Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Con đường sáng tạo - Để trở thành thi sĩ

Rimbaud

Để trở thành thi sĩ


Giới thiệu

“Tiến lên! Đi, gánh nặng, sa mạc, chán chường và cuồng nộ.”

Câu thơ niên thiếu đó gói trọn cuộc sống Rimbaud. Cuộc sống tình cảm cũng như cuộc sống tâm linh, cuộc sống thực tế cũng như cuộc sống mộng tưởng, cuộc sống làm ăn cũng như cuộc sống sáng tạo. Đó là cuộc đi không mỏi, là làm việc không ngừng, là sa mạc không cùng, là chán chường không nguôi và là cuồng nộ không dứt. Và cũng là khám phá vô tận, kinh nghiệm vô biên. “Đây là một người mà một ngàn cuộc đời cũng không đủ để khám phá những kỳ diệu của trần gian”, Henry Miller viết trong một thiên nghiên cứu về Rimbaud, “một người đã cắt đứt với bạn bè và thân quyến từ lúc tuổi còn xanh để cảm nghiệm cuộc đời trong tất cả sự tròn đầy của nó.” [1]

Ở một thanh niên mà sự chín muồi của minh triết đã cho phép khẳng định rằng: “Cuối cùng tôi khám phá thấy sự hỗn loạn của tâm trí tôi là thiêng liêng” thì sự thái quá là một điều dễ hiểu. Nơi chàng, tất cả đều thái quá.

Trước hết là sự đi của chàng. Đây là lộ trình của hai chân chàng: Charleroi – Paris – Mazas – Charleville – Bỉ - Charleroi – Bruxelles – Douai – Charleville – Paris – Charleville – Paris – Charleville – Paris – Ardennes – Paris – Bỉ – Anh – Charleville – Roche – London – Roche – London – Charleville – Stuttgart - Milan – Charleville – Vienne - Hòa Lan – Batavia – Charleville – Brême – Hambourg – Thụy Điển –Đan Mạch – Marseille – Alexandrie – Civita – Vecchia – Rome – Charleville – Hambourg – Charleville – Vosges - Thụy Sĩ – Gênes – Alexandrie – Charleville - Chypre – Roche – Chypre – Aden – Hara – Choa – Harar – Babussa – Ongadine – Tadjourah – Harar – Abyssinie – Aden – Le Caire – Harar – Zeilah – Aden – Marseille – Roche – Marseille.

Chàng đi, đi hoài, lúc nào cũng ở trên đường như một gã du đãng có sao thiên mã cư mệnh mà nếu không đi thì ắt là ngọa bệnh và chỉ ngừng đi khi phải nằm xuống để người ta cưa chân đi. Mà trong cuộc đi như ma đưa quỉ dắt ấy nào phải được lên xe xuống ngựa gì. Chỉ rặt những đi bộ là đi bộ với đói và khát, cảnh sát với nhà giam. Chúng ta hãy nghe Henry Miller tả: “Ba lần trong thời gian dưới hai mươi tuổi, chàng đã tới Bruxelles và Paris: hai lần chàng tới London. Từ Stuttgart, sau khi đã thông thạo Đức ngữ đủ dùng, chàng lang thang đi bộ qua Wurtemberg và Thụy Sĩ tới Ý Đại Lợi. Từ Milan chàng khởi hành đi bộ tới Cyclades qua Brindisi, chỉ để bị trúng nắng và quay trở về Marseille qua ngả Leghorn. Chàng vượt qua bán đảo Scandinavine và Đan Mạch với một đoàn xiếc dạo; chàng đáp tầu từ Hambourg, Antwerp; Rotterdam: chàng đến Java bằng cách gia nhập đạo quân Hà Lan, chỉ để đào ngũ sau khi nếm qua mùi vị của nó. Một lần vượt qua đảo St. Hélène trên một con tầu Anh từ chối không ngừng lại đảo, chàng phóng qua lan can tầu xuống biển nhưng bị bắt trở lại trước khi chàng có thể tới đảo. Từ Vienne chàng bị cảnh sát dẫn độ về bến cảng Baravi vì tội du đãng; từ đó chàng lại bị áp giải về biên cảnh Lorraine. Trong tất cả những chuyến tẩu thoát và bỏ nhà ra đi đột ngột đó, chàng luôn luôn không một xu dính túi, luôn luôn đi bộ, và luôn luôn đi bộ với một cái dạ dầy lép kẹp. Tại Civita Vecchia chàng bị đưa xuống đất liền với chứng sốt đau dạ dầy mắc phải vì màng dạ dầy sưng lên bởi sự cọ xát của xương sườn vào bụng. Đi bộ thái quá. Ở Abyssinic là sự cưỡi ngựa thái quá. Tất cả mọi sự đều thái quá. Chàng bắt buộc mình một cách phi nhân. Mục đích thì bao giờ cũng ở phía bên kia.”

Năm mười chín tuổi, khi “Giã từ cõi mộng điêu linh, Anh về buôn bán với mình phôi pha” [2] thì chàng hoàn toàn là một tên lái buôn thực thụ, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi lợi lộc, bởi công việc. Chàng làm việc không ngừng, đầu tắt mặt tối quá mọi đen. Chàng đoạn tuyệt hoàn toàn với giới văn nghệ và thế giới văn chương để trầm luân miệt mài trong cõi làm ăn buôn bán. Trong những lá thư gửi về cho gia đình, chàng làm khổ mẹ và em gái không ít, thúc bách gia đình gửi cho chàng những chuyên thư, tự điển kỹ thuật, nông lâm, sách dậy tiếng địa phương man di mọi rợ. Chàng muốn trở thành một kỹ sư, chàng muốn con chàng, nếu chàng có con, cũng sẽ trở thành một kỹ sư nổi tiếng, “một người có thế lực và giầu sang vì khoa học.”

Chàng đi vào sa mạc, phiêu lưu vào những vùng chưa một người da trắng nào dám hẻo lánh tới, giao thiệp với mọi sắc dân, mọi quốc tịch. Văn chương chữ nghĩa bay đi đâu hết chỉ còn lại café, hương liệu, ngà voi, da thú, súng ống, nô lệ… và công việc, công việc, công việc mà chàng chán mứa, mà chàng xốc vác đến hụt hơi. Nhưng trên tất cả là chán chường và giận dữ: “Tôi luôn luôn chán nản vô cùng”, chàng viết cho gia đình ngày 1 tháng tám 1888; “tôi chưa từng biết có người nào phiền muộn hơn tôi. Và rồi, có khốn khổ không, cuộc sống gia đình; không công việc trí thức, bơ vơ lơ láo giữa đám mọi mà mình muốn cải thiện số phận chúng, trong khi chính chúng tìm cách lợi dụng mình và ngăn trở không cho mình giải quyết công việc một cách chóng vánh! Bắt buộc phải nói ngôn ngữ tạp loạn của chúng, ăn những món ăn bẩn thỉu của chúng, chịu đựng muôn ngàn phiền muộn do sự lười biếng, phản phúc, ngu ngốc của chúng đem lại!”.

Nhưng đó chưa phải là điều buồn bã nhất. “Điều buốn bã nhất là sự chính mình dần dần trở nên đần độn u mê vì cô độc và xa cách mọi xã hội văn minh.”

Đâu là ý nghĩa của tất cả những cái thái quá đó, hỡi chàng Rimbaud, kẻ “sinh ra dưới cung Thiên Xứng” lại chọn những cái thái quá “với đam mê của một kẻ đi đây (equilibrist)” kia? [3] Một trong những châm ngôn tinh yếu nhất của “Châm Ngôn của Địa Ngục” (The Proverbs of Hell) của Blake – một người anh em của Rimbaud là:

“Con đường thái quá dẫn tới lâu đài minh triết,” (The road of excess leads to the palace of wisdom).

Phải chăng Rimbaud muốn đi trên con đường đó? Đúng là chàng đã đi trên con đường đó và con đường mâu thuẫn. Suốt đời chàng, chàng đã đi ngược lại tất cả những gì chàng đã linh tưởng từ ấu thời. Suốt đời chàng, chàng đã phá hủy tất cả những gì chàng đã xây dựng tự ấu thời. Suốt đời chàng, chàng đã phản bội tất cả những gì chàng đã tin tưởng từ ấu thời. Để làm gì vậy? – Để biết mặt sau của mặt trăng, mặt trái của thiên đàng, để trở thành thi nhân theo quan niệm của chàng, nghĩa là trở thành một tiên tri thấu thị (voyant), có thể “thấy tất cả, cảm tất cả, tiêu thụ tất cả, thám hiểm tất cả, nói tất cả”. Vì chàng chủ trương rằng thi nhân cần phải “đi đến cái vị tri (hay mới lạ) bằng sự hỗn loạn của tất cả mọi giác quan” (“Thư cho Izambard”), “cần phải biến tâm hồn thành quái dị”, phải biết tất cả mọi hình thức tình yêu, mọi hình thức đau khổ, mọi hình thức điên cuồng, phải nuốt hết tất cả mọi chất ma túy để chỉ giữ lại tinh túy, phải biết “tất cả giày vò trong đó hắn cần tất cả mọi đức tin, cần tất cả mọi sức mạnh siêu nhân trong đó hắn trở thành một tên bệnh nhân vĩ đại, tên tội nhân vĩ đại, tên bị nguyền rủa vĩ đại, - và nhà Bác Học siêu phàm! – Vì hắn đi tới cái vị tri! (“Thư cho Paul Demeny”). Dù cho cuối cùng, điên cuồng, hắn mất tất cả mọi ý niệm về những viễn tưởng của hắn. Song le, hắn đã nhìn thấy chúng tận mắt. “Vậy hãy để hắn nổ tung trong cơn chấn động bởi những điều dị thường và vô danh; những nhân công khủng khiếp khác sẽ tới; họ sẽ bắt đầu lại những chân trời nơi hắn tắt nghỉ!” (Một Mùa Địa Ngục)

Như thế, thi nhân của Rimbaud đã tiếp nối truyền thống những thi nhân đầu tiên của nhân loại (bị gián đoạn bởi những thi sĩ): thi nhân đồng thời là một tiên tri, một Prométhée ăn cắp lửa cho con người. Rimbaud cũng chính là một Prométhée: chàng đã hy sinh cuộc đời chàng để thể hiện linh tưởng của chàng theo sứ mệnh của thi nhân: “Thi sĩ có ích lợi gì trừ khi hắn đạt tới một viễn tưởng về cuộc đời, trừ khi hắn sẵn sàng hy sinh cuộc đời để chứng minh chân lý và vẻ rực rỡ của thị kiến hắn?” (Henry Miller, Sđd, tr. 107) Rimbaud đã can đảm lao ra khỏi Thiên Đàng tuổi thơ, như Lucifer, để sống, không phải một mùa mà là tất cả những mùa còn lại của đời chàng trong chốn Địa Ngục Trần Gian. Chàng, - đứa con của mặt trời, chàng muốn biết thế nào là đêm tối địa ngục, Chàng, - kẻ mà định mệnh là hạnh phúc, “không hề nghĩ tới lạc thú đào thoát những đau khổ của thời đại mới”. Chàng, - kẻ mà cuộc đời là một bữa yến tiệc nơi tất cả mọi trái tim đều mở phơi, tất cả rượu ngọt tuôn trào” đã tự nguyện vùi dập đời mình trong sa mạc cát bỏng tịch liêu.

Những đau khổ thời đại mới là gì? – là máy móc, là bạc tiền. Chàng muốn trở thành kỹ sư – lý tưởng của thời hiện đại. Chàng đi làm tiền, lúc nào cũng quấn một cái ruột tượng đầy tiền quanh bụng – ám ảnh của thời đại mới.

Tất cả những kẻ chê bai khinh bỉ, chế giễu chàng đều sai lầm. Tất cả những kẻ tự nhận là hậu thân của chàng còn sai lầm hơn nữa. Không phải chàng bỏ làm thơ vì thấy rõ sự thất bại của thi ca. Bài hát chỉ được nghe với tất cả xúc động khi âm thanh đã dứt, người ca sĩ là ca sĩ thực thụ, sống bài hát, khi đã ngừng hát. Chàng là thi sĩ (Poète) khi chàng đang làm thơ, chàng là thi nhân (Poète) khi chàng không còn làm thơ nữa. Chàng thôi làm thơ để sống thơ. Chàng muốn “thủ đắc chân lý trong hồn và xác”. Chân lý ấy là gì? – là “tất cả đều có một định mệnh hạnh phúc” mà sự sợ hãi, đau khổ, sự hồ nghi hạnh phúc, sự thiếu tin tưởng ở thiên đàng - đã làm lạc lõng, mà sự tin tưởng và địa ngục, đã khuất lấp.

Trong cuộc sống người ta sợ gì nhất? – thất bại. Cuối cuộc đời người ta kinh hãi gì nhất? – địa ngục.

Rimbaud không phải là hiện thân của thất bại như những kẻ chê bai chàng nhận định. Chàng cũng không muốn là biểu tượng của sự thất bại như những kẻ ca ngợi chàng đề cao. Chàng muốn đeo đuổi ôm ghì sự thất bại; cách duy nhất để chiến thắng nó.

Tại sao chúng ta tin tưởng rằng, cuối cùng, tất cả đều thất bại mà chúng ta lại không dám chấp nhận thất bại, một cách tiên thiên, không dám nhận là sự thất bại, để cuộc đời chúng ta, với tất cả công nghiệp, đam mê dần dần trở thành thất bại? Tại sao chúng ta tin tưởng rằng cuộc sống là địa ngục, cuối cùng của cuộc sống cũng sẽ là địa ngục, tại sao chúng ta không dám chấp nhận địa ngục, một cách tiên thiên, không dám sống trong địa ngục, để địa ngục ám ảnh chúng ta? để cuộc đời chúng ta, với tất cả hân hoan, say đắm, dần trở thành địa ngục? Và quả thực cuộc đời chúng ta là địa ngục, chỉ bởi chúng ta tin ở nó. “Tôi tin vào địa ngục, vậy tôi đang ở địa ngục” (Je crois en enfer, donc j’y suis – “Nuit de l’enfer”). Con đường dẫn tới thiên đàng bao giờ cũng đi qua địa ngục. Ánh sáng của thiên đàng chỉ ở địa ngục, tôi khát vọng Thiên Đàng. Vậy…

Con người sẽ thất bại, ở mọi chiều hướng, người ta nói như thế. Con người sẽ đi tới sa mạc cô đơn, tới địa ngục, người đe dọa thế. Vậy tại sao ta không chấp nhận thất bại, sa mạc, địa ngục? Sao ta trở gót, quẩy lại gánh nặng và sống trong run sợ? Tại sao chúng ta không chấp nhận những điều kiện thiết yếu của cuộc đời? “Lý trí đã ra đời. Thế giới tốt lành. Tôi sẽ chúc phúc cuộc đời. Tôi sẽ yêu anh em tôi. Đây không phải là những lời hứa hẹn trẻ con nữa. Cũng không phải hy vọng thoát khỏi tuổi già và cái chết. Thượng Đế làm thành sức mạnh của tôi và tôi ca ngợi Thượng đế.”

