Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Đạo của Vật Lý- Chương 1

PHẦN I
CON ĐƯỜNG CỦA VẬT LÝ HỌC

Chương 1
Vật lý hiện đại - Một “tâm đạo”?


Mỗi con đường chỉ là một lối đi và cũng không ảnh hưởng gì đến mình hay đến ai nếu phải từ bỏ nó, một khi trái tim buộc bạn phải làm thế... Hãy quan sát con đường kỹ lưỡng và chính xác. Và hãy tự hỏi mình, chỉ chính mình thôi... Đó là một con đường của trái tim? Nếu phải thì đó là một lối đi tốt đẹp; nếu không nó chỉ vô ích. Carlos Castaneda; Bài học của Don Juan
Nền vật lý hiện đại có một ảnh hưởng sâu đậm hầu như trên mọi hình thái của xã hội loài người. Nó trở thành cơ sở của khoa học tự nhiên, và sự liên hệ hỗ tương giữa khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật đã biến đổi sâu xa điều kiện sống của chúng ta, xấu tốt đều có. Ngày nay hầu như không có một ngành công nghiệp nào mà không sử dụng những thành tựu của vật lý nguyên tử và ai cũng biết đến ảnh hưởng của vũ khí hạt nhân trong nền chính trị thế giới. Tuy thế thật ra, ảnh hưởng của vật lý hiện đại vượt xa kỹ thuật. Nó vươn dài đến tận tư tưởng, văn hoá và dẫn đến một sự thay đổi cơ bản về thế giới quan cũng như mối quan hệ của con người với vũ trụ. Sự nghiên cứu về thế giới nguyên tử và hạ nguyên tử (*) trong thế kỷ 20 đã phát hiện một cách bất ngờ hạn chế của các quan niệm cổ điển và buộc ta có một sự sửa đổi triệt để về nhiều khái niệm. Ví dụ khái niệm “vật chất” trong nền vật lý hạ nguyên tử hoàn toàn khác hẳn với quan niệm thông thường về một thể vững chắc trong vật lý cổ điển. Điều đó cũng tương tự cho các khái niệm không gian, thời gian và nguyên nhân - kết quả. Thế nhưng những khái niệm vừa kể lại là cơ sở của thế giới quan chúng ta với sự chuyển hoá mạnh mẽ của chúng, thế giới quan của ta cũng bắt đầu thay đổi.

Trong những thập niên qua, các nhà vật lý và triết gia đã thảo luận rất nhiều về sự thay đổi này do nền vật lý hiện đại tác động, nhưng rất ít khi người ta thừa nhận rằng sự thay đổi quan niệm này rõ rệt đã dẫn vào thế giới quan của nền đạo học phương Đông. Các khái niệm của vật lý hiện đại cho thấy một sự song song bất ngờ với các quan niệm đã được đề ra trong các nền triết lý, đạo học miền Viễn Đông. Dù sự song hành này chưa được đề cập đến một cách cặn kẽ nhưng nó đã được nhiều nhà vật lý lớn nhất của thế kỷ này đã ghi nhận, khi các vị đó tiếp xúc với các nền văn hoá phương Đông trong các chuyến đi thuyết giảng tại ấn Độ, Trung quốc và Nhật Bản. Xin ghi lại ba thí dụ sau đây:

Những quan điểm chung về nhận thức của con người, được minh hoạ bởi phát hiện của vật lý nguyên tử, tự nó không xa lạ hay khó hiểu. Ngay trong nền văn hoá của chúng ta, chúng đã có lịch sử và trong tư tưởng Phật giáo hay ấn Độ giáo chúng có một chỗ đứng trung tâm đấng kể.

Điều mà ta phát hiện chỉ nêu thêm ví dụ, xác nhận và làm tinh tế thêm cho một nền văn minh triết cổ xưa (Julius Robert Oppenheimer 1904-1067, nhà vật lý học người Mỹ, góp phần quan trọng trong công cuộc nghiên cứu vật lý hạt nhân).

Để tìm sự song hành với lý thuyết vật lý nguyên tử... ta phải đến với cách đặt vấn đề về nhận thức luận mà các đầu óc như Phật hay Lão Tử đã từng đối mặt, nếu ta muốn hoà điệu vị trí của chúng ta vừa là khán giả vừa là diễn viên trong màn kịch lớn của thế gian. (Niels Bohr).

Đóng góp lớn nhất trong ngành vật lý lý thuyết của Nhật Bản sau cuộc chiến tranh thế giới vừa qua có lẽ là dấu hiệu của một mối liên hệ nhất định giữa các tư tưởng phương Đông và nội dung triết học của lý thuyết lượng tử. (Werner Heisenberg).

Mục đích của cuốn sách này là tìm hiểu mối tương quan giữa các khái niệm của vật lý hiện đại và cơ sở của nền triết học và đạo học phương Đông. Chúng ta sẽ thấy hai cơ sở chung của nền vật lý thế kỷ 20 - lý thuyết lượng tử và lý thuyết tương đối - buộc chúng ta phải nhìn thế giới như cách nhìn Ấn Độ giáo, Phật giáo, Lão giáo và sự giống nhau giữa hai bên càng tăng thêm khi xét các thí nghiệm gần đây nhằm phối hợp hai lý thuyết để mô tả các hiện tượng trong vũ trụ vi mô: khi nói về các tính chất và tương tác của các hạt hạ nguyên tử, các hạt đó là tác nhân tạo ra vật chất. Đây cũng là nơi mà sự song hành giữa vật lý lý thuyết và đạo học phương Đông nổi bật nhất và chúng ta sẽ gặp những lý giải mà ta sẽ không biết chúng do ai phát biểu, do một nhà vật lý hay một đạo sĩ phương Đông.

Khi nói Đạo học phương Đông, tôi nói đến các triết lý tôn giáo của ấn Độ giáo, Phật giáo và Lão giáo. Mặc dù chúng gồm một số lớn trường phái tâm linh và hệ thống triết lý đan kết lẫn nhau, song tính chất chung của thế giới quan đó đều như nhau. Cái nhìn này không chỉ giới hạn ở phương Đông, nó có thể tìm thấy trong nhiều cấp bậc của mọi triết lý thiên về huyền bí. Vì thế những luận cứ trong sách này có thể nói chung là vật lý hiện đại dẫn ta đến một thế giới quan rất tương đồng với cách nhìn của nhà đạo học của mọi thời đại và truyền thống.

Truyền thống đạo học thực ra có mặt trong tôn giáo và các yếu tố huyền bí cũng có mặt trong trường phái triết học phương Tây. Mối song hành với vật lý hiện đại thật ra không phải chỉ có trong Kinh Vệ Đà của ấn Độ giáo, trong Kinh Dịch hay trong các Kinh Luận của đạo Phật, chúng cũng đã từng hiện diện trong tư tưởng của Heraclitus (550-480 trước CN, triết gia Hy Lạp) trong Sufismus của người Ả-rập và trong giáo pháp của nhà huyễn thuật Yaqui Don Juan. Nhưng ở đây, nhằm dùng từ đơn giản, tôi sẽ nói thế giới quan phương Đông và thỉnh thoảng mới nhắc đến các nguồn đạo học khác.

Nếu nền vật lý hôm nay mà đưa về lại một thế giới quan huyền bí thì thật ra nó chỉ trở lại nguồn gốc của nó, đã cách xa 2500 năm. Thật thú vị khi theo dõi nền khoa học phương Tây trên bước đường của nó, bắt đầu với các triết gia đạo học Hy Lạp đến sự phát triển thành những tư duy duy lý xuất sắc, ngày càng xa tính chất huyền bí ban đầu, tiến tới một thế giới quan đối lập với thế giới quan của phương Đông. Thế nhưng trong những bước đường phát triển gần đây nhất, khoa học phương Tây lại tự vượt lên quan điểm của chính mình và trở lại với tư duy của nền triết học Hy Lạp cổ và triết học phương Đông. Nhưng lần này nó không đặt cơ sở trên trực giác nữa mà dựa trên những thí nghiệm chính xác, phức tạp và dựa trên một lý luận logic chặt chẽ của toán học.

Nguồn gốc của vật lý, cũng như mọi ngành khoa học phương Tây khác, bắt rễ trong giai đoạn đầu của triết học Hy Lạp, và thế kỷ 6 trước Công nguyên, trong một nền văn hóa mà khoa học tự nhiên, triết học và tôn giáo chưa hề tách nhau.

Các nhà hiền triết của truyền thống Milesi tại Ionia hồi đó chưa biết sự phân biệt này. Mục đích của các vị đó là nhằm phát hiện cái cốt tủy của cơ cấu đích thực của sự vật mà họ gọi là Physis. Từ Physis (vật lý) xuất phát từ Hy Lạp đó, có nguyên nghĩa là sự tìm kiếm của tự tính sự vật.

Điều này tất nhiên cũng là mục đích của các nhà đạo học và thực tế là triết học Milesi cũng có một khuynh hướng đạo học mạnh mẽ. Người Hy Lạp đời sau gọi các nhà Milesi là Hylozoist nghĩa là kẻ cho rằng vật chất cũng biết sống vì các vị Milesi không hề phân biệt giữa sinh và vô sinh, giữa tâm thức và vật chất. Thậm chí họ không có từ vật chất, vì họ cho rằng mọi hiện tượng đều là phát biểu của Physis cả, mà cái này chứa sẵn sự sống và tâm thức. Vì thế Thales (625-547 trước CN - nhà toán học và triết học Hy Lạp) xem mọi sự vật đều chứa đầy linh tánh và Anaximender (610-547 trước CN - triết gia Hy Lạp) xem vũ trụ có dạng của một cơ thể, được Pneuma (Hơi thở, khí), hơi thở của vũ trụ điều hòa, cũng như con người được khí trời nuôi sống.

Quan điểm nhất thể và hữu cơ của những người Milesi rất gần với triết học cổ đại ấn Độ và Trung Quốc và sự song hành với thế giới quan phương Đông càng rõ rệt hơn nữa trong triết học của Heraclitus. Heraclitus tin nơi một thế giới đang biến dịch liên tục, của một sự trở thành miên viễn. Đối với ông, những gì tĩnh tại chỉ là sự vọng tưởng và nguyên lý vũ trụ của ông là ngọn lửa, một biểu tượng của sự biến dịch thường xuyên của mọi sự. Heraclitus chỉ ra rằng, mọi biến dịch trong trời đất là do tính động và sự tác động đầy sức sống và nhịp nhàng; ông xem mỗi cặp đối lập đó là cái nhất thể. Ông gọi cái nhất thể, cái xuyên suốt mọi cặp đối lập, là logos.

Đến trường phái Elatic thì cái nhất thể này bị chẻ đôi, họ cho rằng có một nguyên lý thiêng liêng cao hơn cả thánh thần và con người. Mới đầu nguyên lý này được xem là sự nhất thể của vũ trụ, về sau người ta cho rằng nó là Thượng đế có tính toàn trí và mang nhân trạng, là người đứng trên và cai quản thế giới. Đó là khởi thủy của khuynh hướng tách tâm và vật ra làm hai và dẫn triết học phương Tây đến tính nhị nguyên tiêu biểu.

Trong hướng này thì Parmenides đi một bước ngược hẳn với Heraclitus. Ông xem nguyên lý cơ bản của mình chính là cái Tồn Tại, cho nó là cái có thực duy nhất và không thay đổi. Ông xem sự biến dịch không thể có, cái mà ta gọi là biến dịch trong thế giới chỉ là sự nhầm lẫn của giác quan. Từ quan điểm này phát sinh một vật chất bất hoại, vật chất này là nền tảng mang những tính chất có thể thay đổi. Khái niệm vật chất bất hoại trở thành một khái niệm gốc của tư duy phương Tây.

Trong khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, các nhà triết học Hy Lạp tìm cách vượt lên hai quan điểm đối lập của Parmenides và Heraclitus. Nhằm dung hòa cái tồn tại bất biến (Parmenides) và sự biến dịch thường xuyên (Heraclitus), người ta cho rẳng tồn tại thể hiện thông qua những chất liệu bất biến, nhưng đem nó mà trộn lẫn với nhau hay tách rời xa nhau thì chúng lại tạo nên sự biến dịch của thế giới. Tư duy này dẫn đến khái niệm nguyên tử, là những hạt nhỏ nhất bất khả phân của vật chất, nó được trình bày rõ nhất trong triết học của Leucippus và Demokritus. Những người Hy Lạp cổ theo truyền thuyết nguyên tử đó kéo một đường phân ranh rõ giữa tâm và vật, đối với họ vật chất được cấu tạo bằng những hạt cơ bản (**). Những hạt này vận động hoàn toàn thụ động giữa những hạt khác, cũng chẳng có sự sống trong một không gian trống rỗng. Lý do nào làm chúng ta vận động cũng không được giải thích rõ, chúng thường được xem là do các lực bên ngoài tác động, các lực đó có một nguồn gốc thuộc tâm, khác hẳn vật chất. Trong suốt thế các kỷ sau, hình dung này là một yếu tố then chốt của tư tưởng phương Tây, của quan điểm nhị nguyên Tâm - Vật, giữa hồn phách và thể xác.

Khi ý niệm chia đôi tâm- vật bắt đầu bắt rễ thì các triết gia hướng về thế giới tâm thức nhiều hơn, họ quan tâm đến linh hồn con người và các vấn đề đạo lý. Suốt hơn hai ngàn năm, sau đỉnh cao của nền khoa học và văn hóa Hy Lạp trong thế kỷ thứ 4, thứ 5 trước Công nguyên, các vấn đề đó đè nặng thế giới tư tưởng phương Tây. Dựa trên nhận thức khoa học thời Thượng cổ, Aristotle đã hệ thống và tổ chức thành mô hình, mô hình đó làm nền tảng cho quan niệm của phương tây về vũ trụ suốt hai ngàn năm. Nhưng cũng chính Aristotle lại nghĩ rằng những vấn đề về linh hồn con người và suy tư về Thượng đế đáng quí hơn chuyên nghiên cứu thế giới vật chất. Lý do tại sao thế giới quan của Aristotle tồn tại lâu dài cũng chính là vì người ta không tha thiết gì về thế giới vật chất cũng như vì ảnh hưởng của Giáo hội, vì Giáo hội là người ủng hộ quan điểm của Aristotle suốt thời Trung cổ.

Phải đợi đến thời Phục hưng thì khoa học phương Tây mới bắt đầu phát triển, khi con người bắt đầu tự giải phóng ra khỏi quan điểm của Aristotle và Giáo hội bắt đầu quan tâm đến thế giới tự nhiên. Sau đó đến thế kỷ thứ 15, việc nghiên cứu giới tự nhiên được thực hiện trong một tinh thần khoa học và các thí nghiệm ra đời nhằm kiểm tra những ý niệm mới. Song song, người ta còn quan tâm đến toán học. Cuối cùng, nhằm phát biểu những lý thuyết khoa học vừa được khám phá, được thí nghiệm thừa nhận, người ta sử dụng toán học. Galileo là người đầu tiên đã nối kết các nhận thức từ kinh nghiệm với toán học, vì thế ông được xem là cha đẻ của nền khoa học hiện đại.

Khoa học hiện đại phát sinh, nó mở đường cho sự phát triển của tư duy triết học, và song song nó dẫn đến một sự phát biểu cực đoan về tính nhị nguyên tâm - vật. Sự phát biểu này xuất hiện vào thế kỷ thứ 17 với triết học của Rene Descartes, người cho rằng trong tự nhiên có hai lĩnh vực hoàn toàn tách rời và độc lập với nhau: lĩnh vực tâm thức (res cogitans) và lĩnh vực vật chất (res extensa). Nhờ cách phân chia của Descartes, các nhà khoa học được phép xem vật chất là chết và hoàn toàn độc lập với mình: thế giới vật chất chỉ là một tập hợp của những đối tượng khác nhau, trong một bộ máy khổng lồ. Thế giới quan có tính cơ giới này được Isaac Newton ủng hộ, người đã phát triển nền cơ học của mình trên cơ sở đó và biến nó thành nền tảng của nền vật lý cổ điển. Từ giữa thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19, mô hình cơ học của Newton đã thống trị toàn bộ nền tư duy khoa học. Song song đó, cũng có một hình ảnh của Thượng đế, người đứng trên thế giới và cai quản thế giới bằng những qui luật của Chúa. Những qui luật của thế giới tự nhiên mà nhà khoa học đang nghiên cứu cũng được xem là nằm trong vòng qui luật trường cửu và bất biến của Chúa vì Chúa là người cai quản thế giới.

