lậu, từ đó Ngài thuyết pháp mà người nghe không biết chán, đến độ vua Trần ở Trung Quốc còn phải bãi triều để đi nghe pháp.

Chúng ta tu hành phải cố đạt được huệ vô lậu. Muốn được như vậy, phải vào hội Linh Sơn nghe Phật nói pháp. Đến hội Linh Sơn, hay tu bằng chân linh, sẽ không sợ khó, không sợ khổ trên cuộc đời này, giúp chúng ta làm Phật sự vượt được chướng ngại, thì thế giới Phật mới hiện ra cho chúng ta, mới thấy Đức Phật hiện hữu.

Đọc kinh Pháp Hoa, quý vị sẽ thấy điều kỳ diệu là khi Đức Phật nhập Vô lượng nghĩa xứ tam muội, thì trời mưa hoa Mạn đà la, làm cho tâm đại chúng được thanh tịnh, thấy lục đạo tứ sanh từ địa ngục A tỳ cho đến Trời Sắc cứu cánh, lại thấy có Phật ra đời thuyết pháp giáo hóa độ chúng nhị thừa và hàng nhơn thiên, cũng thấy các vị Bồ tát tùy thuận chúng sinh hiện các loại hình cứu khổ ban vui, thành tựu lục độ vạn hạnh, cũng thấy các vị Bích Chi Phật thiền định ở núi rừng, v.v…

Trong thế giới chân linh hiện đủ cuộc sống của tứ sanh lục đạo và cũng hiện đủ cả hàng tứ Thánh, nghĩa là huệ phát thì thấy toàn cảnh của Pháp Hoa; đó chính là đạt được hiệu quả của việc tu hành. Điều này gợi lên sự suy nghĩ mà tôi muốn trao đổi với quý vị. Trên bước đường tu, nếu chỉ sống với thế giới vật chất của con người, chắc chắn không thể đi xa được. Vì vậy, hạn chế được một phần vật chất, thì một phần tâm linh sẽ hiện ra cho chúng ta; nhưng phần tâm linh này mới chỉ là vọng thức rất gần với chúng ta, chứ chưa vô được chân linh. Chân linh mà Trí Giả đại sư nói đến khác với vọng thức.

Trong tứ sanh lục đạo chỉ sinh hoạt với vọng thức, hay nghiệp thức. Vọng thức hay nghiệp thức là những kinh nghiệm quá khứ và hiện tại mà chúng ta tích lũy trải qua nhiều kiếp sống; cho nên chúng ta chỉ nhắm mắt lại là những gì chất chứa trong tiềm thức hay còn gọi là A lại da thức liền hiện ra.

Người tu mở toang A lại da thức của mình để kiểm tra, sẽ thấy được những người gần nhất là ma quỷ, hay quỷ thần. Người chết thành ma quỷ và ma quỷ tái sinh thành người, cho nên chúng ta dễ cảm nhận sự hiện hữu của thế giới này. Ngày nay, các nhà ngoại cảm chỉ cần lắng yên phần sinh hoạt vật chất một chút, thì phần Thức của họ mở ra, giúp cho họ thấy được tâm của người chết, hay nói nôm na là thấy hồn ma.

Riêng tôi từ khi mới 13 tuổi, ở chùa ban đêm thanh vắng, thường nghe tiếng tụng kinh, khiến tôi nhận ra thế giới tâm thức của con người. Thật vậy, khi thế giới vật chất được lắng yên một chút, chúng ta dễ nhận ra thế giới ma quỷ; vì xung quanh Tổ đình Huê Nghiêm thời bấy giờ là nghĩa địa, nên tôi thường thấy hồn người chết lảng vảng. Người tu không màng phú quý lợi danh, không nặng cuộc sống vật chất, nên dễ mở “Thức” ra trước. Và khi thế giới Thức mở ra, thì mối tương quan giữa ta với những người liên hệ trong những kiếp sống quá khứ và hiện tại chất chứa trong kho tiềm thức này liền hiện ra đầy đủ trước mắt mình; nói cách khác, chúng ta tự động thấy biết rõ ràng trên thực tế cuộc sống này người nào thực quý mến ta dù ta chưa làm gì cho họ, hoặc người nào ghét ta, muốn hại ta, dù ta chẳng có ác ý gì với họ, hoặc việc tốt lành hay hung dữ sắp xảy đến với ta, v.v... Trên bước đường tu, tôi thường thấy trước việc không tốt sẽ xảy ra và tôi kiểm tra lại tâm mình, tự nhiên thấy bất an, thì tự biết điều không lành sắp đến.