“Chán chường không phải là tình yêu của tôi nữa. Những cuồng nộ, trác táng, điên dại, mà tôi biết tất cả xung động đẩy đưa và tác hại, - tất cả gánh nặng của tôi đều được đặt xuống – Hãy thẩm định không choáng váng vẻ mênh mông của lòng ngây thơ tôi – Une saison en enfer, “Mauvais sang” ). Với lòng ngây thơ ấy, người ta trở lại Thiên Đàng. Chính trong “cùng sa mạc đó, cùng đêm tối đó”, khi ý thức hóa thân: lạc đà trở thành sư tử, sư tử trở thành hài nhi ngây thơ, chàng giục giã chúng ta lên đường sáng tạo những giá trị hân hoan: “khi nào chúng ta sẽ lên đường, qua những đụn cát, qua núi đồi, đón chào sự ra đời của cần lao mới, minh triết mới, sự chạy trốn của những bạo chúa và quỉ dữ, sự chấm dứt của mê tín, và sùng bái – như những kẻ thứ nhất! – Giáng Sinh trên trần gian!”

Henry Miller thấu suốt ruột gan Rimbaud khi viết: “Điều tôi vô cùng quan tâm nơi Rimbaud là viễn tượng Thiên Đàng chiếm lại được của chàng. Thiên Đàng kiếm được.”.(That interests me extremely in Rimbaud is his vision of Paradise regained, Paradise earned).

Cuộc đời Rimbaud, sự tàn lụi tự ý, đầu độc tự ý, đánh mất Thiên Đàng tự ý, những gánh nặng, sa mạc, những chuyến đi vào cô đơn cuồng điên không mỏi đó chính là hình ảnh rực rỡ nhất, ngút lửa nhất, rõ rệt nhất của CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO.

đêm yêu



Âu Thị Phục An








thầm thì cùng gió cuốn
bàn tay buông
ngày nắng lên
tình mộng

xếp lại trang thư
cuộc tình rồ dại
phấn hương bay

cuồng phong năm ngón
ngậm chặt đêm yêu
xuân thì trở dạ

hơi thở nồng nàn
bấu thinh không
thở, thở . . .


20.7.14 saigon

Tóc mây



Nguyễn Hoàng Anh Thư








Mái tóc nàng mọc từ nhiều loài cỏ dại. Dài quá lưng. Nhiều người trầm trồ, nhiều người dè bỉu:

- Như ma ấy, cắt đi.

Nàng chạy thật nhanh, về, mẹ nàng đang đợi nàng ở nhà.

- Gội đầu đi con, mẹ đã nấu cho con nồi bồ kết và nước sả tắm rồi đấy.

Nàng chạy ào ra phía sau ảng nước, ngồi chum hum xuống và dội, vuốt vuốt mái tóc dài của mình. Hình như nó ngắn hơn hôm qua. Nàng buồn, lo, sợ mẹ biết.

Hôm ấy, nàng đi tìm cây gai để bện tóc. Nàng thấy từng hạt bạch cầu xóc nhọn chảy qua mang tai.

Năm ấy, nàng tạm biệt mẹ để lên thành phố học đại học. Hành lí có vài bộ áo quần, và mái tóc rất nặng. Nàng quấn quanh nó bằng những mớ gai bọc kín.

Thành phố, thật mới, đối với nàng. Chấn động đầu tiên là những đôi mắt ngó nhìn nàng. Nàng thấy như nó chấn động cả mặt đất dưới chỗ nàng đang đứng. Nó đang nứt. Nàng thấy sự vị tha và cao thượng nàng mang lên từ quê bị tuột xuống những đường lằn hun hút.

Đêm mưa, nàng gào thật to, tiếng rơi theo mái tôn ào ạt trút. Những sợi tóc bất chợt rơi xuống sau mớ gai. Nàng hoảng hốt níu lại. Đôi tay xước trầy đỏ máu. Theo mưa mà trôi. Nàng thấy mưa im lặng. Nàng mỉm cười với mưa. Một bông hoa hàm tiếu nở, nó vẫn còn ươn ướt, run rẩy, lắc mình những cánh cho chóng khô.

Đêm ấy nàng mơ những cánh tay đầy những ngón nhọn của lũ quỉ đang giật mái tóc của nàng.

* * *

Một ngày nàng thấy ánh nắng mới hơn hôm qua. Hoàng hôn xanh lè những ánh chớp phía tây vòm trời. Nàng cất tiếng hát nho nhỏ trong vòm họng. Những khúc cầu nguyện cũ, nàng tụng ca cho một ngày đã qua, an bình với nàng. Nàng thấy mái tóc nàng đang múa với cơn xoáy bắt đầu vào hướng từ thành phố. Nơi nàng ở trọ là ngoại ô. Nàng gọi:

- Mẹ ơi mẹ ơi, mẹ nấu nước bồ kết và hương sả cho con đi, con muốn gội nó.

Mẹ nàng không nghe tiếng nàng. Ngoài cửa rít lên từng hồi gió.

Hôm sau, nàng thấy mái tóc mình bị ngắn lên nửa gang tay.

* * *

Ngày an phận trên những trang sách. Nàng muốn làm nghề dạy học. Mẹ nàng bảo thế. Đó là công việc phù hợp với tính cách nhu mì của con gái mẹ. Mẹ bảo, nàng giống mẹ nhiều hơn. Nếu giống ba, có lẽ nàng đã gào thét mà vỡ ra rồi trôi về nhanh với mẹ. Nàng tự phá nỗi sợ hãi để làm trò chơi lắp ghép. Nàng ít cười. Ai cũng bảo như vậy, như mẹ nàng. Có một ngày, nàng ghép được cả một ngôi nhà bằng thứ đất nâu nhão sệt mà nàng cướp của lũ tò vò. Có hôm nàng ngồi chăm chú nhìn chúng xây tổ. Nàng ngồi bất động nhìn hai cái vòi của chúng, thật chăm chỉ và khéo léo. Hôm ấy bàn tay của nàng sưng vù lên. Vài hôm nữa thôi, chúng sẽ tha về vài con nhện thả vào trong ấy. Nàng cảm thấy hài lòng và một khoái cảm từ sự nhức nhối trên đầu mười ngón tay. Nàng sờ lên đầu. Những chiếc gai đâm phọt. Những dòng máu ứ tuôn xuống ào ào. Nàng thấy thật an toàn về mái tóc. Nó vấn quanh màu đất sét như cái tổ của tò vò.

* * *

Nàng nhớ mẹ, mẹ đang ốm. Nàng hết tiền mua vé. Hôm ấy trời lại mưa, mưa dột ướt cả giá sách, tổ tò vò hôm qua đã ướt mềm. Có lẽ chúng sắp vỡ, nàng nghĩ vậy. Chúng nó đâu rồi nhỉ. Nàng nhìn quanh, những mảng tường vôi nứt nẻ. Có lẽ chúng đang đi tìm lũ nhện. Nàng đói, nàng xé gói mì tôm, ăn sạch không cần nước sôi. Mấy cái bình ga nhỏ kia đã hết sạch.

Nàng cất tiếng ngâm khe khẽ trong họng:

- Tò vò mà nuôi con nhện / đến khi nó lớn, nó quyện nhau đi / tò vò ngồi khóc tỉ ti / nhện ơi! nhện hỡi! mày đi đằng nào?

* * *

- Này em, chúng tôi muốn mua tóc, em ghé thăm chỗ chúng tôi đi.

Nàng rảo bước, không thèm ngoảnh lại nhìn. Nàng thấy mùi hương bồ kết cứ thoang thoảng. Chúng có gai.

* * *

Lũ tò vò đã trở lại. Chúng xây thêm những ngôi nhà hình chum mới bên cạnh cái tổ bị vỡ. Chúng lần lượt thả vào đấy những xác nhện non tơ.

Nàng đã mở những mớ gai trên tóc. Bây giờ nó uốn bồng bềnh như mây, và lõa xõa ngang vai. Nàng thật quyến rũ.

* * *

Nàng ngồi đấy. Nàng nhìn lũ tò vò chui ra chui vô bên những chiếc tổ mọc trên cái giá sách. Nàng chuốt lại móng tay. Chúng thật sắc, tựa như cái vòi của tò vò. Nàng đang đợi lũ ấu trùng nở. Chúng sẽ xơi sạch những xác nhện đang hấp hối kia cho đến khi chúng không còn lại một sợi lông măng.

* * *

Đêm. Nàng nghe tiếng gió gọi:

- Dậy đi con, dậy gội đầu đi, mẹ đã nấu sẵn bồ kết và lá sả đấy.

Nàng mở mắt. Nàng nghe tiếng nhai ngấu nghiến. Lũ ấu trùng đã nở. Nàng mơ màng như đang nghe hợp âm của những thứ cỏ ngày xưa trên mái tóc dài phủ mượt. Chúng vi vu màu xanh, màu xanh nhạt, màu vàng úa, màu nâu hổ phách như cánh tò vò. Chúng đã nằm trong cái tổ đất. Đã lâu, chúng không có ánh sáng.

* * *

Nàng nhìn chúng, lũ ấu trùng, chúng li ti và có khuôn mặt như những đứa bé bầu bĩnh. Nàng khóc và đưa tay vuốt lại mái tóc.

Nàng thức dậy thấy mình nằm trong ngôi nhà có hình chum.

Con đường sáng tạo-Henry Miller Nói về sáng tạo





Henry Miller là một khuôn mặt độc đáo nhất của văn học hiện đại. Tên ông phải được đặt giữa Emerson và Whitman, Cendrars và Céline, Dostoievsky và Nietzsche, Élie Faure và Oswald Spengler, Rimbaud và D. H. Lawrence, Milarepa và Lewis Carroll, Thoreau và Trang Tử.

Tác phẩm Henry Miller đi giữa dòng văn chương và kinh thánh. Đó là sự phối hợp kỳ diệu giữa Chí Tôn Ca (Bhagavad Gita) linh thánh và Dục Lạc Kinh (Kama Sùtra) nhầy nhụa. Bước vào tác phẩm Miller như bước vào một ngôi đền Ấn Độ: người ta thấy những bộ phận sinh dục vĩ đại ngổn ngang cạnh những thánh tượng uy nghi, những cảnh dâm loạn tiếp cận những nghi lễ tôn nghiêm tác động giao hợp được coi như tác động sùng thượng (acte d’adoration sublime), một phương tiện xuất thần nhập diện.

Henry Miller duy giác như những người duy linh, những nhà thần bí, những thi sĩ thế kỷ XVI, những đại thi sĩ có khuynh hướng tiên tri và đầy ắp viễn tưởng vũ trụ: Wiliam Blake, Cheikh el Nefzaoui, Omar Khayyam, Walt Whitman. Nhất là Whitman qua Lá Cỏ, xưng tụng một sự diễn tả tự do, một cuộc sống vũ trụ tràn trề ngây ngất không che giấu:

Qua tôi những tiếng nói bị cấm đoán,
Tiếng nói của giống đực giống cái và dâm đãng, tiếng nói bị che đậy và tôi vén mở,
Tiếng nói tục tĩu, bởi tôi được soi sáng và chuyển hóa.
(“Song of Myself”)

Toàn bộ tác phẩm Henry Miller là một bài Ngợi Ca Tôi (“Song of Myself”) trường thiên. “Với tôi sách vở là con người, và cuốn sách của tôi là chính con người tôi, nồng nhiệt, dâm đãng, hiếu động, trầm tư, thận trọng, dối trá và thành thực một cách quỉ quái.” (“Black Spring”). Ông muốn phát lộ ông “càng công khai, trần truồng và trâng tráo bao nhiêu càng hay bấy nhiêu”. (I wanted to reveal myself as openly, nakedly, and unshamedly as possible – Obscenity and Literature).

Có thể nói Henry Miller cũng là một “nhà thần bí ở trạng thái man rợ” như Rimbaud. Ông sinh năm 1891 tại New York từ một gia đình gốc Đức. Cha ông là thợ may. Cậu bé lớn lên trong lòng phố và phố xá mãi mãi là trường học của cậu và bối cảnh của những cuốn tiểu thuyết sau này.

Năm 1924, Henry Miller bỏ ngang Westers Union Telegraph Company, quyết định không làm gì hết, trừ sáng tạo, vì ông nhận định rằng: “Bổn phận của thiên tài (…) là giữ phép mầu sinh động, là luôn luôn sống trong phép mầu, là khiến cho phép mầu mầu nhiệm hơn nữa, là không thệ nguyện trung thành với bất cứ cái gì, nhưng chỉ sống một cách mầu nhiệm, suy tưởng một cách mầu nhiệm, chết một cách mầu nhiệm”. (The task of genius, and man is nothing if not genius, is to keep the miracle alive, to live always in the miracle, to make the miracle more and more miraculous, to swear allegiance to nothing but to live only miraculously, think only miraculously, die miraculousky – The Colossus of Maroussi, Penguin Books, p.88) và “Sự kỳ diệu và và huyền nhiệm của cuộc đời bị bóp nghẹt trong chúng ta khi chúng ta trở thành phần tử có trách nhiệm của xã hội!”.(The wonder and the mystery of life – which is throtted in us we become responsible members of society! – Tropic of Capricorn, SAS press. P.149). Thế giới chỉ có thể bắt đầu rút tỉa được đôi chút giá trị nơi tôi “kể từ lúc tôi chấm dứt là một thành phần trang nghiêm của xã hội và trở thành chính Tôi” (Sexus, Grove Press, p. 261) dù cái tôi ấy thế nào. Ít ra thế giới cũng sẽ bớt đi được một kẻ sẵn sàng dùng bạo lực để bắt người khác theo mình, bớt đi được một con cừu nô lệ. Ít ra thế giới cũng có thêm được cá thể sáng tạo và dám thể hiện mình, dám trở thành “cái tôi của chính tôi”.

Có hai điều Miller thành thực không tin, hai điều mà xã hội thành thực tin: đó là sự trang nghiêm và Làm việc. Trang nghiêm là một hình thức giả dối, cứng nhắc, chết chóc, còn làm việc là một hành động chỉ dành cho bọn ngốc nghếch. Nó hoàn toàn trái với Sáng tạo là một trò chơi, một hành động tối thượng, xứng đáng với con người. Henry Miller theo sát tư tưởng Nietzsche về sáng tạo. Theo Nietzsche, sáng tạo “là sự giải thoát thênh thang khỏi khổ đau, sự bay bổng của cuộc đời”. Nhưng để trở thành kẻ sáng tạo, cần phải có nhiều khổ đau và hóa thân.

“Vâng, Zarthustra nói, phải có nhiều cái chết đắng cay trong cuộc đời các ngươi, ôi, những kẻ sáng tạo! Như thế các ngươi, ôi, những kẻ sáng tạo! Như thế các ngươi sẽ trở thành những kẻ bảo vệ mà biện minh cho tất cả những gì hư mất phù du.” (Also seid ihr Fürsprecher und Rechtsfertiger Vergänglichkeit – Also sprach Zarathustra).

Bài “Nói về sáng tạo’’ dưới đây của Henry Miller, trích trong cuốn Sexus (The Rosy Crucifixion, book one) sẽ soi sáng tư tưởng trên của Nietzsche.