Các chương sau đây sẽ chỉ rõ, mọi yếu tố cơ bản của thế giới quan phương Đông cũng chính là thế giới quan xuất phát từ nền vật lý hiện đại...
Triết học Descartes không những chỉ có ảnh hưởng trong nền vật lý cổ điển. Nó từng có và ngày nay vẫn còn có ảnh hưởng lớn lao trong tư duy phương Tây nói chung. Câu nói nổi tiếng của Descartes “Cogito ergo sum” (tôi tư duy, vậy tôi hiện hữu) làm cho người phương Tây đồng hóa mình với tâm thức thay vì với toàn bộ con người mình. Hậu quả của cách phân chia kiểu Descartes là mỗi con người tưởng mình là một thể cô lập, là một cá thể sống “trong” thân xác. Tâm bị tách rời khỏi thân thể nhưng lại nhận một trách nhiệm là “quản thân thể đó, vì thế mà sinh ra mối mâu thuẫn giữa ý chí có ý thức và bản năng vô ý thức. Mỗi một cá thể lại chia chẻ ra nhiều ngăn hộc khác nhau, tùy hoạt động, khả năng, cảm xúc, niềm tin v.v... của người đó; chúng nằm chồng chéo trong vô số mâu thuẫn, liên tục sinh ra những xao xuyến siêu hình và chán nản.

Mối hỗn loạn nội tâm đó của con người được phản ánh qua cách nhìn ra thế giới bên ngoài, thế giới được nhìn qua nhiều vật thể và tiến trình khác nhau. Thế giới xung quanh được coi như có nhiều phần tử kết nên, nhiều phe nhóm giành nhau cấu xé. Quan niệm chia chẻ này bao trùm luôn lên xã hội, vì thế mà sinh ra nhiều quốc gia, chủng tộc, phe nhóm tôn giáo và chính trị khác nhau. Cho sự chia chẻ như vậy là đúng-trong ta, xung quanh ta và trong xã hội đó chính là nguyên do chủ yếu của mọi cuộc khủng hoảng ngày nay về xã hội, sinh thái và văn hóa; của tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng; môi trường ô nhiễm; trong đó cuộc sống trở nên tệ hại về tâm lý và thể chất.

Do đó, sự chia cắt kiểu Descartes và thế giới quan cơ giới vừa có ích vừa tai hại. Nó hết sức thành công trong việc phát triển nền vật lý cổ điển và kỹ thuật, nhưng cũng mang lại nhiều hậu quả tai hại cho nền văn minh của chúng ta. Ngày nay thật là một điều kỳ diệu được nhìn thấy trong thế kỷ 20, nền khoa học sinh ra do sự cách ly kiểu Descartes và quan điểm cơ giới lại phát triển tiến lên, vượt lên sự chia chẻ, trở về lại với ý niệm nhất thể mà đã được các nền triết học Hy Lạp và phương Đông phát biểu.

Ngược lại với quan điểm cơ giới phương Tây thì thế giới quan phương Đông có tính hữu cơ (*). Đối với nhà đạo học phương Đông thì mọi vật thể và biến cố con người cảm nhận được có mối quan hệ với nhau, chúng chỉ là những dạng khác nhau của một “thực tại cuối cùng”. Khuynh hướng của chúng ta rất thích chia chẻ thế giới được cảm nhận thành ra những vật thể riêng lẻ và nhận chính mình là một cá thể cô lập, khuynh hướng đó được xem là một vọng tưởng xuất phát từ một tâm thức hay phân biệt đánh giá. Triết học Phật giáo xem khuynh hướng đó là vô minh (Avidya), đó là một dạng của vọng tâm, cần vượt bỏ:
Nếu vọng tâm sinh khởi, thì các pháp đều sinh khởi;

Vọng tâm diệt đi thì các pháp đều diệt 4 .

Mã Minh (**)

(*) Organic

(**)Tác giả trích Đại Thừa khởi tín luận của Mã Minh (Asvaghosa), luận sư Đại thừa ấn Độ, sống giữa thế kỷ 1,2 Công nguyên. Trong nguyên bản Anh ngữ của sách này, tác giả trích Mã Minh là từ bản dịch của Daisetz Teiraro Suzuki-Thiền sư nổi tiếng người Nhật, tác giả các bộ Essays in Zen Buddhism, The Essence of Buddhism, còn lời dịch này được trích từ bản dịch của Thích Thiện Hoa. (N.D).

Mặc dù các trường phái đạo học phương Đông khác nhau về nhiều chi tiết, nhưng tất cả đều nhấn mạnh đến tính nhất thể của vũ trụ, đó là điểm trung tâm của mọi giáo pháp. Mục đích cao nhất của kẻ tầm đạo-không kể Ấn Độ giáo, Phật giáo hay Lão giáo-là luôn luôn tỉnh giác về sự nhất thể và về mối tương quan của mọi pháp, vượt lên khái niệm về một cái ngã độc lập và tự hoà mình vào “thực tại cuối cùng” đó. Sự tỉnh giác này-có khi gọi là “giác ngộ”- không phải chỉ là một tiến trình hiểu biết mà là một kinh nghiệm tự nếm trải, kinh nghiệm này chiếm toàn bộ thân tâm hành giả và vì thế có tính chất tôn giáo. Do đó phần lớn các triết lý phương Đông chủ yếu là triết lý có tính tôn giáo.

Theo quan điểm phương Đông thì sự chia chẻ giới tự nhiên thành sự vật riêng lẻ và không có cơ sở và mọi sự vật đều đang hình thành, đang đổi liên tục. Thế giới quan phương Đông vì thế là động, chứa đựng tính chất chủ yếu thời gian và biến dịch. Vũ trụ là một thực tại không thể phân chia- vận hành liên tục, sinh động, hữu cơ; cùng một lúc vừa là tâm thức vừa là vật chất.

Vì vận hành và biến dịch là tính chất căn bản của sự vật nên năng lực tác dụng cho sự vận hành đó, không như quan điểm cổ điển của Hy Lạp, không nằm ngoài sự vật mà nó chính là một tính chất nội tại của vật chất. Do đó mà hình ảnh Thượng đế của phương Đông không phải là một kẻ đứng trên và trị vì thế giới mà là một nguyên lý, nguyên lý đó tác động từ bên trong:

Đó là người, kẻ ẩn trong mọi sự,

Mà khác biệt với tất cả mọi sự,

Kẻ mà mọi loài không ai nhận ra,

Mà thân người chính là nội sự,

Là kẻ dẫn đường nội tại của mọi sự,

Đó chính là tiểu ngã của bạn,

Kẻ dẫn đường bí ẩn, kẻ bất tử 5 .

Các chương sau đây sẽ chỉ rõ, mọi yếu tố cơ bản của thế giới quan phương Đông cũng chính là thế giới quan xuất phát từ nền vật lý hiện đại. Các chương đó sẽ nói rõ, những tư duy đạo học phương đông cung cấp cho các lý thuyết của vật lý hiện đại một nền tảng triết học nhất quán và quan trọng; cung cấp một nhận thức về thế giới mà những phát hiện khoa học hoàn toàn hòa điệu với những mục đích tinh thần và niềm tin tôn giáo của con người. Hai cơ sở căn bản của thế giới quan này là sự nhất thể và mối liên hệ qua lại của mọi hiện tượng cũng như tính chất động của vũ trụ. Càng đi sâu vào thế giới vi mô, ta càng rõ, nền vật lý hiện đại cũng như đạo học phương Đông nhìn thế giới là một hệ thống bất khả phân, ảnh hưởng lên nhau và liên tục biến dịch, mà người quan sát là một phần tử trong hệ thống đó.

Thế giới quan hữu cơ và có tính sinh thái của phương Đông hiển nhiên là lý do chính tại sao phương Tây đang ưa chuộng nó, một phong trào mới mẻ và to lớn, nhất là trong giới trẻ. Trong xã hội phương Tây chúng ta, còn sót lại ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa và quan điểm chia chẻ và cơ giới nọ, đang có một số người đã thấy tư duy đó là nguồn gốc của sự bất mãn đang lan tràn trong xã hội và nhiều người đã hướng về con đường giải phóng của phương Đông. Một điều đáng quan tâm, mà thật ra chẳng bất ngờ gì, là những người đang được đạo học phương Đông thu hút, đang tìm hiểu Kinh Dịch hay thực hành phép Du-già (*), những người đó thường có một thái độ chống lại khoa học. Họ cho rằng khoa học, nhất là ngành vật lý, là một môn học buồn tẻ, đóng khung, là môn học mang trách nhiệm của mọi sự xấu xa của kỹ thuật.

Cuốn sách này muốn nâng cao “uy tín” của khoa học, trong đó nó sẽ chỉ ra một sự hòa điệu cốt lõi giữa tinh thần của đạo học phương Đông và khoa học phương Tây. Nó sẽ cố gắng chỉ rõ ngành vật lý đã vượt xa cái khung của kỹ thuật thuần túy, chỉ rằng con đường-hay Đạo-của vật lý là một con đường với trái tim, tâm đạo, một con đường dẫn đến tri kiến đích thực và sự thực chứng.

(*) Yoga.

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

ĐẠO CỦA VẬT LÝ - Fritjof Capra - Biên Dịch: Nguyễn Tường Bách



Giới thiệu cuốn sách 'Đạo của vật lý'

Đây là một khám phá mới về sự tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông. Với cuốn sách này, Giáo sư vật lý Fritjof Capra cho ta có một cái nhìn tổng thể về thành tựu của vật lý học cũng như những tương đồng nổi bật của nó với các triết lý phương Đông.


Lời người dịch

Cuốn sách là bản dịch Việt ngữ của "The Tao of Physics" (Đạo của vật lý) của tác giả Fritjof Capra, bản in lần thứ ba, do Flamingo xuất bản năm 1982.

F. Capra sinh năm 1939, là giáo sư ngành vật lý tại các đại học và viện nghiên cứu tiếng tăm tại Mỹ và Anh. Khoảng cuối những năm 60, ông bắt đầu chú ý đến các tương đồng giữa những phát hiện của ngành vật lý hiện đại với quan niệm của những nền đạo học phương Đông như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Lão giáo... để đến cuối năm 1974, bản in lần thứ nhất của Đạo của vật lý ra đời. Kể từ đó đến nay, khoảng trên một triệu cuốn sách này đã đến tay độc giả với trên mười thứ tiếng khác nhau. Nội dung chủ yếu của cuốn sách là sự trùng hợp về nhận thức luận của nền vật lý hiện đại với đạo học phương Đông, nhất là với Phật giáo.

Đặc trưng của nền vật lý hiện đại trong thế kỷ 20 là sự tìm kiếm nguồn gốc khởi thủy của vật chất, cố tìm ra những "hạt cơ bản" cuối cùng tạo nên nguyên tử. Thế nhưng, khi đến cánh cửa cuối cùng mở ra để thấy bộ mặt thật của vật chất, nhà vật lý phát hiện vật chất hình như không phải do những hạt cứng chắc tạo thành nữa, mà nó chỉ là dạng xuất hiện của một thực tại khác. Vì thế mà vật chất mang những tính chất hầu như đối nghịch nhau, nó vừa liên tục vừa phi liên tục, vừa hữu hiện vừa phi hữu hiện, dạng xuất hiện của nó tùy theo cách quan sát của con người.

Những tính chất lạ lùng đó đưa ngành vật lý vào thẳng cửa ngõ của triết học: nền vật lý hiện đại vừa thống nhất và lý giải nhiều khái niệm cơ bản của triết học, vừa đề ra những câu hỏi lớn của loài người mà các nhà đạo học từ xưa tổng kết. Và kỳ lạ thay, những phát hiện hiện nay của nền vật lý hiện đại không khác bao nhiêu so với những kết luận của các thánh nhân ngày xưa.

Vì những lẽ đó, trước Capra đã có nhiều nhà vật lý xuất sắc của thế kỷ này đến với triết học, nhất là các nhà sáng lập thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Họ tìm thấy ở triết học phương đông một thế giới quan hết sức phù hợp để soi rọi cho những vấn đề nan giải của vật chất đề ra. Thế nhưng, với cuốn sách này của Capra, ta có một cái nhìn tổng thể về những thành tựu của vật lý học, về những vấn đề lớn hiện nay làm cho vật lý bị giam trong một cuộc khủng hoảng về nhận thức luận, và về những sự tương đồng nổi bật với các triết lý phương Đông.

Với tính cách là một giáo sư vật lý, Capra trình bày được một cách cặn kẽ khúc chiết các vấn đề vật lý. Tác giả cũng trình bày khá sâu và chính xác về các nền đạo học phương Đông như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Lão giáo. Nhờ am hiểu hai nền học thuật đó mà tác giả cuốn sách này mang lại cho người đọc, dù người đó đến từ phương trời nào, rất nhiều điều bổ ích. Người đọc có kiến thức đạo học phương Đông sẽ nhận thấy, đối với luận đề này, triết lý phương Đông còn cống hiến nhiều hơn nữa so với những gì trong sách trích dẫn.

Vì những lẽ đó, người dịch hân hoan giới thiệu với độc giả Việt Nam tập sách quý báu này. Nó dành cho những ai quan tâm đến các vấn đề cơ bản của vật lý, triết học và đạo học. Chắc chắn bản dịch này còn nhiều thiếu sót, người dịch trân trọng cám ơn mọi góp ý phê bình để bản dịch hoàn chỉnh hơn.


Lời nói đầu
(Bản in lần thứ hai)

Cách đây bảy năm, cuốn sách này được xuất bản lần đầu, và nó xuất phát từ một kinh nghiệm, như đã mô tả trong lời nói đầu trước, kinh nghiệm đó đã xảy ra cách đây hơn mười năm. Thế nên tôi xin được nói vài lời với độc giả trong bản in lần này về nhiều điều đã xảy ra trong những năm đó - về cuốn sách, về vật lý và về chính tôi.

Hồi tôi khám phá ra những điểm song hành giữa thế giới quan vật lý và đạo học, những điều đã được nhiều người mơ hồ cảm thấy nhưng chưa bao giờ được nghiên cứu, cặn kẽ, tôi đã thấy rõ mình chỉ là người phát hiện một điều vốn đã rất rõ ràng, và điều đó sẽ trở thành kíến thức chung trong tương lai; và thỉnh thoảng, khi viết Đạo của vật lý, thậm chí tôi có cảm giác những gì được viết là thông qua tôi, chứ không phải do tôi viết ra. Cuốn sách đã được đón chào nồng nhiệt tại Anh và Mỹ. Mặc dù được quảng cáo hay tuyên truyền rất ít, nó đã được truyền miệng nhanh chóng và ngày nay, đã có hơn mười bản dịch trên khắp thế giới.

Như ta có thể tiên đoán phản ứng của cộng đồng khoa học cẩn thận hơn; thế những, sự quan tâm về những hệ quả đối với nền vật lý của thế kỷ 20 đã tăng lên. Sự ngần ngại của nhà khoa học hiện đại khi thừa nhận sự tương đồng giữa khái niệm của họ với khái niệm của đạo học thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì đạo học - ít nhất là tại phương Tây - thường hay bị gán ép một cách hoàn toàn sai lầm, với một cái gì mơ hồ, bí ẩn và hết sức phi khoa học. May mắn thay, thái độ đó đang được thay đổi. Vì tư tưởng phương Đông đang bắt đầu tạo được mối quan tâm nơi một số người và thiền định không còn được nhìn với sự chê cười hay nghi ngờ, đạo học đã được coi trọng, ngay cả trong cộng đồng khoa học.

Sự thành công của Đạo của vật lý đã tạo nên một tác động mạnh mẽ trong đời tôi. Trong những năm qua, tôi đã đi nhiều, giảng giải trước cử toạ chuyên ngành và không chuyên ngành và thảo luận về những hệ quả của vật lý mới với mọi người của mọi tầng lớp đời sống. Những cuộc thảo luận này đã hết sức giúp tôi hiểu ra khung cảnh văn hóa rộng rãi của mối quan tâm về nền đạo học phương Đông được sinh ra tại phương Tây trong hai mươi năm qua. Giờ đây, tôi thấy sự quan tâm này là một phần của một khuynh hướng vĩ đại hơn nhiều, đó là khuynh hướng tìm cách đối đầu, chống lại một sự thiếu thăng bằng nặng nề trong văn hóa - trong tư duy và cảm nhận, giá trị và thái độ của chúng ta, cũng như cấu trúc xã hội và chính trị. Tôi thấy thuật ngữ Trung Quốc Âm - Dương hết sức hữu ích để mô tả sự mất thăng bằng văn hóa này. Văn hóa của chúng ta từ trước tới sau thuộc dương, kể cả hệ thống giá trị và thái độ, và bỏ quên hẳn mặt bổ túc của nó là âm. Chúng ta coi nặng tính cá thể hơn tính hội nhập, sự phân tích hơn sự tổng hợp, tri thức suy luận hơn minh triết trực giác, khoa học hơn tôn giáo, cạnh tranh hơn hợp tác, bành trướng hơn giữ gìn, vân vân. Sự phát triển phiến diện này đã lên tới đỉnh cao phải báo động, đã đạt tới một kích thước của xã hội, sinh thái, đạo lý và tâm linh.