Theo tôi, đó là linh tánh báo cho biết trước, hay chư Thần báo mộng, khiến có cảm giác như trong vô hình có người mách bảo đừng đi đến chỗ đó, hoặc đừng làm việc nào đó. Và sau đó, thực tế cũng xảy ra những điều không lành đúng như chư Thần mách bảo. Phải nghe được tiếng nói phát xuất từ thế giới siêu hình và nghe bằng tâm thanh tịnh của mình, vì họ không nói bằng ngôn ngữ trần gian; hoặc vì tâm chúng ta vọng động nên không nghe được, nhưng có làn sóng điện từ truyền thẳng vào tâm ta làm cho ta có cảm giác bất an, lo lắng, nghĩa là thế giới siêu hình đã phát tín hiệu cho ta, nhưng ta không giải mã được.

Trong khi các bậc Thầy Tổ của chúng ta đã học được cách giải mã tín hiệu của Phật, của Bồ tát, của Thánh thần, đó là sở đắc đáng kể của người tu. Nếu không đạt được sở đắc như vậy, thì chỉ là tu sĩ nói suông, không có sức cảm hóa người; phải vượt được sinh hoạt bình thường của căn trần thức, mới thâm nhập vào thế giới siêu hình, mới có thể cảm hóa người khác. Gần nhất là nhận ra tiếng nói của quỷ thần, rồi từng bước, chúng ta giải mã tín hiệu của họ. Nếu tu Mật tông, mối quan hệ giữa mình và thần linh có phát ra tín hiệu, nên muốn kêu vị nào, chỉ đọc câu thần chú tương ưng thì vị thần đó tới với ta. Còn người bắt chước đọc thần chú, dù có đọc bao nhiêu lần, cũng chẳng có vị nào tới.

Mối quan hệ giữa thần linh và người tu không phải chỉ có Phật giáo biết được, mà ngoại đạo tà giáo cũng làm, nhưng phần nhiều họ quan hệ với oan hồn uổng tử. Các thầy phù thủy luyện thiên linh cái, kêu những hồn ma này tới, vì giữa họ với oan hồn có sự đồng cảm, đồng nghiệp. Nghiệp ác của phù thủy và nghiệp ác của ma gặp nhau, nên họ được ma ủng hộ và họ sử dụng âm binh này để hại người. Tà giáo thường luyện như vậy.

Theo Phật thì khác, chúng ta liên hệ với Hộ pháp thiện thần. Tâm ta thiện, nên liên hệ với thiện thần, họ sẽ đến ủng hộ. Tuy nhiên, các thầy trụ trì phải cẩn thận, muốn trì chú trước nhất phải có Phật tâm, thì chư thần hộ chúng ta, họ mới hiền lành; còn chúng ta bực tức, các ông thần sẽ tác động làm cho tâm ta bực hơn nữa.

Điều này thực tế tôi thấy rõ có một số Tăng Ni rất hiền lành, nhưng sau một thời gian đọc thần chú mà vẫn nuôi tâm sân hận, họ liền bị ác quỷ theo, nên tánh tình trở thành hung dữ lạ thường. Tôi có đến một ngôi chùa, thầy trụ trì ở đó nói với tôi rằng trước kia ông hiền, sau một thời gian trì chú, tánh ông trở nên nóng nảy kỳ lạ, đến mức độ ông đã đánh ông đạo què chân, nên không ai dám ở chùa với ông nữa. Thậm chí, tối ngủ, ông mơ thấy ma, nên ông đánh vô tường đến bầm tay. Chúng ta không phê phán việc trì chú, nhưng phải biết tu cho đúng pháp.