*



Thế giới chỉ bắt đầu rút tỉa được đôi chút giá trị từ nơi tôi kể từ lúc tôi ngừng là một thành phần trang nghiêm của xã hội và trở thành chính Tôi. Nhà Nước, quốc gia, liên hiệp quốc của thế giới không là gì khác hơn một tập thể rộng lớn gồm những cá nhân lập lại những lỗi lầm của ông cha họ. Họ đã bị cuốn hút vào bánh xe từ thuở sơ sinh và bị trói buộc ở đó cho tới chết – và sự nô lệ đó họ cố gắng làm cho ra vẻ đứng đắn bằng cách gọi nó là “cuộc đời”. Nếu ta hỏi bất cứ một người nào giải thích hay định nghĩa thế nào là cuộc đời, đâu là tất cả gốc gác ngọn ngành của nó, chúng ta sẽ nhận được một cái nhìn bỡ ngỡ thay câu trả lời. Cuộc đời là một cái gì mà triết gia đề cập tới trong những cuốn sách không ai đọc cả. Những kẻ ngụp lặn giữa dòng đời, “khuất mình làm thân trâu ngựa”, không có thì giờ cho những câu hỏi lẩn thẩn ấy. “Người ta phải ăn chứ, phải không?” Câu cật vấn này, một câu nói cho có chuyện, đã được giải đáp, nếu không phải bằng cách phủ định tuyệt đối thì ít ra cũng bằng cách phủ định tương đối khá lạ lùng bởi những người hiểu biết là một đầu mối cho một loạt những câu hỏi khác tiếp nối bằng một chiều rất ư là Euclide. Từ chút ít sách vở tôi đã học, tôi nghiệm ra rằng những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời, đều ăn ít, ngủ ít, thủ hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình thức hoạt động: sáng tạo. Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi vì họ tự nguyện tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để cho. Đó là lối sống lôi cuốn tôi: nó làm thành thiên lương. Đó là cuộc đời – chứ không phải là sự giả đò mà những người xung quanh tôi thờ phụng.

Tôi hiểu tất cả những điều ấy – bằng tâm trí – trước tuổi thành nhân. Nhưng tôi phải trải qua cả một màn bi hài kịch vĩ đại của cuộc đời trước khi viễn ảnh này về thực tại có thể trở thành một nguyên động lực. Lòng khao khát cuộc đời dữ dội mà những người khác cảm thấy trong tôi tức động như một khối nam châm, nó lôi cuốn những người thiếu lòng khát khao đặc biệt của tôi. Lòng khát khao phóng đại lên một ngàn lần. Như thể những kẻ đeo dính vào tôi như mạt sắt cũng trở nên có từ tính khác. Cảm giác chín mùi thành kinh nghiệm và kinh nghiệm đẻ ra kinh nghiệm.

Điều tôi ngầm thèm muốn là gỡ mình ra khỏi tất cả những cuộc sống tự đan bện ngang dọc vào chính cuộc đời tôi và khiến định mệnh tôi trở thành một phần của họ. Để rũ mình khỏi những kinh nghiệm chồng chất chỉ thuộc về tôi này bởi nọa lực, cần phải có một nỗ lực tàn bạo: thỉnh thoảng tôi chọc thủng và xé rách lưới, nhưng chỉ trở nên vướng mắc thêm mà thôi. Sự giải thoát của tôi dường như thiết yếu gây ra đau đớn và phiền não cho những người gần kề và thân yêu đối với tôi. Mỗi vận động tôi làm cho lợi ích của cá nhân tôi đều mang lại khiển trách và lời buộc tội. Tôi bị coi là một kẻ phản bội hơn muôn ngàn lần. Tôi mất cả quyền trở nên đau ốm – bởi “người ta” cần tôi. Tôi không được phép ù lì. Tôi tin rằng nếu tôi có chết đi có lẽ họ cũng truyền điện vào tử thi của tôi để tạo cho nó một bề ngoài sống động.

“Đứng trước gương, tôi sợ hãi tự nhủ: Ta muốn nhìn trong gương xem ta giống cái gì với đôi mắt nhắm nghiền.”

Những chữ trên của Richter, khi tôi đọc lần đầu tiên, đã đi xộc vào con người tôi và gây nên một cơn chấn động không thể tả xiết. Cũng như câu tiếp theo, hầu như một hệ luận của câu trên - của Novalis:

“Chỗ của linh hồn là ở nơi mà nội giới và ngoại giới giao tiếp nhau. Và không ai hiểu mình, nếu hắn chỉ là mình và không đồng thời là một người khác.”

“Thủ đắc cái Tôi siêu việt của mình, đồng thời là cái Tôi của cái Tôi của mình” như Novalis nói tiếp.

Có một lúc khi người ta bị tư tưởng áp chế, khi người ta chỉ là một nạn nhân của tư tưởng khác. Sự “chiếm hữu” bởi những người khác dường như xẩy ra vào những thời kỳ mất cá tính, khi những tự ngã khác bong ra, nếu người ta có thể nói vậy. Thường thường người ta không thấu hiểu được tư tưởng; chúng đến và đi, được chấp nhận và bị khước từ, được khoác lên những tấm áo, bị cởi ra như những chiếc vớ dơ bẩn. Nhưng trong thời kỳ mà chúng ta gọi là khủng hoảng, khi tâm trí bị bể vỡ ra từng mảnh như một viên kim cương dưới những nhát búa dữ dội, những ý tưởng ngây thơ này của một kẻ mơ mộng bám víu lấy, trú ấn trong những kẽ nứt của óc não. Và bởi một vài tiến triển thẩm thấu tế nhị mang lại một sự biến đổi nhân cách rõ rệt, bất khả vãn hồi. Bề ngoài không có sự thay đổi lớn lao nào xẩy ra; đương sự không thình lình cư xử khác lạ; ngược lại hắn có thể cư xử một cách “bình thường” hơn trước kia. Vẻ bình thường bề ngoài đó càng ngày càng đảm trách tính chất của một phương sách phòng ngừa. Từ thất vọng bề ngoài hắn đi tới thất vọng bên trong. Tuy nhiên, với mỗi một cơn khủng hoảng mới, hắn càng trở nên ý thức mãnh liệt hơn về một sự đổi thay, đúng hơn không phải là đổi thay mà là một sự kiên cường hóa của một điều gì ẩn sâu trong hắn. Bây giờ trong khi nhắm mắt, hắn có thể thực sự nhìn thấy hắn. Hắn không thấy một cái mặt nạ nữa. Đúng hơn, hắn thấy mà không nhìn. Ảnh tượng không thị giác, một sự thấu hiểu uyển chuyển những cái không thể sờ mó được: sự hỗn hợp của hình tượng và âm thanh: trung tâm của màng lưới. Nơi tuôn trào những cá tính bí mật, thoát khỏi sự tiếp xúc thô sơ của giác quan; nơi đây những chủ âm của nhận thức kín đáo vỗ vào nhau trong những hòa điệu tươi sáng, rung động. Không có một ngôn ngữ nào được sử dụng, không một hình thể nào được phác họa hết.

Khi một con tầu đắm, nó thong thả chìm xuống, cột trụ, cột buồm, dây thừng, neo móc trôi theo sóng nước. Trên đáy biển, chết, chiếc vỏ tầu rỉ nước tự trang điểm bằng châu báu; cuộc sống cơ cấu lại bắt đầu một cách chẳng ăn năn. Cái gì là con tầu đang trở thành cái vô danh bất khả hủy diệt.

Tựa những con tầu, con người cũng nhiều phen chìm đắm. Chỉ có trí nhớ cứu con người khỏi cảnh tan tác phân ly. Thi sĩ gieo thoi trong khung cửi, trải rơm cho người chết đuối bám víu khi họ đang chìm vào hủy diệt. Ma quỉ trèo lên những cầu thang máy nước, làm những cuộc thăng hoa hư ảo, rơi ngã chóng mặt, ghi nhớ số lượng, ngày tháng, biến cố, trong khi đi từ thể hơi sang chất lỏng và ngược trở lại. Không có đầu óc nào có thể ghi nổi những cuộc dâu bể tang thương. Không có gì xẩy ra trong đầu óc ngoại trừ sự sét rỉ và hao mòn tiệm tiến của tế bào. Nhưng trong tâm trí, những thế giới không xếp loại, không định danh, không đồng hóa, thành hoại, kết hợp, tan vỡ không ngừng. Trong tâm giới, ý tưởng là những yếu tố bất khả hủy diệt tạo thành những chòm sao long lanh châu báu của đời sống nội tâm. Chúng ta di động trong những quĩ đạo của chúng, một cách tự do nếu chúng ta tuân theo những kiểu mẫu phức tạp của chúng, nô lệ hay bị chiếm hữu nếu ta cố gắng ức chế chúng. Tất cả mọi vật ngoại giới chỉ là hình ảnh do cơ tâm phóng chiếu ra.

Sáng tạo là trò chơi ngoại diện diễn ra ở mép rìa; nó tự phát và cưỡng bách, phục tùng luật lệ. Người ta dời khỏi gương soi và màn vén lên. Séance permanente. Chỉ có những kẻ điên bị loại trừ. Chỉ có những kẻ “mất trí” như chúng ta nói. Vì những người này không bao giờ ngừng mơ bằng họ đang mơ mộng. Họ đứng trước gương mắt mở lớn và ngủ mê mệt; họ niêm phong hình bóng họ vào trong nấm mộ kỷ niệm. Trong họ tinh tú rơi rụng để tạo thành cái mà Hugo gọi là “bầy thú mù quáng trong lồng của những mặt trời, bởi tình yêu, tự biến mình thành những con chó lông sù và những đảo Terre Neuve của vô cùng.”

Cuộc sống sáng tạo! Thăng thiên. Vượt qua chính mình. Phóng mình vào bầu trời xanh, nắm chắc những chiếc đu bay, leo lên, liệng bay, nắm đầu thế giới kéo lên, lay động những thiên thần từ những vòm trời thanh khí, đắm mình vào những vực sâu tinh tú, nắm chặt lấy đuôi sao chổi. Nietzsche đã viết một cách xuất thần về sáng tạo – và sau đó bất tỉnh trong gương để chết trong gốc rễ và hoa lá. “Cầu thang và những cầu thang trái ngược” ông viết, và rồi hốt nhiên không còn đáy sâu nào nữa hết; tâm trí như một phiến kim cương tan vỡ, bị nghiền nát bởi những nhát búa của chân lý.

Có một lúc tôi làm việc với tư cách quản lý của cha tôi. Người ta để tôi một mình hàng giờ, giam kín trong một căn nhà nhỏ mà chúng tôi dùng làm văn phòng. Khi cha tôi uống rượu với những người bạn chí thân thì tôi cũng đang uống dưỡng chất từ bình của đời sống sáng tạo. Bạn đường của tôi là những tinh thần tự do, những bậc chúa tể phi phàm của tâm hồn. Chàng thanh niên ngồi trong ánh đèn vàng vọt đây trở nên hoàn toàn phóng dật; chàng sống trong những kẽ nứt của tư tưởng vĩ đại, nép mình tựa một kẻ ẩn tu trong khe núi khô cằn của một rặng núi cao. Từ thực chàng chuyển qua mộng và từ mộng qua tưởng tượng. Tại cánh cửa cuối cùng này, qua đó không còn có nẻo về, sự sợ hãi bám riết chàng. Mạo hiểm xa xôi là phiêu du một mình, là hoàn toàn tin cậy vào chính mình.

Mục đích của kỷ luật là nâng đỡ tự do. Nhưng tự do đưa tới vô biên và vô biên thì khủng khiếp quá. Rồi phát hiện cái tư tưởng thoải mái là dừng lại tại mép rìa, ghi xuống thành từ ngữ những bí ẩn của rung động, thôi thúc, đẩy đưa, của sự tắm gội cảm thức trong hơi hướng nhân loại. Trở thành hoàn toàn nhân loại, quỉ quái yêu ma nhân từ nhập thể, kẻ gác những cánh cửa lớn dẫn tới bên ngoài và đi xa khuất và mãi mãi cô độc…

Con người chìm đắm như tầu bè. Trẻ con cũng vậy. Có những trẻ em đắm chìm vào lúc tuổi lên chín lên mười, mang theo với chúng niềm bí ấn của kẻ phản bội. Có những ác quỉ phản trắc nhìn ta bằng cặp mắt dịu dàng, thơ ngây của tuổi ngọc: tội ác của chúng không được ghi lại, bởi không có tên gọi.

Tại sao những khuôn mặt khả ái ám ảnh chúng ta nhường ấy? Những đóa hoa dị thường có chăng những gốc rễ độc địa?

Nghiên cứu nàng từng chút một, chân tay, tóc, môi, tai, ngực du hành từ rốn tới mắt người đàn bà mà tôi đã đâm bổ xuống như một con mãnh cầm, đã cào cấu, cắn xé, ngạt thở vì những chiếc hôn, người đàn bà trước kia là Mara và bây giờ là Mona, người đã có và có thể có những cái tên khác nữa, là những người khác nữa, những tập hợp gồm những vật bổ trợ khác, không còn có thể đạt tới, không còn có thể đi sâu vào hơn một pho tượng lạnh giá trong một khu vườn quên lãng của một lục địa đã mất. Vào lúc lên chín hay sớm hơn, với một khẩu súng lục mà nàng không có ý định kết liễu, nàng có thể bóp cái cò súng vọng tưởng và ngã xuống như một con thiên nga tử thương, từ đỉnh cao của giấc mơ màng. Có thể như vậy được lắm, vì trong da thịt, nàng tan tác, trong tâm trí nàng như hạt bụi phất phơ. Trong tim nàng một cái chuông ngân, nhưng ý nghĩ nó thế nào thì không ai biết được. Hình ảnh nàng tương đồng với hư vô mà tôi đã hình thành trong lòng. Nàng đã đưa nó vào, luồn nó vào tựa một màn tơ mỏng giữa những nếp gấp của óc não vào một giây phút thương vong. Và khi vết thương khép miệng, dấu vết hãy còn ghi, tựa dấu vết mong manh mà một chiếc lá để lại trên phiến đá.

Những đêm thao thức khi hồn đầy sáng tạo, tôi không thấy gì ngoài cặp mắt nàng và trong cặp mắt ấy, nổi lên như những vũng dung nham sôi sục, ma quái hiện trên mặt mờ nhạt, tan biến, tái hiện, mang lại kinh hoàng, lo âu, sợ hãi, huyền nhiệm. Một kẻ thường xuyên bị theo đuổi, một đóa hoa bị che khuất mà hương thơm bọn chó săn tài giỏi nhất cũng không bao giờ đánh hơi được. Sau những bóng ma, ló mình qua rừng rậm, một đứa trẻ nhỏ đứng đường như tựa hiến thân mình một cách dâm đãng. Rồi con thiên nga lặn, chậm rãi, như trong phim chiếu bóng, và tuyết đổ với thân thể sa xuống, kế đó bóng ma và nhiều bóng ma hơn nữa, cặp mắt lại trở thành mắt, sáng rực như than đá non, rồi đỏ chói như cục than hồng, rồi mềm như những đóa hoa; rồi mắt, mũi, miệng, má, tai lờ mờ hiện ra khỏi hỗn mang, nặng nề như vầng trăng một cái mặt nạ gỡ ra, xác thịt thành hình dáng, mặt mũi.