Tuy thế, cũng trong thời đại này, ta là kẻ chứng kiến buổi bắt đầu của một phong trào cách mạng phi thường, nó có lẽ là sự minh họa cho điều mà người Trung Quốc thời thượng cổ đã nói: "Dương, khi đã đạt tới cực điểm, sẽ rút lui, nhường chỗ cho Âm". Những thập niên 1960, 1970 đã sinh ra một loạt những vận động xã hội dường như đi vào chiều hướng đó. Nỗi lo ngại về sinh thái ngày càng lớn, sự quan tâm mạnh mẽ đến đạo học, ý thức nữ giới ngày càng tăng trưởng, và sự phát hiện lại quan niệm y lý và chứa trị toàn diện, tất cả đều là biểu hiện của khuynh hướng cách mạng đó. Chúng là mặt bổ túc của sự nghiêng lệch quá đáng hướng về sự duy lý thái độ và giá trị dương tính, và chúng tìm cách kéo lại sự quân bình giữa hai mặt âm tính và dương tính của con người. Thế nên, ý thức về một sự hòa điệu sâu xa giữa thế giới quan của vật lý hiện đại và của đạo học phương Đông xuất hiện ngày nay là một phần không thể tách rời của sự chuyển hóa văn học lớn rộng, dẫn đến một hình ảnh mới về thực tại, sự chuyển hóa này sẽ đòi hỏi nhiều thay đổi cơ bản trong tư duy, nhận thức và thang giá trị của chúng ta. Trong cuốn sách thứ hai, The Turning Point, tôi nghiên cứu thêm về những khía cạnh và hệ quả khác nhau của sự chuyển hóa văn hóa này.

Thực tế của những thay đổi hiện nay trong hệ thống giá trị của ta sẽ tác động mạnh mẽ lên nhiều ngành khoa học, điều này sẽ làm nhiều người ngạc nhiên, những người tin có một khoa học khách quan và đứng trên mọi giá trị. Thế nhưng, đó chính là một hệ quả quan trọng của ngành vật lý mới. Các đóng góp của Heisenberg (1901-1976: Nhà vật lý học người Đức, người khai sinh ra thuyết cơ học lượng tử, giải Nobel 1932) trong thuyết lượng tử mà tôi sẽ nói đến nhiều trong tác phẩm này, sẽ cho thấy rõ là ý niệm cổ điển về tính khách quan trong khoa học sẽ không còn được duy trì lâu hơn nữa, và vì thế mà vật lý hiện đại đang xét lại huyền thoại của một nền khoa học siêu giá trị. Những cấu trúc mà nhà khoa học quan sát được trong thiên nhiên thực ra liên hệ chặt chẽ với cấu trúc của tâm lý học; với khái niệm tư tưởng và hệ giá trị của họ, Do đó, kết quả khoa học mà họ thu được và sự ứng dụng kỹ thuật mà họ tìm hiểu sẽ rất tùy thuộc vào khuôn khổ tâm thức của họ. Dù nhiều nghiên cứu đơn lẻ có thể không phụ thuộc rõ rệt và hệ thống giá trị của họ, nhưng khung cảnh rộng lớn trong đó các nghiên cứu mình, không những chỉ về mặt tri thức, mà cả về mặt đạo lý.

Từ cái nhìn này, mối liên hệ giữa vật lý và đạo học không những rất thú vị mà còn hết sức quan trọng. Nó chỉ ra rằng, kết quả của nền vật lý hiện đã mở ra hai con đường khác nhau để nhà khoa học đi theo. Chúng có thể đưa ra - dùng những từ cực đoạn - đến với Đức Phật hay với trái bom, và điều này đặt ra cho mỗi nhà khoa học quyết định chọn lấy con đường. Trong thời đại mà gần một nửa nhà khoa học và kỹ thuật làm việc trong ngành quân sự, đối với tôi thật là phí phạm một nguồn lực to lớn về óc thông minh sáng tạo con người để nghĩ ra những phương tiện tinh tế nhằm hủy phá toàn tiện, và nói mấy cũng không đủ về con đường của Đức Phật, con đường của trái tim.

Bản in này của cuốn sách đã được cập nhật bằng cách thêm nhiều kết quả của những công trình nghiên cứu gần đây trong ngành vật lý hạ nguyên tử. Tôi làm điều đó bằng cách thay đổi vài đoạn trong sách cho phù hợp với những tiến bộ mới đây, và bằng cách thêm một chương cuối sách, mang tên Điểm lại nền vật lý mới, trong đó những phát triển mới mẻ và quan trọng nhất của vật lý hạ nguyên tử sẽ được trình bày khá chi tiết. Một điều đáng vui cho tôi là không có khám phá nào gần đây đả phá những gì tôi viết bảy năm về trước. Thực tế là phần lớn những khám phá đó đã được sự kiến trong bản in đầu rồi. Điều này khẳng định niềm tin chắc chắn của tôi, nó cũng động viên tôi viết cuốn sách này: những luận điểm mà tôi dùng khi so sánh vật lý và đạo học sẽ chỉ được hỗ trợ, chứ không bị đả phá, bởi các phát hiện trong tương lai.

Hơn thế nữa, bây giờ tôi thấy có cơ sở vững hơn nhiều với những luận điểm của mình, vì sự song hành giữa đạo học phương Đông không những chỉ xuất hiện trong vật lý mà cả trong sinh học, tâm lý học và các ngành khoa học khác. Khi tìm hiểu về mối liên quan giữa vật lý và các ngành khoa học đó, tôi nhận ra rằng sự mở rộng của những khái niệm vật lý hiện đại đến các ngành khác được khuôn khổ của lý thuyết hệ thống cũng cấp. Các công trình nghiên cứu về khái niệm hệ thống trong sinh vật, y khoa, tâm lý và trong các ngành khoa học xã hội, mà tôi đã nói đến trong The Turning Point, đã cho thấy rằng ngành khoa học hệ thống đã tăng cường mạnh mẽ cho mối song hành giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông. Cần nói thêm là hệ thống mới của sinh học và tâm lý học lại càng chỉ rõ thêm nhiều mối tương đồng khác nữa với tư tưởng đạo học, chúng nằm ngoài phạm vi của một cuốn về vật lý. Những điều được thảo luận trong cuốn sách về vật lý. Những điều được thảo luận trong cuốn thứ hai của tôi chứa đựng một số khái niệm về ý chí tự do, sống và chết, và tự tính trong đời sống, của tâm thức, ý thức và sự tiến hóa. Mỗi hòa điệu sâu xa giữa các quan niệm, được trình bày trong ngôn ngữ của khoa học hệ thống, và những ý niệm tượng tự của đạo học phương Đông, là những bằng cớ thuyết phục cho sự đoán quyết của tôi, là triết lý của các truyền thống đạo học, cũng có tên gọi là triết học vĩnh cửu cũng cấp một cơ sở triết học nhất quán cho các lý thuyết khoa học hiện đại của chúng ta.

Đạo của sự khác biệt






Chủ nghĩa giải cấu trúc – Trang Tử

Trong cuộc thảo luận về ngôn ngữ, Trang Tử thường sử dụng từ “lý sự” (dispute). Về từ nguyên học, “lý sự” liên quan đến “vi biệt”, giữa là “gươm” và “để phân biệt”. Từ khắc trên biểu diễn một thanh gươm (sword) cắt một vật thành hai. Vì thế, trong đạo giáo của Trang Tử (Taoism), “lý sự” hàm ý “sử dụng ngôn ngữ để phân biệt hoặc phân tích”. Như hầu hết nhà triết học cùng thời tiền Tần, Trang Tử cũng xem ngôn ngữ như công cụ phân loại và phân biệt hiện thực một cách có hệ thống.


Trang Tử

Trong các thời đại này, ngôn ngữ thường được thay thế bằng “danh tính” (names) vì ngôn ngữ chứa đựng “danh tính” mà chức năng của nó là biểu thị những sự vật trần tục và điều kiện của chúng. Đặt tên một sự vật là chỉ ra khác biệt giữa sự vật này với các sự vật khác, và để khám phá tồn tại lệ thuộc của nó. Theo quan điểm Trang Tử, những vấn đề liên quan là việc tạo nghĩa của ngôn ngữ và tác động của nó lên giác quan con người. Liên quan lớn nhất là tính đối lập ngôn ngữ hoặc thuyết nhị nguyên khái niệm (dichotomy of language or conceptual dualism).

Theo đạo giáo của Trang Tử, ngay khi thế giới được phân loại và phân tích bởi thuyết nhị nguyên khái niệm – có/không, tốt/xấu, sống/chết, đẹp/ xấu, được/mất, thắng/bại, thêm/bớt, dài/ngắn, to/nhỏ… – sử dụng những cái khái niệm trong tiềm thức dẫn ta đến việc xét đoán tức thời về giá trị dẫn đến cách hành động riêng của ta. Hệ quả của của thuyết nhị nguyên khái niệm này là “sự thiên vị” (preferenc) hay “dục vọng”(desire). Con người luôn theo đuổi cái gọi là “tốt” (good) và loại trừ “xấu” (evil). Đáp ứng dục vọng ta cảm thấy tự mãn, ngược lại thất bại sinh thất vọng và nỗi khổ.

Quá trình “thiên vị” và “tham vọng” này là một vòng lẩn quẩn với những ràng buộc mâu thuẫn: vui mừng và giận dữ, u buồn và hạnh phúc, thận trọng và hối tiếc, chợt đến với ta tuần tự, luôn thay đổi trạng thái (trong “Identity of contraries”). Con người bị điều khiển bởi những khái niệm nhị nguyên này. Như Trang Tử nói: “trong đấu tranh giữa bình lặng và náo động, sự va chạm giữa thiện và ác, chỉ thêm lửa hủy diệt sự hài hòa bên trong của con người. Nhưng trí tuệ ta không thể chống lại ngọn lửa ấy. Nó bị phá hủy, cùng với nó, đạo cũng kết thúc” (Contingencies).

Trong mọi loại dục vọng, Trang Tử xem “dục vọng về đạo đức” (desire of morality) là nguy hiểm nhất. Các nhà triết học luôn căn cứ vào những khái niệm nhị nguyên như thiện/ác, đúng/sai, thật/giả… Trang Tử đã nhạo báng họ, cho rằng: “một cách khách quan, ta ý thức về một sự phân định giữa đúng/sai, quan hệ/ràng buộc, phân chia/phân biệt, thi đua/cạnh tranh. Ta gọi những điều này là “Tám điều khả kiến” (Eight Predicables).

Đặc biệt, ông phê bình giáo điều Khổng Tử. Ý tưởng trọng tâm của Khổng giáo có thể qui giảm về khái niệm “nhân đức”(benevolence). Nghĩa là con người, gồm tính người và những tương quan với luật lệ thượng giới. Ý tưởng về “nhân đức” là “nghi thức” (etiquette) và “trí thức” (intellect), dĩ nhiên bao hàm luôn chính sự “nhân đức”. Từ bốn đức tính này, môn đồ Khổng giáo phát triển thành phép phân loại danh xưng phức tạp, bao gồm “chân thật”, “tin tưởng”, “trung thành” và “hiếu thảo”…

Theo quan điểm của các nho sĩ, sự hỗn độn xã hội là do người ta thiếu hiểu biết về những danh xưng này hoặc hiểu biết bị che dấu bởi những danh xưng giả mạo. Chừng nào mà còn phân chia khác biệt – nhân đức/không nhân đức, lễ nghi/vô lễ nghi, trí thức/không trí thức – thì xã hội vẫn còn trật tự. Vì thế các nho sĩ kêu gọi “tái xác lập những danh xưng” (reconfirming the names) ấy. Tuy nhiên, theo quan điểm Trang Tử, nếu khác biệt giữa đúng/sai, thiện/ác được phân định rạch ròi, thì không cần nhấn mạnh “tái xác lập những danh xưng”.

Với việc tham chiếu về điều khẳng định và phủ định, về những gì là như thế và không là như thế… Nếu điều khẳng định là xác thực, nó nhất thiết phải khác với điều phủ định của nó – thế thì đâu còn gì để tranh cãi. Và nếu điều gì thực sự là như thế, nó nhất thiết phải khác với điều nó không thực sự là như thế – như thế cũng chẳng cần tranh cãi.

Bởi vì nó phù hợp với luật lệ về “dục vọng” nên “dục vọng” xuất hiện chỉ khi đối tượng “dục vọng” không tồn tại. Do đó, sự tồn tại “dục vọng” chứng tỏ một loại thiếu hụt hay vắng mặt. Nếu “nhân đức” là xu hướng bẩm sinh của con người theo Khổng giáo, thì ta không cần thiết nhấn mạnh và đề cao những đức tính này. Trang Tử kết luận :“Nếu đức hạnh được trọng vọng, cạnh tranh sẽ đến. Nếu tri thức được khuyến khích, hậu quả sẽ là trộm cắp”. Một khi những danh xưng này được khuyến khích, người ta có thể đấu tranh chống lại nhau vì chính họ, và kết quả việc “tái xác lập danh xưng” là không còn trật tự xã hội, mà chỉ là hỗn độn chết chóc.

Hơn nữa, các nho sĩ xem hệ thống “danh xưng” của họ như những phạm trù tuyệt đối. Hóa ra rằng để kêu gọi và làm gương bằng những “danh xưng” này mà những tín đồ này thậm chí xâm phạm chính cuộc sống riêng của họ. Trang Tử nói: “kẻ nào không màng đến thanh danh của mình, kẻ đó không phải là điều mà người ta muốn. Kẻ nào quên lãng sự tồn tại của mình, kẻ đó không thể cai trị người khác. Vì thế Hu Pu Hsieh, Wu Kuang, Poh I, Shu Ch’I, Chi Tzu, Hs’yu, chi T’o và Shen Tu Ti là những tôi trung tuân theo mệnh lệnh người khác, chứ không phải là của riêng họ”.

Để phá hủy nhị nguyên khái niệm, Trang Tử đã đảo ngược trật tự về các khái niệm đối lập. Ví dụ:

1. Giá trị về những điều vô giá trị: theo quan điểm người thợ, những cái cây vô dụng là hữu dụng (vì nó có thể tránh bị chặt và sống tiếp cuộc sống riêng). Ngược lại, những cái hữu dụng lại trở nên vô dụng (vì nó không thể sống cuộc sống của mình).

2. Dế và ve sầu (Rukh and Cicada)

3. Nàng Li Ji: “Khóc trước cười sau” (The lady Li Ji’s “Crying first and laughing finally”).

4. Một con ếch cừ khôi: cái hay của một con ếch cừ khôi chính là sự vô nghĩa về dòng chảy của con sông (A well-frog: the greatness of well-frog is the insignificance of the spirit of the river).

Các ví dụ này không những chỉ ra những giá trị đó là tương đối và hữu hạn bởi điều đối lập của chúng, mà còn cho ta thấy mọi giá trị đều là tương đối, không cần thiết và gò bó vào bản chất sự vật, bởi con người. Vì thế, để thực hiểu bản chất sự vật hoặc nội cấu trúc của chúng ta phải hiểu ý nghĩa “qui luật về sự khác biệt” (The law of difference). “Khi ta nói một vật là lớn hay nhỏ là vì nó lớn hoặc nhỏ một cách tương đối, và cũng chẳng có cái gì được tạo ra là lớn hay nhỏ. Biết vạn vật chỉ như mầm cỏ dại, và đầu ngọn tóc như khối núi, đó chính là diễn đạt về qui luật khác biệt”.

Dựa vào qui luật khác biệt, các khái niệm đối lập hoặc tương phản có thể được thay thế lẫn nhau. Trật tự thiện/ác và cao/thấp giữa những tương phản này sẽ bị tháo dỡ. Một cách công khai, trong trật tự các khái niệm đối lập, sự tương phản không thể hài hòa với nhau. Tuy nhiên, ở mức độ sâu hơn chúng độc lập và bổ sung cho nhau. Trang Tử nói: “Nếu không có ngoại tại này thì không có tôi. Nếu không có tôi, chúng cũng không thể phát huy. Ta chỉ có thể nói như thế”.