Các thầy trụ trì phải hiền như Phật, thì quỷ thần tìm đến, họ mới hiền lành và ủng hộ chúng ta làm được những việc lợi ích. Hiểu rõ điều này tôi đã viết trong bài sám Pháp Hoa rằng sơn thần thổ địa đồng tùy hy, nghĩa là họ đều tới với chúng ta để tu, không phải để kết bè đảng làm việc ác. Thế giới quỷ thần gần gũi chúng ta như vậy và nếu thâm nhập thế giới này, sẽ thấy những việc kỳ lạ; chẳng hạn có Phật tử đến thưa với tôi rằng họ nằm mơ thấy ba mẹ của họ bảo đến tìm tôi; vì tôi đã cảm thông được thế giới thần linh, khiến họ tác động cho cha mẹ của Phật tử như vậy.

Một lần khác, tôi cũng chứng nghiệm điều này, một vị linh mục đến cúng dường tôi, nhờ tôi cầu siêu cho bà cô của ông. Tôi hỏi tại sao ông theo đạo Thiên Chúa mà không cầu nguyện cho bà, lại nhờ tôi. Ông nói rằng buổi tối nằm mơ thấy bà cô bảo ông đến nhờ tôi cầu nguyện; vì bà ấy theo đạo Phật, thì không thể cầu hồn cho bà lên thiên đàng được.

Tôi kể hai câu chuyện này để gợi nhắc quý thầy rằng tâm thức của con người rất quan trọng. Theo tôi, Phật giáo chúng ta có một điều lợi lớn so với tôn giáo khác, đó là đạo pháp của chúng ta gắn liền với dân tộc. Thật vậy, theo dòng lịch sử của đất nước chúng ta từ khi dựng nước, giữ nước cho đến ngày nay, dân tộc ta đã kế thừa truyền thống Phật giáo. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, ngoài Phật giáo ra thì dân tộc Việt Nam không có văn hóa nào khác. Quả là “Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống muôn đời của tổ tông”.

Quý thầy hãy nghĩ xem bình thường có những người không tin Phật, nhưng khi người thân của họ qua đời, họ cũng phải rước thầy tụng kinh mới cảm thấy yên tâm. Điều này cho thấy truyền thống của Phật giáo và dân tộc gắn liền với nhau một cách sâu sắc. Gần đây, hướng đến anh linh của chiến sĩ, những người có thẩm quyền đã nhờ giới Phật giáo chúng ta tổ chức lễ cầu siêu tại các nghĩa trang liệt sĩ và Côn Đảo, một lần nữa nói lên sự gắn bó mật thiết của Phật giáo và dân tộc.

Tóm lại, Tăng Ni cần ý thức sâu sắc truyền thống gắn bó sâu xa của Phật giáo với dân tộc, để phát huy mối tương quan mật thiết này, giúp cho nhiều người tương thông được với ông bà, tổ tiên, cha mẹ, hay thân bằng quyến thuộc, bạn bè của họ ở thế giới siêu hình, để giải tỏa những nỗi khổ tâm u uất cho người sống và cả người đã khuất về những điều bất như ý. Như vậy, là làm cho âm siêu dương thạnh mà mọi người luôn mong đợi ở những người tu hành.

Mong rằng trong ba tháng an cư, chuyên cần sống trong pháp Phật, quý vị giữ tâm thanh tịnh và trí sáng suốt để khám phá được những điều kỳ bí của thế giới Phật, Bồ tát, chư Thiên, thiện thần và từ đó cảm hóa người sống, cùng các vong linh, luôn được an vui, luôn phát huy trí tuệ và đạo đức theo Phật, để xây dựng Tịnh độ trên nhân gian và Tịnh độ trong mọi cảnh giới.

HT.THÍCH TRÍ QUẢNG