Đêm đêm, tôi từ bỏ ngôn từ để kiếm mộng mơ, xác thịt, bóng ma. Ám ảnh và lay tỉnh. Những đóa hoa của vầng trăng, những cây dừa thân rộng của rừng hoang mọc cao, tiếng bầy chó sủa ma, thân thể trắng mảnh mai của một đứa trẻ, những bọt sôi sục của phún xuất thạch, nhịp chậm dần của tuyết đổ, đáy sâu không cùng nơi khói sóng nở ra thành xác thịt. Và xác thịt là gì nếu không phải là vầng trăng? và vầng trăng là gì nếu không phải là đêm? Và đêm thì dài đằng đẵng, dài đằng đẵng, dài đằng đẵng, trên mọi sự chịu đựng.

“Hãy nghĩ tới chúng ta!” nàng nói cái đêm hôm đó khi nàng quay đi và lao vút lên thang như một cánh chim. Và có thể nói tôi không nghĩ đến điều gì khác. Hai chúng tôi là những cái cầu thang lên cao bất tận. Rồi “những cầu thang ngược dòng”; cầu thang trong văn phòng cha tôi, cầu thang dẫn tới tội ác, tới điên cuồng, tới những cửa chính của sáng tạo. Làm sao tôi có thể nghĩ tới điều gì khác?

Sáng tạo. Sáng tạo huyền thoại trong đó tôi có thể tra vừa chiếc thìa khóa mở tung cửa hồn nàng.

Một người đàn bà cố gắng phát lộ niềm bí ẩn của nàng. Một người đàn bà tuyệt vọng, qua tình yêu, tìm cách nối kết nàng với chính nàng. Đứng trước sự mênh mang của huyền bí, con người đứng như một con rết cảm thấy mặt đất trơn tuột dưới chân mình. Mỗi cánh cửa mở đều dẫn tới khoảng không trống trải hơn. Người ta phải bơi lội như một vì sao trong đại dương không vết tích của thời gian. Người ta phải có sự nhẫn nại của quặng radium chôn vùi dưới đỉnh Hy Mã Lạp Sơn.

Đến nay dễ đã đến hai chục năm qua kể từ ngày tôi bắt đầu nghiên cứu sự phát quang của linh hồn; trong thời gian đó tôi đã thực hiện hàng trăm cuộc thí nghiệm. Kết quả là tôi biết thêm đôi chút về chính tôi. Tôi nghĩ nó phải gần giống với những nhà lãnh tụ chính trị hay những viên tướng tài. Người ta không khám phá ra điều gì về sự bí ấn của vũ trụ, tốt hơn, người ta biết được vài điều về bản chất của định mệnh.

Lúc khởi đầu, người ta muốn đề cập tới mọi vấn đề một cách trực tiếp. Sự đề cập càng trực tiếp và cấp bách bao nhiêu, người ta càng mau mắn và chắc chắn thành công trong việc để mình mắc lưới bấy nhiêu. Không có một người nào đơn thương độc mã như người anh hùng. Và không một người nào có thể tạo ra nhiều bi kịch và rốt loạn như mẫu người ấy. Hoa gươm trên cái nút Gordian [1] , hắn hứa hẹn sự giải thoát mau lẹ. Ảo tưởng si mê kết thúc trong một đại dương máu me lai láng.

Nghệ sỹ sáng tạo có vài điểm tương đồng với người anh hùng. Dầu tác động trên một bình diện khác, chính hắn cũng tin tưởng rằng mình có thể đưa ra vài giải đáp. Hắn hiến đời mình để tựu thành những cuộc chiến thắng tưởng tượng. Chung cục của bất cứ một thí nghiệm nào, dù bởi chính khách, chiến sĩ, thi sĩ hay triết gia, thì những vấn đề của cuộc sống vẫn còn nguyên vẻ bí ấn phức tạp ấy. Những người hạnh phúc nhất là những người không có lịch sử, người ta nói vậy. Những kẻ có lịch sử, những kẻ là lịch sử, qua công nghiệp của họ, dường như chỉ có việc nhấn mạnh vào tính chất vĩnh cửu của nguyên lý đấu tranh. Chính họ cuối cùng cũng biến mất như những kẻ không cố gắng, những kẻ bằng lòng sống chỉ để mà sống và hưởng thụ.

Cá thể sáng tạo (trong khi vật lộn với môi vật) được coi như chứng nghiệm một nỗi hân hoan cân bằng, nếu không trầm trọng hơn, nỗi đau đớn và khắc khoải đi kèm theo sự đấu tranh biểu lộ mình. Hắn sống trong tác phẩm hắn, chúng ta nói vậy. Nhưng lối sống độc đáo ấy, thay đổi đến vô cùng, tùy theo từng cá nhân. Chỉ với điều kiện người ta ý thức về một cuộc sống phóng khoáng hơn, phong phú hơn, người ta mới có thể được kể như sống trong tác phẩm mình. Nếu không có sự thể hiện thì đâu là mục đích hay lợi ích hay lợi ích trong việc thay thế cuộc sống tưởng tượng bằng cuộc sống phiêu lưu thuần túy của thực tại? Bất cứ kẻ nào nâng mình lên khỏi những giao động của cái vòng quanh quẩn thường ngày không phải là chỉ làm vậy với hy vọng mở rộng kinh nghiệm trường, hoặc ngay cả làm giầu có nó, mà còn làm cho nó tốt tươi thêm. Chỉ trong ý hướng đó, cuộc đấu tranh mới có ý nghĩa. Khi đã chấp nhận quan điểm đó rồi thì tất cả mọi phân biệt giữa thành công và thất bại đều trở thành không. Đó là điều mà tất cả mọi nghệ sĩ vĩ đại đều học hỏi được giữa đường, rằng tiến trình mà trong đó hắn bị cuốn lôi vào có liên quan tới một chiều kích khác của đời sống, rằng trong khi đồng hóa mình với tiến trình đó hắn thăng tiến cuộc sống. Nhờ quan niệm đó, hắn thường trực được dời xa – và che chở - khỏi cái chết âm hiểm dường như đắc thắng khắp nơi quanh hắn. Hắn trực cảm thấy rằng niềm bí ẩn lớn lao sẽ không bao giờ thấu hiểu được nhưng có thể nhập vào trong chính bản chất hắn. Hắn phải khiến mình thành một phần của sự huyền nhiệm, sống trong nó cũng như với chính nó. Chấp nhận là giải pháp duy nhất. Chấp nhận là một nghệ thuật chứ không phải là sự thực thi ích kỷ của trí tuệ. Và chính qua cửa ngõ nghệ thuật mà cuối cùng người ta thiết lập được sự giao tiếp với thực tại: đó là một khám phá lớn lao. Ở đây tất cả đều là trò chơi và sáng tạo; không có chỗ đặt chân vững trãi nào để phóng xạ tiễn học thủng độc khí của tham, sân, si. Thế giới không cần phải đưa vào trật tự: thế giới chính là trật tự nhập thể. Chính chúng ta phải hòa điệu với trật tự đó, phải biết đâu là trật tự thế giới, khác biệt nào với trật tự mong muốn mà chúng ta tìm cách bắt nhau theo. Sức mạnh mà chúng ta khao khát thủ đắc ngõ hầu thiết định chân, thiện, mỹ, nếu chúng ta chiếm lãnh được, sẽ chứng tỏ đó là những phương tiện để tàn sát lẫn nhau. Chúng ta bất lực, thực là may mắn cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải thủ hữu thị kiến, kế đó kỷ luật và cuối cùng đức nhẫn nại. Chừng nào mà chúng ta chưa nhẫn nhục nhận thức rằng có một thị kiến ở trên thị kiến của chúng ta, chừng nào chúng ta chưa tin tưởng và trông cậy vào những sức mạnh siêu việt thì kẻ mù vẫn còn dẫn dắt kẻ mù. Những kẻ tin vào sự toàn năng của công việc và trí thông minh mãi mãi sẽ chỉ gặp những thất bại do những biến cố hư ảo và khôn lường gây ra. Họ là những kẻ thường xuyên bất mãn, không còn có thể nguyền rủa thánh thần hay Thượng Đế, họ quay sang anh em họ và vừa đổ lên đầu những người cơn ấy thịnh nộ bất lực của họ, họ vừa la lên: “Phản bội! Ngu ngốc!” và những tiếng vô nghĩa khác.

Niềm hân hoan lớn lao của nghệ sĩ là ý thức được một trật tự cao viễn hơn, nhận thức được, bởi sự vận dụng thiết yếu và đột khởi của những xung lực của chính hắn, mối tương đồng giữa sự sáng tạo của con người và cái được gọi là “thiên” tạo. Trong những tác phẩm của tưởng tượng phóng túng, sự hiện hữu của luật tự biểu thị qua trật tự còn hiển nhiên hơn trong những tác phẩm nghệ thuật khác. Không có gì ít điên cuồng, ít hỗn loạn hơn một tác phẩm tưởng tượng phóng túng. Những sự sáng tạo này, không là gì khác hơn sự sáng tạo thuần túy, xâm nhập vào mọi mức độ, tạo tác mẫu mực riêng cho nó, như nước. Sự miễn dịch không cùng không đem lại điều gì mới mẻ cho nó, ngoại trừ nâng cao ý nghĩa của cái dường như bất khả lãnh hội. Một cách nào đó, cái bất khả lãnh hội này là mẹ đẻ của ý nghĩa sâu xa. Không một người nào bị cảm kích, ngay cả những người làm bộ không bị cảm kích. Trong tác phẩm tưởng tượng ngông cuồng có một cái gì hiển hiện mà tác dụng chỉ có thể so sánh với rượu trường sinh bất tử. Yếu tố bí mật này, thường bị gán cho nhãn hiệu “vô nghĩa” mang theo nó hương vị của cái thế giới rộng lớn và hoàn toàn hiểm hóc này trong đó chúng ta và tất cả những thiên thể khác tìm thấy thể hiện của mình. Từ ngữ vô nghĩa là một trong những danh từ mù mờ nhất trong từ vựng chúng ta. Nó chỉ có một tính chất tiêu cực, như cái chết. Không ai giải thích được vô nghĩa: nó chỉ có thể được chứng minh. Tuy nhiên, nói thêm rằng ý nghĩa và vô nghĩa có thể đắp đổi cho nhau là chẻ sợi tóc làm tư. Vô nghĩa thuộc về thế giới khác, những chiều kích khác, và thái độ mà đôi lúc ta bứt nó khỏi chúng ta, cứu cánh mà chúng ta bác bỏ nó, chứng tỏ bản chất lộn xộn của nó. Bất cứ điều gì chúng ta không thể bao gồm nổi trong cái khung chật hẹp của nhận thức chúng ta là chúng ta khước từ ngay. Do đó sự sâu sắc và vô nghĩa có thể được coi như có một vài điểm đồng thanh tương ứng bất ngờ nào đó.

Tại sao tôi không nhắm thẳng và sự vô nghĩa đích thực? Bởi vì cũng như những người khác, tôi sợ nó. Và sâu xa hơn thế nữa là sự kiện, không những đặt mình ra bên ngoài, tôi lại vướng mắc vào chính giữa lưới. Tôi phải duy trì trường phái Dada phá hoại của chính tôi: tôi phải tiến bộ nếu đó là chữ dùng đúng, từ học giả tới nhà phê bình, cuối cùng tới người sử dụng búa. Kinh nghiệm văn nghệ của tôi nắm trong đổ nát tựa những kinh thành cổ kính bị bọn Vendale [2] cướp phá. Tôi muốn xây dựng, nhưng những nguyên liệu thất thường không thể tin cậy được và họa đồ vẫn chưa bước qua giai đoạn tuyến đồ. Nếu chất liệu của nghệ thuật là tâm hồn người thì tôi phải thú thực rằng, với những tâm hồn chết, tôi không thể thấy hình ảnh nào nhen nhúm nẩy mầm trong vòng tay tôi.

Bị vướng mắc vào thảm kịch lớp lang chồng chất, bị bắt buộc tham gia không ngừng có nghĩa là người ta không ý thức về những nét đại dương của màn kịch lớn lao hơn đó, trong ấy hành động của con người chỉ là một phần rất nhỏ. Hành vi sáng tác chấm dứt mọi thứ hành động đã buông thả một thứ hành động khác. Khi một nhà sư, trầm tư lúc tụng niệm, thong thả và lặng lẽ kinh hành qua tiền đình một ngôi đền, và trong khi đi như vậy lần lượt làm chuyển động mạn đà la [3] , đã cho một hình ảnh sống động của hành động ngồi xuống bàn viết. Tâm trí nhà văn, không còn bận quan sát, nhận thức, tư lự, lang thang giữa thế giới của hình thể được làm quay tròn bởi sự vỗ cánh đơn thuần. Đó không phải bạo chúa nào phỉ chí tung hoành trên đám thần dân khuất phục của đế quốc chiếm lãnh phi nghĩa của hắn. Đúng hơn, một nhà thám hiểm, đánh động thiếp gọi những thực thể say ngủ của mộng mơ hắn trở về đời. Tác động mơ mộng như một luồng gió trong ngôi nhà hoang, xếp đặt đồ đạc của tâm trí trong một môi trường mới. Bàn ghế cộng tác, mùi xú uế bay hết, một cuộc chơi bắt đầu.

Hỏi mục đích của cuộc chơi này, nó quan hệ thế nào với đời, là lẩn thẩn. Chẳng khác nào hỏi Hóa Công tại sao sinh ra núi lửa đó? tại sao giông tố đó? Vì hiển nhiên chúng không đóng góp gì cả ngoại trừ tai họa [4] . Nhưng, vì tai họa chỉ tai hại cho những kẻ bị chìm đắm trong đó, trong khi chúng soi sáng cho những kẻ sống sót và nghiên cứu chúng trong thế giới sáng tạo cũng vậy. Kẻ mơ mộng trở về từ cuộc phiêu bạt giang hồ, nếu hắn không bị đắm tầu dọc đường, có thể và thường chuyển hóa sự sụp đổ của cơ cấu vi tế hắn vào chất liệu khác. Đối với một đứa trẻ, sự châm trích một cái bọt bóng không thể đem lại điều gì khác hơn ngoài sự kinh ngạc và thích thú. Học viên của mê vọng có thể phản ứng một cách khác.

Một khoa học gia có thể đem lại cho một bọt bóng cảm xúc phong phú của một thế giới tư duy. Hiện tượng tương tự khiến đứa trẻ kêu lên vì thích thú có thể phát sinh ra một viễn tượng chân lý chói lòa, trong đầu óc một thí nghiệm viên nhiệt thành. Trong nhà nghệ sĩ những phản ứng tương khắc này dường như hòa hợp hay hỗn hợp, tạo ra một phản ứng tối hậu, vật xúc tác lớn lao gọi là thực hiện. Nhìn, biết, khám phá, hưởng thụ - những khả năng hay năng lực này yếu đuối xanh xao hay vô sinh nếu không có sự hiện thực. Trò chơi của nghệ sĩ là dời chuyển vào thực tại. Chỉ khi nhìn bên kia khía cạnh “tai họa” hẹp hòi thì cảnh tượng một bãi chiến trường thảm bại mới biễu diễn trước con mắt trần. Vì, từ thời khởi thủy, cảnh tượng mà thế giới trình bầy cho con mắt trần của nhân loại dường như không là gì khác hơn một bãi chiến trường tan hoang gớm ghê. Nó đã như vậy và sẽ như vậy cho đến khi con người ngừng coi mình như một chỗ phân tranh. Cho đến khi hắn đảm nhận trọng trách mở thành “cái Tôi của cái Tôi của hắn”.