Nếu có một sự ‘khởi đầu’, thì cũng có một thời lượng trước đó. Và một thời lượng trước cả cái thời lượng của tiền ‘khởi đầu’. Nếu có sự ‘tồn tại’ thì cũng phải có ‘không tồn tại’. Và nếu có một thời lượng mà ‘không có gì’ đã tồn tại, thì cũng phải có một thời lượng trước đó, khi mà thậm chí cái ‘không có gì’ chưa tồn tại. Khi cái ‘không có gì’ bất chợt xuất hiện, thì ta có thể nói liệu nó có thuộc về phạm trù tồn tại hoặc phạm trù không tồn tại?

Trong tác phẩm của Trang Tử, qui luật về khác biệt là nội cấu trúc các khái niệm, danh xưng và biểu tượng.

Chiến lược mà Trang Tử sử dụng để phá hủy đối lập ngôn ngữ cũng được gọi là “chủ nghĩa giải cấu trúc”. Như J. Derrida, Trang Tử bắt đầu với trật tự khái niệm, và chứng minh cái gọi là cao hơn (tồn tại, cuộc sống, tôi, đây) đã luôn được hàm nghĩa cái thấp hơn (không có gì, chết, đó, sự vật) được giả định cho cái trước. Vì thế, Trang Tử đã phơi bày những giới hạn của những đối lập này.

Lưu ý sự tương đồng giữa luật về khác biệt của Trang Tử và “khác biệt” của Derrida. Cả hai phơi bày những tương phản, chúng thực sự lệ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Trong bài luận về sự trì biệt (différance), Derrida so sánh từ “trì biệt” với từ “tạo thuận lợi” (facilitation) của Freud, vốn xuất xứ từ tiếng Đức “bahnung”. Từ này hàm nghĩa “mở ra một con đường” và gợi nhớ đến từ “Taos” với nghĩa đen là “cách thức” hoặc “con đường”. Qui giảm từ nguyên học đến chữ tượng hình – chữ ‘đạo’.


J. Derrida

Tương tự Trang Tử, Derrida cố gắng xuyên tạc khái niệm “khác biệt” khỏi những kiểu cách cổ điển vốn phát sinh từ một sự hiện diện nguyên thủy. Derrida tuyên bố “bất khả quyết” (undecidable) không thể qui giảm về logic này hoặc kia của siêu hình phương Tây. Logic này dựa trên tập quán dĩ ngôn vi trung về đối lập nhị phân và hoạt động dựa trên ba nguyên tắc chính:

1. Nguyên tắc về tính đồng nhất: A là A

2. Nguyên tắc phi mâu thuẫn: A không thể là -A

3. Nguyên tắc bài trung: sự thật hoặc là A hoặc là -A

Derrida biến đổi logic nhị phân này hoặc kia thành logic giải cấu trúc về cả hai và (hoặc) chính xác hơn, không này chẳng nọ. Bằng cách này, ông giải cấu trúc các khái niệm khả quyết thành các dấu tích bất khả quyết (undecidable). Chúng không thể đồng nhất với chính chúng, mà ẩn chứa ý nghĩa khác với chính chúng. Do đó, chúng phủ định với chính chúng, khác biệt với chính chúng và phát huy tác dụng ngay cả khi ở dưới dấu xóa (erase). Derrida nói về việc sắp đặt để làm việc trong phạm vi văn bản lịch sử triết học của thuật ngữ “bất khả quyết”. Thuật ngữ này đã không còn nằm trong phạm vi đối lập triết học, kháng cự và phá rối, chưa bao giờ là thuật ngữ thứ ba, chưa bao giờ có chỗ cho một giải pháp hình thức của suy đoán biện chứng. Vì thế, kẻ đứng mũi chịu sào (pharmakon) chẳng phải phương thuốc hay độc chất, không thiện chẳng ác, không nói mà cũng chẳng phải viết không này chẳng nọ, đồng thời với này hoặc nọ (positions).

Phan Bien trích dịch.

Liêm sỉ ở đâu?


Vienhanlam




Dư luận đang xôn xao khi Dương Chí Dũng và người thân tươi cười trong các phiên xử án y. Thậm chí, họ còn cười khi y sắp phải đối diện với án tử hình. Chuyện đáng cười thế sao?


Thái độ tươi cười đó chứng tỏ công tác cán bộ của Đảng có vấn đề. Làm gì có chuyện một người có liêm sỉ lại cười khi bị bắt và bị xử án. Từ trước đến nay, ở các vụ xử án tham nhũng, chưa có ai cười như thế. Người không có liêm sỉ thì làm sao làm cán bộ được.

Hay y cười vì thanh thản sau khi nhận tội, sẵn sàng đón nhận cái chết. Có vẻ như không phải vậy… Người nhận tội, chấp nhận dùng cái chết để trả giá cho hành động của mình người ta cười khác. Y cười như là sự tuyên bố thắng lợi nào đó, với ai đó đang muốn ‘chơi xỏ’ y mà không được.



Vài tháng trở lại đây, cuộc chiến chống tham nhũng quyết liệt hơn trước. Có vẻ người ta muốnlàm thật, như người dân mong đợi. Báo chí, các cơ quan chuyên môn được động đến nhiều cá nhân, đơn vị xưa nay vẫn được coi là “bất khả xâm phạm”.

Tuy vậy, cuộc chiến vẫn còn rất nhiều khó khăn. Khó khăn đầu tiên là không được nhiều người ủng hộ, vì tình trạng tham nhũng ở Việt Nam quá phổ biến, cuộc chiến động chạm đến quá nhiều người trong khi nhận thức của mọi người về hậu quả của tham nhũng chưa cao.

Chống tham nhũng là cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác. Khi mà còn nhiều em nhỏ đi học, phải qua sông trong túi nilon, khi mà còn nhiều em nhỏ chết do thiếu vắc-xin, thì việc bòn rút ngân sách là gián tiếp giết người. Vậy, góc độ đạo đức, tham nhũng là tội ác. Góc độ xã hội, tham nhũng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Góc độ kinh tế, tham nhũng kéo lùi sự phát triển của dân tộc.

Đồng ý cuộc chiến chống tham nhũng phải đi đôi với lộ trình tăng lương cơ bản. Nhưng trong tình trạng đất nước còn khó khăn này, cán bộ phải hạn chế những nhu cầu của mình trước. Làm cán bộ là mang tài năng ra giúp dân, giúp nước; chứ không phải là vụ đầu tư trong nhiệm kỳ của mình.

CÁI THUYẾT NHỊ NGUYÊN




Luật Tiến Hóa sinh ta trong trình tự?
Phải đi từ Ấu Trì đến Trường Thành?
Hay kiếp người dồn ép, rất mong manh?
Những sáng tạo vẫn chỉ là tương đối?
Luật Nhị Nguyên chưa bao giờ thay đổi?
Bởi vì, khi có Đỏ, phải có Đen?
Trong Nhân Sinh, phải có lớp Nghèo Hèn?
Mới nổi bật một lớp Người Sang Trọng?
Trong giáo đường, hay chùa chiền long trọng..
Lớp Tín Đồ nghe kinh giảng yên lòng,
Kiến năng về Thượng Đế rất mênh mông..
Nên phải tựa các lớp Thầy Tu Sĩ?
Và Niềm Tin, chả cần nhiều suy nghĩ,
Cứ yên lòng, phó mặc hết mai sau.
Dù đã lâu.. không ai nói Về Đâu?
Đời cô độc, kiếp nhân sinh quá rộng..
Trong xí nghiệp, lớp Công Nhân lao động,
Toát mồ hôi quần quật suốt cả ngày..
Tiền công thấp, nên chạy Nợ loay hoay..
Lương chỉ đủ thuê khu phòng tồi tệ?
Lớp Giám Đốc, tiền rừng, còn có thế..
Hét ra mưa, ra gió, rất oai quyền?
Trong bệnh viện, phải có lớp Người Điên?
Mới nuôi sống lớp Y Khoa Bác Sĩ?
Nơi tòa án, lớp Quan Tòa không nghỉ..
Vì nhân sinh có nhiều lớp Tội Nhân?
Ngoài chiến tuyến, phải có lớp Quân Nhân?
Thì mới có lớp Sĩ Quan Cao Cấp?
Trong học đường, lớp Học Trò là thấp.
Phải chăng vì, lớp Thầy Giáo phải cao?
Trong thương mại, sinh hoạt đã ra sao?
Chắc hẳn có Lớp Người Mua, Người Bán?
Trong rừng sâu, có lớp Người Săn Bắn,
Trốn đâu đây, phải có lớp Con Mồi?
Ta hỏi mãi, vòng luẩn quần, Kiếp Người..
Có Anh Tối, chắc phải cần Anh Xấu?
Hàng hóa Thuế, bên cạnh hàng Buôn Lậu?
Lớp Thầy Tu lại cần có Con Chiên?
Có Thằng Dữ, phải có những Anh Hiền?
Không Con Bệnh, ngành Y Khoa thất nghiệp?
Không Kẻ Xấu, Anh Tốt đâu hiện diện?
Không Tội Nhân, Ngài Thẩm Phán phát điên?
Không Khách Hàng, nhà Thương Mại cạn tiền?
Không Lớp Thợ, Lớp Thầy khăn quả mướp?
Thế là đúng, Chúng Ta cần nhau tuốt..
Dù Sang Hèn, dù Xấu Tốt, như nhau?
Trong cái Luật Nhị Nguyên, khá nhiệm mầu!
Dù thắc mắc, ngàn năm không lời giải?
Vì muốn giải, chắc phải cần Anh Giỏi?
Lại rơi vào, có một lớp Anh Ngu?
Thật rõ là, Thiên Địa khá tù mù!

Trần Văn Sơn

Dị phẩm

Phương Uy




hắn treo từng nỗi buồn lên những chiếc đinh đóng trên vách
mỗi nỗi buồn là một bài thơ
có nỗi buồn chỉ là một giấc mơ
không bao giờ còn được đến.

hôm qua
hắn tháo xuống tất cả các nỗi buồn
và treo lên chiếc đinh không một đôi giày đỏ
con thằn lằn tắc lưỡi nhạo hắn sau khe cửa
bần thần muốn rụng đuôi

bởi hôm qua hắn đi chợ
thấy rất nhiều bài thơ như các nỗi buồn của hắn
xổ bán từng đống bên lề đường
năm ngàn được cả chục chương

hôm nay
hắn viết bài thơ về cái đuôi con thằn lằn và treo lên vách
cái đuôi trở thành dị phẩm
con thằn lằn
buồn...

Hầm





Làng, chừng vài chục nóc gia, ban ngày lỏng khỏng toàn người già và trẻ con, một vài con bò gầy trơ xương, đôi ba con chó ốm và dăm con gà mất mẹ kêu chiu chít. Đó là quang cảnh của làng. Cứ như thể cái hồn cốt khoẻ mạnh tươi tắn của người và vật bay đâu mất tiêu, chỉ còn lại cái bóng vật vờ.

Tối đến, còn buồn hơn nữa. Các ông già vẫn phải lọ mọ lên phố chợ ngủ nhờ, những đứa trẻ chui vào các hóc nhà đầy muỗi, dù ngủ được hay không cũng phải nằm im không được la khóc. Đèn không thắp, ngay cả bàn thiên trước sân cũng không có một đóm nhang. Chỉ còn lại các bà mà số phận khổ đau đã cột chặt ở cái đất này là còn thao thức lắng nghe từng tiếng động.

Nhà nào cũng nằm dưới tầm đại bác. Mỗi khi đạn rót vào mật khu, nó rung lên, vặn mình kêu lắc rắc. Những tấm ngói không lớn hơn một bàn tay, gọi là ngói vảy (có lẽ giống vảy cá) cứ xệch xạc, chỏng chơ. Chỉ cần một cơn gió mạnh hay một cơn mưa lớn là tất cả trôi tuột xuống đất.

Đó là một người đàn bà trông già sụ. Già đến nỗi bảo một trăm tuổi ai cũng tin, ngoại trừ cái giấy khai sinh của cậu con trai. Giấy ghi: tên họ mẹ Nguyễn thị Mười, sinh năm 1922. Tính ra chưa đủ sáu mươi nên dù là con một, cậu cũng không được miễn dịch.

Thế là, ban ngày nếu không bị tóm quẳng vào mặt trận, thì ban đêm cũng bị bắt đưa lên mật khu, để rồi trở lại làng tải gạo tải muối và bị lính Đại Hàn phục kích giết chết. “Thời loạn, sinh con trai làm gì, khổ thân con tôi quá!” bà nghĩ.

Không thấy mặt nó, bên này hỏi: “Nhảy núi rồi hả? Nhà bà theo Việt Cộng, coi chừng bị đốt.” Bên kia thì vặn vẹo: “Sao để nó đi theo Mỹ ngụy? Phải gọi về ngay!” Có “một cái hũ mắm treo đầu giàn” cứ thấp thỏm lo đánh rơi, lại bị tra hỏi mãi như thế, bảo sao bà không già trước tuổi.



Chưa đánh hết một vồng khoai bà đã mệt rũ. Quẳng cuốc, bước vào nhà, bà nắm vật xuống giường, thở dốc. Những miếng ngói không còn nằm đúng chỗ, để ánh nắng chiếu xuống như đèn pin soi vào mặt. Cũng may là trời đang nắng, bà hãy còn nấn ná. Chứ nếu mưa thì cực ơi là cực. Che chỗ này, lại dột chỗ nọ. Suốt ngày cứ mãi loay hoay. Để nước ngập nhà thì cái hầm...

Bà mệt mỏi không nghĩ tới nữa, đứng dậy đi xuống bếp. Bà nhóm lửa, lấy gạo nấu cơm.

Trong khi đợi cơm chín, bà ra vườn hái rau. Những ngọn rau không được chăm bón trông cằn cỗi, dai như cỏ.

Luộc rau xong, bà đi rảo một lần nữa quanh nhà, ngó trước trông sau, mới vào bếp. Bà lấy một cái bát sành, dỡ hết cơm trong nồi ra, bỏ thêm vào một ít muối mè. Rồi như sợ bị ai cướp, bà vội bưng giấu ở đầu giường.

Qua khe cửa, bà lại chăm chú nhìn ra sân, trước khi vén tấm mền rách, gõ ba tiếng vào một tấm ván. Lập tức, một bàn tay đưa lên, đỡ lấy cái bát sành đầy cơm.

Đó là lúc bà gõ vào ván, còn khi thì buổi sáng, khi giữa đêm, hễ nghe ra ba tiếng cộc cộc là bà vội vàng đỡ lấy cái hũ đựng đầy phân và nước tiểu.

Bà cẩn thận rũ lại mền, xuống bếp. Trong nồi còn sót một ít cơm, bà ngồi ăn một mình. Gọi là ăn cơm nhưng thực ra bà ăn toàn rau.

Thế là xong bữa. Sáng cũng thế, chiều cũng thế. Bà không dám nấu cơm cho phần mình, sợ có người hỏi sao ăn khoẻ thế. Cũng không dám kho cá, thịt, chiên xào, sợ lính đi soát nhà bắt được mùi từ dưới hầm bay lên.

Sợ khôn, sợ dại! Gì bà cũng sợ! Giống như nuôi giấu cán bộ trong nhà. Còn hơn thế, giống như một người đàn bà nuôi giấu cái hoang thai trong bụng. Nhưng đã là mẹ, trước những rình rập cướp mất con, có sợ, có khổ đến mấy bà cũng cứ nuôi.



Bà đã nuôi cậu con của mình như thế đằng đẵng mười bốn năm. Và cũng trong mười bốn năm đó, cậu con trai độc nhất của bà chưa khi nào nhìn thấy ánh mặt trời. Anh quen với bóng tối đến nỗi khi được mẹ bảo “hòa bình rồi thôi lên đi con,” thì anh ngã bổ nhào lúc ra khỏi hầm. Rồi vì phải cuộn tròn trong hầm như một con nhộng, anh không thể nằm duỗi chân ra được. Anh lại nhớ cái mùi đất ẩm, mùi mồ hôi, mùi phân, mùi nước tiểu lưu cữu... khiến anh trằn trọc suốt đêm.

Anh lại đòi mẹ cho anh chui xuống hầm!

Nhưng mẹ bảo: “Ba mày mất lúc mày còn nằm trong bụng tao, rồi tao nuôi mày trong hầm mười mấy năm, là chỉ mong có ngày hòa bình để mày được tự do đi ra đi vào, làm ăn. Giờ mày cứ đòi chui xuống đó là sao, hả?”

“Tui đâu biết là sao,” anh nói, “tui chỉ muốn ở luôn dưới đó thôi!”

“Vậy là con giết mẹ rồi, con ơi.” Bà khóc.

Bà đi gánh đất, thui thủi một mình lấp lại hầm.

Bà đâu biết mười bốn năm trong hầm, như nằm trong huyệt mộ, từ một người khoẻ mạnh, đen đúa, anh trở nên bạc thếch, mềm oặt như cọng bún. Anh sợ nắng, sợ gió, sợ tiếng động. Nhất là sợ gặp phải người lạ. Ngoài mẹ, anh chẳng muốn nhìn thấy ai.

Nhưng mẹ anh không thể để anh mãi như thế được. Anh phải mạnh khoẻ lên, coi sóc nhà cửa ruộng vườn. Rồi phải cưới vợ sinh con nữa chứ. Đã ba mươi mấy tuổi đầu rồi mà.

Khi mới ra khỏi hầm, anh như người rừng, tóc mười mấy năm không hớt dài tới lưng, râu ria mọc tua tủa. Bà mua xà-phòng, lấy xơ mướp, phải mất cả buổi mới kỳ cọ tắm rửa được anh. Rồi bà kêu thợ hớt tóc tới cạo mặt, ngoáy tai. Bà lại mua sắm quần áo mới cho anh, nên trông anh cũng ra dáng.

Nhìn thấy con cũng đâu có khác gì trai tráng trong làng, bà mừng quá. Để ăn mừng, bà làm gà, mua rượu mời bà con lối xóm tới chung vui. Nhưng anh cứ ru rú, thò thụt. Ai hỏi nói gì cũng ấp a ấp úng như ngọng nghịu.

Anh cứ đóng kín cửa, ngồi bó gối, gục đầu. Anh có thể ngồi yên một chỗ suốt ngày suốt đêm. Anh đã chết cái dáng ngồi như thế mười mấy năm rồi mà. Có người khuyên đưa anh đi khám bệnh, nhưng bà bảo: “Nó ăn được, ngủ được, thì bệnh gì mà khám! ”Lại có người nửa đùa nửa thật, bảo: “Tại thiếu hơi đàn bà đó thôi. Cưới vợ cho nó là tươi tỉnh lại ngay!”

“Thật là đúng ý mình quá,” bà nghĩ. Bà liền nhờ họ hàng, người quen biết mai mối gấp gấp kiếm vợ cho anh. Cũng không khó lắm, khi đàn ông trong làng chết trận quá nửa, để lại những góa phụ hãy còn trẻ.

Vợ anh là một chị góa chồng, chưa có con. Dù anh là trai tân, nhưng thế cũng được. Mẹ anh rất vui. Trong đám cưới, chú rể phụ bảo đi thì anh đi, bảo lạy anh lạy, nhưng bảo cầm tay cô dâu để đeo nhẫn vào thì anh run đến nỗi chiếc nhẫn rơi đánh keng. Rể phụ phải quỳ mọp xuống đất mới tìm thấy nó dưới gậm giường.



Ai cũng tưởng rồi đâu cũng vào đó. Nhưng không phải vậy. Trong đêm động phòng anh cứ ngồi thu lu một góc. Chị vợ chờ mãi chẳng thấy anh động tĩnh gì, ngồi dậy ôm lấy anh. “Sao vậy anh?” chị thỏ thẻ. Anh lại càng co rút hơn nữa. “Em đây mà, em là vợ mới cưới của anh đây, sao mà buồn dữ vậy?” Anh vẫn không nói. Chị ôm chặt anh hơn, phả hơi thở nóng rừng rực vào anh, nhưng anh vẫn cứ run. Chị mạnh dạn hôn cổ anh, má anh, rồi môi anh. Nhưng anh vùng vằng gạt ra, rồi nằm cuộn tròn như lúc còn nằm trong bụng mẹ. Chị rấm rức nằm bên anh như nằm cạnh đứa con nhỏ, chỉ có điều không cho nó bú mà thôi.

Đêm sau, chị cởi áo, kéo đầu anh áp sát vào ngực. Chị lại rủ rỉ: “Nó thơm và còn săn cứng lắm đó, anh! Hôn thử một chút đi!” Chị cố ấn cái núm vào môi, nhưng anh phều phào phun ra. Chị luồn tay xuống dưới thì anh bật khóc quều quào. Đến nước này, chị đành mặc lại áo, chán nản mở cửa bước ra sân.

Đêm trong lành và yên tĩnh. Những vì sao nhấp nháy như trêu ngươi. Chị nhớ lời của một con bạn: “Trông mặt thằng chả khờ như thế, làm ăn được gì mà lấy!” Rồi chị lại nhớ tới chồng cũ, nhớ những lúc anh ta giày vò chị một cách điên cuồng những khi hiếm hoi được về phép. Người chị nóng ran, ấm ức. Chị cứ đi đi lại lại mãi trong sân.

Lúc ấy có tiếng động sau hè. Chị nghĩ chắc mẹ chồng đi tiểu. Sợ mẹ thấy, chị ngồi xuống một bên hiên, tựa lưng vào cột.

Nhưng chờ mãi chẳng thấy mẹ chồng vào. Rồi có tiếng tằng hắng. Chị nghi là kẻ trộm. Nhiều nhà trai mới cưới dâu, ai củng ngủ mê, nên trộm vào nhà khoắng hết cả vòng vàng là chuyện thường.

Tuy sợ, chị cũng đứng lên nghe ngóng. Chị tựa lưng vào vách, men theo từng bước. Khi quặt ra sau hè, chị nghe có tiếng thở. Chưa kịp la lên, chị đã bị một bàn tay bịt lấy miệng, rồi một tay khác kéo quần; mọi sự diễn ra cuồng dại như chồng chị ngày nào.

Trong khi đó, anh nằm còng queo ngủ tới sáng. Và mẹ anh thì mơ một ngày không xa sẽ có cháu bồng!



Khuất Đẩu

Con người yếu đuối



Quán nhậu, quán cafe, quán trà chanh… Chen chúc nhau nam thanh nữ tú, quý ông quý bà. Bàn chuyện công việc, cuộc sống thì không nhiều, còn tán dóc, ba hoa, khoe khoang thì rôm rả cả làng. Trông như tranh luận sôi nổi, nhưng cốt là để thể hiện: Tôi biết nhiều, tôi được việc, tôi hay tôi đúng,…

Tranh luận để tìm ra giải pháp cho những khó khăn khúc mắc lúc nào cũng được hoan nghênh. Nhưng ngày nay, phần nhiều là tranh cãi hơn thua để làm mạnh mẽ hơn bản ngã, để cái tôi được thấy quan trọng. Tôi phải hơn anh dù một tí thì mới thấy hả hê thoải mái. Tôi mà thiệt anh chỉ một tẹo cũng thấy ấm ức cay cú. Suy nghĩ tôi và anh cùng đi lên, cùng thăng hoa với cộng đồng thật là ít ỏi trong thời đại này. Suy nghĩ đã vậy, hành động cụ thể lại càng hiếm hoi hơn. Những ai suy tư về sự phát triển hài hòa của xã hội cũng đau đáu một nỗi lòng chung.

Cái tôi lúc nào cũng đòi hỏi được nuôi dưỡng o bế là bởi con người ta ngày càng yếu đuối. Ta không đủ khả năng để tự nhìn thấy và thừa nhận năng lực của chính mình, mà cần phải được người khác công nhận, tán dương. Bởi thế mà lúc nào ta cũng phải “thể hiện”, phải “đeo mặt nạ” và “bày trò”.

Tài năng, cảm xúc của ta thì chính ta là người nắm rõ trong lòng bàn tay. Nhưng ta lại đem cái quyền kiểm soát quý giá đó giao phó cho người khác. Bởi vậy, khi người khen tặng tung hô ta thấy mình quá đổi quan trọng giỏi giang, bằng ngược lại một lời chê hay chỉ đơn thuần là không ghi nhận về ta cũng đủ làm ta ăn ngủ không ngon. Dần dà, ta giao hết cuộc sống của mình cho người để đổi lấy những lời tán thán trầm trồ xuýt xoa, vì rằng ta cho đó là những “dưỡng chất” nuôi sống bản ngã của mình, nếu thiếu nó thì ta chẳng còn là gì trong cái xã hội này. Ta phải trở thành thế này thế kia để người đời ngước lên nhìn ta ngưỡng vọng và ao ước tỵ ganh.

Cứ thế, không biết bao người lao vào vòng xoáy ma lực đến khi “bán linh hồn cho quỹ dữ” hồi nào không hay. Ngày qua ngày, “cái dưỡng chất” ấy thấm sâu vào từng tế bào làm con người ta yếu đuối hẳn đi, cuộc sống của mình phải phụ thuộc vào sự đánh giá, ghi nhận của người khác, chẳng khác nào chậu cây cảnh phải được chủ nhân chăm bón để được sống. Con người ta lúc nào cũng cho mình thông minh nhưng thật ra lại dại dột như vậy đấy. Lắm người thích mình trở thành mớ chậu cảnh, chứ không muốn mình làm rừng cây hiên ngang mặc nắng gió sương sa.

Một sự thật quan trọng ít được quan tâm, đó là mỗi người chúng ta đều được hòa quyện bởi hai phần: Thân thể và tâm trí. Hai phần này không thể tách rời. Lẽ ra, nhiệm vụ mỗi người phải phát triển hài hòa cả hai. Nhưng thực tế phần lớn con người chỉ chăm sóc chìu chuộng phần thân thể, còn phần tâm trí bị bỏ bê quên lãng nên ngày càng héo mòn. Chính điều này làm con người ta yếu đuối hèn mọn đến thảm thương. Chúng ta đã dành nhiều công sức để học cách chăm sóc cái thân thể. Bây giờ hãy cân đối thời gian sức lực để học hỏi cách phát triển phần tâm trí tinh hoa của chính mình. Kết quả chắc chắn là một nguồn nội lực mạnh mẽ sẽ được thổi bùng trong ta, giúp ta thăng hoa hài hòa trong chính mình và trong mối tương quan với xã hội và tự nhiên.



Võ Quân Zeroman

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

Trang tử - Nam Hoa Kinh- Tổng bình



Về quan niệm Đạo và Đức thì Trang tử và Lão tử đồng với nhau. Nhưng về quan niệm hạnh phúc, thì Trang tử giản minh một cách rõ ràng khúc chiết hơn trong thiên Tiêu Diêu Du này.

Trang tử cho rằng tất cả muôn vật, vật nào cũng có cái Đức của nó, do cái Đạo nơi mình mà phát huy ra. Chữ Đức ở đây không có cái nghĩa thông thường về luân lý như phái Nho gia đã dùng, mà nó dùng để ám chỉ cái Tánh tự nhiên của mỗi vật, tức là chỗ mà Lão tử gọi là" kiến Tố" và Nhà Phật gọi là " kiến Tánh"." Tánh tự nhiên" đây, tức là chỗ mà Quách Tượng bảo " bất đắc bất nhiên"(không vậy không được), nghĩa là cái" bất đắc dĩ" của mọi sự mọi vật… như lửa không thể không nóng, giá không thể không lạnh. Cái động tác của Đức rất tự nhiên, không cố cưỡng, nên gọi nó là " Vô vi".

Nếu biết thuận theo tánh tự nhiên ấy mà sống, thì hạnh phúc có ngay liền trước mắt, không cần cầu cạnh đâu khác ngoài mình.
Tiêu- diêu, là "tự do tự tại", là " tự do sống theo cái sống tự nhiên của mình" mà không phải mô phỏng theo ai khác, đèo bòng tham muốn cái ngoài Tánh Phận của mình. Tiêu Diêu Du, là rong chơi vui thích theo ý mình, vì đã biết" thích kỷ tự an", chứ không như người đời " xá ký thích nhơn"[ii], điều mà Trang tử rất cực lực phản đối ở thiên Đại- Tông- Sư[iii].

Như vậy, ta thấy rằng, cái Tự Do mà Trang tử đề xướng là một thứ tự do tuyệt đối, không lệ thuộc vào một điều kiện nào ngoài cái Bản Tánh của mình cả. Sống theo mình là Tự Do, là Hạnh phúc; sống theo kẻ khác, là Nô lệ, là Đau khổ.

I. Lớn và Nhỏ không thường:

Nghĩa là cái Lớn cái Nhỏ không phải là điều tuyệt đối, bất biến, mà thực ra, là một lẽ tương đối: lớn hơn cái nhỏ, nhỏ hơn cái lớn. Lớn và Nhỏ đều là những lẽ vô thường.
Như cá Côn, vốn là một thứ cá nhỏ mà Trang tử cho nó là một giống cá lớn không biết mấy nghìn dặm; chim Bằng, vốn là chim Phụng, cũng đâu phải là một vật cực đại, thế mà Trang tử lại cho nó là một vật cực đại, có cái lưng lớn không biết mấy nghìn dặm, còn cánh của nó thì như vầng mây che khuất một phương trời. Đó là chỗ dụng ý đặc biệt của Trang tử dùng một bút pháp cực kỳ huyễn tướng, biến hóa bất thường để chỉ rõ sự vô thường của cái Lớn và cái Nhỏ. Đó là chỗ mà ở thiên Thu- Thủy nói:" lấy chỗ bất tề mà xem, thì sẽ thấy vật nào cũng lớn cả(đối với vật nhỏ hơn nó) và vật nào cũng nhỏ cả(đối với vật lớn hơn nó); biết Trời Đất như một hột thóc, biết mảy lông là hòn núi." Như vậy, thì Nhỏ sao lại thường chẳng Lớn, mà lớn sao lại thường chẳng nhỏ được. Nhận thấy cái chỗ nhỏ của mình, mà ham muốn đèo bòng mãi cái phận ngoài mình, sao bằng nhận thấy chỗ lớn của mình và cho nó là đủ để mà" thích kỷ tự an"? biết rõ được lẽ ấy, thì sẽ bỏ được cái lòng tham- dục của sự phân biệt trong ngoài, bỏ được cái lòng tham muốn những gì ngoài mình và không tùng mình nữa[iv].

II. Lớn, thì hợp với chỗ lớn, nên không thấy mình là lớn;
Nhỏ, thì hợp với chỗ Nhỏ, nên không thấy mình là nhỏ.


Tức như chim Bằng, một con vật rất lớn, tất phải dời sang biển Nam, bay lên cao chín muôn dặm và bay trọn sáu tháng trường không nghỉ… Trang tử đã nói:: Nước không sâu thì không sức chở thuyền lớn, đổ một chung nước xuống cái hố nhỏ, lấy một cộng cỏ mà làm thuyền thả lên thì thuyền tự nổi, nếu lại lấy cái chung nước ấy mà thả lên làm thuyền, thì thuyền ấy phải mắc cạn. Là tại sao? Tại nước không sâu, mà thuyền thì lớn. Lớp gió không dày, thì không sức chở nổi cánh lớn của chim Bằng."


Quách tử Huyền luận về điểm nầy có nói:" Nếu không phải là minh hải thì không đủ chỗ cho thân con cá Côn day trở, nếu không có chín muôn dặm cao thì sao đủ chở cái cánh to tướng của chim Bằng. Há phải đó vì hiếu kỳ mà vẽ cho ra chuyện thêm đâu! Hễ vật lớn, phải sanh ra nơi chỗ lớn, và chỗ lớn tất nhiên cũng sanh ra nơi chỗ lớn, và chỗ lớn tất nhiên cũng sanh ra vật lớn đó. Lý cố tự nhiên, đâu phải cần lo cho nó không được như vậy!" ông lại nói: "Cánh lớn nên khó cử động trong chỗ hẹp, cho nên phải vượt trên chín muôn dặm cao, mới có đủ chỗ mà cử động. Đã có cánh ấy mà lại quyết ở dưới thấp, hay bay lên vài chục thước cao như con chim cưu, có được không? Đó đều là chỗ" bất đắc bất nhiên"(không vậy không đặng), chứ đâu phải vui sướng gì mà làm ra như thế đâu!"
Vậy, lớn thì thuận theo chỗ lớn, không tự xem là lớn mà sinh kiêu; nhỏ thì thuận theo chỗ nhỏ, không tự xem là nhỏ mà đèo bòng ham muốn, như " con chim cưu… bay vụt lên du cây phương, dù bay không tới thì rơi xuống đất" đâu cần phải ham muốn cái rộng lớn của chim Bằng. Nghĩa thật rõ ràng!