[1]Thần thoại Hy Lạp: nút Gordius là một cái nút được thắt bởi vua Gordius xứ Phrygia theo sấm truyền thì chỉ có vị chúa tể tương lai của châu Á mới cởi được. Alexandre đại đế, không cởi được bèn cắt phăng. Từ đó thành ngữ: Cắt cái nút Gordius có nghĩa: giải quyết vấn đề nan giải một cách thẳng thừng và hữu hiệu - N. H. H
[2] Người Vandale thuộc giống Nhật Nhĩ Man đã xâm lăng xứ Gaule Bắc Phi, Tây Ban Nha, La Mã phá hủy nhiều công trình văn học nghệ thuật. – N. H.H.
[3]Hay bánh xe Pháp luân hoặc trống trên có chép kinh Phật giáo Tây Tạng thường dùng – N. H. H.
[4]Cùng với tài hoa một vần – N. H. H.

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2014

Hiệp đạo



Chương 1.

Ma Kiếm




Giang hồ Hắc đạo loan truyền nếu gặp phải Ma Kiếm Hàn Giang Nhạn thì đừng bao giờ xuất thủ. Bởi, việc xuất thủ đồng nghĩa với việc tự biến mình thành kẻ tàn phế. Ngũ tuyệt Ma kiếm của Hàn Giang Nhạn là thứ kiếm pháp bá đạo chuyên cắt tứ chi của đối thủ. Chưa có một ác nhân nào không bị phế tay, chân khi giao chiến với Ma kiếm.

Ma kiếm Hàn Giang Nhạn là một hiệp đạo. Y hành hiệp giang hồ hành thiện, diệt ác nhưng y không giết người. Quan niệm của y là ngăn chặn kẻ ác tiếp tục thủ ác và có cơ hội hối cải.

Hắc Bạch Song Hồ là 2 tên đại đạo khét tiếng lưu vực Sông Hồng. Vụ án gần đây nhất do chúng gây ra đã làm chấn động Võ lâm hai đạo chính tà. Hai mươi tư người của Thăng Long tiêu cục chỉ trong một đêm già trẻ lớn bé đều bị chúng giết.

Điều đó khiến Ma Kiếm không thể không truy tìm chúng. Đã hơn 3 tháng, Hắc Bạch Song Hồ chịu sự truy đuổi của Ma kiếm. Chúng tự biết, chúng không là đối thủ của Ma kiếm. Thế là, chúng quyết định tách ra để chạy trốn. Bạch hồ chạy về phương Bắc, Hắc Hồ chạy về phương Nam.

Ma kiếm không thể phân thân, y quyết định lần theo dấu vết về phương nam, đuổi theo Hắc hồ.

Đôi chân của Hắc Hồ dường như không còn chút sức lực. Hơn một tuần trăng hắn đã chạy không nghỉ nhưng cuối cùng Ma kiếm cũng bắt kịp hắn.

Cái bóng trắng của Ma kiếm ngày càng đến gần. Trước mặt Hắc Hồ đã là ngõ cụt. Tay hắn chạm vào chuôi đao và hắn nghe bàn tay hắn lạnh ngắt. Đầu óc của hắn mơ hồ, nỗi sợ khiến tinh thần hắn tê cứng. Trong giới hắc đạo, hắn thuộc hàng cao thủ nhất lưu nhưng với Ma kiếm thì võ công của hắn dường như vô dụng. Hắn đã từng nhìn thấy Ma kiếm xuất thủ phế đi cánh tay cầm kiếm của Đoạt hồn nhân- một sát thủ nhất đẳng của Thanh Long bang. Đao pháp của hắn so với Đoạt hồn nhân vẫn còn kém vài bậc.

Giờ, hắn đã nhìn thấy rõ gương mặt trắng bệch, lạnh lùng của Ma kiếm Hàn Giang Nhạn. Chó vào đường cùng tất phải cắn. Hắn biết Ma kiếm sẽ không buông tha cho tội ác của hắn bởi giao tình của y và lão tiêu đầu Thăng long tiêu cục.

Hắc hồ rút đao. Bóng trắng của ma kiếm lay động. Ánh kiếm lóe lên rồi vụt tắt. Ma kiếm quay lưng bước đi. Gương mặt y không biểu lộ gì, dường như y chưa từng rút kiếm. Hắc Hồ gần như chết ngất, hắn gã vật ra đất cố bịt máu từ nơi cổ tay hắn đang tuôn ra xối xả. Hắn biết, từ nay tay phải của hắn đã không còn có thể cầm được vật gì, huống chi là đao.

Phải qua một tuần trà, Hắc Hổ mới có thể nhấc mình đứng lên. hắn nghĩ, hắn phải nhanh chóng tìm nơi dưỡng thương. Đúng lúc đó, xuất hiện trước mặt hắn là một cô gái tuổi ngoài đôi mươi. Hắn nhìn cô gái vẽ cầu cạnh. Nhưng ngay lúc hắn định mở miệng thì một lưỡi kiếm đã găm vào yết hầu của hắn.

Cô gái đá vào xác hắc Hồ rồi bậc khóc...

- Mẫu thân, hài nhi đã trả thù cho mẫu thân.

Hắc hổ chết dưới kiếm của cô gái mà hắn chưa kịp biết vì sao?

Mười năm trước, hắn đã hãm hiếp một phụ nữ khiến người phụ nữ này phải treo cổ tự tử.

*

Bạch Hồ cuối cùng cũng đã đến được Vân Nam, nhưng trong lòng hắn vẫn nơm nớp lo sợ. Hắn biết Ma kiếm rồi cũng sẽ truy tìm hắn. Ở vùng này tuy không ai biết hắn nhưng hắn không dám ở lại trấn. hắn tìm hang động trong núi để trú ẩn.

Hắn suy nghĩ ngày đêm tìm cách để chống lại Ma kiếm. So với Hắc hồ hắn là kẻ hung ác và giảo hoạt hơn. Cuối cùng rồi, hắn cũng nở được nụ cười.

Ba năm sau, vụ án Thăng Long tiêu cục gần như đi vào quên lãng. Ma kiếm vẫn đi về phương bắc tìm kiếm Bạch Hồ nhưng gần như mất dấu vết. Y quyết định trở về, đúng lúc đó y nghe tin một vụ thảm sát ở thôn thuộc Lạng Sơn. Thủ pháp giết người được mô tả rất giống với thủ pháp của Bạch Hồ. Ma kiếm tức tốc tìm đến nơi. Quả nhiên, y nhận ra ngay chiêu thức tàn độc của Bát Quái Đao. Bạch Hồ hẳn vẫn còn quanh đây.

Hai ngày sau, Ma kiếm nhận ra bóng dáng của Bạch Hồ gần động Mường Ngao.

Bạch Hồ tỏ ra run rẩy khi đối diện với Ma kiếm. Hắn không hề rút đao chỉ đứng như trời trồng, buộc Ma kiếm phải lên tiếng :

- Ta cho ngươi một sự công bằng, rút đao đi.

Phải hết một nén nhang, tỏ ra không còn cách nào khác, Bạch Hồ rút đao nhắm thẳng vào Ma kiếm bổ xuống. Thân hình ma kiếm chao động, ánh kiếm lóe lên rồi tắt, cùng với tiếng kêu thét của Bạch Hồ. Y quay lưng bỏ đi. Bất chợt y nghe nhói đau và nhận ra lưỡi đao của Bạch hồ đăm xuyên qua lồng ngực của y. Y c quay người lại trừng trừng nhìn Bạch Hồ.

- Ngươi...- Y không còn đủ sức.

Cánh tay mặt của Bạch Hồ máu chảy ròng ròng nhưng vẽ mặt của hắn cực kỳ đắc ý.

- Ha ha... quả thật không uổng công ta ba năm nay trốn tránh chui nhủi để luyện đao bằng tay trái.

Hắn bước đến gần Ma kiếm.

Nhanh như chớp, Ma kiếm đã gom hết tàn lực  ôm chặt Bạch Hồ và ấn thẳng lưỡi đao nơi ngực mình vào tim kẻ gian ác. Ma kiếm lần đầu tiên giết người và đó cũng là lần cuối cùng y nhìn thấy ánh dương quang

( còn tiếp)

Chương 2 :

Nhân Nghĩa Sơn Trang







Con đường sáng tạo




(Tư tưởng và quan niệm về sáng tác của Nietzsche, Rimbaud, Henry Miller, Schopenhauer, William Faulkner, André Gide, Georges Simenon, Rainer Maria Rilke, Emerson, Thomas Wolfe)

Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu



Trong cuộc đời và trong cả hội họa cũng vậy, rất có thể anh bỏ qua không cần Thượng Đế, nhưng anh, kẻ khổ đau, anh không thể bỏ qua không cần tới một điều cao viễn hơn anh, chính là đời anh: quyền năng sáng tạo.

Vincent van Gogh, “Thư cho Théo”, Ngày 1 tháng chín 1888




Tựa cho lần ấn hành thứ hai

1.

Tôi không bao giờ có ý định điên dại soạn thảo một cuốn sách bàn về nghệ thuật viết văn.

Hiển nhiên văn chương là một nghệ thuật và bút pháp là phương tiện và đồng thời sự đạt thành của chính nghệ thuật ấy. Nhưng nghệ thuật văn chương là một nghệ thuật chỉ có thể thủ đắc được bằng kinh nghiệm cá nhân, về chính bản thân và thực tại. Tiêu chuẩn duy nhất để thẩm định một dòng văn chương là quan niệm và mức độ nó đến gần thực tại.

Tôi đồng ý hầu hết với Nietzsche, trừ tư tưởng căn bản về cùng đích của nghệ thuật và chủ thuyết Siêu nhân mà càng ngày càng tôi thấy càng sai lầm, vô hiệu và vô ích. Nietzsche rất có lý khi viết: “Chủ trương hiện thực trong nghệ thuật là một ảo tưởng” [1] , vì người ta chuyển nhượng tất cả những gì làm ta mê đắm hay gớm ghét vào trong sự vật. Nhưng ta không thể chấp nhận khi ông quan niệm: “Những nghệ sĩ không bao giờ được phép nhìn vào sự vật như chân tướng của chúng” [2] và nghệ thuật là một thứ “sùng bái mê lầm” (culte de l’erreur), một “thiện chí về si tưởng” (bonne volonté de l’illusion) [3] . Chân lý xấu nên “nghệ thuật được ban cho chúng ta để ngăn cản chúng ta khỏi chết vì chân lý” [4] . Không, nghệ thuật phải là một phương tiện giúp ta đạt tới chân lý, tới cái mà thuật ngữ Phật giáo gọi là NHƯ THẬT hay NHƯ THỊ - (Yathabhutam hay Yathatatham). Nghĩa là “sự thật khách quan như thế nào nhìn đúng như thế ấy. Bản chất mình như thế nào, nhận đúng như thế ấy”. Và phải cố gắng gột rửa mọi thứ cảm nhiễm lâu hoặc cho tâm thể trong sáng như gương không lấm bụi trần, “hoa qua chiếu hoa, nguyệt qua chiếu nguyệt” [5] .

Nghệ thuật cũng không hướng tới cái gì xa xôi vĩ đại, (le lointain de l’art) [6] mà là cúi nhìn cái rất gần gũi, khiêm nhường. Chỉ cần với tinh thần Như Thật kiến, Như Thật tri chuyên chú, chúng ta sẽ nhìn thấy cái đẹp ngay trong những sự vật rất mộc mạc, giản dị. “Chỉ có những cái thông thường là kỳ diệu (thực sự vĩ đại), từ lúc được bàn tay thiên tài chạm tới” như nhận xét sâu sắc của Pasternak. Sự kiện này đã được chứng nghiệm bởi hai nhà thơ Đông Phương Basho và Quách Thoại. Basho viết một bài Haiku tuyệt diệu gồm vỏn vẹn mười bảy âm như sau:

Nhìn kỹ
Tôi thấy đóa Nazuma
Bên hàng dậu!

Bông Nazuma tầm thường, khép nép gần như không ai thèm để ý tới nở bên một hàng dậu đổ nát ven đường quê hẻo lánh kia thì có gì đặc biệt đâu, nhưng khi ta chăm chú nhìn nó với tâm trong sáng hồn nhiên thì phép lạ xẩy ra: nó tự biến thành cả một vũ trụ linh thánh, hồng diệu, “rực rõ hơn có vẻ rực rỡ của vua Solomon nữa!” [7] . Bông hoa thược dược của Quách Thoại cũng vậy:

Đứng im bên hàng dậu
Em nở nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Ta lắng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lậy cúi đầu


2.

Cái mà ta gọi là bút pháp thực ra không phải là kỹ thuật sắp xếp , dụng ngữ xảo diệu như người ta thường lầm tưởng mà chỉ là cách diễn tả thật chính xác điều mà ta thấy, biết, suy nghĩ theo đúng chân tướng của chúng. Stendhal đã cho chúng ta một định nghĩa rất đáng giá về bút pháp: “Bút pháp phải giống như một nước sơn trong suốt, nó không được biến đổi mầu sắc, hay những sự kiện và tư tưởng, trên đó nó được phối trí.” (Mélanges de Littérature).

Văn chương chỉ có giá trị độc đáo khi nghệ sĩ đạt tới chỗ thấy biết như thực và diễn tả như thực điều hắn thấy biết như thực. Nhưng dĩ nhiên điều người nghệ sĩ thấy, biết đó không phải là sự thực khách quan cứng nhắc chết chóc mà là sự thực sinh động, hủy diệt – tái tạo thường xuyên, rung động hơi thở sự sống, rộn ràng nhịp đập thiên thu.

Bài thơ của Basho và Quách Thoại cho ta thấy người nghệ sĩ, tự bản chất tuy là một người hiếu cảm, dễ bị xúc động, đụng chạm đủ mọi phía, có khuynh hướng tự nhiên quay về phía những kích động, thác loạn, nhưng những cực đoan thường gặp nhau nên tới một lúc nào đó hắn cũng có thể ngung thần tĩnh lặng chiêm ngắm sự vật. Và khi tâm thức tĩnh lặng, mở phơi một cách hồn nhiên hay thần bí, người ta có thể thấy vẻ đẹp ngay cả trong từng ngọn cỏ lá cây, một vẻ đẹp siêu việt đưa người ta vượt thoát những lo toan thực tiễn của đời sống tang thương thường nhật để thể nhập vào cảnh giới huy hoàng của Tịnh Độ. Chừng nào mà chúng ta chưa đạt tới linh tưởng này thì nghệ thuật đúng chỉ là sự sùng bái mê lầm, hảo ý về ảo tưởng.

Sáng tạo, trong chiều hướng đó, là sáng tạo bản thân, thị hiện hình tượng, gột rửa tâm hồn, kiến chiếu THỰC TẠI. Công việc đó không chỉ dành riêng cho một thiểu số nghệ sĩ chuyên môn mà cho tất cả mọi người – những nghệ sĩ của đời sống, trong đời sông. Và đó chính là cứu cánh của cuốn sách này.

Nguyễn Hữu Hiệu
Vạn Hạnh, Trung Thu 73

*



Lời nói đầu

Tôi đã có dịp đọc một số sách bàn về nghệ thuật viết văn, từ những tuyển tập gồm bài vở của những văn gia, triết gia lừng danh tới những chuyên thư soạn cho sinh viên đại học. Xin kể sơ qua:

Inquiry and Expression, a College Reader, edited by Harold C. Martin and Richard M. Ohmann, Haward University, Holt, Reinehart and Winston, 1962.
Thought in Prose, edited by Richard S. Beal, Boston University and Jacob Korg, University of Washington, Prentice - Hall, Inc, 1964.
Thought and Experience in Prose, Craig Thompson, Oxford University Press, New York, 1963.
Language and Ideas, Robert Montgomerry, Boston, Little Brown and Company, 1962.
Subject and Structure, John Wasson, Boston, Little Brown and Company, 1963,
Study in Prose Writing, James R. Kreuzer, Holt, Reinehart and Winston, 1960.
The Written World, Forms of Writing, edited by Robert W. Daniel, University of Washington, Prentice – Hall, 1962.
The Writer’s Book, edited by Helen Hull, Barness and Noble, 1966.
The Novel Now, Anthony Burgess, Faber and Faber, 1967.
L’Art du Roman, Virginia Woolf, Éditions du Seuil, 2- 1963.
Writers at Work, first series, edited, and with an Introduction by Malcolm Cowley, Viking Press 1958, second series, edited by George Plimpton and introduced by Van Wyck Brooks, Viking Press, third series edited by George Plimpton and introduced by Alfred Kazin, Viking Press, 1968…

Nhưng không tác phẩm nào khiến tôi thích thú bằng cuốn Henry Miller on Writing do Thomas Harry Moore ấn hành (New Directions). Tôi say mê đọc tuyển tập trên nhiều lần và nẩy ra ý muốn trình bầy một tuyển tập gồm nhiều tác giả tôi ngưỡng mộ cùng viết về cái ý hướng nguyên thủy, ý hướng đớn đau, con dốc hiểm nghèo ma đưa quỷ dắt một người đăm chiêu khiến hắn trở thành một nghệ sỹ: ý hướng Sáng Tạo. Và tất cả những nỗi lo âu liên quan tới sự sáng tạo như: sứ mệnh của nhà văn, đề tài, bút pháp, kinh nghiệm, nghệ thuật viết, những điều răn, những giới cấm, thái độ đối với tác phẩm mình, thái độ với độc giả, thái độ đối với nhà phê bình… Vậy thì cuốn sách này đây chính là sự tựu thành của ước muốn đó vậy.

Song Con đường sáng tạo gồm có những bài mà, nếu độc giả đọc kỹ, ắt sẽ nhận ra chưa từng xuất hiện trong nhưng chuyên thư trên trừ cuốn Thư cho một thi sỹ trẻ tuổi của Rilke, lược bỏ những câu xã giao, rút gọn thành một bài in trong cuốn tập Thought in Prose.

Con đường sáng tạo gồm những tác giả mà, nếu độc giả lưu tâm, hẳn sẽ nhận thấy họ không thuộc vào hàng ngũ những nghệ sỹ thông thường. Đó là những kẻ sáng tạo, những kẻ không coi nghệ thuật như một phương tiện giúp con người lẩn tránh mình; một cách giải khuây, nhưng như một con đường dẫn về chính mình, con đường cô đơn, con đường phiền não, khuynh hướng về bất hạnh mà cùng đích là giải thoát – và Giải Thoát.

Ở đây nghệ thuật không phải là đám mây lơ lửng trên dòng đời; nó chính là dòng đời. Ở đây nghệ thuật không phải là một lối đào thoát khỏi thực tế; nó chính là cái neo gieo vào lòng Thực Tại. Một cây mọc càng cao, cành nhánh càng tự do trổ vào bầu trời xanh bát ngát bao nhiêu, gốc rễ lại càng cắm sâu vào lòng đất tối đen bấy nhiêu. Nghệ thuật phải cung cấp cho chúng ta những gốc rễ gân guốc ấy! Nghệ thuật phải giúp chúng ta bám chặt vào thực tại, nở hoa từ thực tại và giải thoát từ thực tại.

Tôi tin chắc rằng Con đường sáng tạo sẽ khích lệ nhiều người, sẽ mang lại thích thú cho nhiều người hơn nữa. Nhưng như thế chưa đủ. Và quá thừa. Chỉ mong sao có chàng trẻ tuổi nào, nhờ nó, thêm hăng hái dấn bước trên đường định mệnh, thêm can đảm trút bỏ hết mọi thứ hành lý, ra đi không có bất cứ một thứ gì đem theo ngoại trừ ý chí sáng tạo, lòng đam mê và ngạo nghễ như chàng Rimbaud tóc rồi tung bay, áo quần tơi tả, túi rỗng nhưng hồn đầy chất ngất vì

Ra đi là đủ rồi.

Je m’en allais, les poings dans mes poches crevées;
Mon paletot aussi devenait idéal;
J’allais sous le ciel, Muse! Et j’ étais ton féal ;
Oh! là là! que d’amours splendides j’ai rêvées!

Nguyễn Hữu Hiệu
Hoàng Hạc Lâu, 23 tháng ba Canh Tuất,

- Bao giờ cất cánh bay lên, hạc vàng?
Ta bất nhẫn Ba La Mật rồi đây.






[1]Volonté de- Puissance, Gallimard 1951, T.1. p.335, frg, 444.
[2]Volonté de- Puissance, p.333, frg.438.
[3]Le Gai Savoir, Gallimard, 1961, p.93, rg. 107.
[4]Volonté de- Puissance, T. I.p. 338, fig. 453.
[5]Hòa Thượng Thích Trí Thủ, “Ý nghĩa ngày Phật Đản”, trong Đặc san Phật Đản, GHPGVNTN, tỉnh Giáo Hội Khánh Hòa P. L. 2517 p.9
[6]Nietzsche, Le Gai Savoir, p.93
[7]Suzuki, Thiền và Phân tâm học, Như Hạnh dịch, Kinh Thi, 1973.


Tình hình lí luận văn học Việt Nam hiện nay





PHAN THẮNG thực hiện

[Trao đổi với GS.TS Trần Đình Sử]

Giáo sư Trần Đình Sử - Ảnh: internet


PV: Với tư cách một ngành khoa học, lý luận văn học của nước ta có từ bao giờ, thưa GS?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Lí luận văn học hiểu như các quan niệm, niềm tin về văn học thì chúng ta đã có từ thời Lí, Trần, Lê, Nguyễn, thể hiện qua các bài phát biểu, các lời Tựa, Bạt viết cho các tuyển tập thơ văn. Quan niệm thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo từ rất lâu đã ăn sâu vào trong tâm thức của các nhà nho Việt Nam thời trung đại. Tuy nhiên, lí luận văn học hiểu như một ngành khoa học, nhân văn thì phải đến đầu thế kỉ XX chúng ta mới có. Đó là thời điểm viết các cuốn văn học sử đầu tiên, như Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi... Muốn viết chúng phải có lí thuyết về lịch sử văn học, tác gia, tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ… Lí luận văn học cũng xuất hiện trong các công trình phê bình văn học như Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, các công trình nghiên cứu của Trần Thanh Mại, Nguyễn Bách Khoa…

PV: Trình độ lý luận văn học hiện nay của chúng ta đang ở mức nào trong bức tranh chung của nền lý luận văn học thế giới?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Trải qua nhiều biến động của lịch sử trong thế kỉ XX, từ năm 1943 với bản Đề cương văn hóa còn rất thô sơ và đặc biệt là bài Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam của Trường Chinh, có thể nói đó là các bản tuyên ngôn chuyển hướng văn hóa theo hướng thuần Mác xít, lí luận văn học Việt Nam một phen thay đổi theo hướng độc tôn lí thuyết Mác xít trong bối cảnh chiến tranh lạnh từ sau thế chiến 2 và sau Cách mạng Tháng Tám. Lí luận văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Lí luận văn học Liên Xô cũ và lí luận văn học Trung Quốc thời trước Đại cách mạng văn hóa. Chỉ có từ thời “Đổi mới” năm 1986, đặc biệt là từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, mở ra thời đại hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hóa thì lí luận văn học Việt Nam mới tiếp xúc trở lại với toàn bộ lí luận văn học của toàn nhân loại. Cái gọi là lí luận văn học hiện nay chính là chỉ lí luận văn học của thời này. Có thể nói trong bầu không khí hội nhập cởi mở chúng ta đã nhanh chóng tiếp thu các lí luận tiến bộ mà trước đây còn bị coi là thù địch, tư sản, xét lại. Tuy còn nhiều bất cập, yếu kém và chậm trễ, nhưng xu thế chung của lí luận văn học Việt Nam hiện đang cố gắng để vươn tới đồng hành với lí luận văn học thế giới. Nhưng nhìn chung nền lí luận văn học của chúng ta nhỏ, yếu, đi sau, ít tính sáng tạo trong bản đồ lí luận văn học của thế giới.

PV: Trong mấy thập kỷ qua, kể từ khởi đầu “Đổi mới” đến nay, Việt Nam đã tiếp thu được những gì đáng gọi là tinh hoa lý luận văn học thế giới để làm giàu cho nền lý luận văn học của mình?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Nếu hiểu tiếp thu có nghĩa là biến lí thuyết của người thành nhận thức, tri thức của mình, đem chúng vận dụng xử lí các hiện tượng văn học thì phải nói từ thời “Đổi mới” đến nay tri thức lí thuyết văn học của chúng ta đã có sự thay đổi to lớn. Bên cạnh sự khắc phục những quan niệm lí luận giản đơn, sơ lược ngự trị một thời, chúng ta đã tự làm giàu mình bằng các lí thuyết tiếp nhận văn học, kí hiệu học, thi pháp học, phân tâm học, tự sự học, cấu trúc và giải cấu trúc, thông diễn học, lí thuyết nữ quyền, hậu thực dân, phê bình sinh thái, lí thuyết diễn ngôn, văn học so sánh, lí thuyết dịch văn học… Chúng ta thường nói tiếp thu tinh hoa, nhưng cái gì là tinh hoa? Trước đây ta hiểu tinh hoa là những gì duy vật, duy tâm là cặn bã; nội dung là tinh hoa, hình thức là cặn bã, gần gũi với dân tộc là tinh hoa, xa lạ là cặn bã, vô sản là tinh hoa, tư sản là cặn bã. Nhưng các tiêu chí ấy ngày nay không còn thích dụng nữa. Trong thực tiễn, trong tồn tại của con người tâm vật không tách rời, nội dung hình thức không tách rời, dân tộc và thế giới không tách rời, vô sản tư sản không tách rời, không thể phân biệt tinh hoa và cặn bã một cách siêu hình. Những gì hữu ích cho cuộc sống, có tác dụng giải thoát con người khỏi những hạn hẹp, ngu dốt, bất luận từ đâu đều là tinh hoa. Những gì trói buộc con người, cầm tù tư duy, ngăn trở sự phát triển đều là cặn bã. Nếu hiểu như thế thì chúng ta đã tiếp nhận được không ít tinh hoa lí thuyết văn học của nhân loại.

PV: Đánh giá của Gs về kết quả, hiệu quả của quá trình tiếp nhận này đối với lý luận văn học và nền văn học của chúng ta trong thời gian vừa qua?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Nếu hiểu kết quả, hiệu quả của tiếp thu lí thuyết văn học nước ngoài là những công trình lí thuyết có ảnh hưởng nào đó thì ở nước ta hiện chưa có nhiều, nhưng xét hiệu quả ở giải phóng tư tưởng, thay đổi tư duy thì điều đó là có thật. Từ thời “Đổi mới” đến nay tư duy về văn học trong đại chúng và nhà văn đã có sự đổi thay to lớn. Chúng ta không chỉ đánh giá lại đúng đắn hơn di sản văn học dân tộc qua các thời đại, mà cũng biết tiếp nhận các thành tựu văn học của nhân loại hiện đại, dù chúng có vẻ xa lạ như thế nào. Trong đào tạo đại học, sau đại học đã xuất hiện nhiều đề tài mới, tìm tòi những lĩnh vực mới. Tuy nhiên phải nhận thấy rằng mức độ thâm nhập vào lí luận mới của ta chưa sâu sắc, vẫn còn nhiều thử nghiệm, hời hợt, chưa có các công trình nguyên sáng được thế giới quan tâm.

PV: Theo ông, ở nước ta, lý luận văn học và sáng tác văn học có tác động tương hỗ tích cực hay không? Hay ngược lại? Các nhà văn có được “hưởng lợi” gì từ lý luận, và ngược lại, thực tế sáng tác có giúp soi tỏ được gì thêm cho lý luận?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Trước đây chúng ta có thời áp đặt lí thuyết cho nhà văn để họ sáng tác theo lí thuyết ấy, cách làm ấy vừa không đúng với quan hệ giữa lí thuyết và sáng tác, vừa gây phản tác dụng. Lí thuyết có tác dụng giúp nhà văn đổi mới ý thức văn học, mở ra những khả năng, những chân trời để họ tự tìm tòi trong lĩnh vực của họ. Lí thuyết cũng có tác dụng biện hộ cho các tìm tòi mới trong sáng tạo, giúp người đọc hiểu được nhà văn và như thế cũng là giúp cho nhà văn. Từ thời “Đổi mới” lí thuyết có tác dụng giải phóng cho nhà văn rất nhiều. Họ không còn bị trói buộc vào phương pháp sáng tác cũ, tiêu chí thẩm mĩ cũ, hệ đề tài cũ. Không nhà văn nào còn dễ dãi tự hi sinh cá tính sáng tạo của mình cho mục đích nào khác. Nhà văn được hưởng lợi từ lí thuyết trong một khoảng cách xa, như một bầu không khí mới, luồng gió mới. Tuy nhiên, phần nhiều nhà văn Việt Nam vẫn còn “ngại” lí thuyết, họ thích sáng tác theo “bản năng” hơn, họ thích tuân theo tiếng gọi của cái “tạng” của họ nhiều hơn, có lẽ vì thế mà sáng tác của chúng ta phần nhiều chỉ nhàng nhàng, ít hoặc chưa thấy đỉnh cao, như dư luận chung cho là thế. Có thể nhà văn ta chưa đánh giá đúng, đánh giá hết ý nghĩa của lí thuyết đối với sáng tác của họ. Về phần mình, lí thuyết không thể là “chay” thoát li thực tiễn văn học của nước nhà. Thực tiễn văn học Việt Nam qua các thời là đối tượng thú vị cho vận dụng lí thuyết, kiểm nghiệm lí thuyết và đề xuất lí thuyết, đáng tiếc là các nghiên cứu như thế còn rất hiếm.