Quách- Tử- Huyền nói: "Nếu biết đủ với tánh phận của mình, thì tuy mình lớn như chim Bằng, cũng không tự cho là lớn mà cho mình quý hơn chim nhỏ kia, mà con chim nhỏ kia cũng không cho mình là nhỏ mà ham muốn bay đến Ao Trời(thiên- trì) làm gì. Nên chỉ nói đến cái Vinh của chim Bằng, hay nói đến cái thèm muốn của con chim nhỏ(để kịp với chim Bằng) đều là nói thừa cả. Lớn, Nhỏ, tuy khác nhau, nhưng tâm trạng tiêu- du(nghĩa là tự do) vẫn một.
Tóm lại, chim Bằng ở thiên trì, thì chính cũng như chim cưu ở cây du, cây phương…" đâu vừa với đó". Chim bằng, không tự xem mình là lớn, chim cưu không tự xem mình là nhỏ, nên lớn không kiêu với nhỏ, nhỏ không đèo bòng ham muốn cái lớn. Tham dục nhờ đó, tự nhiên không còn nữa. Tham dục mà không còn có nữa, thì hạnh phúc có ngay liền đó, vì hạnh phúc là sống được cái sống của mình, sống toại sinh trong cái tự tánh của mình vậy.


III. Thọ và Yếu:


Điều mong ước lớn nhất của người đời, là được sống lâu. Cho nên mới cho cái sống bảy tám trăm năm của Bành Tổ là thọ, mà ao ước, thèm thuồng! Là tại sao? Là tại cái số kiếp của con người, chỉ trăm năm là hạn, nên mới đèo bòng ham muốn sống được như Bành Tổ và cho đó là thọ. Giả sử mà ai ai cũng đều sống được như Bành Tổ, thì cái khoảng bảy trăm năm lại sẽ không còn đủ cho là thọ nữa. 


Như ta đã thấy, lòng ham muốn con người sở dĩ có, là khi nào không biết an theo số phận của mình mà đem tâm đeo đuổi theo số phận của những vật ngoài mình và khác mình.

Thật vậy, vì không ai sống đến được cái tuổi của Bành Tổ, nên mới cho cái sống ấy là thọ mà thèm muốn. Bành Tổ, trái lại, nếu cũng bắt chước như ta mà không biết an với Tánh Phận của mình là sống bảy trăm năm, lại đèo bòng muốn sống được cái sống của cây minh linh thì tất cũng cho cái hạn bảy trăm năm của mình không đủ cho là thọ, mà sống được như cây minh linh mới là thọ. Cây minh linh, nếu lại bắt chước Bành Tổ, không tự xem mình là thọ, lại đèo bòng ham muốn sống theo cái sống của cây đại xuân; cây đại xuân lại muốn sống được như cái sống của Trời Đất…thì ra vật nào cũng không thọ cả, mà vật nào cũng đều yểu cả! Cho nên nói rằng, nếu cứ tham muốn sống ngoài cái tánh phần của mình, thì cái sống của Bành Tổ đối với cây đại xuân, không khác nào" cái sống của đứa trẻ chết trong nôi" vậy.

Nếu lấy cái sống trăm năm là hạn của ta làm mực thước, thì con ve sầu mùa xuân sanh, mùa hạ chết, tai nấm mai sớm nở tối tàn… đều là vật yểu cả! Cái sống một mùa của con ve sầu, và cái sống có một buổi của tai nấm mai, đối với ta tuy chỉ là cái sống trong khoảng khắc rất ngắn ngủi, mà đối với nó, vẫn cũng là một kiếp sống, như một kiếp sống trăm năm của ta vậy. Đối với con người, được sống trăm năm là thọ; thì đối với tai nấm mai, sống được một buổi cũng là thọ, mà đối với con ve sầu, sống được một mùa, đều là thọ cả: chúng nó được sống đến cái mức cùng của kiếp sống của chúng. 

Còn như cây đại xuân sống một xuân là tám nghìn năm, một thu là tám nghìn năm, giá như nó chỉ sống được có bốn mùa, nghĩa là ba muôn hai nghìn năm, thì đối với ta, sao không cho đó là thọ được, nhưng đối với cái kiếp sống của nó thì nó chỉ sống được có một tuổi mà thôi, nghĩa là chỉ sống được có bốn mùa; sống được tám nghìn năm, phải chăng đối với ta, là rất thọ, nhưng đối với chính cây đại xuân, thì nó chỉ sống được có một mùa mà thôi, sống rất yểu vậy!

Thế thì căn cứ vào sự dài ngắn của thời gian không thể được xem là thọ hay yểu. Chẳng qua như vật lớn ở chỗ lớn, vật nhỏ ở chỗ nhỏ. Vậy, thọ, yểu cũng như lớn, nhỏ chỉ là một danh từ đối đãi, tự nó không có nghĩa gì là thật cả, thật một cách tuyệt đối. Không nhìn ra ngoài, mà chỉ nhìn vào trong, nghĩa là mỗi vật, nếu biết "các an kỳ phận", "thích kỷ tự an", thì vấn đề lớn nhỏ, thọ yểu sẽ không còn thành vấn đề làm cho lòng mình thắc mắc nữa.

IV. Huyền nghĩa của Tiêu- Diêu:

Mỗi vật, nếu đều biết tự đủ với cái tánh phận của mình, thì dù ở trong xã hội, phải ở vào địa vị nào, cũng không tự xem là không đủ, để đèo bòng tham muốn cái Tánh Phận ngoài mình. Như " kẻ có tài trí đủ để làm nổi một tước quan, hạnh hơn cả một làng, thì đức sẽ không khác nào một vị vua được lòng tin của cả nước, nếu biết tự xem mình như đấng làm vua kia vậy." Tuy phận giống nhau, nếu mỗi người đều tròn với cái phận của mình. Chí và Hành của hai bên, bất quá như vật lớn nhỏ, thọ yểu mà thôi.


Kẻ biết nhận thấy đức của mình ngang với bậc Vua chúa như chức quan nhỏ kia, tuy là kẻ sáng suốt " thích kỷ tự an", hơn người đời một bực, nhưng chỗ " lập đức" chưa vững. Là vì hãy còn thấy có công.


Vinh tử nước Tống, " đời khen cũng không khích lệ, đời chê cũng không ngăn đón được", tức là người vượt lên trên dư luận, không còn nô lệ đến thị phi bên ngoài nữa, thế mà chỗ lập đức của ông cũng chưa được vững. Là vì tuy đã biết thản nhiên đối với dư luận, nhưng còn để cho đời biết được mà khen với chê. Đó là hạng người còn để lại " danh". ấy là hạng người như vua Nghiêu, và Hứa Do.
Trên hai hạng đó, lại còn một hạng nữa, là hạng người như Liệt tử, hạng" cỡi gió mà đi, đi một cách êm ái nhẹ nhàng". ở đây Trang tử muốn ám chỉ những bậc tu đạo đã đạt đến trạng thái huyền hóa trong những lúc thiền tọa hay tĩnh tọa. Trong những lúc ấy, họ đã đạt đến trạng thái" tiêu diêu" vì đã huyền đồng cùng với cái sống thiêng liêng của họ, tức là Đạo. Nhưng, chỉ có một lúc thôi, nên mới nói" tuy phải đi, nhưng còn phải có chỗ chờ". Liệt- tử tuy" cỡi gió mà bay, thong thả tự do", nhưng còn phải đợi có gió mới bay được, như chim Bằng đợi có gió trốt nổi lên, mới" nương theo đó mà bay lên chín muôn dặm cao". Kẻ như Liệt tử, được huyền đồng cùng Đạo, tuy tiêu diêu được, mà cũng phải đợi lúc huyền hóa mới được tiêu diêu. Tự do(tiêu diêu) mà còn đợi lúc huyền hóa mới tiêu diêu thì chưa phải thật là người đã đạt đến cõi tiêu diêu tuyệt đối(tự do tuyệt đối). Là vì họ không phải luôn luôn" không còn thấy có mình"(vô kỷ) nữa. Chỉ có bực" chí nhơn vô kỷ, thần nhơn vô công, thánh nhơn vô danh" mới thật là kẻ đã đạt đến cái trạng thái huyền đồng một cách vĩnh viễn mà không còn phải chờ đợi một điều kiện gì khác.

Làm cách nào để đạt đến trạng thái huyền hóa? Phải biết " thuận theo cái chánh của Trời Đất, nương theo cái biến của lục khí mà lại qua trong cõi vô cùng."

Nghĩa là gì thế? Trời Đất là nói về Âm Dương. Âm Dương cọ sát nhau, tranh đấu nhau, nhưng khi được cái Chánh của nó, tức là Đạo, thì nó sẽ được điều hòa. Đạo, tức là cái Chánh của Trời Đất, đứng trên Âm Dương, và bao giờ cũng có cái phận sự điều chỉnh lại những gì thái quá do sự tranh chấp của cặp mâu thuẫn ấy gây nên, và không cho cái nào lẫn cái nào cả. Thuận theo cái Chánh của Trời Đất được rồi, thì tha hồ" nương theo cái biến của lục khí" nghĩa là biết " dĩ bất biến"(Đạo) để mà " ứng vạn biến" trong cuộc" vạn hóa" của Trời Đất. Cái Chánh(Đạo) ấy nơi ta, nhà Phật gọi là tánh, Lão tử gọi là Tố và ở đây gọi là Tánh Tự nhiên.

Quách Tượng giải nghĩa câu nấy nói:" Trời Đất lấy vạn vật làm cái thế, còn vạn vật lấy cái tự nhiên(tức là Đạo) làm cái chánh. Không làm mà vẫn được tự nhiên, mới gọi là Tự Nhiên. Tức như chim Bằng, bay cao là sở năng của nó; chim cưu, bay thấp là sở năng của nó; tai nấm mai, sống trong một buổi mai, là sở năng của nó; cây đại xuân, sống dài dằng dặc, là sở năng của nó. Bấy nhiêu cái đó, đều là " sở năng" của tự nhiên, không phải" sở năng" của sự làm của mình; không làm mà tự nhiên được cái sở năng ấy, đó gọi là Chánh. Bởi vậy, " thuận theo cái Chánh của Trời Đất", tức là thuận theo cái Tánh tự nhiên(Đạo) của vạn vật, thì đâu phải cần chờ đợi cái gì nữa mà huyền hóa với tạo vật. Được như thế, mới gọi là người chí đức, tức là người đã được tiêu diêu trong sự huyền đồng của Đây và Đó. Nếu còn nhờ (cái gì ở ngoài) nữa, rồi sau mới được tiêu diêu, tức như Liệt tử tuy" cỡi gió mà đi một cách êm ái dịu dàng" nhưng còn phải đợi có gió mới bay đi được, thì Đức chưa hoàn toàn. Huống chi là chim Bằng. Duy, cùng với vạn vật hỗn hợp làm một rồi, và nương theo cuộc đại biến của Trời Đất mà rong chơi trong cõi vô cùng thì mới gọi được là bậc" thường thông" hay là " đại thông".

Lời chú giải trên đây của Quách Tượng, thật rõ ràng hết sức. Bậc chí nhân là kẻ đã huyền đồng cùng tạo vật rồi, cho nên bản ngã không còn nữa. ở thiên Tề- Vật- Luận, Trang tử mượn lời của Tử- Kỳ để nói lên chân lý ấy:" Ta đã mất bản ngã rồi!" Bản ngã mà không còn thì Thiên- Tánh hiện ra[v], có khác nào Mặt trời (Thiên Tánh hay Đạo) bị mây(Bản ngã) che mờ: hễ mây tan đi thì tự nhiên Mặt trời hiện ra sáng tỏ. Khi Thiên Tánh hiện ra là vì Bản ngã đã mất, nên gọi là "chi nhơn vô kỷ", đó là được chỗ "đại thuận", hay là "được cái Chánh của tánh mạng".

"Thuận theo cái Chánh của Trời Đất", tức là " thuận theo cái Tánh tự nhiên của mình"[vi]. Quan trọng nhất, là gìn giữ cái tánh ấy, đừng để nó lu mờ vì tư dục, đừng để cho hoàn cảnh huyễn hoặc, thay đổi… Một cái cây, từ lúc đâm mộng, nẩy chồi, trổ lá, đơm bông… những cuộc biến động tuy nhiều, nhưng cái Sống của cây vẫn luôn luôn có một, và toàn mãn từ đầu chí cuối.

Bậc chí nhân vì đã thực hiện được trạng thái " vô kỷ" nên " thuận với Tánh tự nhiên của mình" và dù lưu chuyển theo cuộc biến động bất tận của Trời Đất, vẫn không làm mất Bản- tánh duy nhất của mình.[vii]

Bởi vậy, nơi mình, thì lo mà thực hiện sự huyền đồng cùng tạo vật, không phân trong và ngoài, ta và người nữa, không thấy lớn nhỏ, thọ yểu; còn nơi vật, thì biết để cho vạn vật, vật nào cũng được " an theo chỗ đã an bài của chúng" nên không ép buộc ai phải theo mình, nghĩa là lấy mình mà đánh giá sự phải quấy của người. Đó gọi là " chi nhơn vô kỷ".

V. Hữu dụng và vô dụng:

Trời Đất sinh vạn vật, để cho mỗi vật sống cái sống của nó, chứ không phải sinh ra để cho người dùng nó. Dùng được thì dùng, không dùng được thì bỏ. Gọi là hữu dụng hay vô dụng là sai. Thực ra, tự nó, không có vật gì gọi là hữu dụng hay vô dụng cả.
Như mão Chương- phủ, người nước Tống thì đại dụng, mà người nước Việt không dùng, bởi nó không đáp với nhu cầu. Hữu dụng hay vô dụng là việc không thường cũng như lớn nhỏ vậy." Một trái dưa to, nặng năm thạch" mà "bổ nó ra để làm cái bầu" thì lại hỏng cả, không dùng gì được nữa(vô dụng); trái lại, nếu để nó như vậy mà làm phao, đeo lội qua sông, thì nó là hữu dụng.


Ta thấy rằng nếu biết dùng, thì không có vật gì là không vô dụng, như cũng thời món thuốc" bất quy thủ" mà kẻ thì được phong hầu, còn người thì suốt đời chỉ làm cái nghề quay tơ. Đó là Trang tử trả lời cho Hụê- tử (cùng những ai chê cái học của ông là vô dụng) rằng: nếu biết dùng thì không có cái học nào là vô dụng cả: "là vì lòng của phu tử còn hẹp hòi chưa thông đạt"!

Vật nào cũng có cái Tánh tự nhiên của nó, không vật nào giống vật nào cả. Bởi vậy, ta phải biết chịu chỗ khác biệt nhau đó, nghĩa là phải biết nhìn nhận sự " bất bình đẳng tự nhiên" của sự vật mà đừng đem tư tâm mong bình đẳng nhất loại tất cả làm một. Biết nhận sự " bất bình đẳng tự nhiên" giữa vạn vật, tức phải biết kính trọng chỗ riêng biệt của mỗi vật, nghĩa là cái tánh tự nhiên của mỗi vật mà không xen vào làm trở ngại sự phát triển tự nhiên của nó hay sửa đổi uốn nắn nó theo một công thức giả tạo nào khác. Không xen vào làm trở ngại hay làm hư hoại tánh tự nhiên của mỗi vật, là để cho mỗi vật được sống " tiêu diêu" (tự do) theo cái sống của nó, tự do phát triển theo cái tánh tự nhiên của nó.

Tóm lại, tiêu diêu là tự do. Tự do là sống được theo tánh tự nhiên, tức là theo bản tánh của mình. Một hành động được gọi là hành động tự do, khi nào trong hành động ấy, ta biểu lộ được cái Người thâm sâu, thành thực của ta, theo ta, chứ không phải theo kẻ khác, theo một giáo lý hay một mẫu người lý tưởng nào ngoài ta. Và nếu mỗi vật, vật nào cũng được sống theo mình, thì sẽ không còn lớn, nhỏ, quý, tiện nữa, mà thảy đều tiêu diêu như nhau cả. Tiêu diêu như nhau cả, đó là bình đẳng tuyệt đối, mà bình đẳng tuyệt đối là nhờ có tự do tuyệt đối. Thiên Tề- Vật- Luận sẽ bàn về cái Bình đẳng tuyệt đối ấy.

THU- GIANG
NGUYỄN- DUY- CẨN
dịch và bình chú
---------------------------------
Lão tử nói:" kiến Tố, bão Phác"; Phật gia bảo:" kiến tánh, thành Phật".
[ii] Xá kỷ thích nhơn: là bỏ mình mà theo người.
[iii] Đại- Tông- Sư:" Hành danh thất kỷ, phi sĩ dã vong thân bất chân, phi dịch nhơn dã. Nhược hồ Bất- Giai, Vụ Quang, Bá Di, Thúc tề, Cơ tử, Tử du, Kỷ thu, Thân đố địch, thị dịch nhơn chi dịch, thích nhơn chi thích, nhi bất tự thích kỳ thích giả dã. Làm theo danh, mà bỏ mất cái của mình, không phải là kẻ dĩ; làm cho mất mạng mình, không rõ chân lý, đó chẳng phải là kẻ sai khiến được người. Như Hồ Bất Giai, Vụ Quang, Bá Di, Thúc Tề, Cơ Tử, Tử Dư, Kỷ Tha, Thân Đố Địch, là hạng làm cái làm của kẻ khác, theo cái phải của kẻ khác mà không biết theo cái phải của mình.
[iv] Nếu so sánh với câu nói nầy của hiền giả Epiclète(Hy Lạp):" Phàm sự vật, có cái thuộc ta, có cái không thuộc ta. Thuộc ta là những sự phán đoán, những khuynh hướng, những dục vọng, những ưu- ghét của ta, tóm lại là mọi tác dụng của linh- tính ta; không thuộc ta, là thân thể ta, của cải, danh vọng, tước phận, nói tóm lại là mọi sự không còn phải là tác dụng của linh- tính ta.
" Cái thuộc ta thời bản tánh nó tự do, không gì ngăn trở, không gì trái nghịch lại được; cái không thuộc ta thời không được chắc chắn, không được tự do, thường bị ngăn trở, là cái ở ngoài ta mà thôi.
Vậy, ta phải nhớ rằng cái gì vốn nó không được tự do mà cho là tự do, cái gì của người ngoài, vật ngoài mà cho là của mình, thời sẽ phải phiền lòng, sẽ phải buồn bực, sẽ phải bối rối, sẽ đem lòng oán trời, trách người, nhưng nếu cái gì thật của ta mới coi của ta, cái gì của người, coi là của người, thời không ai ép uổng mình được nữa, không ai ngăn cấm mình được nữa, không phải oán ai, không phải trách ai, không phải miễn cưỡng làm việc gì, không ai hại mình, không có kẻ thù, vì không phải chịu sự gì thiệt hại."(bản dịch của Phạm Quỳnh, 1929).
[v] đừng lẫn lộn thiên tánh với tánh tình của bản ngã, như những tánh nóng, tánh keo kiệt, tánh thích xa hoa, tánh ham vui, thích buồn của con người. Đó là chỗ mà Lão tử gọi " thượng đức bất đắc, thị dĩ hữu đắc…"(chương 38 Đạo Đức Kinh).
[vi] Các chánh giả, đắc ư hữu sanh chi sơ bảo hợp giả, toán ư đi sanh chi hậu(Dịch- Kinh). " Các chánh", là nhận được từ khi mới sanh; "bảo hợp", là giữ được trọn vẹn sau khi đã sanh. Cái mà ta gọi là Chánh đó, tức là chỗ mà Lão tử gọi" tử nhi bất vong".
[vii] " Bản tánh duy nhất" ấy, Pháp- ngữ gọi là " unisité individuelle" hoặc là " personne humaine". Đồng một nghĩa với câu nầy trong Dịch- Kinh:" Tri tiến thoái tồn vong nhi bất thất kỳ chánh, kỳ duy thánh nhơn hồ?" (biết tiến, biết thối, biết giữ cho còn, biết làm cho mất, mà không làm mất cái Chánh của mình, chỉ có bậc thánh nhơn mà thôi ư?). chữ chánh đây, tức là Tánh Tự nhiên mà ta đã thọ lãnh của Trời Đất.

TIÊU- DIÊU- DU ( Nam Hoa Kinh)- Trang Tử



DỊCH NGHĨA:

TIÊU- DIÊU- DU

A. Tại biển Bắc có con cá Côn, lớn không biết mấy nghìn dặm. Cá này hóa ra chim Bằng: lưng của chim Bằng lớn cũng không biết mấy nghìn dặm. Vỗ cánh mà bay, cánh nó sè ra như mây che rợp một phương trời. Biển động, Bằng bèn bay sang biển Nam: biển Nam là Ao- Trời.

Tề Hải, sách chép các việc kỳ quái nói: chim Bằng, lúc bay qua biển Nam, cánh đập làm cho sóng nước nổi lên ba nghìn dặm dài; nó nương theo gió trốt mà cất lên chín muôn dặm cao, và bay luôn sáu tháng mới nghỉ.

Cái mà ta thấy trên không kia có phải là bầy" ngựa rừng" chăng, hay là bụi trần? Hay là cái hơi thở của muôn vật nổi lên? Còn màu trời xanh xanh kia có phải là màu thật của nó không, hay chỉ là màu của vô cùng thăm thẳm? Thì cái thấy của con chim Bằng bay trên mây xanh dòm xuống dưới đây cũng chỉ như thế mà thôi.

Vả lại, nước không sâu thì không sức chở thuyền lớn. đổ một chung nước nhỏ vô một cái hủng nhỏ trong nhà, lấy một cọng cỏ thả lên làm thuyền, thì thuyền tự nổi; nếu lại lấy cái chung ấy làm thuyền mà thả lên, thì thuyền phải trịt. Là tại sao? trị nước không sâu mà thuyền thì lớn. Cũng như lớp gió không dầy thì không đủ sức chở nổi cánh lớn của chim Bằng. Bởi vậy chim Bằng khi bay lên chín muôn dặm cao là cỡi lên lớp gió ở dưới nó. Chừng ấy, lưng vác trời xanh, không gì ngăn trở, nó bay thẳng qua Nam.

***

Một con ve và một con chim cưu nhỏ thấy vậy, cười nói:" Ta quyết bay vụt lên cây du, cây phương. Như bay không tới mà có rơi xuống đất thì thôi, chứ không sao! Bay cao chín muôn dặm, sang qua Nam mà làm gì? Ta thích bay đến mấy cánh đồng gần đây, ăn ba miếng no bụng, rồi về. Nếu ta đến chỗ xa trăm dặm, thì ta có lương thực mỗi ngày. Còn nếu ta đến chỗ xa nghìn dặm, thì ta có ba tháng lương thực."

***

Hai con vật ấy, mà biết gì?

Kẻ tiểu trí sao kịp người đại trí. Kẻ tuổi nhỏ sao kịp người tuổi lớn.

Sao mà biết được thế? nấm mai biết gì được hồi sóc, ve sầu biết sao được xuân, thu! Đó đều là hạng tuổi nhỏ cả. Phương Nam nước Sở có cây minh- linh, sống một xuân là năm trăm năm ; một thu là năm trăm năm. Thượng cổ có cây đại- xuân sống một xuân là tám nghìn năm, một thu là tám nghìn năm.(đó là hạng tuổi lớn). Lâu nay từng nghe danh sống lâu của Bành tổ. Hễ nói đến sống lâu, thì người đời thường đem đó mà so sánh, như thế không đáng buồn sao?

B. Thang chi vấn Cấc dã thị dĩ. Cùng phát chi bắc, hữu minh hải giả, thiên trì dã. Hữu ngư yên, kỳ quảng sổ thiên lý, vị hữu tri kỳ tu giả, kỳ danh vi Côn. Hữu điểu yên, kỳ danh vi Bằng, bối nhược Thái Sơn, dực nhược thùy thiên chi vân, đoàn phù diêu dương giác nhi thượng giả cửu vạn lý, tuyệt vân khí, phụ thanh thiên, nhiên hậu đồ Nam thả thích Nam minh dã. Xích yển[ii] tiếu chi viết: Bỉ thả hề thích dã. Ngã đằng dược nhi thượng bất quá sổ nhẫn chi hạ, ngao tường bồng hao chi gian, thử diệc phi chi chí dã. Nhi bỉ thả hề thích dã. Thử tiểu đại chi biện[iii] dã.

DỊCH NGHĨA:

B. Lời ông Thang hỏi ông Cấc, cũng thế. Miền Bắc hoang lạnh có cái biển gọi là Minh- hải, tức là Ao Trời. Có con cá lớn tới mấy nghìn dặm, chưa ai biết nó dài đến bao nhiêu, tên là Côn. Có con chim, tên là Bằng, lưng như núi Thái, cánh tợ vừng mây che một phương trời. Chim nầy theo gió trốt cuộn như sừng dê mà lên chín muôn dặm cao, tuyệt bóng mây- mù, đội trời xanh biếc, bấy giờ nó mới bay về biển Nam. Một con chim ở hồ nhỏ cười nói: đó bay chi cao xa lắm vậy? Ta bay nhảy bất quá vài chục thước cao, ngao du trong đám cỏ bồng cỏ hao. Bay đến thế cũng là đúng mực lắm rồi. Còn đó bay chi cao xa lắm vậy?

Đó là chỗ phân biệt giữa lớn và nhỏ.

C. Cố phù trí hiệu nhất quan, hạnh tỉ nhất hương, đức hợp nhất quân năng trưng[iv] nhất quốc giả, kỳ tự thị dã, diệc nhược thử hĩ. Nhi Tống Vinh tử du nhiên tiếu chi, nhi bất gia khuyến, cử thế nhi phi chi, nhi bất gia thư, định hồ nội ngoại chi phận[v], biện hồ vinh nhục chi cảnh[vi], tư dĩ hĩ. Bỉ kỳ ư thế, vị sát sát nhiên dã, tuy nhiên du hữu vị thọ[vii] dã.

Phù Liệt tử[viii] ngự phong nhi hành lãnh nhiên[ix] thiện dã, tuần hữu ngũ nhật nhi hậu phản. Bỉ ư trí phúc[x] giả, vị sát sát nhiên dã. Thử tuy miễn hò hành du hữu sở đãi giả dã[xi].

Nhược phù thừa thiên địa chi chánh nhi ngự lục khí chi biến[xii], dĩ du vô cùng giả, bỉ thả ô hồ đãi tai. Cố viết: chí nhơn vô kỷ, thần nhơn vô công, thánh nhơn vô danh[xiii].

DỊCH NGHĨA:

C. Cho nên, kẻ có tài trí đủ làm nổi một tước quan, hanh hơn cả một làng, (thì) đức (sẽ) không khác nào một vị vua được lòng tin của cả nước, (nếu biết) tự xem như đấng làm vua kia vậy.

Nhưng Vinh- tử nước Tống lại còn cười chê đó. Vả, đời có khen cũng không khích lệ, mà đời có chê cũng không ngăn đón được: họ đã định rõ cái phận của trong ngoài, phân biệt cái cảnh của vinh nhục rồi đấy. Trong đời, hạng người như thế cũng dễ thường thấy có. Tuy vậy, đức của họ cũng chưa được vững.

Liệt- tử cưỡi gió mà đi, đi một cách êm ái nhẹ nhàng, đi trọn mười lăm hôm mới về. Đó sống trong chỗ chí phúc và người như ông dễ thường thấy có. Tuy khỏi phải đi, nhưng còn chỗ phải chờ.

Đến như thuận theo cái chánh của Trời Đất, nương theo cái biến của lục khí mà dong chơi trong cõi vô cùng: thì đó đâu còn phải chờ đợi cái gì nữa. Cho nên nói rằng: bậc chí nhơn không thấy có mình, bậc thần nhơn không nhớ đến công mình, bậc thánh nhơn không nghĩ đến tên mình.

D. Nghiêu nhượng thiên hạ ư Hứa Do, viết: Nhật Nguyệt xuất hĩ, nhi tước hỏa[xiv] bất tức, kỳ ư quang dã bất diệc nan hồ? Thời vũ giáng hĩ nhi du tẩm quán, kỳ ư trạch dã bất diệc lao hồ? Phu tử lập nhi thiên hạ trị, nhi ngã du thi[xv] chi, ngô tự thị khuyết nhiên. Thỉnh trí thiên hạ.

Hứa Do viết: Tử trị thiên hạ, thiên hạ ký dĩ trị dã, nhi ngã du đại[xvi] tử, ngô tương vi danh hồ? Danh giả, thật chi tân dã. Ngô tương vi tân hồ? Tiêu liêu[xvii] sào ư thâm lâm, bất quá nhất chi. Yển thử[xviii] ẩm hà, bất quá mãn phúc. Quy hưu hồ quân. Dư vô sở dụng thiên hạ vi. Bào nhơn tuy bất trị bào, thi chúc bất việt tôn trở nhi đại chi hĩ.

DỊCH NGHĨA:

D.Vua Nghiêu muốn nhường thiên hạ cho Hứa- Do, nói: Mặt trời mặt trăng đã mọc, mà không dụt đuốc, nhìn bóng đuốc há chẳng khó coi lắm sao? Mưa mùa đã đổ xuống, mà còn đi tưới nước, thế là chẳng lao công vô ích hay sao? Nay nếu phu tử lên ngôi, thiên hạ ắt được trị. Tôi còn ngồi làm thần tượng chi nữa. Tôi tự thấy rất kém. Vậy, xin mời ngài lên trị thiên hạ.

Hứa Do nói: Ngài trị thiên hạ, thì thiên hạ được trị. Tôi còn thế Ngài làm chi, tôi cầu danh hay sao? Danh là khách của Thật. Tôi muốn làm khách sao? Chim tiêu liêu đậu ở rừng sâu, chẳng qua một nhánh là vừa. Chuột đồng xuống nước sông dài, chẳng qua đầy bụng là đủ. Xin trả lại cho ngài đó. Thiên hạ ấy, tôi không dùng làm gì cả. Người đầu bếp dù không xong việc bếp, người chủ tế cũng không vượt phận mà thế cho đó được.

E. Kiên Ngô vấn ư Liên Thúc viết: Ngô văn ngôn ư Tiếp Dư đại nhi vô đương[xix], vãng nhi bất phản. Ngô kinh bố[xx] kỳ ngôn, du Hà Hán nhi vô cực dã, đại hữu kính thính[xxi] bất cận nhơn tình yên. Liên Thúc viết:" kỳ ngôn vị hà tai". Viết: Diễu Cô Xạ chi sơn, hữu thần nhơn cư yên, cơ phu nhược băng tuyết, náo ước[xxii] nhược xử nữ[xxiii] bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ, thừa vân khí, ngự phi long nhi du hồ, tứ hải chi ngoại, kỳ thần ngưng, sử vật bất tì lệ, nhi niên cốc thục. Ngô dĩ thị cuồng nhi bất tín dã.

Liên Thúc viết: Nhiên. Cổ giả vô dĩ hồ văn chương chi quan, lung giả vô dĩ dữ hồ chung cổ chi thinh. Khởi duy hình hài hữu lung manh tai, phù tri diệc hữu chi, thị kỳ ngôn dã, du thời nhữ[xxiv] dã. Chi nhơn dã, chi đức dã, tương bang bạc vạn vật dĩ vi nhất, thế ky hồ loạn, thục tệ tệ yên dĩ thiên hạ vi sự. Chi nhơn dã, vật mạc chi thương. đại tẩm khể thiên nhi bất nịch. đại hạn, kim thạch lưu, thổ sơn tiêu, nhi bất nhiệt. thị, kỳ trấn cấu tỉ khương[xxv] tương du đào chú Nghiêu Thuấn giả dã. Thục khẳng dĩ vật vi sự!

Tống nhơn tư chương phủ nhi thích chư Việt. Việt nhơn đoạn phát văn thân, vô sở dụng chi. Nghiêu tự thiên hạ chi dân, bình hải nội chi chánh, vãng kiến tứ tử Diễu Cô Tạ chi sơn phần thủy chi dương, yểu nhiên[xxvi] táng kỳ thiên hạ yên."

DỊCH NGHĨA:

E. Kiến Ngô nói với Liên- Thúc: Tôi nghe Tiếp Dư nói chuyện lớn lác không tưởng, có lối đi mà không có lối về… khiến tôi kinh sợ, ông nói như sông Hà sông Hán không cùng tận, rất là xa xôi, không cận với nhân- tình…Liên Thúc hỏi:" Nối những gì?"- " Nói rằng trên núi Diễu- Cô Tạ có thần nhơn ở, da thịt như băng tuyết, dáng điệu mềm yếu như người con gái chưa chồng. Không ăn năm loài thóc, chỉ hớp gió, uống sương, nương theo hơi mây, cỡi rồng mà bay ngao du ngoài bốn biển. Ngưng thần lại thì có thể làm cho vạn vật không đau ốm hư hoại, lúa thóc lại được mùa. Tôi cho đó là lời nói cuồng, nên không tin."