PV: Theo ông, lý luận văn học có phải “chịu trách nhiệm” trước thực trạng nền văn học còn thiếu những tác phẩm “tầm cỡ”, “chưa tương xứng với thời đại”?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Nếu đem một lí thuyết nào đó áp đặt cho nhà văn, buộc họ sáng tác theo lí thuyết đó, kết quả là không hoặc chưa có đỉnh cao, thì đúng là lí thuyết ấy phải chịu trách nhiệm đối với thực tiễn sáng tác ấy. Nhưng đó cũng chỉ là một phần, nhà văn như là chủ thể sáng tạo phải chịu phần lớn trách nhiệm chứ. Tình hình thực tế văn học ta còn thiếu vắng tác phẩm “tầm cỡ”, “ngang tầm thời đại” là vấn đề đã được nêu ra từ lâu. Đó trước hết là vấn đề đánh giá. Theo một tiêu chí nào đó thì chưa có tác phẩm “tầm cỡ”, theo một tiêu chí khác thì có thể vẫn có đấy, nhưng chưa được một luồng dư luận công nhận. Văn học Việt Nam đang trải qua một cuộc đổi thay to lớn về hệ giá trị, về chân, thiện, mĩ. Nhưng chúng ta vẫn còn quá thiên vị đối với hệ giá trị tuyên truyền, mà đối với hệ ấy thì khó có tác phẩm được đánh giá cao, “xứng tầm thời đại”. Một hệ giá trị thống nhất cho toàn bộ nền văn học là khó có thể hình dung được. Có thể đó là lí do làm nảy sinh các loại giải thưởng văn học với các tiêu chí trao giải khác nhau. Về nguyên lí, các văn kiện chỉ đạo của Đảng đều khẳng định tự do sáng tác, tự do tìm tòi, song điều kiện cụ thể lại có khi chưa tương xứng với nguyên lí, điều này cũng có thể gây khó khăn. Nhưng vấn đề then chốt là ở nhà văn. Nhà văn phải độc lập tìm tòi sáng tạo. Họ có thể học hỏi bút pháp của danh gia nước ngoài như nhà văn Mạc Ngôn học bút pháp của Marquez, để làm ra cái mới bằng chất liệu của dân tộc. Nhà văn tầm cỡ thường phải sáng tác để trả lời các câu hỏi lớn về số phận dân tộc và đất nước. Họ cần phải học không chỉ lí thuyết văn học mà còn phải học các loại triết học của nhân loại.

PV: Ông có thái độ như thế nào, lạc quan hay bi quan, về tình hình nghiên cứu và giảng dạy lý luận văn học hiện nay ở các Viện nghiên cứu và ở các trường đại học?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Ở các trường đại học và các viện nghiên cứu hiện nay đang có một đội ngũ các nhà nghiên cứu trẻ, phần nhiều đều sinh sau năm 1975, phần còn lại sinh từ năm 60, những người sinh năm 50 đều sửa soạn về hưu. Thế hệ mới có ưu thế về ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, tiếng Pháp, về nguồn đào tạo đa dạng, lại sống vào thời đại toàn cầu hóa, phương tiện internet phát triển. Đó là thế hệ sẽ đóng góp tích cực cho nền lí luận văn học nước nhà hiện nay và tương lai. Tình hình cán bộ bộ môn lí luận văn học ở trường hay viện cũng như trong xã hội, có người giỏi, người yếu, người thích tiên tiến, người thích như cũ. Tình trạng tổ chức nhiều khi người kém chỉ huy người giỏi, người cũ chỉ huy người mới và thế là kìm hãm lẫn nhau, sự tiến bộ gặp khó khăn. Việc quản lí nghiên cứu khoa học theo lối hành chính, làm theo lối chữa cháy hoặc nghiên cứu nhằm lấy thành tích kỉ niệm một sự kiện trọng đại nào đấy khó hứa hẹn những thành công mong đợi. Cho nên đối với tình hình nghiên cứu lí luận hiện nay tôi vừa lạc quan vừa băn khoăn, nhưng lạc quan là chính. Những cái bất hợp lí rồi sẽ được khắc phục dần.

PV: Theo ông, điểm yếu nhất trong lý luận văn học hiện nay của ta là gì?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Lí luận văn học của chúng ta hiện nay có nhiều chỗ yếu. Sách lí thuyết được phiên dịch, giới thiệu còn quá ít, thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ. Việc dịch thuật, thuật ngữ, chất lượng dịch còn rất nhiều vấn đề. Giáo trình lí luận văn học còn mang nhiều tri thức cũ kĩ chưa được đổi mới. Nhất là phần quá trình văn học. Mức phổ cập lí thuyết mới còn thấp, hệ thống lí thuyết cũ vẫn còn sức chi phối, kìm hãm. Trong cái khung lấy chủ nghĩa Marx - Lenin làm nền tảng, bất cứ lí thuyết mới nào “phi mác xít” cũng ở vào vị trí “bất hợp pháp”, dễ bị phê phán về mặt ý thức hệ. Nhà nghiên cứu vừa làm việc tìm tòi vừa nhìn tới nhìn lui để giữ an toàn cho bản thân.

PV: Xây dựng một nền lí luận cần có sự tiếp nối và đóng góp của các thế hệ. Theo ông, ở ta đã và đang có mấy thế hệ nghiên cứu lý luận và có sự tiếp nối tích cực giữa các thế hệ?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Tính từ thế kỉ XX chúng ta có mấy thế hệ lí luận văn học sau: Thế hệ trước 1945, những người đầu tiên kết nối lí luận văn học Việt Nam với lí thuyết phương Tây. Thế hệ các nhà lí luận văn học mác xít hình thành từ năm 1945 -1986. Thế hệ các nhà lí luận ở đô thị miền Nam trước 1975. Thế hệ các nhà lí luận văn học hình thành trong thời hội nhập, từ 1986 đến nay. Mỗi thế hệ đều là sản phẩm của lịch sử, nhưng cũng là sản phẩm của sự nỗ lực riêng của mỗi người. Mỗi thế hệ đều có đóng góp riêng và tiếp nối những kinh nghiệm của thế hệ trước, đồng thời cũng tự đổi thay theo sự vận động của lịch sử. Trong cái thế kỉ có nhiều khúc đứt gãy như thế kỉ XX này, sự tiếp nối lí thuyết của nhau chưa nhiều, nhưng các kinh nghiệm, thao tác nghiên cứu đều được ghi nhận. Chúng ta chưa có lí thuyết nguyên sáng của mình, chưa có các bậc thầy lí thuyết của riêng mình, do vậy cũng chưa có trường phái để tiếp nối. Mỗi thế hệ vẫn đang mải mốt đi tìm hệ hình lí thuyết của thời mình, giải đáp các vấn đề của thời mình. Chúng ta vẫn chưa giải quyết xong bài toán tiếp cận lí thuyết tinh hoa của nhân loại.

PV: Ông có đặt niềm tin vào tiền đồ lí luận văn học nước nhà khi nhìn vào “đội ngũ kế cận”? Vì sao?

Giáo sư Trần Đình Sử:

Tôi vẫn đặt trọn niềm tin vào thế hệ kế cận, bởi họ là con đẻ của thời hội nhập, toàn cầu hóa, thời của đa phương đa nguyên, giàu có. Thế hệ nắm vững tiếng Anh, một công cụ giao lưu rộng mở. Thế hệ không mang gánh nặng của lí luận quá khứ như thế hệ của chúng tôi, chỉ được đọc một loại sách, chỉ theo một quan điểm, chỉ được nhìn theo một phía như con ngựa già. Họ sẽ được vũ trang nhiều thứ lí thuyết, được tắm trong nhiều nguồn suối trong. Trong hội nhập xã hội Việt Nam cũng sẽ cởi mở hơn, thông thoáng hơn, có nhiều không gian cho sáng tác hơn. Thế hệ đó sẽ đem lại nhiều cái mới cho lí luận văn học Việt Nam.

PV: Trân trọng cảm ơn giáo sư!

Tôi đi qua đời tôi




VƯƠNG KIỀU




Tôi đi qua đời tôi
buồn vui như lòng ai con kẻ
số phận nằm ở trên cao
định mệnh nằm dưới đất sâu
tôi nằm giữa đời tôi
với bão giông một đời sám hối.

Em nằm giữa tình tôi
để từng đêm buồn theo sương tuyết
giá như cho tôi được một ngày
gần bên em mùa xuân chăn gối
hát lời đào hoa mây tuyết ngàn xa!

Đêm!
Nỗi buồn theo cơn gió mùa đông
thổi vào lòng tôi những cơn bão nổi
ngoài kia mặt đời dù ai khổ hận
người ngó mặt người đong đếm nỗi đau.

Nỗi đau tôi
xin gởi về bạn bè ngàn thu vĩnh biệt
trên không trung những đóa hoa quỳnh
và hương thơm của mỗi lần tiễn biệt
hẹn gặp nhau về cuộc ấy ngàn thu.

Đêm!
Tôi nằm với tấm lòng không
hỏi ai ngoài kia có về?
Để đánh thức giấc chiêm bao
một thời không ngủ
mơ thấy em ngoài kia
mơ thấy bạn bè xưa
buồn vui qua từng ly rượu
phẫn nộ cuộc đời!
Để gió mang đi.

Đêm!
không còn màu đen
chỉ còn màu tang trên những dòng sông
quàng lên tóc tôi
quàng lên tóc em
quàng lên cỏ cây và những bông hoa
của mùa xuân vụng dại.

Tôi thầm nguyện với cuộc đời!
Xin em yêu tôi
như tôi yêu em
để mai sau và dẫu mai sau giờ!
Tình yêu của tôi
không là bài ca sám hối.

Đêm!
Tôi đi tìm em
ngoài kia thinh không không tiếng vu hồi
chỉ còn lời ru
của lòng tôi
yêu cuộc đời tôi.

Tóc David







KENELKES (Anh)

Khi David bước ra cửa, cậu hơi bị hoa mắt bởi ánh sáng mặt trời trắng lóa, và theo bản năng cậu chới với chụp lấy tay cha.

Minh họa: Nhím


Đó là một ngày thực sự ấm áp đầu tiên của năm, trên cả mong đợi, nền nhiệt bất ngờ tăng. Thời tiết giao mùa cuối xuân sang hè. Cha và con trai đang trên đường đến tiệm hớt tóc, một trong nhiều chuyện mà họ luôn làm cùng nhau.

Giờ vẫn vậy, cái lệ thường ấy. “Đã đến lúc cắt dọn cái đống bờm xờm của con,” Cha của David khẽ nói, chỉ vào cậu bằng hai ngón tay kẹp điếu thuốc ở giữa. “Có lẽ cha nên làm điều đó. Mấy cái kéo lớn tỉa cây đâu nhỉ Janet? Hà hà xén lông cừu đã”.

Đôi khi cha rượt cậu quanh phòng khách, làm bộ như cha chuẩn bị cắt tai cậu. Khi bé David thường hoảng hồn khóc ré lên, sợ cha sẽ cắt mất đôi tai của mình thật, nhưng chuyện đó xưa rồi.

Tiệm hớt tóc của ông Samuels ở trong một căn phòng dài phía bên trên chỗ bán khoai tây chiên, phải leo lên cả dãy cầu thang dựng đứng. Những bước chân đàn ông thành hàng chen nhau lên xuống thường xuyên làm mòn nhẵn các bậc thang gỗ. David theo sau cha, cảm thấy bực bội khó chịu vì cậu không thể nện những bước chắc nịch khiến cầu thang lung lay rên rỉ kẽo kẹt như cha cậu.

David yêu tiệm hớt tóc - nó không hề giống như nơi nào khác cậu từng tới. Nơi đó ngập ngụa mùi thuốc lá, mùi đàn ông lẫn mùi của quá trời loại dầu xức tóc. Thi thoảng mùi khoai tây chiên lên tận trên gác, ùa vào phòng cùng với một khách hàng hớt tóc và khi cánh cửa mở ra đố ông nào không nở mũi hít hà.

Những bức ảnh đen trắng chụp các anh thanh niên với đủ kiểu tóc xưa rích treo bên trên một bức hình đóng khung ở cuối phòng, nơi hai cái ghế hớt tóc được bắt bù loong xuống sàn. Đó là hai cái ghế nặng, lỗi thời với chân đế cao su đệm hơi hay xịt xì lạch cạch khi ông Samuels rướn gân - rõ từng ngấn cổ phúng phính - điều chỉnh chiều cao của ghế.

Phía trước ghế hớt tóc là những cái bồn rửa sâu có vòi sen gội đầu và ống kim loại dài gắn với các vòi nước, dường như không phải bất cứ ai cũng được sử dụng chúng. Đằng sau bồn rửa là gương soi và ở hai bên có những cái kệ để kính thưa các thứ: lược nhựa đủ loại (vài cái được nhúng vào một tô thủy tinh chứa chất lỏng màu xanh), kem cạo râu, kéo, dao cạo, bàn chải tóc và, được xếp chồng khít theo hình tháp, 10 bình kem Brylcreem đỏ tươi.

Cuối phòng, khách chờ hớt tóc ngồi, im lặng trong hầu hết thời gian, trừ khi ông Samuels ngưng tay kéo, rít thuốc, nhả làn khói mỏng xám xanh như đuôi diều cuộn lên không trung.

Khi đến lượt David hớt tóc, ông Samuels đặt một tấm ván gỗ phủ miếng da đỏ-nâu ngang qua chỗ tì tay của cái ghế để thợ cắt tóc khỏi phải khom xuống lúc hớt tóc cho cậu. David trườn thượng lên ghế băng đặc biệt dành cho cậu.

“Với tốc độ lớn như dưa, nhổ giò kiểu này thì chẳng bao lâu nữa cậu sẽ không cần thứ này, sẽ được ngồi trên ghế đường hoàng, nhóc ạ” ông thợ hớt tóc nói.

“Wow”, David reo khẽ, quằn người tìm cha, quên béng rằng cha có thể nhìn thấy cậu qua gương. “Cha, bác Samuels bảo con sớm được ngồi trên ghế dựa, không chỉ… trên miếng ván đâu nha!”

“Thì cha nghe,” cha cậu ậm ừ, vẫn chăm chú đọc báo, chẳng nhìn lên. “Cha mong đến lúc đó bác Samuels sẽ bắt đầu lấy lên khi hớt cho con.”

“Ít nhất là gấp đôi giá bây giờ”, ông Samuels nói, nháy mắt với David.

Cuối cùng, cha của David rời mắt khỏi tờ báo, ngước lên nhìn vào gương, thấy cậu con trai đang nhìn mình. Người cha mỉm cười.

“Không phải đã lâu lắm rồi kể từ lúc cha phải ẵm con lên tấm gỗ bởi con không thể tự leo lên đó…”, người cha nói.

“Chả ai mà trẻ con mãi đâu, phải không bọn bây,” ông Samuels tuyên bố. Tất cả những người đàn ông trong tiệm gật đầu đồng ý. David cũng vậy.

Trong gương, cậu nhìn thấy cái đầu nhô ra khỏi tấm choàng nylon mà ông Samuels đã lèn quanh rồi nhét vào cổ áo của cậu cùng cái nêm bằng bông xơ. Đôi khi cậu liếc trộm bác thợ hớt tóc làm việc. Người bác thợ có mùi hỗn hợp của mồ hôi và nước hoa cạo râu khi bác di chuyển xung quanh cậu, chải chải cắt cắt, cắt cắt chải chải.

David cảm giác như cậu đang ở trong một thế giới khác, yên ắng, ngoại trừ tiếng lê chân của bác thợ hớt tóc trên tấm vải sơn lót sàn và tiếng lách cách của cây kéo. Từ phản chiếu trong gương cửa sổ, cậu có thể nhìn thấy cảnh vật qua đó, một vài đám mây nhỏ từ từ trôi ngang qua khung cùng chuyển động của hai cánh kéo tạo tiếng click đều đều.

Buồn ngủ, ánh mắt cậu hạ dần ngay vạt áo khoác nơi tóc cậu rũ xuống, mềm xốp như tuyết rồi cậu tưởng tượng mình đang ngồi trên ghế giống những người đàn ông và các anh thanh niên, băng ghế chờ đặc biệt đặt dựa vào góc tường.