Liên Thúc nói:" Phải! Kẻ đui lấy gì để xem thấy được cái đẹp của văn- hoa: kẻ điếc lấy gì để nghe được tiếng chuông tiếng trống. Há chỉ có hình hài mới có đui điếc đâu… trí cũng có đui điếc. Theo lời nói ấy thì ngươi nay cũng thế. Kể như người ấy, đức ấy cùng vạn vật hỗ chụy đi làm cái việc của thiên hạ. Người ấy không vật nào hại đặng. Nước cả đụng trời mà không làm họ chết chìm được, nắng cả chảy mềm sắt đá, cháy núi thiêu đất cũng không làm cho họ chết nóng được. Đồ bụi bặm. Cặn bã của thần nhơn ấy cũng đúc thành được hạng người của Nghiêu Thuấn. Ai đâu lại khứng đi làm công việc cho ngoại vật!

Người nước Tống buôn mũ Chương phủ, sang nước Việt. Người nước Việt thì cắt tóc ngắn và xăm mình, không dùng mũ ấy làm gì. Nghiêu trị trăm họ trong thiên hạ, bình trị được trong nước, bèn sang qua núi Diễu- Cô Tạ để ra mắt bốn Thầy. Họ có cái vẻ sâu xa làm sao mà Nghiêu Thuấn quên mất thiên hạ của mình.

G. Huệ- tử vị Trang tử viết: Ngụy vương di ngã đại hố chi chủng, ngã thọ chi thành, nhi thật ngũ thạch. dĩ thạnh thủy tương, kỳ kiên bất năng tự cử dã. Phẫu chi dĩ vi biều, tắc hồ lạc vô sở dung. Phi bất hiêu nhiên đại dã. Ngô vi kỳ vô dụng nhi phẫu chi. Trang tử viết: Phu tử cố chuyết ư dụng đại hĩ. Tống nhơn hữu thiện vi bất quy thủ[xxvii] chi dược giả, thế thế dĩ bình tích khoáng vi sự. Khách văn chi, thỉnh mãi kỳ phương bách kim. Tụ tộc nhi mưu viết: ngã thế thế vi bình tích khoáng bất quá sổ kim, kim nhất triêu nhi chúc kỹ bách kim, thỉnh dữ chi."
Khách đắc chi, dĩ thuyết Ngô vương. Việt hữu nạn, Ngô vương sử chi tướng… Đông dữ Việt nhơn thủy chiến, đại bại Việt nhơn, liệt địa nhi phong chí.

Năng bất quy thủ nhất dã. Hoặc dĩ phong, hoặc bất nhiên ư bình tích khoáng, tắc sở dung chi dị dã. Kim tử hữu ngũ thạch chi hồ, hà bất lự dĩ vi đại tôn nhi phù hồ lạc vô sở dung. Tắc phu tử du hữu bồng[xxviii] chi tâm dã phù.

G. Huệ- tử gọi Trang tử, nói: Ngụy vương tặng tôi một giống dưa to. Tôi trồng nó có trái nặng đến năm thạch. Dùng nó đựng nước, nó nặng, không cất nhắc được. Bổ nó ra làm cái bầu, thì lại không còn dùng được chỗ nào. Đâu phải nó không to lớn, nhưng vì cho nó là vô dụng nên tôi đập bỏ nó.

Trang tử nói: Thế là phu tử vụng về chỗ đại dụng nó. Nước Tống có người khéo chế được môn thuốc chữa răn nứt da tay, đời đời chuyên làm nghề ươm tơ. Có người hay biết, đến xin mua phương thuốc đó một trăm lượng vàng. Anh ta bèn nhóm thân- tộc bàn rằng:" Nhà ta đời đời làm nghề ươm tơ, lợi không hơn số vàng đó. Nay một mai mà được trăm vàng, xin để cho bán."

Người khách được phương thuốc, đem thuyết vua Ngô. Nước Việt có nạn, vua Ngô sai anh làm tướng. Nhằm mùa đông, thủy chiến với người Việt, người Việt đại bại. Vua Ngô bèn cắt đất mà phong thưởng anh ta.

Cũng thời cùng một phương thuốc trị răn nứt da tay mà một người được thưởng phong, một người không ta khỏi cái nghề ươm tơ: đó là tại chỗ biết dùng mà khác nhau vậy.

Nay phu tử có trái dưa nặng đến năm thạch, sao không tính dùng nó làm trái nổi thả qua sông qua hồ, mà lo chi hồ vỡ bầu tan, không có chỗ dùng? Thì ra vì cái lòng của phu tử hẹp hòi chưa thông đạt đó.

H. Huệ tử vị Trang tử viết: Ngô hữu đại thọ, nhơn vị chi Vu. Kỳ đại bổn ủng thũng[xxix] nhi bất trúng thằng mặc. Kỳ tiểu chi quyện khúc, nhi bất trúng quy củ. Lâph chi đồ, tượng giả bất cố. Kim tử chi ngôn đại nhi vô dụng, chúng sở đồng khử dã.

Trang tử viết: Tử độc bất kiến lỳ tinh[xxx] hồ, ti thân nhi phục, dĩ hậu ngao giả, đông tây điệu lương, bất tị cao hạ, trúng ư cơ tịch, tử ư võng vổ. Kim phù thai ngưu, kỳ đại nhược thuỷ thiên chi vân, thử năng vi đại hĩ, nhi bất năng chấp thử. Kim tử hữu đại thọ, hoạn kỳ vô dụng. Hà bất thọ chi ư vô hà hữu chi hương[xxxi], quảng mạc[xxxii] chi dã, bàng hoàng hỗ vô vi kỳ trắc, tiêu diêu hồ tẩm ngọa[xxxiii] kỳ hạ, bất yểu cản phủ, vật vô hại giả. Vô sở khả dụng, an sở khốn khổ tai!

I. Huệ- tử gọi Trang tử, nói:" Tôi có côi cây to, người ta gọi nó là cây Vu. Gốc nó lồi lõm không đúng dây mực. Nhánh nhóc nó thì cong queo không đúng quy củ. đem trồng nó ở đường cái, người thợ mộc cũng không thèm nhìn. Nay lời nói của ông to lớn mà vô dụng, nên người người đều không thèm nghe."

Trang tử nói:" Ông riêng chẳng thấy con mèo rừng đó sao? Con người mình đứng núp, rình vật đi rong, nhảy tây nhảy đông, không hiềm cao thấp, kẹt trong dò bẫy, chết nơi lưới rập. Đến như con thai- ngưu, lớn như vầng mây che một phương trời, kể ra cũng là to thật, nhưng cũng không bắt được chuột. Nay ông có cây to, lại sợ nó vô dụng. Sao không đem nó trồng nơi tịch mịch, giữa cánh đồng rộng bao la. Khách ngao du không làm gì, ngồi nghỉ dưới gốc nó, khách tiêu diêu nằm ngũ dưới bóng nó. Nó sẽ không chết yểu vì búa rìu, cũng không sợ vật nào làm hại. Không có chỗ nào có thể dùng được, thì khốn khổ từ đâu mà đến được?"

________________

Phù diêu dương giác: gió trốt lớn, xoáy tròn như hình cái sừng dê rừng.

[ii] Xích yển: Xích, là cái hồ nhỏ; yển, là loại chim sẻ.

[iii] Biện: ở đây là sự phân biệt. Quách Tượng chú đoạn nầy, cho rằng không có lớn nhỏ, vì nếu" mỗi vật đều biết yên với cái Tánh của Trời phú cho mình, thì sao có buồn lo vì chỗ không đồng nhau." Đó là ông giảng sai với bản ý của Trang- tử.

Xem kỹ văn mạch của chương nầy, ta thấy rằng chỗ mà Trang- tử bảo" con ve và con chim cưu nhỏ không làm sao hiểu được cái hành động của chim Bằng", thì cũng như ở thiên Thu Thủy ông bảo" con ếch nằm đáy giếng làm gì thấy được cái rộng lớn của bể Đông".

Một đoạn văn sau trong thiên nầy, chỗ mà Kiên- Ngô kể chuyện của Tiếp- Dư bảo rằng" đại nhi vô- đương", chỗ mà Huệ- tử chê lời nói của Trang- tử " đại nhi vô dụng", tức cũng là chỗ mà Lão tử trong Đạo- Đức- Kinh bảo" hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi" vậy.

Huống chi trước đây ông cũng đã nói: tiểu trí bất cập đại trí ; tiểu niên bất cập đại niên, triêu khuẩn bất tri hối sóc ; huệ cô bất tri xuân thu, thì thật là chủ ý của ông rõ ràng hết sức. Cho nên, lời chú của Quách Tượng, thật là một sự sai lầm to tát vậy, vì đã giảng nghịch lại với ý chánh của họ Trang. Câu nói nầy của Lão tử rất cần để cho ta tự nhắc nhở lấy khi cầm bút bình giảng tư tưởng trong Nam- Hoa- Kinh:" càng muốn làm cho thật sáng, lại càng làm cho ra tồi!" Vì vậy, ít bình giảng chừng nào càng tốt, mà đừng bình giảng gì cả, càng hay! đọc Trang- tử cần nhất là đọc ngay Trang- tử mà đừng đi qua các nhà bình giảng trước, hoặc nếu đi qua các nhà bình giảng trước, hãy quên phứt họ đi, để đi ngay vào chánh văn của Trang- tử.

[iv] Nhi đọc là Năng: cổ tự hai chữ này dùng lẫn nhau.

Trưng: là tin cậy được, được tín nhiệm.

[v] Nội Ngoại chi phận: đây là chỉ về cái Ta bên trong, và ngoại vật bên ngoài.

[vi] Vinh của ta, nhục của người: Vinh cho ta, tức là nhục cho người.

[vii] Thọ, là đứng vững: chỗ gọi là" chí đức cũng chưa được vững". đây là muốn nói rằng: người như Vinh tử chưa đủ cho ta ngưỡng mộ vậy.

[viii] Liệt- tử: người nước Trịnh, tên là Ngự- Khấu.

[ix] Lãnh- nhiên: nhẹ nhàng êm ái

[x] Phúc: tức là không có gì trở ngại cả. trí phúc, là muốn nói rằng Liệt- tử cỡi gió mà tuyệt không có vật nào trở ngại sự họat động của ông cả, ông tha hồ tới lui thong thả.

[xi] Câu này" thử tuy miễn hồ hành, du hữu sở đãi giả dã" cùng với câu trên" tuy nhiên du hữu vị thọ dã" đều cùng một dụng ý: chưa phải là đáng ngưỡng mộ, là đã đến mức hoàn toàn.

[xii] Lục khí: là khí Âm, khí Dương, Gió, Mưa, Tối, Sáng(Âm, Dương, Phong, Vũ, Hồi, Minh). Biện phải đọc là Biến. Xưa hai chữ này dùng lẫn nhau. Chữ" Chánh" đây, là của Âm, Dương(Thiên- Địa; Càn- khôn) đứng chỉ huy cái biến của lục khí…(nắm giềng mối của tất cả hiện tượng trong Trời Đất).

[xiii] Vô kỷ, vô công, vô danh: Thôi- tuyền cho rằng" Vô công, vô danh" là " không lập công, không lập danh". Giảng giải như thế, không ổn nếu không nói là sai. Nhân thế mới có người hiểu theo đó và cho rằng cái học của Trang- tử là cái học yếm thế, hay xuất thế.

Nếu hiểu câu" vô công" là " không lập công", thì câu" vô kỷ" cũng phải có nghĩa là " không lập mình" hay sao và như thế nghĩa nó là gì? khí văn phải nhất quán, và câu nầy phải hiểu là" không có mình", " không có công", " không có danh", nghĩa là không nghĩ đến mình. Bậc được Đạo, không còn có thấy mình nữa(tức là cái tiểu ngã của mình); không còn thấy có mình nữa, thì làm sao còn nghĩ đến công mình, và danh mình.

Lão tử cũng có nói" công toại nhân thoái", " vi như bất thị", " công thành phất cư"…(nên việc, lui thân, làm mà không cậy công, thành công rồi không ở lại…tức là không nghĩ đến sự lưu danh).

Như vậy, không thể gọi Lão học là cái học yếm thế hay xuất thế… vì" không lập công", " không lập danh".

Nên biết rõ rằng chủ trương cứu cánh của hai học thuyết ấy là cái học" huyền đồng vật ngã", không còn thấy có Trong có Ngoài, có Ta có Người nữa. Cho nên không thể hỏi người đắc Đạo là người xuất thế hay yếm thế, là vì đối với họ người với ta là một, Ngoại và nội là một, xã hội và cá nhân là một. Cũng như cá và nước là một, không thể không có nước mà cá sống. Cho nên sở dĩ con người phải lo cho xã hội là vì không có xã hội, cá nhân không sao phát triển được cái sống của mình. Lo cho xã hội không phải là phận sự mà là lẽ tất nhiên phải lo, không lo không đặng, hai lẽ ấy chằng chịt dính líu với nhau, không sao rời nhau được. Cho nên có thể hiểu rằng: nói là lo cho đời, mà chính là lo cho mình; hoặc trái lại, nói là lo cho mình, mà chính là lo cho đời đó.

Cho nên, nói rằng cái học của Lão Trang là cái học yếm thế, tức là chưa hiểu rõ cái chủ trương" huyền- đồng vật ngã" của các ông- vậy chớ phản- đối chế độ hiện hành của thời đại, phản đối Nho Mặc, phản đối cái Đạo hữu- vi đã làm thống khổ nhân dân…không phải đó là một cách tiêu cực lo khang- kiện- hóa xã hội là gì?

Vấn đề nhập thế xuất thế ở đây đã được đặt ra. Và dĩ nhiên, tương đối mà nói thì Lão cũng như Trang đều chủ trương sự thực hiện cái Đạo nơi mình trước hết, trước khi nghĩ đến việc ra lo giúp đời. Sự thực hiện bản thân là một vấn đề cần có sự cô lập và tĩnh tâm, cho nên dĩ nhiên là phải thiên về đời sống cá nhân nhiều hơn. " Tự giác nhi giác tha" của Nhà Phật, cũng như" dĩ tu nhân vi bồn" của Nho gia, phải nặng về sự yên tĩnh và lo về đời sống bản thân trước vấn đề xã hội.

Giáo sư A.W. Watts, trong quyển The Way of Zen lại cho rằng:" Đạo giáo là công việc của những người lớn tuổi, đặc biệt là những kẻ đã từ bỏ cái đời hoạt động xã hội. Sự từ bỏ đời sống họat động xã hội ấy chứng tỏ rằng họ đã có đi đến được một sự giải thoát nội tâm rồi đối với những lề lối suy tư cùng hành động giả tạo của xã hội bên ngoài. Đạo giáo, vì vậy là một sự đeo đuổi theo một thứ hiểu biết tự nhiên, chứ không còn thuộc về cái hiểu biết ước lệ giả tạo theo xã hội nữa, cái thông hiểu trực tiếp với lẽ sống thật, mà không phải trải qua sự trung gian của một ý tượng tinh thần theo nét gạch và tượng trưng."

[xiv] Tước hỏa: cây đuốc, một đóm lửa nhỏ.

[xv] Thi: là làm chủ. Lại cũng có nghĩa là tượng thần, là người có chức nhiệm nhưng không làm gì cả.

ở đây ta có thể hiểu là hư- vị, một địa vị tượng trưng như một pho tượng thần vậy thôi.

[xvi] Đại: thay thế.

[xvii] Tiêu liêu: chim nhỏ.

[xviii] Yển thử: chuột đồng.

[xix] Đại nhi vô- đương: lớn mà không đúng với thực tế. Đại ngôn, tức là lời nói khoác.

[xx] Kinh- bố: Bố nghĩa là sợ; kinh- bố là kinh sợ.

[xxi] Kính- thính: chữ đình ở đây, phải đọc là thính, có nghĩa là xa xôi, diệu vợi.

[xxii] Náo- ước: diện mạo đẹp đẽ, lại cũng có nghĩa là vẻ người yểu điệu, mềm mại, dịu dàng.

Chữ náo cũng viết là xước.

[xxiii] Xử tử: đọc là xử nữ(tức là người con gái chưa chồng).

[xxiv] đọc là nhữ(thay vì nữ).

[xxv] Tỉ- khương: bã lúa, trầu. Tức là cặn bã.

[xxvi] Yểu- nhiên: phong thái sâu xa.

[xxvii] Bất quy thủ: không làm răn nứt da tay.

[xxviii] Bồng: Bồng chi tâm là cái lòng hẹp hòi chưa thông đạt.

[xxix] ủng thủng: lồi lõm, gồ ghề, gút mắt.

[xxx] Ly tinh: tức là một thứ mèo rừng.

[xxxi] Vô hà hữu chi hương: tức là chỗ tịch mịch.

[xxxii] Quảng mạc: rộng lớn

[xxxiii] Tẩm ngọa: nằm ngủ.