Cậu nghĩ đến cuốn sách tranh về những câu chuyện trong kinh thánh mà dì cậu đã tặng cậu dịp Giáng sinh, có kể chuyện Delilah cắt mái tóc của Samson. David tự hỏi không biết sức mạnh của cậu sau này có được như của Samson không.

Khi ông Samuels hớt xong, David thót từ chỗ ngồi xuống, phủi những mẩu tóc dính ngưa ngứa trên mặt. Nhìn xuống sàn, cậu thấy tóc cậu phủ dày, những búi tóc vàng hoe nằm rải rác giữa những búi màu nâu, màu đen và muối tiêu của những người đàn ông hớt trước cậu. Đột nhiên cậu muốn cúi xuống gom mớ tóc vàng, tách ra khỏi tóc của những người khác, nhưng cậu không có thời gian.

*

Nắng vẫn còn hơi gắt khi họ ra đến vỉa hè bên ngoài tiệm, nhưng không đến mức đổ lửa. Mặt trời qua đỉnh rồi và nắng bắt đầu dịu dần.

“Cha nói con nghe nè, chàng trai, chúng ta kiếm ít cá và khoai tây chiên mang về nhà, phụ mẹ con đỡ bữa trà”, cha của David nói rồi rẽ lên con phố.

Cậu con trai khoái chí nắm chặt tay cha. Những ngón tay chai sần siết lấy bàn tay cậu một cách quá ư… êm ái và David ngạc nhiên nhận ra, âm ấm trong lòng bàn tay cha, một lọn tóc của mình.

Nguyễn Trung dịch

Chuyện kể dưới chân núi Bà Đen




Cả một vùng chiến khu Tòa Thánh cũ kéo xuống căn cứ Năm Trại (Hòa Thành - Tây Ninh), hỏi người dân nơi đây về cái tên Hai Ngoa, ai cũng lắc đầu thán phục. "Hai Ngoa, Đội trưởng An ninh vũ trang chớ gì! Ngày trước lính làng ở đây nghe tên ổng là té ra quần". Vậy mà đi tìm người chiến sĩ an ninh một thời kiên cường vào sống ra chết ấy thật khó. Nhà anh ở phường 4, thành phố Tây Ninh, nhưng muốn gặp thì phải tới trại heo tuốt dưới ấp Hiệp Tân, huyện Hòa Thành.




1. Chúng tôi thử đi tìm nhân vật ấy theo lời chỉ dẫn của anh Út Chư, cán bộ hưu trí Công an Tây Ninh. "Các em đi từ Gò Dầu lên, tới dốc Ao Hồ, thấy có tấm biển Cà phê Phố Về thì quẹo trái, tới cái miếu nhỏ thì quẹo phải, theo lối mòn đi miết vô trỏng là thấy Hai Ngoa liền". Nói vậy mà không phải vậy. Lối mòn tuốt vô sau rừng cây chỉ vừa bánh xe lăn, cỏ mọc lút hai bên. Chúng tôi không nghĩ người hùng của mình lại ẩn náu trong này. Nước ngập và lầy lội, chỉ thấy phía xa lụp xụp những dãy nhà như trại chăn nuôi. Gặp một cậu thanh niên chở những bao thức ăn cho heo chạy xe vô, đón đường hỏi thăm nhà Hai Ngoa, cậu chỉ dãy lán: "Ở trỏng!".

Anh Hai Ngoa khoác vội chiếc áo che thân thể đầy vết sẹo, cười đón khách: "Uống trà Bắc nghen? Từ lâu anh ghiền trà Bắc, uống riết hồi trong rừng rồi quen". Loại "trà Bắc" như anh giới thiệu được hãm thẳng trong chiếc phích hiệu Rạng Đông cũ mèm, nước đỏ đọc. Để như vậy, tuy có trà nóng uống cả ngày không phải pha vào ấm, nhưng nước trà bị nồng, uống mất ngon.

Điện thoại liên tục. Thông báo tiền cám heo. Hỏi bao giờ mở hầm cá mới. Gọi chiều nay đi nhậu. Anh nói: "Cái số mình cực. Nghỉ hưu rồi, tự dưng nhào vô mấy vụ heo, nhím nầy còn hơn con mọn. Bạn hữu chúng la quá trời". Hỏi sao mà bị la dữ vậy, anh cười hơ hơ: "Nhậu hổng vui! Đám nhậu nào thiếu anh, thiếu lửa liền". Là Hai Ngoa nói số anh em cùng công tác sau giải phóng miền Nam, ở Phòng Cảnh sát giao thông Công an Tây Ninh, chứ những đồng đội "ruột" từ hồi mới theo cách mạng như chú Sáu Tiểng, anh Tư An, cô Hai Bé và một số trong Đội An ninh vũ trang huyện Tòa Thánh như Hai Chư, Hai Thiệt, Út Cao, Lâm Quý Ba… thì còn mấy người đâu. Lớp hy sinh, lớp bệnh già chết, giờ chỉ còn anh Tư An và Hai Chư vẫn nhậu được, chú Tư Anh thì già yếu rồi.

Ông Thượng tá Cảnh sát giao thông Hòa Thành thời kỳ 1976-1991 giờ nhìn chẳng khác gì một lão nông, xuề xòa, giản đơn ngồi phì phèo thuốc lá trên bộ bàn ghế xi măng cũ xì, giữa tiếng heo kêu ụt ịt, tiếng bầy vịt vẫy cánh, quàng quạc. Anh rót nước từ phích ra mấy chiếc ly to, than vãn vì sắp hết trà Thái mà mấy đứa quen chưa mang vô cho. "Mấy em kiếm được anh chỗ nầy là giỏi đó nghen, chắc là có "điệp báo"! Chớ mấy cha bạn cũ loạng quạng đi tìm mờ mắt không ra "đại bản doanh" của Hai Ngoa. Chớ mấy em kiếm anh có chuyện gì không?". Chúng tôi nói muốn xin anh một số tư liệu về cuộc sống hiện tại để viết bài, anh xua tay: "Mấy chuyện đó viết làm chi. Sao không viết giùm anh những kỉ niệm thời kháng chiến?".

Chiều lòng anh, khách kiên nhẫn ngồi nghe những mẩu chuyện thời chiến của người chiến sĩ an ninh ngày nào, rồi bất ngờ bị cuốn hút vào quá khứ dữ dội của anh và đồng đội. Đi làm cách mạng từ năm 1962, lúc mới 14 tuổi, vào sinh ra tử đã nhiều, nhưng một trong những kỉ niệm để đời của anh là trận đánh chống càn của Đội An ninh vũ trang hồi tháng 6 năm 1969, cách đây đúng 45 năm.

Thời đó, căn cứ của các đơn vị đều trên động Kim Quang, núi Bà Đen. Đêm xuống, anh em an ninh muốn đánh ở đâu, "quậy phá" bọn ác ôn ở chỗ nào, xong việc đều phải rút lên núi. Nếu chốt lại đến sáng, rất nguy hiểm, địch bao vây, lấy đạn đâu mà chơi tiếp.

Ngày 18/6/1969, Đội An ninh vũ trang do Hai Ngoa tổ chức được bổ sung thêm một cây B40, anh mừng rơn, tự lãnh cây súng cùng 7 trái đạn. Hôm đó đơn vị phối thuộc với CT 9 (Sư đoàn 9) chống địch càn lên núi. Hành quân đêm xuống tới nghĩa trang Thái Bình cực lạc thì đụng địch, không biết lực lượng nào. Vừa đánh địch vừa tiến, tới con đường đất đỏ thuộc xã Ninh Sơn nối tới cửa Hòa Viện - Tòa thánh Tây Ninh thì được lệnh dừng lại, lập trận địa phòng ngự. Việc đầu tiên là rút xẻng ra đào công sự. Đội của Hai Ngoa lúc đó có hai chiến sĩ là Hiếu và Ga. Cán bộ thì có Út Cao, chính trị viên đại đội, Hai Thiệt - đại đội phó, Lâm Quý Ba, cán bộ điệp báo. "Sáu Thùy và thằng Minh bị sốt rét nằm lại động Kim Quang, thành thử cả đội còn có ba thằng"-Anh Hai kể lại.

Sáng 19/6, giặc càn tới, là đơn vị thủy quân lục chiến (TQLC) rất hung hăng. Trận địa ta có ba công sự hình chữ Z, bọn TQLC không nắm rõ trận địa ta nên cho từng toán nhỏ thọc vào bên phải, bên trái, chính diện. Địch vào thì ta phải nổ súng, nhưng bọn TQLC chỉ thăm dò rồi rút quân ra. Hai Ngoa nói với Út Cao: "Mấy thằng này cáo già. Nó thử đội hình mình rồi uýnh đó anh Út".

Trước đó địch đã đánh vỗ mặt Sư đoàn 9, nhất định nó sẽ xiên hông, bọc hậu, mà nó bọc hậu sẽ đụng đội an ninh. Hai Ngoa phán đoán vậy và cho đơn vị sẵn sàng chiến đấu. Lúc 9 giờ sáng, anh phát hiện lính địch băng qua đường rất đông, toàn bọn TQLC, bây giờ mà quất một phát B40 thì ngon quá, nhưng không dám vì còn dành đạn phòng xe tăng.

Út Cao nói với Hai Ngoa: "Giờ tao với mầy nghịch mé, đấu lưng với nhau nghen?". "Nếu nghịch mé thì anh đưa AK cho tui, anh giữ B40 đi". Hai Ngoa nói vậy rồi đổi súng, bảo anh Út Cao ngồi cảnh giới và lắp đạn vào băng cho mình. Bắn rát một hồi, thấy bọn địch vòng ra phía sau, Hai Ngoa nói với chú Quý Ba: "Tụi nó quây mình đó chú Ba. Cảnh giới khu nhà tường nghen, nó qua đó là đụng đội mình". Tổ của Hai Thiệt và Hiếu nổ súng, bọn địch dạt ra rồi dàn hàng ngang, xung phong, cách công sự của Hai Ngoa chỉ 7-8m. Cả đội nổ súng quyết liệt từ 9h đến 14h. Địch dội ra, rồi tổ chức đánh bằng lựu đạn. Những tên TQLC chuyên đánh lựu đạn không mang súng mà chỉ khoác quanh mình hai dây lựu đạn. Lợi dụng hỏa lực mạnh, khi quân ta chúi xuống tránh là chúng bò tiếp cận, chọi lựu đạn xuống công sự. Bọn này rất nguy hiểm, nếu không quan sát nhanh thì bị lựu đạn ném tơi bời ngay.

Thấy đạn địch từ tầm thấp chuyển lên tầm cao, biết tụi đánh lựu đạn đang vào, Hai Ngoa lệnh cho anh em cảnh giác. Lựu đạn ném cấp tập. Phía công sự trước mặt, vì gần bụi tre tàu, lại có hố rác bên cạnh nên tên lính TQLC lợi dụng nấp kín, thảy lựu đạn liên tục vào công sự. Tin báo xuống, cậu Hiếu hi sinh, Hai Thiệt và Ga bị thương gãy chân.

Thấy cánh bên phải quân ta bắn rát, Hai Ngoa phán đoán chúng sẽ vòng cánh trái. Một tên lính bên ngoài chạy ngang, Hai Ngoa điểm xạ hai loạt mà trượt, tên lính lộn xuống bờ mương. Hai Ngoa hét lên với Út Cao: "Bà mẹ nó, tui bắn thằng này không chết, chắc tui chết quá". Y rằng, bọn chúng câu M79 vào, vì ở sát nhà dân, sân này cách sân kia mấy mét nên không đủ vòng quay, đạn M79 không kịp nổ lăn lọc cọc, chỉ có một trái bắn vọt, nổ trên cành điều, chụp xuống đầu Hai Ngoa, bể miếng xương sọ. Chú Lâm Quý Ba cũng bị thương, chỉ còn Út Cao. Hai Ngoa vẫy Út Cao lại gần, thều thào: "Giờ chỉ còn mình anh, ráng giữ trận địa, không thì chết hết. Giờ này xế chiều rồi, không có xe tăng đâu. Bắn B40 vào bộ binh đi".

Út Cao quất một trái B40 vào chỗ bọn địch ẩn nấp. Hai Ngoa lúc sắp ngất đi còn nghe bọn địch la hét, kêu khóc. "Đ. mẹ! B40 rồi. Chạy!". Bọn địch sau đó củng cố đội hình, tấn công nữa, Út Cao cố cầm cự tới tối, cho đến lúc bộ đội chủ lực đánh qua, giải vây. Rồi đơn vị tổ chức chôn cất tử sĩ tại chỗ, còn anh khỏe cõng anh yếu, rút qua phía Bàu Năng, về núi Bà.

2. Mới gặp Hai Ngoa, không ai nghĩ rằng đó là một ông Thượng tá Công an một thời hét ra lửa. Anh bảo, không bao giờ tự quan trọng hóa bản thân. Mình là một nông dân cả đời đi làm cách mạng, giờ hoàn thành nhiệm vụ với Nhà nước thì phải cho phỉ chí nông dân chớ. Ngồi đây làm ông chủ trại chăn nuôi, mỗi năm cũng thu về cỡ 200 triệu đồng tiền lời, vừa đỡ vợ con, vừa góp phần xây dựng kinh tế - xã hội, cái tâm của mình cũng thanh thản. Anh phải tránh giao lưu bạn bè, chỉ chỗ nào quan trọng mới tới.

"Nhậu nhẹt cũng vui, nhưng mất việc lắm, nhất là phải coi sóc nào heo, nào cá. Bên Hội Cựu chiến binh, bên Câu lạc bộ Công an hưu trí, nhiều khi họ mời đi du lịch nước ngoài mà cũng chịu, không đi được". Tuy vậy, có những nơi anh sẵn sàng tìm đến, là những "địa chỉ đỏ" mà đồng đội cũ nhiều khó khăn cần giúp đỡ. Người này chưa có nhà ở, người kia con cái đau bệnh, anh đều đưa tay ra, chia sẻ.

Năm nay, nhân kỉ niệm ngày truyền thống của lực lượng vũ trang huyện Tòa Thánh (huyện Hòa Thành - Tây Ninh), số đồng đội cũ nhắn Hai Ngoa nhất thiết phải có mặt. Anh nhờ thằng cháu làm "chủ trại" giùm, rồi ăn mặc đàng hoàng đi gặp mọi người. Nụ cười rạng rỡ, bắt tay từng người một, anh nói bây giờ sướng rồi, chẳng thèm thứ này thứ kia nữa. "Nhưng đừng quên món thằn lằn núi cuốn lá mướp nướng hồi đó nghen. Mồi nhậu số dzách của lính an ninh vũ trang hồi trên núi Bà đó".

Trời đã bắc qua tháng bảy, với những cơn mưa dai dẳng, như trút nước. Anh Hai Ngoa hai tay ôm ly trà nóng, xuýt xoa: "Tính bữa nào lên động Kim Quang, thắp hương cho mấy đứa trong đơn vị cũ, mà ông trời mưa hoài". Anh chỉ lên núi Bà Đen, một lớp mây trắng phủ trên đỉnh như chiếc nón khổng lồ. "Núi Bà còn đội nón là còn mưa lâu đó mấy em"


Theo Phùng Phương Quý - VNCA